Text

Trên Youtube có 1 bình luận về Everything Everywhere All At Once được lượng like rất lớn như thế này: "Tôi đã xem bộ phim này cùng với mẹ, tôi thì khóc rất nhiều nhưng mẹ tôi lại bảo bà không hiểu phim muốn nói gì cả, điều đó thậm chí còn làm tôi khóc nhiều hơn. Đó chính là lý do. Bà không hiểu."
Nếu để tóm tắt cả bộ phim lố bịch và kì dị đến mức thiên tài này bằng một câu thì đó có lẽ sẽ là "Đứa con trước khi tự vẫn đã cố gắng đi khắp mọi vũ trụ để tìm được một người mẹ hiểu được cho mình."
Kể cả khi nó chỉ là một hòn đá, nó vẫn tuyệt vọng đến mức tìm đến lối thoát duy nhất, đó là lao mình xuống vực sâu.
Hòn đá mẹ ban đầu đã cố gắng tâm sự, thuyết phục, đuổi theo, nhưng rồi vào một khoảnh khắc tuyệt vọng nào đó, hòn đá mẹ cũng đã chấp nhận.
Bà chấp nhận rằng cho dù con gái có đi khắp mọi vũ trụ, đã gặp mọi bản thể của bà, và cho dù bà có cố gắng để đến gần nó đến đâu, hai người cũng không thể nào hiểu được nhau.
Bà vẫn thấy nó đang béo lên, không thèm gọi về nhà, bạn gái nó thì cắt đầu moi, và nó không thèm lên sở thuế cùng bà dù đã hẹn nhau từ trước.
Mình bỗng nhiên nhớ tới một câu trong Lang Gia Bảng, đó là câu nói cuối cùng của Tiêu Cảnh Vũ trước khi tự vẫn trong đại lao do chính cha mình giăng ra: "Con không hiểu cha. Cha không hiểu con."
Đó là căn nguyên của mọi bi kịch trong gia đình.
Cho đến cuối phim, Evelyn và Joy vẫn không hiểu được nhau. Evelyn vẫn không ngăn được con bà gieo mình xuống vực sâu. Vậy nên, bà đã buông tay cho nó đi.
Và vậy nên, bà đã nhảy xuống theo nó.
"Of all the places I could be, I just want to be here with you."
"I will always, always, always want to be here with you."
Vậy nên
Cho dù hòn đá mẹ ấy vĩnh viễn không thể hiểu được tất cả những niềm vui và nỗi đau của Joy khi có một người mẹ là bà, thì bà vẫn sẽ đi tới bất cứ đâu có Joy của bà, có đứa trẻ hỗn loạn, ngỗ nghịch, thừa cân và đầy tiêu cực ấy.
Có lẽ ngay từ đầu, giải pháp đã chưa bao giờ là thấu hiểu triệt để. Chúng ta được vũ trụ này sắp đặt để trở thành máu mủ của nhau, để yêu thương nhau một cách cố chấp và vô điều kiện, để quá khác biệt và khó có thể chịu đựng được nhau. Chúng ta càng không thể thay đổi được đối phương, cũng chẳng thể trói buộc đối phương suốt đời cho dù có lấy danh nghĩa người nhà ra đi chăng nữa.
Có lẽ điều duy nhất ta có thể làm, là lắng nghe.
Điều duy nhất có thể làm, là ở bên người đó. Cho dù là ở trong tiệm giặt là sắp phá sản, ở sở thuế hay là dưới muôn trùng vực sâu.
Bởi vì cho dù niềm hạnh phúc khi được ở bên nhau chỉ là một vài đốm sáng nhỏ loé lên trong cuộc sống vĩnh hằng này, thì tôi và người cũng sẽ cùng nhau trân trọng những đốm sáng ấy.
Bởi vì có dễ dàng đâu, khi có một người sẵn sàng đi tới tận cùng thế giới vì mình như thế.
"𝑌𝑜𝑢 𝑐𝑎𝑛'𝑡 𝑐ℎ𝑎𝑛𝑔𝑒 𝑤ℎ𝑜 𝑝𝑒𝑜𝑝𝑙𝑒 𝑎𝑟𝑒."
"𝑇ℎ𝑒𝑛 𝑤ℎ𝑎𝑡 𝑐𝑎𝑛 𝐼 𝑑𝑜?"
"𝑌𝑜𝑢 𝑙𝑜𝑣𝑒 𝑡ℎ𝑒𝑚."
- RR
#EverythingEverywhereAllAtOnce
18 notes
·
View notes
Text
Recommend/Not Recommend cocktails khi đi pub
Người viết: Nguyễn Việt Anh
* Cocktail nào nên uống và cách để nhận biết những loại hay dùng để dụ dỗ chị em say xỉn. Tốt nhất là khi đi Pub nên có 1 chiến hữu đi cùng để nếu chẳng may có say xỉn hay tệ hơn là có thể bị cả tình trạng đánh thuốc thì vẫn có thể về nhà an toàn.
1. Cocktail là gì?
- Cơ bản thì Cocktail là một loại hỗn hợp thức uống chứa rượu, được tạo thành từ sự pha trộn, kết hợp một hay nhiều rượu với các nguyên liệu, hương liệu khác như các loại rượu mùi, trái cây, nước ép trái cây, mật ong, sữa hay kem, và các loại phụ gia khác.
- Về cái tên cocktail, nếu dịch đúng tiếng Anh thì cocktail có nghĩa là đuôi con gà trống. Theo đó, vào thời kì đầu của nước Mỹ, chọi gà là một trong những trò chơi rất phổ biến. Người chủ gà chiến thắng sẽ nhận được lông đuôi của con gà thua cuộc và được đãi một chầu rượu sau khi được chúc “on the cock’tail”. Sau đó, người ta sử dụng tên này để dùng cho loại thức uống pha trộn từ nhiều loại nguyên liệu (tức cocktail) vì màu sắc của nó cũng sặc sỡ, màu mè như đuôi gà trống.
- Có thể nói cocktail đã xuất hiện từ thế kỉ 16, nhưng đến cuối thế kỉ 19 mới được nhiều người biết đến. Đồ uống này càng trở nên phổ biến rộng rãi ở Châu Âu và Mỹ khi luật cấm buôn bán rượu (1920) bắt đầu có hiệu lực. Khi đó, các quán rượu đều phải pha trộn rượu với các loại nước hoa quả khác để được bán rượu 1 cách hợp pháp do nồng độ cồn thấp. Một trong những công thức cocktail lâu đời nhất được công nhận là Martini. Năm 1862, Jerry Thomas đã pha trộn 4 phần Vermouth ngọt, 1 phần Gin, trang trí bằng một quả anh đào và gọi tên Martinez. Sau này, Martinez đọc thành Martini.
2. Một số loại cocktail chị em nên/ không nên uống
✔ RECOMMEND
Pink Lady: Chứa khoảng 60ml đồ có cồn trong đó có 40ml Gin, 20ml Triplesec là rượu Mùi vỏ cam nhưng cũng khoảng 25-40 ABV tùy vào loại Triple sec mà quán sử dụng.
Đây có lẽ là 1 món t highly recommend chị em thử do sắc hồng đẹp mắt và vị khá dễ uống bao gồm vị ngọt của lựu, vị béo ngậy của lòng trắng trứng và có cả vị của chanh và vỏ cam.
Cosmopolitian: Cũng ch���a 60ml đồ có cồn như Pink Lady. Món này gồm 40ml Vodka 40ABV và 20ml triplesec. Món này được pha cùng cranberry juice (nước ép Nam việt quất) cùng với chanh và cũng có thể thêm 1 xíu đường. Màu sắc của món này là 1 m��u đỏ phớt hồng đẹp mắt, vị của món này cũng rất tươi mát.
Món này rất được ưa chuộng trên thế giới. Nếu bạn có từng xem qua “S*x and The City” hay “50 Shade of Grey” thì cũng có thể bạn đã để ý được các nữ chính ở cả 2 bộ phim này cũng hay thưởng thức món cocktail này.
Mojito: Món này có lẽ quá nổi tiếng rồi. Chứa khoảng 50ml Rum.
Đây cũng là 1 món khá nhẹ nhàng cho chị em thưởng thức. Vị thanh mát và sảng khoái của Mojito rất thích hợp với thời tiết nóng bức của mùa hè bây giờ. Mình có thể recommend chị em bảo Bartender thay chanh bằng chanh leo :D. Vị của Mojito sẽ thơm hơn nhiều đó.
Margarita: Nàng thơ này t có nhắc đến ở bài tequila hôm trước. Làm từ 40ml Tequila và 20ml Triple sec. Vị của tequila kết hợp với chanh, đường và muối tạo ra 1 vị thực sự hoàn hảo. Màu xanh tươi mát của margarita cũng rất đẹp mắt. Các biến thể có thể là Strawberry Margarita, Blue Margarita hay Passion Margarita đều rất đáng để thưởng thức.
⚠ NOT RECOMMEND
Long Island Iced Tea hay còn gọi vui mồm là “Trà đá”
1 Long drink có nồng độ cồn trong 1 ly khá cao, dù tên là “trà đá” nhưng hoàn toàn không có tí trà nào trong đó đâu nhé. Đây là 1 món mà khi đi làm bartender tôi thấy các chị em hay bị dụ dỗ nhất uống. Vị ngọt do có coca nên khá dễ uống nhưng đừng vì thế mà bị mắc lừa. Đây là 1 món chứa rất nhiều rượu trong đó: đầy đủ gin, vodka, tequila, white rum và triple sec mỗi loại 30ml tức là 150ml đồ có cồn trong 1 cốc và được top up với coca càng làm xúc tác để đẩy độ cồn ngấm sâu hơn.
Đây là 1 món mà những người đi bar sành sỏi nhiều lúc cũng hơi né chứ chưa nói đến các chị em. Mặc dù rất ngon nhưng nếu các bạn đi bar với 1 người mới quen hoặc được mời bởi 1 người chưa quen biết thì tốt nhất là né nhé.
Jagerbomb: lại 1 món kinh điển nữa từ jagermeister. Vị ngọt của jager mix với vị ngọt của redbull làm nó rất dễ uống và rất ngon. Nhưng chính cái đó mới là bẫy đó các bạn của tôi ạ. Mọi người chỉ tập trung vào: “ơ, nó có mỗi 1 shot jager thôi mà, làm 1 vài ly cũng làm gì đủ cồn mà say” nhưng mà lại quên đi Caffein trong Redbull. Tác dụng của Redbull chắc cũng nhiều người biết: giúp tỉnh táo, tăng lưu thông máu. Mọi người vẫn tỉnh táo sau vài ly jagerbomb nhưng sau khi caffeine hết tác dụng thì bùm: bạn đã bất tỉnh lúc nào chả hay sau khi cồn ngấm đủ vào máu. Vậy nên hãy cẩn trọng với món này. Nếu có uống thì hãy cố gắng 1 ly 1 buổi tối thôi.
Adios Motherf***er cocktail hay còn gọi tắt là AMF: Vâng, đây là 1 biến thể khác của cháu Trà đá ở trên kia. Món này thì không quá phổ biến ở việt nam nhưng mà t cũng sẽ note ở đây cho các chị em ở nước ngoài nếu có nghe cũng né ra nhớ.
Công thức y xì như trà đá, chỉ thay triple sec bằng blue curacao và top up bằng 7up hoặc Sprite. Hãy né món này nhé các bạn gái. Màu xanh đẹp mắt đấy nhưng mà…..
Death in the Afternoon: chết ban chiều. Món cocktail này được lấy cảm hứng từ tác phẩm cùng tên của Nhà văn Ernest HemingWay. Hồi trước thì Absinthe là 1 món bị cấm đoán trong xã hội tượng trưng cho cái chết còn Champagne luôn được mọi người sử dụng để chúc tụng nhau trong các buổi tiệc - tượng trưng cho sự sống.
Cocktail này được làm từ 45ml Absinthe: 1 loại rượu cực mạnh và có độ cồn khoảng 45-75 ABV (gấp 1.5 đến gần 2 lần các loại thông thường) và được top up với Champagne. Đây cũng là 1 món mà t cũng hoàn toàn khuyên các bạn nữ không nên thử qua. Màu xanh cực đẹp mắt và mùi hương rất thơm quyến rũ từ mùi của thảo mộc. Uống rất ngon nhưng sập thì chỉ thiệt mình thôi.
Nhắc đến Absinthe thì người ta còn hay nhắc đến “bắt tiên”: Thường thì Absinthe hay đi kèm với 1 cái thìa hình đầu lâu hay bàn tay xương xẩu. Đó chính là vật dụng để “bắt tiên”: cho thìa lên 1 cốc chứa 45ml Absinthe, trên thìa để 1 viên đường và cho khoảng 60ml nước lạnh chảy qua viên đường. Voalá. Nàng tiên của chúng ta đã được thanh tẩy và bắt nhốt trong 1 ly cocktail có màu xanh đầy ma mị và quyến rũ. Nhưng mà thưởng thức xong thì cẩn thận chính bạn bị nhốt đấy nhé. (1 bộ fountain dùng để “bắt tiên” )
P/s: 1 bài viết tặng các chị em thích đi quẩy. Hãy uống có trách nhiệm và tránh các tai nạn đáng tiếc xảy ra nhé.
118 notes
·
View notes
Text



Rollingwood Modern House, Austin / LaRue Architects
105 notes
·
View notes
Text
NGỦ GẦN NỬA ĐỜI NHƯNG CHẮC GÌ ĐÃ NGỦ ĐÚNG CÁCH
1. 10 phút ngủ thực sự chất lượng vào buổi trưa 11 giờ – 13 giờ là bạn có thể tính táo như vừa ngủ được 2 giờ ở thời điểm khác.
2. Nhất định nên ngủ trước 23 giờ, không nên ngủ trễ hơn. Nếu có việc đại sự gì buộc phải làm buổi đêm thì nên ngủ ít nhất là nửa giờ vào khoảng 23h-1h rồi hãy dậy làm tiếp.
3. 23 giờ đến 3h sáng là lúc lá gan hoạt động mạnh nhất. “Nằm xuống thì máu chảy về gan, đứng dậy thì máu chảy đi”. Thời gian này mà không ngủ trong lâu dài thì dễ rối loạn tiêu hoá, rối loạn kinh nguyệt, da xấu mụn mẩn ngứa... thậm chí nguy cơ xơ gan.
4. Nếu bạn không bị mất ngủ kinh niên thì thường nếu nằm từ 22 giờ, lặng lẽ không nói chuyện, giấc ngủ tự nhiên sẽ đến khoảng 23 giờ.
5. Lúc ngủ, tay, chân, rốn cần được giữ ấm, nếu không thận dương dễ bị hao tổn.
6. Nằm nghiêng bên phải, tay phải nắm tai phải thì bạn sẽ chìm vào giấc ngủ nhanh hơn.
7. Mùa đông không ngủ quá 7 tiếng. Mùa xuân, hạ, thu nên phải tranh thủ ngủ sâu trong 5 tiếng. Nói chung thời gian thức dậy tốt nhất là khoảng 5 - 6h sáng.
8. Ngủ nướng rất cám dỗ nhưng dù chỉ nướng 10 phút cũng sẽ khiến bạn bị váng đầu, mỏi mệt ít nhất mấy tiếng sau.
9. Không nên ngủ quá 8 tiếng /ngày, đặc biệt là ngủ chiều quá lâu. Càng ngủ nhiều càng mệt.
10. Khi thức dậy giữa ban đêm hơn 15 phút mà không ngủ lại được, đừng cố. Hãy rời khỏi giường và trở lại khi bạn cảm thấy buồn ngủ lần nữa.
11. Nếu bạn có tật nghĩ lung tung nên khó đi vào giấc ngủ, trước giờ ngủ nửa tiếng hãy viết, vẽ những điều khiến hay bạn suy nghĩ lên giấy. Duy trì thói quen này 2 tuần bạn sẽ thấy lúc đi ngủ dễ hơn hẳn.
12. Ăn trước khi ngủ ít nhất ba giờ, nên uống nước ấm hoặc trà thảo dược trước khi đi ngủ.
13. Cần tắt các thiết bị phát sóng điện từ, để xa chiếc điện thoại ra khỏi giường, không để dưới gối dễ bị phân tâm.
14. Lặp lại việc hít thật sâu và dài sau đó thở ra từ từ, nhẹ nhàng khoảng 20-30 lần sẽ giúp bạn ngủ sâu, ít mộng mị.
Via Phúc Khang An TH - ST

22 notes
·
View notes
Text
🎥 Vy Khue
Steamed sponge cake using rice flour
Cake mold: 15cm
3 eggs
50g fresh milk
2g salt
20g cooking oil
1 teaspoon lemon juice or tartar powder
70g rice flour
40g sugar
Steam the cake over low heat and remember to preheat the steamer for about 10 minutes before adding the cake. Steam at low heat for about 25-30 minutes, then turn off the heat, incubate the cake in the pot for 10 minutes, then remove, tilt the cake like that until the cake separates from the mold easily.
419 notes
·
View notes
Photo









TP Apartment, rue du Faubourg Saint-Honoré, 75008, Paris, France,
Wer Studio & Studio Arthur Casas
210 notes
·
View notes
Text
Tornado Omelette by @omuraisupuro
Ingredients:
-3 eggs (the amount of eggs depends on the size of the pan).
-Heavy cream 10gr.
Instructions:
-Mix well with a whipper.
-Strain the mixture.
-Using a non-stick pan might be better.
-Add a teaspoon of oil.
-Preheat for 1 minute and 30 seconds over medium heat.
-Pour the mixture.
-Wait a few seconds until the egg coagulates and forms a thin but solid base.
-Bring the chopsticks from the edge to the center.
-Leave 2-3 cm between chopsticks.
-After that, turn the pan slowly.
-Remove it before it is fully cooked.
99 notes
·
View notes
Text
Học tiếng Trung, làm sao cho đúng?
Dạo này, mình thấy khá nhiều bạn học tiếng Trung. Thật ra theo cá nhân mình, tiếng Trung rất đáng học, học tiếng Trung sẽ hiểu rõ tiếng Việt hơn rất nhiều (vì toàn từ Hán Việt) và ngữ pháp thì giống đến 70%, có những câu tiếng Việt mình như thế nào thì tiếng Trung cũng y chang như vậy, chẳng sai đi một từ nào luôn.
1. Tài liệu học: mình nên bắt đầu học với bộ giáo trình 6 cuốn kèm theo 3 cuốn giáo trình nghe nói và 3 cuốn giáo trình đọc hiểu.
2. Cần chuẩn bị: Vở ô li để tập viết, bút chì, tẩy và một cuốn vở để làm bài tập.
3. Cách học: Mình nói sơ qua nhé!
Làm ơn đừng bắt đầu bằng các bộ thủ, bạn sẽ quên ngay nếu không dùng đến. Nó không giống tiếng Nhật là học hai bảng chữ cái và đống Kanji khó nhằn đâu. Bạn cứ học dần dần, khi có một lượng từ vừa đủ thì mới bắt đầu học bộ thủ, như vậy sẽ thuận tiện hơn trong việc nhớ từ mới.
Vậy bắt đầu từ đâu?
Chúng ta nên bắt đầu từ cuốn giáo trình số 1, luyện viết từ những nét đơn giản nhất tới những chữ cơ bản trong giáo trình. Cách tiếp thu dần dần sẽ giúp các bạn thích thú hơn hẳn so với nhồi nhét đống bộ thủ khó nuốt đấy mà chật vật mãi không thuộc nữa chứ.
Vậy cần đặc biệt nhớ gì?
Các bạn cần đặc biệt nhớ 7 quy tắc viết tiếng Trung, sau này viết nhiều thì tự nhiên sẽ biết viết hết tất cả các từ. Còn nếu không nhớ, thường gọi là viết “trái cựa”, như vậy khi viết nhiều, bạn sẽ viết chậm mà chữ sẽ cứng hơn. Phía cuối bài, thường có hướng dẫn viết một số từ khó, nhưng không phải tất cả nên cần nhớ rõ 7 quy tắc này:
- Ngang trước sổ sau : 十 → 一 十
- Phẩy trước mác sau : 八 → 丿 八
- Trên trước dưới sau : 二 → 一 二
- Trái trước phải sau : 你 → 亻 尔
- Ngoài trước trong sau : 月 → 丿 月
- Vào trước đóng sau : 国 → 丨 冂 国
- Giữa trước hai bên sau : 小 → 小
Học mỗi bài trong giáo trình ra sao?
Quy trình thông thường sẽ là đọc từ mới, sau đó đọc bài khóa, học thuộc bài khóa, tóm tắt lại bài khóa và cuối cùng là làm bài tập để nhớ ngữ pháp và từ vựng hơn.
Còn mình thì thường đọc sơ qua từ mới, đọc qua bài khóa, sau đó làm bài tập, cuối cùng mới quay lại học thuộc bài khóa và tóm tắt bài khóa. Như vậy sẽ giúp các bạn nhớ từ, ngữ pháp đồng thời còn luyện nói nữa.
Song song bên cạnh cuốn giáo trình, hãy nhớ nghe và đọc. Sách đọc và nghe được soạn theo nội dung của các bài khóa trong giáo trình nên các bạn hoàn toàn an tâm.
Học kiểu gì cho giỏi?
Viết nhiều, Đọc nhiều, Nghe nhiều, Nói nhiều.
Viết nhiều thì tay sẽ mềm ra, nét chữ sẽ đẹp hơn.
Đọc nhiều thì sẽ giúp ích ngữ pháp và từ vựng nhiều hơn.
Nghe nhiều: tất nhiên là tốt nhưng đừng nghe chơi. Lúc nghe nên để t��m một chút. Lắng nghe xem mình có biết từ này hay không, từ này nghe có quen tai hay không rồi nghe đi nghe lại. Hồi ôn thi HSK vì nhà dùng 3G nên tớ hay nghe radio, hồi đó thường nghe 北京故事 radio, nghe nhạc rồi cố gắng tìm lời bằng tiếng Trung, sau đó ngồi đọc hoặc thích thì chép lại lời, như vậy tăng ngữ pháp lắm.
Nói nhiều: Nếu phải tự học một mình thì chỉ có cách: bạn bắt chước y như trong file nghe, sau đó đọc và ghi âm lại. Sau đó tự chính mình nghe lại, nếu thấy chưa chuẩn thì cứ luyện đi luyện lại. Đó là cách duy nhất nếu bạn tự học một mình. (Mình áp dụng phương pháp này với cả luyện tiếng Anh)
Thêm vào đó, học tiếng Trung thì nên lưu ý từ Hán Việt (có nghĩa Hán Việt trong sách), như vậy sẽ giúp bạn ghép từ rất nhanh.
Vậy nên dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày thì đủ?
Câu trả lời là càng nhiều càng tốt. Đừng tin cái gì mà cấp tốc mà thông thạo trong 6 tháng hay kiểu gì đại loại đó. Điều này mình học được từ bạn mình và cảm thấy khá đúng. Phải dành thời gian và nỗ lực đủ thì mới đạt được điều mình mong muốn. Đừng mong thứ gì rơi từ trên trời xuống vì tất cả chúng nó đều là phân chim và rác.
Tập viết mỗi ngày và dành ra ít nhất 1 tiếng. Khi mình bắt đầu học tiếng Trung, mình luôn mang theo bút chì, tẩy, gọt và vở luyện viết theo mọi lúc mọi nơi. Bất cứ khi nào rảnh, mình đều lôi nó ra viết.
Hi vọng kinh nghiệm nho nhỏ của mình có thể giúp ích các bạn.
2K notes
·
View notes
Text
Về ‘Thiên long bát bộ’ (phần 1): ai là Thiên, ai là Long?
Thiên Long Bát Bộ là tác phẩm dài nhất của Kim Dung. Với gần hai triệu chữ được đăng liên tục trong vòng bốn năm trên Minh báo Hồng Kông và Nam Dương thương báo Singapore, Thiên Long Bát Bộ có cấu trúc phức tạp, hệ thống nhân vật rộng lớn, phạm vi trải dài mênh mông từ Đại Tống đến Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý, Đại Liêu,… Nhà phê bình Trần Mặc đã gọi Thiên Long Bát Bộ là một cuốn “Lục Quốc diễn nghĩa” có bối cảnh võ hiệp. Ngoài ra Thiên Long Bát Bộ còn nổi bật vì chứa đựng tinh thần Phật giáo hết sức rõ rệt.
Ngày 27. 10. 1994 tại đại học Bắc Kinh trước sự đón chào của hơn một ngàn sinh viên hâm mộ, Kim Dung đã trả lời câu hỏi của khán giả: “Thiên Long Bát Bộ phải chăng là biểu đạt quan niệm nhân sinh của ngài?”. Ông đáp: “Trong Thiên Long Bát Bộ, có phần biểu đạt quan niệm nhân sinh của tôi. Lúc ấy trong tôi có tư tưởng triết học Phật giáo. Phật giáo khá bi quan đối với nhân sinh, cho rằng đời người là bể khổ. Vô luận nhân sinh tốt đẹp đến thế nào, cuối cùng rồi cũng chết. Nhưng Phật giáo còn có quan niệm khác, tuy con người không tránh được cái chết, nhưng vẫn còn có lúc tái sinh, sau này có thể đời sống tốt hơn, có thể cống hiến được sức mình, có thể giúp đỡ được người khác.”
Tinh thần Phật giáo của Thiên Long Bát Bộ được biểu đạt ngay từ tựa đề tác phẩm. Thiên Long Bát Bộ là cụm từ chỉ tám bộ chúng sinh, trong đó có loài giống người nhưng không phải người (nhân-phi-nhân) thường đến nghe Phật thuyết giảng trong kinh Đại Thừa. Các loài này đều có nguồn gốc từ tín ngưỡng Ấn Độ giáo. Trước khi Phật giáo ra đời, người dân Ấn Độ đã thờ phụng tám loại thần linh đó rồi. Về sau chúng được kết nạp vào đạo Phật, trở thành các vị thần hộ trì thế gian nhưng vẫn chưa thoát khỏi kiếp luân hồi.
Tựa đề Thiên Long Bát Bộ rất khó dịch ra tiếng Anh, hiện tại có ba cách dịch chính: Demi-Gods and Semi-Devils, Eight Books of the Heavenly Dragons, và phiên âm Tian Long Ba Bu. Khi mới bắt đầu bắt tay viết Thiên Long Bát Bộ, Kim Dung đã có ý định dựng tám nhân vật chính theo tám vị thần Hộ pháp nhà Phật, thế nhưng câu chuyện càng đi sâu càng phức tạp và việc phân loại “ai là ai” trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Đây vẫn là một chủ đề được ưa thích trong giới Kim học. Bài viết này không nhằm nỗ lực phân chia rạch ròi các nhân vật theo tám bộ chúng sinh mà trên hết muốn khơi gợi một cuộc đối thoại giữa những người am tường Kim Dung và Phật học.
1. Thiên
Đứng đầu trong tám bộ chúng sinh là Thiên, còn gọi là Thiên chúng hay Thiên thần. Trong tiếng Ấn Độ, phiên âm của Thiên là Deva, bao gồm các chúng sinh ở sáu cung trời có thân hình phát hào quang rực rỡ. Deva luôn là nam (dạng nữ của Thiên là Devi) làm thiện, nói thiện, và nghĩ thiện. Chư thiên tuy được hưởng phúc báu to lớn hơn người thường nhưng vẫn nằm trong vòng sinh tử. Trước khi chết, chư thiên sẽ có năm triệu chứng: quần áo mủn nát, hoa trên đầu tàn héo, thân thể bốc mùi, nách đổ mồ hôi, đứng ngồi không yên, đó là thời kỳ đau khổ nhất của chư thiên. Vua trời Đế Thích (Indra) là thủ lĩnh chư thiên.
Dựa theo miêu tả trên, có thể kết luận nhân vật tương ứng với địa vị chư thiên chính là Tiêu Phong. Khi Tiêu Phong lần đầu tiên xuất hiện, uy vũ của chàng đã khiến Đoàn Dự chấn động tâm thần, không kiềm được nảy lòng ngưỡng mộ.
Một đại hán ngồi ở phía tây nghe thế quay đầu lại nhìn, đôi mắt lạnh lùng sáng quắc lướt qua mặt chàng. Đoàn Dự thấy người đó thân thể thật là cao lớn, chừng trên dưới ba mươi, mặc áo vải màu tro cũ kỹ đã sờn rách, mày rậm mắt to, mũi cao miệng rộng, khuôn mặt vuông vức hình chữ quốc, tuy nhuốm vẻ phong sương nhưng đầy vẻ uy nghiêm.
Đoàn Dự trong bụng tấm tắc khen thầm: “Quả là một đại hán hiên ngang! Hẳn đây là một tráng sĩ bi ca khẳng khái của nước Yên nước Triệu nơi miền bắc chứ Giang Nam hay Đại Lý không thể có được người như thế này. Bao Bất Đồng tự mình huênh hoang anh khí ngất trời nhưng phải người như thế này mới xứng đáng bốn chữ đó”.
Nếu coi vị sư già quét chùa Thiếu Lâm công phu siêu phàm nhập thánh, từ bi vô hạn là Phật sống, thì chỉ còn Tiêu Phong xứng đáng vị trí số một trong “thế giới chúng sinh” của Thiên Long Bát Bộ. Từ võ công, phẩm chất, đến tính cách anh hùng, chàng đều khiến nhân sĩ Tống Liêu, giang hồ hai phe hắc đạo bạch đạo phải nghiêng mình thán phục. Tiêu Phong hào sảng mà không thô lỗ, anh phong lẫm liệt mà vẫn kín đáo khôn ngoan. Chỉ một lộ Hàng Long Thập Bát Chưởng đủ để Tiêu Phong trấn áp quần hào Tụ Hiền Trang, về sau lại đánh cho bọn Mộ Dung Phục, Đinh Xuân Thu lác mắt. Tiêu Phong trước là bang chủ Cái Bang nhà Tống, sau lãnh chức Nam Viện đại vương nhà Liêu, khí chất lãnh tụ luôn hiển hiện. Chàng vì một mảnh chân tình với A Châu mà hết lòng chiếu cố cho cô em gái điêu ngoa của nàng là A Tử, phần đời còn lại không màng nữ sắc lẫn danh vọng, lại đem thân mình đánh đổi cuộc sống yên lành cho nhân dân hai nước.
Tiêu Phong thỏa mãn tất cả những tiêu chí hào quang, nhân hậu, vĩ đại của một bậc chư thiên, và cũng không tránh khỏi cái chết. Nếu năm triệu chứng trước khi qua đời của chư thiên được gọi là “thiên nhân ngũ suy,” thì Tiêu Phong cũng trải qua năm bi kịch cá nhân: cha mẹ bị hại, Cái Bang khai trừ, bằng hữu tuyệt giao, giết lầm A Châu, phản lại Khiết Đan. Cái chết của Tiêu Phong là sự dâng hiến cho hoà bình, nhưng cũng là cách tự kết thúc đau khổ.
2. Long:
Đứng thứ hai trong tám bộ là rồng, còn gọi là Long chúng hay Long thần.
Trong Ấn Độ giáo, Long chính là Naga, là chủ các loài thuỷ tộc sống ở biển. Loài rồng có vị trí rất quan trọng trong tín ngưỡng Phật giáo và cũng được người dân Ấn Độ tôn sùng. Theo truyền thuyết, rồng của Ấn Độ không có chân nên hình dáng giống loài rắn, nhưng ở đây là loại rắn chúa, rắn thần để phân biệt với rắn thường Sarpa. Nhiều khi rắn Naga còn là loại hổ mang bành bảy đầu. Trong kinh Udana, khi Đức Phật thiền định dưới gốc cây Bồ đề thì trời đất tối sầm, mưa to ập xuống kéo dài suốt bảy ngày liền, lúc đó một con rắn thần tên là Mucalinda xuất hiện quấn quanh đầu ngài, bảo vệ cho đức Thế Tôn khỏi mưa gió. Trong các kinh khác thường xuất hiện rắn thần đến lễ Phật; rắn cũng là sinh vật đầu tiên (ngoài người) quy y Tam bảo. Khi Naga du nhập vào Trung Hoa thì trở thành Long vương và gắn liền với hoàng gia cao quý. Thiên tử mặc áo long bào, ngồi ghế long ỷ, mặt mày gọi là long nhan, thân mình gọi là long thể, đó là bắt nguồn từ sự kính trọng với loài rồng mà ra.
Nhân vật tương ứng với Long thần của Thiên Long Bát Bộ là Đoàn Dự.
Đoàn Dự là nhân vật có thật trong lịch sử, chính là vị vua thứ 16 của Vương quốc Đại Lý. Ông trị vì từ 1108 đến 1147, cũng là quân vương tại vị lâu nhất trong lịch sử Đại Lý. Cháu nội Đoàn Trí Hưng của ông cũng được tiểu thuyết hóa thành Nam đế trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện. Suốt phần lớn chiều dài Thiên Long Bát Bộ, Đoàn Dự là một vương tử trẻ trung có phần ngờ nghệch nhưng đã có uy của loài rồng.
Thứ nhất, chàng là con trai duy nhất của Đoàn Diên Khánh chính tông nhà Đại Lý, là thái tử chân truyền. Cuối truyện chàng lên ngôi đường hoàng làm vua Đại Lý, chính là trở về “nguyên bản” loài rồng.
Thứ hai, hoàng gia Đại Lý sùng đạo Phật, các triều hoàng đế khi rời ngôi đều xuất gia ở Thiên Long tự. Bản thân Đoàn Dự cũng có tấm lòng hướng Phật, chàng thường xuyên trích dẫn kinh Phật, ghét bạo lực, nhân ái thương người, coi thường vật chất.
Thứ ba, Đoàn Dự học được Bắc Minh Thần Công có thể hút nội lực người khác, nhờ cơ duyên kì ảo lại luyện môn Lăng Ba Vi Bộ, di chuyển thoắt ẩn thoắt hiện, chẳng khác nào loài rồng kỳ bí và mạnh mẽ.
Theo kinh Phật, trong tám loại thần chỉ có Thiên được hưởng phúc vi diệu, và Long có thần nghiệm màu nhiệm nhất, còn sáu loài còn lại tuy có tài biến hóa nhưng tâm chưa đủ tốt. Thế nên Thiên và Long đứng đầu tám bộ chúng sinh, dẫn đến gọi tắt là Thiên Long Bát Bộ. Trong tác phẩm này của Kim Dung, Tiêu Phong và Đoàn Dự cũng là hai nhân vật chính số một, số hai ăn khớp với thứ hạng của Thiên và Long.
Link: http://soi.today/?p=218286
*
Về ‘Thiên long bát bộ’ (phần 2): ai là Dạ Xoa, ai là Atula?
3. Dạ Xoa
Đứng thứ ba trong Thiên Long Bát Bộ là loài Dạ Xoa. Theo kinh Bi Hoa, Dạ Xoa là một loại quỷ, còn gọi là Dược Xoa, dịch đúng nghĩa là “năng đạm quỷ” – tức là quỷ có thể ăn thịt người. Phiên âm theo Ấn Độ của Dạ Xoa là Yaksha.
Có lẽ vì ảnh hưởng của truyện thần tiên nên chúng ta thường nghĩ hễ Dạ Xoa là xấu, nhưng trong kinh văn cũng có rất nhiều Dạ Xoa tốt. Có những Dạ Xoa quy y Phật pháp và dùng thần lực bảo vệ con người. Kim Dung đã từng nói “Nhiệm vụ của Dạ Xoa bát đại tướng là duy hộ cảnh giới của chúng sinh”.
Dạ Xoa có ba dạng: Không Hành Dạ Xoa (đi trong hư không,) Thiên Hành Dạ Xoa (đi trong cõi trời,) và Địa Hành Dạ Xoa (đi trên mặt đất.) Dạ Xoa nam có tướng mạo vô cùng xấu xí thô kệch, nhưng Dạ Xoa nữ (yakshi) lại thường xinh đẹp và phong nhũ phì đồn. Dù là Dạ Xoa nam hay Dạ Xoa nữ, Dạ Xoa xấu hay Dạ Xoa tốt thì cũng đều thông minh mẫn tiệp và di chuyển nhanh nhẹn nhẹ nhàng.
Dựa trên những yếu tố đó có thể cho rằng có ít nhất một vài Dạ Xoa trong Thiên Long Bát Bộ.
Dạ Xoa nam rõ ràng nhất chính là Hư Trúc. Y là nhân vật nam chính thứ ba trong truyện, cũng là anh em kết nghĩa của Tiêu Phong và Đoàn Dự, về vị trí là hết sức hợp lý. Y sinh ra mang bộ mặt xấu trai, cử chỉ vụng về không trau chuốt, nhưng lại có tấm lòng cao thượng và nghĩa khí. Nội công của y là do ba đại cao thủ phái Tiêu Dao là Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ, Lý Thu Thuỷ cùng truyền thụ nên vô cùng cao thâm, đến cuối truyện võ nghệ của y đã đến cảnh giới xuất thần nhập hóa.
Hư Trúc trong toàn bộ Thiên Long Bát Bộ hầu như luôn giữ vai trò “người bảo vệ.” Y vì muốn giúp Đoàn Diên Khánh khỏi bị nội thương mà phá được thế cờ Trân Lung, rồi lại vô tình hỗ trợ Thiên Sơn Đồng Mỗ mà được truyền võ công thượng thừa. Sau khi Đồng Mỗ chết, y nảy lòng Bồ Tát, cứu 108 vị đảo chủ động chủ khỏi Sinh Tử Phù, kể từ đó trở thành đầu lĩnh của họ.
Có thể nói cuộc đời Hư Trúc có nhiều may mắn xảo diệu, nhưng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng thiện của y. Hư Trúc lớn lên ở cửa Phật, thân sinh của y lại chính là trụ trì chùa Thiếu Lâm, có thể nói y là một Dạ Xoa tốt thấm nhuần Phật pháp. Sau này y vì phá giới không thể quay lại Phật môn nhưng vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ “bảo vệ chúng sinh,” có thể nói là đã hoàn thành công quả.
Dạ Xoa nữ có thể là hai nhân vật: Cam Bảo Bảo và Diệp Nhị Nương. Cam Bảo Bảo là vợ Chung Vạn Cừu đồng thời cũng là tình nhân của Đoàn Chính Thuần, nhan sắc xinh đẹp, có ngoại hiệu là Tiếu Dược Xoa (Dạ Xoa cười.)
Diệp Nhị Nương vốn là một cô gái đoan trang phúc hậu, vì trót yêu phương trượng chùa Thiếu Lâm mà sinh ra Hư Trúc. Sau con trai nàng bị Tiêu Viễn Sơn bắt đi, nàng hóa điên, ngày ngày đi bắt cóc trẻ con về chăm sóc rồi giết chết (trong bản sửa gần đây nhất Kim Dung đã giảm nhẹ tội lỗi của Diệp Nhị Nương, bỏ qua đoạn sát hại trẻ con.) Diệp Nhị Nương có biệt hiệu Vô ác bất tác (không phải việc ác thì không làm), là người đứng thứ hai trong Tứ đại ác nhân. Đến tận trước khi Diệp Nhị Nương tự sát, người đọc mới thấy hé lộ tình mẹ – điều thiện lương cuối cùng sót lại trong con người thị.
4. Càn Thát Bà
Đứng thứ tư trong Thiên Long Bát Bộ là Càn Thát Bà, tên tiếng Ấn Độ là Gandharva (nam) và Apsara (nữ.) Càn Thát Bà thường xinh đẹp, giỏi múa hát, không ăn rượu thịt mà chỉ lấy hương thơm để nuôi sống mình, vì thế còn gọi là Nhạc thần hoặc Hương thần. Gandharv trong tiếng Phạn có nghĩa là “biến hoá khôn lường,” ý nói mùi hương và âm nhạc đều mênh mang không đo đếm được. Càn Thát Bà thường gắn bó sinh sống ở nơi có cây cỏ hoa lá, có người cho rằng họ ẩn mình trong mùi thơm của nhị hoa, vỏ cây, nhựa cây. Càn Thát Bà nữ có khả năng thay đổi hình dạng tùy ý, và thường theo hầu cận Thiên thần, hoặc dâng hương, dâng rượu, hoặc ca múa. Vị trí của Càn Thát Bà trong tám bộ là thấp nhất, chủ yếu nhằm mục đích làm cảnh cho đẹp kiểu “bình hoa di động,” gần giống như các nàng nymph của thần thoại Hy Lạp.
Càn Thát Bà trong Thiên Long Bát Bộ có thể ứng với ba nữ nhân: A Châu, Mộc Uyển Thanh, Vương phu nhân. Điểm chung nhất của ba người này là nhan sắc xinh đẹp; ngoài ra họ có mặt trong truyện cũng chủ yếu để làm bầu bạn cho các nhân vật nam chính.
A Châu là Càn Thát Bà rõ ràng nhất. Nàng trước là người hầu của Mộ Dung Phục, sau trở thành người yêu của Tiêu Phong (Thiên thần.) A Châu có khả năng cải trang xuất quỷ nhập thần, trên người lại có mùi hương xử nữ khiến Đoàn Dự nhận ra nàng là con gái. Chữ “Phong” trong Tiêu Phong nghĩa là đỉnh núi cao, nhà văn Trương Hiểu Yến đã nhận xét A Châu như cây nhỏ đầy núi, dùng tình yêu che bóng mát cho chàng. Sau khi A Châu qua đời, đỉnh núi trống vắng hoang tàn lạnh lẽo, người đời không còn ai biết đến Lư Sơn chân diện mục (bộ mặt thật của núi Lư) ra làm sao nữa.
Mộc Uyển Thanh cũng là một Càn Thát Bà điển hình. Trên người nàng có mùi thơm quyến rũ nên được giang hồ đặt cho biệt danh Hương Dược Xoa (Dạ Xoa thơm.) Theo như cảm nhận của chàng mê gái Đoàn Dự thì mùi hương trên người nàng “như lan mà không phải lan, như xạ mà không phải xạ, tuy không đậm đà chỉ thoang thoảng dìu dịu nhưng ngửi thấy lòng không khỏi lâng lâng”. Con ngựa mà nàng cưỡi cũng có tên là Hắc Mai Côi (hoa hồng đen). Về sau Mộc Uyển Thanh trở thành chính cung hoàng hậu của Đoàn Dự (theo bản sửa đổi mới nhất của Kim Dung).
Vương phu nhân là con gái của Lý Thu Thủy, người tình của Đoàn Chính Thuần, mẹ ruột của Vương Ngữ Yên. Bà ta có nhan sắc tuyệt vời, tính tình kiêu ngạo, lại đam mê hoa trà đến mức điên cuồng. Vương phu nhân bỏ công sai người đi khắp nơi tìm các loại danh chủng trà hoa về trồng tại Mạn Đà sơn trang, lúc nồng nàn tình ái nhớ tới Đoàn Chính Thuần thì ngâm câu thơ “Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch,” khi tiết hận y thì giết đàn ông đem làm phân bón hoa trà. Về sau bà gặp Đoàn Dự và được cậu ta dạy dỗ cho một bài về việc chọn hoa – trồng hoa – thưởng hoa đến mức thẹn toát mồ hôi. Bởi Vương phu nhân sống giữa vườn hoa trà nên có điểm tương đồng với các nữ thần Càn Thát Bà gần gũi thiên nhiên.
5. A Tu La
A Tu La là một hàng thần có nhiều thần thông biến hoá nhưng phúc đức không thể so với Thiên thần (Deva), còn được gọi là Phi Thiên hay Vô Thiện Đẳng. A Tu La trong tiếng Ấn Độ là Asura.
Đặc điểm của A Tu La là tính tình rất hay ghen ghét đố kỵ, kiêu ngạo, đa nghi, đồng thời thích gây chiến và xung đột. A Tu La nam thường xấu xí, A Tu La nữ lại diễm lệ, vì thế A Tu La với Đế Thích đánh nhau liên miên, bên cần rượu ngon, bên đòi gái đẹp. A Tu La đặc biệt tị nạnh với Thiên thần vì cho rằng Phật tổ thiên vị chư thiên. A Tu La chính là ẩn dụ của nhà Phật để nói về tính sân si của con người.
A Tu La nữ trong Thiên Long Bát Bộ chính là Khang Mẫn.
Khang Mẫn là vợ của phó bang chủ Võ Đại Nguyên, cũng cặp kè với Đoàn Chính Thuần phong lưu “rải khắp nhân gian đều oán hận”.
Bề ngoài Khang Mẫn là một phụ nữ “xinh đẹp thanh tú, e lệ đáng yêu”. Tuy nhiên nội tâm của Khang Mẫn đã bị biến dạng từ khi bà ta còn nhỏ, ví dụ rõ nhất: vì ghen tị tỷ tỷ hàng xóm có tấm áo hoa đẹp mà cô bé Khang Mẫn cầm kéo cắt nát áo để người ta không thể nào mặc được nữa. Tâm lý méo mó này phát sinh từ ba yếu tố: tham vọng, kiêu ngạo, và tính ích kỷ tột độ; thị sẵn sàng cắn chết Đoàn Chính Thuần khi ông không chịu lập thị làm phi tử.
Đáng sợ nhất, chỉ vì Tiêu Phong không để ý đến thị trong hội hoa mẫu đơn mà Khang Mẫn quyết tâm khiến chàng phải thân bại danh liệt: thị ám sát chồng, đổ vấy cho Tiêu Phong, nhân đó vạch trần thân phận Khiết Đan của chàng. Có thể nói bước đường hoạn nạn của Tiêu Phong (Thiên) bắt đầu do bàn tay độc ác của Khang Mẫn (A Tu La). Tuy nhiên trong truyền thuyết A Tu La luôn chịu thua Thiên chúng, tương tự Khang Mẫn dùng đủ mọi thủ đoạn vẫn không thể nào trấn áp được Tiêu Phong, cuối cùng lại thành tự hại mình.
A Tu La nam trong Thiên Long Bát Bộ ứng với Du Thản Chi và Mộ Dung Phục. Cả hai nhân vật này đều liên tục gây chiến với Tiêu Phong (Thiên) nhưng vẫn chuốc lấy thất bại thảm hại.
Du Thản Chi xuất thân là thiếu trang chủ của Tụ Hiền Trang, là con cháu của Du Câu, Du Ký. Tiêu Phong chỉ bằng một chưởng đã đoạt lấy song thuẫn của cha chú Du Thản Chi, khiến Du thị Song hùng xấu hổ vung đao tự sát. Trong thâm tâm Du Thản Chi vì thế coi Tiêu Phong là kẻ thù lớn nhất trong đời. Về sau ��ối tượng mà y yêu điên rồ – A Tử – lại một lòng đắm đuối “tỷ phu” Tiêu Phong! Từ một kẻ hiền lành, Du Thản Chi bị thiêu đốt bởi ghen tị, oán thù, si mê,… đến mức không còn kiểm soát được hành vi. Không chỉ tâm lý mà bề ngoài của y cũng bị biến tướng khủng khiếp, y chịu đủ thảm hình: da mặt bị đốt cháy, đầu chụp mũ sắt trở thành “thiết sửu,” chân bị đánh gãy, hai con mắt tự móc đi để dâng cho A Tử… Y vĩnh viễn thất bại trong cuộc đấu với Tiêu Phong, đã không có một phần danh vọng và khí độ của chàng, cũng chẳng được A Tử dành cho một chút tình. Du Thản Chi là một A Tu La quái vật, nhưng cũng vô cùng đáng thương.
Mộ Dung Phục được đồn đại là có võ công ngang hàng với Tiêu Phong, thiên hạ vì thế lưu truyền câu “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung,” nhưng thực ra y không có chân tài thực học. Võ công Đấu Chuyển Tinh Di của y chỉ là trò lừa người, khi gặp phải Tiêu Phong lập tức phải chịu lép. Dù sao mục tiêu chính của Mộ Dung Phục cũng không phải đạt ngôi vị đệ nhất võ lâm, mà là khôi phục nhà Đại Yên của dòng họ Mộ Dung. Vì cái đích này mà y sẵn sàng bái kẻ thù làm cha nuôi, giết hại cả thuộc hạ lẫn người nhà, dùng mọi thủ đoạn thu phục nhân tâm…
Giống như A Tu La, Mộ Dung Phục có mỹ nữ bên cạnh (Vương Ngữ Yên), nhưng y hoàn toàn thờ ơ với nàng, chỉ chuyên chú gây dựng cơ đồ. Cuối cùng y bị Tiêu Phong đánh cho đại bại, người thân bỏ đi hết, kế hoạch gây dựng Hậu Yên sụp đổ. Mộ Dung Phục bị chấn động tâm thần hóa điên, trở nên ngây ngây dại dại. Người thế tục tham lam quyền lực, hay thù hận như Mộ Dung Phục gọi là bị lửa A Tu La thiêu đốt. Trong mỗi người chúng ta đều có một phần A Tu La…
Link: http://soi.today/?p=218288
*
Về ‘Thiên long bát bộ’ (phần 3): còn ai là Garuda và ai là Khẩn Na La?
6 – Khẩn Na La:
Khẩn Na La, tên Ấn Độ Kinnara, là một loại thần kỳ diệu: có lúc nửa người nửa ngựa, có lúc nửa người nửa chim, trên đầu thường có sừng. Kinnara có hình dáng lạ lùng, giống người mà không phải người, khiến ai gặp phải đều ngờ vực không yên, nên còn gọi là Nghi thần (tiếng Phạn: Kim – nghi vấn, nara – người).
Cũng như Càn Thát Bà, Khẩn Na La giỏi tài ca múa và thường trổ tài mua vui cho Đế Thích. Nguồn gốc của vị thần này xuất phát từ bộ tộc Kinnara ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn phủ tuyết giăng mây. Người Ấn Độ cho rằng Kinnara là những sinh linh phi thường, đẹp đẽ, bí ẩn, trú ngụ nơi xa xôi kín đáo. Nam thần là Kinnara, nữ thần là Kinnari. Theo thần thoại, Kinnari có khả năng khiến người ta bị rối loạn tâm trí, thích thú đến mê muội, thậm chí còn quyến rũ Phật tăng, phần nào giống như những cô tiên vùng cao có bùa mê làm lạc lối người phàm. Trong sử thi Mahabharata, Kinnara và Kinnari trọn đời sống trong hoan lạc, là đôi tình nhân thần tiên trẻ mãi không già, luôn say đắm bên nhau.
Dựa vào đặc tính trên, có thể nói Khẩn Na La trong Thiên Long Bát Bộ chính là cặp đôi Vô Nhai Tử-Lý Thu Thủy. Hai người này là môn đồ của phái Tiêu Dao, mà phái này chỉ chuyên tuyển chọn những người có tướng mạo cực đẹp. Vô Nhai Tử khi già vẫn phong lưu tiêu sái đến nỗi Hư Trúc thấy tự thẹn mình xấu xí, Lý Thu Thuỷ thì chính là nguyên mẫu của pho tượng ngọc “Thần tiên tỷ tỷ” mà Đoàn Dự say mê. Hai người này “rủ nhau đi trốn” vào động Vô Lượng, xây một tàng thư võ học, cùng nhau sống cuộc đời tiêu dao nhàn nhã. Vô Nhai Tử có khắc trên vách đá “Trong động không ngày tháng, chính cực lạc nhân gian”, làm chàng ngốc Đoàn Dự cảm khái rằng cực lạc trên trời có khi cũng chưa được như hai người bọn họ.
Võ công của phái Tiêu Dao lấy cảm hứng từ thiên Tiêu Dao Du của Trang Tử, khẩu quyết chính là mấy câu “Ở nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở. Da trắng như tuyết, giữ mình như ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương”. Mấy câu này để hình dung loài Khẩn Na La trong thần thoại quả thật vô cùng chính xác. Võ công của phái Tiêu Dao vì thế cũng vô cùng đẹp đẽ phiêu dật, tới mức người của phái Vô Lượng nhìn bóng hai người Vô Nhai Tử – Lý Thu Thuỷ đấu kiếm phản chiếu trên vách đá lại cứ tưởng thần tiên phương nào!
7. Ca Lâu La:
Đại bàng cánh vàng Ca Lâu La là một loại thần cực mạnh trong Thiên Long Bát Bộ. Ca Lâu La là phiên âm từ Garuda của Ấn Độ. Đại bàng này còn có tên gọi Kim Sí Điểu, là vua các loài chim ở núi Tu Di, trong Ấn Độ giáo nó là vật cưỡi của thần Vishnu.
Theo sử thi Mahabharata, Ca Lâu La có mối thù không đội trời chung với Long thần (Naga) vì rắn đã làm hại mẹ của nó. Trên đường đi cứu mẹ, Ca Lâu La được Đế Thích hứa cho dùng loài rồng-rắn làm đồ ăn vĩnh viễn. Mỗi ngày Ca Lâu La phải ăn một con rồng lớn (long vương) hoặc năm trăm con rồng nhỏ. Ngoài ra Ca Lâu La còn nuốt hết những phiền não, ma chướng của con người.
Đại bàng Ca Lâu La có bảo tướng trang nghiêm, sải cánh dài 336 vạn dặm. Tới lúc mệnh tận, trong ruột đầy chất độc do rồng rắn nhả ra, Ca Lâu La liền bay tới đỉnh Kim Cang Luân để tự thiêu, thân mình chỉ còn trái tim xanh biếc.
Quốc sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí chính là hiện thân của đại bàng Ca Lâu La trong truyện. Người này tài cao học rộng, cả Phật pháp lẫn võ thuật đều thông, nhưng mải mê lầm đường rẽ vào ma đạo. Trong suốt chiều dài Thiên Long Bát Bộ, Cưu Ma Trí luôn tìm cách hãm hại, bắt cóc Đoàn Dự (Long thần) với mong muốn trở thành người có võ công đệ nhất thiên hạ. Mưu đồ chính trị của Cưu Ma Trí cũng không hề kém, y muốn dùng ảnh hưởng của mình để kích động cho các nước đánh nhau, nâng vị trí cho nước Thổ Phồn (Tây Tạng ngày nay) trên bản đồ.
Về cuối truyện, những luồng nội lực do Cưu Ma Trí lén luyện Tiểu Vô Tướng Công xung đột lẫn nhau khiến y bị tẩu hoả nhập ma suýt mất mạng, giống như chất độc phát tiết trong người đại bàng Kim Sí Điểu. Những tham vọng, sân si tích tụ trong người Cưu Ma Trí chỉ chờ dịp bùng lên “hoá kiếp” y như ngọn lửa thiêu đốt Ca Lâu La. May mắn cho Cưu Ma Trí, Đoàn Dự hút hết nội lực và cứu sống y, kể từ đó Cưu Ma Trí tỉnh ngộ và chuyên tu Phật pháp.
8. Ma Hầu La Già
Thần rắn Ma Hầu La Già (Mahoraga trong tiếng Ấn Độ) là một con rắn lớn, còn gọi là Đại Mãng Xà hay Địa Long để phân biệt với loài rắn biển Naga. Cũng có khi Ma Hầu La Già được khắc hoạ với hình tượng đầu người mình rắn. Theo kinh Lăng Nghiêm, Ma Hầu La Già “thuộc loại bò sát; vì ngu si độc ác nên tự chiêu mời rắc rối, đần độn vô tri, muốn thoát luân hồi nên đã tu luyện từ bi trí huệ, vãn hồi hậu quả gây ra, thoát được luân hồi”.
Trong Thiên Long Bát Bộ, nhân vật Mộ Dung Bác chính là rắn thần Ma Hầu La Già. Một là tính tình Mộ Dung Bác vô cùng khôn ngoan hiểm độc giống loài rắn thông minh, về mưu mô thủ đoạn thì còn hơn nhiều con trai y Mộ Dung Phục. Y chính là kẻ dàn dựng vụ mai phục ở Nhạn Môn Quan, lừa bao anh hùng chính đạo không chết cũng bị thương, lại hại cả nhà Tiêu Viễn Sơn gây nên tai hoạ dài lâu. Ôm mộng phục quốc, y bèn giả chết trốn vào chùa Thiếu Lâm để học lén 72 tuyệt kĩ Thiếu Lâm Tự. Do không có căn bản nội công nên Mộ Dung Bác bị tổn thương nội tạng rất nặng, quả đúng là “ngu si độc ác”. Về cuối truyện y được nhà sư quét chùa cứu khỏi họa sát thân, nhờ đó lại được khai sáng, trở thành một Phật tử ngoan đạo. Quá trình lột xác của loài rắn là biểu tượng cho sự tái sinh. Mộ Dung Bác cũng hai lần chết đi sống lại – một lần là y giả chết, một lần do nhà sư già đánh cho chết đi để chữa bệnh. Quá trình cứu rỗi và giác ngộ của Mộ Dung Bác chính là giống với loài Ma Hầu La Già.
Kết bài:
Trong kinh của Phật Giáo đại thừa có kể lại khi đức Phật thuyết pháp cho các bồ tát, tì khưu thường có tám loại chúng sinh đến nghe giảng kinh. Kinh Pháp Hoa trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có chép:
Thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ Long Nữ thành Phật. (Trong tám loại chúng sinh trên trời, người cũng như không phải người đều thấy được Long Nữ thành Phật)
Lại có câu “Trời, Rồng, A Tu La, Dạ Xoa Đến nghe Phật Pháp, nên chí Tâm Ủng hộ Phật Pháp mãi trường tồn Mỗi mỗi siêng tu lời Phật dạy”.
Hình ảnh này có lẽ chính là cảm hứng cho Kim Dung viết lên cảnh tượng ở hồi 43, khi vị sư già quét chùa dùng Phật giáo để hóa giải hết những nghiệp chướng của các loài chúng sinh trong truyện:
Vị lão tăng nói:
– Các ngươi muốn xuất gia làm sư thì phải nhờ các vị đại sư chùa Thiếu Lâm thế độ. Ta có mấy lời để cho các ngươi nghe.
Nói xong ngồi xuống thuyết pháp. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục thấy cha mình quì xuống cũng quì theo. Huyền Sinh, Huyền Diệt, Thần Sơn, Đạo Thanh, Ba La Tinh nghe thấy nhà sư nói những lời tinh diệu không khỏi vui mừng, tự nhiên sinh lòng kính ngưỡng, ai nấy đều quì xuống.
Link: http://soi.today/?p=218290
https://npl971975.wordpress.com/2018/08/27/chu-ve-thien-long-bat-bo-tac-gia-anh-nguyen/
47 notes
·
View notes
Text
Tội phạm hoang tưởng
Việc giết người, đối với người bình thường, dó là một tội lỗi. Nhưng đối với bản thân kẻ giết người, đó có thể là một “sứ mệnh thiêng liêng”.
Bài viết được trích và dịch từ Chương 6 của quyển sách Inside the Minds of Serial Killers: Why They Kill của tác giả Katherine Ramsland. Bài viết có thể có từ ngữ, nội dung và hình ảnh gây khó chịu, vui lòng cân nhắc trước khi đọc.
Bài ca chết chóc
Từ tháng mười năm 1972 đến tháng hai năm 1973, một loạt vụ giết người xảy ra quanh Santa Cruz, California. Nạn nhân bao gồm bốn người đi cắm trại (bị giết trong một vụ thảm sát tập thể), một linh mục, một người đàn ông đang đào đất trong vườn, một cô gái đi nhờ xe, một người quen và vợ, và một người mẹ với hai đứa con (cũng bị giết chung). Cảnh sát bắt được hung thủ chỉ vài phút sau khi hắn đã giết nạn nhân thứ mười ba, hắn là Herbert Mullin (một số nguồn ghi là Mullen), 25 tuổi.
Không lâu sau người ta phát hiện hắn đã từng phải nhập viện năm 1969 vì cạo tóc và tự thiêu sau khi nghe những giọng nói nhưng đã được xuất viện. Nhập viện và lại xuất viện, hắn trở thành kẻ lang thang. Theo lời khai, hắn đã dừng sử dụng thuốc kháng thần và sau đó “nghe thấy” một giọng nói thôi thúc hắn giết người. Hắn tin là trái đất “hiểu” tỉ lệ tử đang quá thấp và đang khơi mào thảm họa tự nhiên để khắc phục tình hình. Vì vậy, nhiệm vụ được trao cho Mullin để cứu người dân California khỏi trận siêu động đất có khả năng phá hủy và nhấn chìm cả bang xuống biển. (Có lúc hắn gọi là “lục địa của tôi”.) Hắn có thể làm điều này bằng cách tạo ra “thảm họa nhỏ”. Hắn quyết định “ca bài ca chết chóc” để thuyết phục mười ba người hoặc là tự sát, hoặc là chấp nhận làm vật hy sinh (hắn bảo họ nói chuyện với hắn bằng ngoại cảm). Bằng một con dao, súng trường, súng lục, và gậy bóng chày, hắn tấn công nạn nhân một cách ngẫu nhiên cho đến khi bị cảnh sát bắt được. Được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt hoang tưởng, hắn cho rằng mình vô tội với lý do rối loạn tâm thần. Dù vậy, bồi thẩm đoàn phát hiện ra rằng hắn hoàn toàn tỉnh táo và buộc tội hắn hai điểm ở án giết người cấp độ một và tám điểm ở án giết người cấp độ hai (và một loại khác được thêm vào sau này).
Có rất nhiều kẻ giết người bị loạn tinh thần khi thực hiện hành vi giết người, nhưng hiếm khi tòa tuyên bố hắn vô tội vì lý do mất lý trí. Điều này có thể thấy trong một số vụ án lo ngại bị cáo sau khi được thả có nên bị giam ở bệnh viện tâm thần. Nhưng luật pháp cũng ghi nhận chứng loạn tâm thần, một chứng bệnh tâm lý, không nhất thiết biểu thị mất lý trí. Một người có thể bị ảo tưởng khi gây án nhưng vẫn nhận thức được việc mình làm là sai. Đó là lý do luật sư bào chữa ở cả hai bên đều dựa vào chuyên gia tâm lý để chứng minh bị cáo đang ở trạng thái tâm lý nào khi gây án.
Ý chí phạm tội (mens rea)
Hệ thống luật pháp dựa trên quan điểm con người là những tác nhân lý trí có thể tự do lựa chọn hành động trong đa số sự việc, và vì thế con người phải chịu trách nhiệm và có thể bị trừng phạt. Tuy nhiên, chuyên gia tâm thần khẳng định rằng phần lớn hành vi còn người được quyết định bằng những yếu tố vượt ngoài khả năng điều khiển và nhận thức của họ. Vì vậy, tội trạng có thể được giảm nhẹ ở một mức độ nào đó, chứ không phải hoàn toàn. Mặc dù một người có thể có khách quan tội phạm (actus reus - hành động gây án) họ có thể không sở hữu ý chí phạm tội (mens rea - khả năng có ý định gây án, thừa nhận sai lầm, và biết trước kết cục). Cả hai điều kiện đều cần thiết để quyết định một người có chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Hướng điều tra chủ chốt trong vụ án có liên quan đến rối loạn tâm thần là xác định trạng thái tâm thần của bị cáo tại thời điểm xảy ra vụ án và chứng bệnh tâm thần đó có liên hệ đến hành vi gây án hay không. Quan điểm này có từ thời Hy Lạp, nhưng chính xác hơn, thuật ngữ bị cáo rối loạn tâm thần của Mỹ xuất phát từ một vụ án ở Anh năm 1843. Daniel M’Naghten cảm thấy mình bị quấy rối bởi những điệp viên tưởng tượng và để trả đòn phủ đầu, hắn bắn chết thư ký của Thủ tướng (nhầm tưởng đó là Thủ tướng). Hắn có ý định giết người, nhưng nhận thức của hắn bị hư hỏng nặng đến nỗi tòa phán quyết hắn không biết rằng mình đã làm sai. Đ��p trả dư luận dậy sóng, hội đồng hoàng gia xem xét lại vụ án và lập ra tiêu chuẩn để đánh giá bị cáo có mất lý trí hay không: “tại thời điểm gây án, bị cáo chịu ảnh hưởng của một căn bệnh tâm thần, và không biết bản chất và ý nghĩa của việc mình đang làm, hoặc bị cáo biết việc mình đang làm, nhưng lại không nhận thức được việc đó là sai.” Bệnh tật và khuyết tật đã cướp đi năng lực tự do lựa chọn của một người, và sự trừng trị của pháp luật là không đủ để họ cảm thấy đắn đo.
Tại Mỹ, nhiều năm liền có những cải tổ, bao gồm việc thêm lưu ý rằng dù một người có thể nhận thức được tính chất phạm tội của hành vi, họ vẫn bị thúc ép thực hiện hành vi ấy. Nói cách khác, một người có thể có sự điều khiển sai lệch đối với hành động của mình, điều này có khả năng là do những chứng bệnh tâm lý nhất định. Một số kẻ giết người hàng loạt được bào chữa là hoặc không có khả năng nhận thức hành động sai trái, hoặc không có khả năng điều khiển hành vi. Các chứng rối loạn nhất định thường dẫn đến mất chức năng hoạt động. Trước khi mô tả chúng, hãy so sánh một vụ án được phán là bị cáo bị mất lý trí với một số vụ khác bị cáo không thể thoát tội.
Dị thường
Khi cảnh sát đến một nông trại 195 mẫu bên ngoài Plainfield, Wisconsin vào năm 1957 để nói chuyện với người độc thân lập dị Edward Gein vì nghi ngờ dính líu đến một vụ cướp, hắn không có nhà. Họ nhìn xung quanh và vào nhà bếp ngoài trời, thấy một cái xác mặc đồ được treo lên trần. Khi nhìn kỹ hơn, họ rất sốc khi phát hiện đó là một thi thể phụ nữ không đầu, bị rút nội tạng, treo ngược. Họ tự hỏi liệu người đã chết này có phải là người bán hàng bị mất tích tên Bernice Worden. Họ cũng nghĩ tới ba năm trước có người mất tích tên Mary Hogan, bị bắn và mang đi.
Bên trong nhà, họ phát hiện một cảnh tượng kinh tởm: đệm ghế được làm bằng da người, một hộp chứa bảo quản bộ phận sinh dục nữ, một hộp khác chứa bốn cái mũi phụ nữ, một dây nịt được làm bằng núm vú, một quả tim trong cái túi gần lò nướng, hộp sọ từ một số đầu lâu, ruột trong tủ lạnh, mặt nạ người chết từ chín phụ nữ được bảo quản, một bộ da phụ nữ đầy đủ có cả bộ phận sinh dục, một khuôn mặt có da đầu tóc đen (sau đó được xác định là của Mary Hogan), đầu của Worden ở giữa hai tấm nệm, và một đôi môi treo trên sợi dây. Khi mọi thứ đã được thu thập, có thể thấy Gein, một người sống ẩn dật có vẻ vô hại, cất giữ bộ phận cơ thể của ít nhất mười lăm phụ nữ trong nhà hắn. Hắn cũng làm phòng ngủ của người mẹ quá cố thành một miếu thờ được bảo quản hoàn hảo để tưởng nhớ bà.
Khi bị thẩm tra, Gein sẵn sàng thừa nhận trộm bộ phận cơ thể của xác phụ nữ mới chết từ nghĩa trang suốt mười năm. Hắn cũng đã giết Bernice Worden và Mary Hogan, vì họ có kích thước phù hợp mà hắn cần để làm bộ áo da người (hắn mặc nó để nhảy múa dưới ánh trăng). Hắn có vẻ không nhận thức được việc mình làm là sai. Vụ án kỳ dị này thu hút truyền thông quốc tế, nhất là những ai nghiên cứu tâm lý học tội phạm, và họ cho rằng Gein được nuôi dạy bởi một người mẹ áp bức, đạo đức chủ nghĩa, giờ bà đã chết, sau khi người bố rượu chè và anh trai của hắn chết vài năm trước đó. Bà đã dạy hắn rằng tình dục là một thứ đồi trụy và hư hỏng, “gây ra” sự thiếu cân bằng tâm lý. Vì vậy, hắn trở nên mơ hồ đối với tình dục. Hắn thích đọc sách về giải phẫu người, ăn thịt người, và thí nghiệm Nazi, dùng những cái đầu bị teo để trang trí căn nhà của mình (hắn còn cho trẻ em xem nữa).
Tại phiên điều trần năm 1958, Gein được phán mắc bệnh tâm thần và được đưa vào viện tâm thần vô thời hạn. Mười hai năm trôi qua và hắn được định là đủ khả năng trình tòa vì tội giết Bernice Worden. Thẩm phán Robert Gollmar phán hắn có tội với tội danh giết người cấp độ một, nhưng trong giai đoạn chịu tội, Gein lại được phán vô tội vì lý do mất lý trí và phải nhập viện lần nữa. Năm 1974, hắn trình kiến nghị, cho rằng mình đã bình phục và cần được thả tự do. Kiến nghị của hắn bị bác bỏ. Hắn chết vì suy hô hấp năm 1984 và được chôn bên cạnh mẹ mình.
Peter William Sutcliffe thì không may mắn như vậy. Hắn bị bắt năm 1981 sau sáu năm điều tra ở Anh vì tội giết người dưới cái tên “the Yorkshire Ripper” (Kẻ đồ tể xứ Yorkshire). Vụ án bắt đầu từ những cô gái mại dâm, với những bức thư ký tên “Jack the Ripper” được gửi đến cảnh sát, cùng lời lẽ khiêu khích tương tự. Nhưng những vụ giết người này còn tàn bạo hơn của Red Jack, và ít thường xuyên hơn. Một xác phụ nữ được phát hiện ở Leeds năm 1975 bị đập vào đầu đến chết bằng búa, và bị đâm khắp cổ, ngực, và bộ phận sinh dục mười bốn lần. Một nạn nhân khác được tìm thấy vào ba tháng sau, nhưng phải mất một năm sau thì hắn mới tiếp tục thực hiện bảy vụ giết người trong vòng mười lăm tháng. Tất cả đều bị đánh bằng dùi cui và bị chém. Ở một số vụ, hung thủ cắt xẻ bộ phận sinh dục của nạn nhân, ban đầu nạn nhân là gái mại dâm, nhưng phạm vi nhanh chóng lan rộng ra nữ nhân viên và sinh viên đại học. The Ripper cũng chuyển sang dùng tuốc nơ vít, đâm vào mắt nạn nhân. Có những người sống sót nhưng phải chịu biến dạng cực độ.
Khi được lấy lời khai bởi cảnh sát vì nghi ngờ chèo kéo gái mại dâm, Peter Sutcliffe, 35 tuổi, đã kết hôn, và từng là nhân viên nhà xác, có một cái búa đầu tròn và hai con dao (hắn đã cố giấu chúng trong bụi cỏ). Khi bị thẩm tra bởi Tổ điều tra Vụ án the Ripper, trong vòng mười sáu tiếng hắn thừa nhận thực hiện hai mươi vụ tấn công đâm chém và mười ba vụ giết người. Trong xe tải của hắn, cảnh sát tìm thấy một tờ ghi chú: “Trong xe tải này là một người đàn ông có tài năng thiên phú tiềm ẩn có thể gây chấn động cả đất nước, có năng lực sục sôi có thể lấn át những ai xung quanh.” “Tinh tiết giảm nhẹ án” của hắn dựa trên lời khai rằng giọng nói của Chúa phát ra từ một ngôi mộ mà hắn đào ra lệnh cho hắn phải giết gái mại dâm: Hắn có một “nhiệm vụ thiêng liêng” (và cả một lịch trình trả thù vì bị một người phản bội). Cả hai bên đều đồng tình rằng hắn mắc chứng tâm thần phân li���t hoang tưởng, nhưng tòa vẫn cho rằng hắn hoàn toàn tỉnh táo khi tấn công nạn nhân. Hắn bị khép tội giết người và nhận mức án tù chung thân.
[…]
Rối loạn tâm thần
Bệnh tâm thần cực độ bao gồm những cảm xúc, hành vi, suy nghĩ, niềm tin kỳ dị và nhiễu loạn có thể gây ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của một người trong công việc và các mối quan hệ, thường sẽ cô lập người đó. Ở các dạng nghiêm trọng, nó có thể khiến một người trở nên nguy hiểm đối với người khác và/hoặc với chính bản thân họ. Từ giữa thế kỷ mười chín, tâm thần học đã cố gắng phân loại bệnh tâm thần ở từng người, và điều này đã được chính thức hóa ở một số văn bản […].
Chứng rối loạn tâm thần thường thấy nhất, tâm thần phân liệt (schizophrenia), được xác định dựa trên sự lẫn lộn giữa suy nghĩ và lời nói, đôi lúc trở nên mãn tính. Chứng bệnh này xảy ra đồng đều giữa nam và nữ, và thường là ở độ tuổi mười lăm đến ba mươi lăm. Nghiên cứu cho thấy yếu tố di truyền có ảnh hưởng, một người được di truyền khuynh hướng mắc bệnh có thể bị kích hoạt bởi tác động bên ngoài.
Tâm thần phân liệt thường khiến người bệnh bị ảo tưởng làm nhiễu loạn thực tế của họ. Ví dụ, “Railway Killer” (Kẻ giết người trên đường tàu) Angel Maturino Resendez, 40 tuổi, cho rằng nhiệm vụ của hắn là cưỡng hiếp và giết chín người ở ba bang, vì họ độc ác. Resendez cũng tin là hắn có thể đi lại khi đang ngủ, trở nên vô hình, và thay đổi khí hậu. Hắn nghĩ rằng lý do hắn trốn được cảnh sát trong hai năm là nhờ tốc độ siêu nhiên của mình và sự bảo hộ của Chúa. Hắn bảo chó dò tìm của cảnh sát không muốn chạm trán “thiên thần sói-hổ với diện mạo của một con khủng long”. Bồi thẩm đoàn bác bỏ lời biện hộ mất lý trí của hắn và hắn bị khép tội giết người cấp độ một.
Nghiên cứu cho rằng nguyên nhân của tâm thần phân liệt là dị biệt về hóa học hoặc cấu trúc của não bộ. Những triệu chứng ban đầu bao gồm cảm giác căng thẳng, rối loạn giấc ngủ, và mất đi hứng thú. Ở giai đoạn tồi tệ nhất, con người trải qua ảo tưởng, ảo giác, và rối loạn ngôn ngữ. Một số người mắc bệnh sẽ phát triển khuynh hướng bạo lực, đặc biệt là những ai trải qua ảo giác mệnh lệnh như Mullen và Sutcliffe đã khai.
[…]
Tâm thần phân liệt là chứng bệnh suốt đời chưa có thuốc chữa. Thuốc kháng thần có thể giúp ổn định hóa học não bộ, nhưng phải được sử dụng dưới sự giám sát chặt chẽ. Có rất nhiều vụ án mà hung thủ đã dừng thuốc. Trên thực tế, một số người mắc bệnh tâm thần phân liệt được cho là đủ khả năng thực hiện một số giai đoạn của quá trình phạm tội, bao gồm tự bào chữa. Colin Ferguson, hung thủ của vụ giết người tập thể vào một buổi chiều ở giờ cao điểm tại đường sắt Long Island, là một ví dụ. Một người khác, dù không đến mức độ đó những vẫn muốn tự bào chữa là “Unabomber” Theodore John Kaczynski, người đã giết ba người và làm bị thương hơn hai mươi người khác bằng một loại vụ đánh bom bằng thư từ. Hắn cũng viết một bản tuyên ngôn dài 35,000 chữ chống lại thế giới hiện đại và bị bắt vào năm 1996.
[…]
Một dạng rối loạn tâm thần khác là rối loạn xúc động lưỡng cực (bipolar affective disorder), từng được biết đến với cái tên rối loạn hưng cảm-trầm cảm (manic-depressive disorder). Đó là chứng rối loạn tuần hoàn dựa trên những thay đổi tâm trạng đột ngột từ hưng cảm sang trầm cảm, và người bệnh có thể có những giai đoạn cảm xúc mạnh và năng lượng cao khiến họ cảm thấy siêu nhiên. Họ đi không ngơi nghỉ suốt một quãng thời gian dài, có những suy nghĩ lớn lao, và có thể hoàn thành khối lượng công việc lớn. Tuy nhiên, họ sẽ ngay lập tức chuyển sang trạng thái trầm cảm nghiêm trọng, đôi lúc còn kèm theo ảo giác và ý nghĩ tự tử. Có thể họ nghe thấy những giọng nói ở một trong hai giai đoạn, nhưng ở khoảng giữa hai giai đoạn, họ cảm thấy bình thường.
Là người khác làm
Trong giới chuyên gia sức khỏe tâm thần, việc chẩn đoán chứng rối loạn đa nhân cách (dissociative identity disorder - DID) được ghi trong quyển DSM-IV thay cho tên gọi cũ trước năm 1994 (multiple personality disorder - MPD). Căn bệnh này thường bị nhầm lẫn với tâm thần phân liệt vì có nhân cách bị chia cắt. Ý nghĩa của DID là một người bị phân chia thành nhiều nhân cách khác nhau và hai hoặc nhiều hơn hai nhân cách phụ cùng chia sẻ một cơ thể, mỗi nhân cách có một danh tính riêng và thay phiên điều khiển tính cách và hành vi. Người ta tin rằng đây là kết quả của một chấn thương tâm lý (ngay cả điều này vẫn còn đang được tranh luận), như là lạm dụng tình dục, và thường phát sinh trước năm tuổi. Ở một mức độ nào đó, như một số chuyên gia đã viết, “nhân cách thay thế” trỗi dậy để bảo vệ “nhân cách cốt lõi” trước những cảm xúc quá mãnh liệt. Một số nhân cách thay thế xuất hiện để hình thành những động lực bị cấm.
Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, DID là một phương pháp trị liệu để đối phó với những ký ức bị kìm nén. Chuyên gia chỉ ra rằng ký ức chấn thương không được ghi nhớ vẫn còn có năng lượng để bộc phát thành các triệu chứng như trầm cảm, tê dại, đa cảm, và phản ứng với những kích thích nhất định từ môi trường có thể chạm đến ký ức đó. Đôi lúc còn có cả những hồi tưởng mơ hồ. Những người này có thể “thoát xác”, mất liên hệ với thực tế, bỏ qua những nỗi đau thể xác, và chịu đựng một cơn hoảng loạn bất ngờ. Họ cũng sẽ mắc phải rối loạn ăn uống và một số thói nghiện ngập, và ngược đãi người khác hoặc chính bản thân họ. Nhìn chung, họ gặp vấn đề với chuyện tình cảm và có thể bị rối loạn tình dục và rối loạn giấc ngủ.
Mặc dù tính xác thực của DID vẫn còn gây tranh cãi, rất nhiều tội phạm đã nhìn ra tiềm năng giảm nhẹ tội, và có khi còn thoát được tội. Một số kẻ giết người hàng loạt cho rằng mình có một nhân cách khác trong cơ thể để trốn tránh trách nhiệm. Ví dụ, John Wayne Gacy, người đã giết ba mươi ba chàng trai trẻ dưới tên “Jack Hanley”, một nhân cách thay thế. Sau khi nhận tội và vẽ bản đồ tầng hầm bên dưới căn nhà nơi cất giấu hơn hai mươi nạn nhân, hắn “thoát xác” và giả vờ rằng Hanley đã thực sự vẽ bản đồ. Tuy nhiên, mánh khóe này không thành công và hắn nhanh chóng phải từ bỏ, dựa trên một chẩn đoán tâm thần - ngất xỉu khi uống rượu tạo điều kiện cho một “động lực không thể cưỡng lại” mỗi lần hắn giết người. Điều này cũng không mang lại kết quả tốt đẹp cho hắn.
[…]
Nhắc đến việc làm giả một nhân cách “xấu” khiến hắn giết người, kẻ sát nhân thường được liên hệ nhất là Kenneth Bianchi, thành viên của một nhóm tên là “Hillside Stranglers” (Những kẻ bóp cổ bên sườn đồi). Họ bắt đầu hành động ở Los Angeles vào năm 1977, và trong một vài tháng, chín phụ nữ bị sát hại và vứt xác dọc theo lòng đường bên sườn đồi. Nhân chứng đã nhìn thấy hai người đàn ông cùng với một nạn nhân, nghĩa là có nhiều hơn một hung thủ gây án. Người phụ nữ thứ mười bị bỏ bên trong cốp xe của cô, nhưng phải đến vụ án chết hai mạng người ở Bellevue, Washington, cảnh sát mới có đầy đủ đầu mối dẫn hướng điều tra đến Kenneth Bianchi và em họ của hắn, Angelo Buono.
Khi Bianchi ngồi tù, luật sư bào chữa của hắn nhờ bác sĩ tâm thần John Watkins khám cho hắn. Watkins cho Bianchi vào trạng thái thôi miên, khiến hắn thừa nhận gây ra các vụ giết người và khai ra em họ mình, rồi hắn cho rằng mình bị MPD. Vì hắn giết người dưới tên “Steve Walker”, hắn không có khả năng hầu tòa. Ba chuyên gia khác cũng bị thuyết phục với trường hợp của Bianchi.
Bên công tố đã thuê chuyên gia riêng, bác sĩ Martin Orne, người biết rằng cảnh sát đã điều tra ra “Steve Walker” là tên của một sinh viên đại học mà Bianchi đã trộm danh tính để làm giả quá trình chẩn đoán. Để bẫy hắn, bác sĩ Orne nghĩ ra một kế: ông nói với Bianchi rằng đa số người mắc MPD có nhiều hơn hai nhân cách, và không lâu sau “Billy” xuất hiện. Bianchi cũng giả vờ chạm vào một người giả tưởng không có ở đó, nhưng ảo giác không phải là một triệu chứng, và cơ quan thẩm quyền đã biết rằng Bianchi đang diễn kịch. Dưới sức ép, hắn thừa nhận lừa gạt cảnh sát. Điều này tạo điều kiện cho công tố khép tội hắn với bảy vụ giết người và buộc tội em họ hắn. Năm 1983, tòa kết tội Buono với chín vụ giết người với chín bản án tù chung thân.
Một vấn đề đã nảy sinh tại phiên tòa của Arthur Shawcross, kẻ bị truy tố giết mười phụ nữ ở Rochester, New York, từ 1988 đến 1989. Dù hắn đã thú nhận chi tiết, luật sư bào chữa vẫn biện hộ hắn “vô tội vì lý do mất lý trí”. Để được coi là mất lý trí ở bang New York, Shawcross phải chứng minh tại thời điểm gây án, hắn chịu phải một căn bệnh hoặc tổn thương tâm thần khiến hắn hoặc không biết mình đang làm gì, hoặc không nhận thức được việc mình làm là sai.
Luật sư bào chữa thuê bác sĩ Dorothy Lewis, bác sĩ tâm thần và là chuyên gia về ảnh hưởng của các chứng rối loạn lên hành vi bạo lực. Lewis tin rằng Shawcross gặp chấn thương tâm lý vô cùng nghiêm trọng khi còn bé và mắc chứng động kinh thùy thái dương chưa hoàn thiện làm chặn ký ức. Những cơn động kinh chỉ xảy ra dưới những tình cảnh đặc biệt, như là khi hắn ở một mình với gái mại dâm vào ban đêm. Shawcross hỗ trợ bà bằng cách chấp nhận thôi miên, và bà đã quay phim lại để đưa ra trước tòa. Lewis rất tức giận khi tổ bào chữa không thể lấy được bản quét não mà bà cần để chứng minh vụ án dưới góc độ thần kinh học. Bà cũng không biết rằng một chuyên gia biện hộ khác cũng đã thẩm tra Shawcross cùng lúc đó - điều này có thể đã ảnh hưởng đến những gì Shawcross nói với bà. Vì thế, hy vọng sử dụng hắn làm ví dụ cho lý luận của bà trở nên rắc rối.

Bác sĩ Park Dietz, bên công tố, cho rằng Shawcross mắc chứng rối loạn nhân cách phản xã hội (antisocial personality disorder), không được coi là rối loạn hay tổn thương tâm thần gây cản trở nhận thức. Hắn nhớ đầy đủ các vụ án của mình để cung cấp chi tiết và đầu mối cho cảnh sát tìm ra hai nạn nhân nữa. Hắn cũng đã cố gắng tránh né điều tra và tránh vây bắt, vì vậy hắn biết điều hắn làm là sai và có thể khiến hắn bị bắt giam. Trên thực tế, hắn đã từng ngồi tù vì tội giết người tình dục. Kết thúc phiên tòa dài năm tuần, thầm phán ra quyết định Shawcross hoàn toàn tỉnh táo và khép tội hắn với mười điểm tội giết người cấp độ ha. Hắn nhận mười bản án hai mươi năm tù đến tù chung thân.
Lão Gió
3 notes
·
View notes