Text
TIẾNG CƯỜI TRÊN FACEBOOK

Truyện ngắn Phan Trang Hy
Tôi có dịp vào Sài Gòn. Được gặp lại Tuấn, bạn thân hồi đại học. Được gặp lại bạn thân ở xứ người là quý vô cùng. Vả lại, chân ướt chân ráo từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, không thể không nhờ Tuấn khi tôi không biết đường biết sá ở cái thành phố này, cái thành phố chỉ nghe tên cũng thấy sự năng động, náo nhiệt, không ngủ, cái thành phố vang bóng một thời mang tên Hòn Ngọc Viễn Đông.
Tôi định sẽ thăm anh Nguyên Minh, anh Trương Văn Dân, chị Elena Pucillo Truong, Nguyễn Hòa vcv, Phan Hoàng cùng một số bạn văn. Dự tính, không bằng trời tính. Tôi bỏ lỡ dịp may vì Tuấn đang có sự cố về tình duyên. Tôi vì Tuấn nên không gặp anh chị em văn chương được. Thôi thì, hẹn lại dịp khác. Chỉ xin các anh chị em thông cảm.
Điện thoại rung. Có tin nhắn. Tôi vội mở đọc. Tuấn, bạn tôi, mời tôi uống cà phê. Tôi trả lời là sẽ đến.
Gọi tắc xi. Tôi đứng đợi. Sài Gòn dưới mắt tôi có phần giống ở Đà Nẵng, nhưng có chỗ khác là, ở Sài Gòn có vẻ khoáng đạt và lãng mạn, hào phóng và nhân ái bởi những hàng cây lâu năm, bởi những không gian thoáng đãng, bởi những con người dễ tính, thực tế... Không biết những cảm nhận đó có đúng không. Đang nghĩ vẩn vơ về thành phố hoa lệ này, tôi nghe tiếng còi. Quay lại, chiếc tắc xi đã dừng bên lề, tôi vội mở cửa. Người lái xe còn trẻ, cười lịch sự rồi hỏi:
- Chú đi đâu?
Tôi vội đáp:
- Cho tôi đến quán cà phê Hương Xưa, đường Trần Cao Vân.
- Dạ!
Ngồi trên xe, tôi nhìn hai bên đường. Phố xá nhộn nhịp, người xe nườm nượp qua lại. Xe chạy một lúc rồi quẹo đến ngã tư. Bảng hiệu quán Hương Xưa hiện ra trước mắt tôi. Tài xế cho xe dừng lại. Rồi xuống xe mở cửa để tôi xuống.
Trả tiền cho tài xế xong, tôi bỏ xếp vào túi sau, vuốt lại mái tóc, rồi bước vào quán. Hôm nay, chủ nhật, quán đông thật. Nhìn quanh, cuối cùng, tôi cũng tìm được Tuấn.
Ngồi bên nhau, chúng tôi im lặng. Bản nhạc không lời dịu nhẹ. Hợp với không gian hơi se lạnh. Cái lạnh có lẽ hiếm có ở Sài Gòn nhưng có chút dễ chịu. Tôi lại nhớ cái thời sinh viên. Thèm cà phê vào những ngày cuối tháng mười một. Khi ấy, tôi học ở Huế. Thèm ngồi một mình trong quán. Thèm một hơi thuốc cho ấm lòng. Tôi lại nhớ vu vơ, nhớ cô bạn học cùng lớp thời trung học. Cô ấy tên là Kim Chi. Một thời hoa khôi của lòng tôi. Cô ấy khéo tay lắm. Nào là làm bánh, đủ các loại bánh, từ bánh quê, dân dã, đến các thứ bánh theo công thức của nước ngoài. Tôi cũng được biết cô ấy nấu ăn rất ngon. Cô cũng hát hay nữa. Còn đôi mắt của cô ấy đúng là đôi mắt của người thông minh. Đôi mắt ấy, dù tôi nhắm mắt cũng biết chắc chỉ có cô ấy mới có đôi mắt ấy. Tôi bần thần nhớ tất cả. Rồi, tôi lại quay về với thực tại. Tôi nhìn Tuấn. Quan sát hắn. Tôi thấy hôm nay, hắn có vẻ lạ. Tôi rít một hơi thuốc, rồi nhẹ nói với hắn:
- Cớ sao hôm nay tau thấy mi có vẻ sao sao ấy. Có chuyện gì lạ không?
Hắn cười buồn, rồi xoa xoa bàn tay, miệng lí nhí:
- Chẳng có chuyện chi đâu. Mà thôi, tau đề nghị đừng nói chuyện chi cả! Chúng mình yên để nghe nhạc là được rồi. Mi chiều tau đi.
Tôi gật đầu, nhìn thẳng vào mắt hắn dò xét, nói:
- Được thôi.
Rồi, chúng tôi ngồi im như thế. Thời gian trôi qua theo từng giai điệu của những bản nhạc không lời. Chúng tôi quen như thế từ lâu rồi. Có khi cả buổi, ngồi bên nhau không cần một lời trao đổi, không cần tranh cãi, chỉ có sự im lặng là cũng thú vị rồi. Nhiều người thấy chúng tôi thân thiết như cặp bài trùng, họ thường chọc chúng tôi là đồng tính. Biết họ đùa, nên chúng tôi chẳng lấy làm khó chịu. Chỉ có niềm vui được có bạn là quý lắm rồi.
Chợt điệu nhạc phát ra từ điện thoại của Tuấn. Rồi im bặt. Tôi đoán chắc là tin nhắn. Quả không sai. Lấy điện thoại ra khỏi túi quần, Tuấn làu bàu:
- Chắc quảng cáo nữa đây! – Rồi Tuấn nói tiếp có vẻ bực dọc – Cứ quảng cáo đủ thứ, làm như khách hàng rảnh rỗi và lắm tiền!
Tôi cười ba phải:
- Thôi kệ họ! Hơi mất công chút mà, chẳng chết ai đâu mà sợ! – Tôi nói tiếp – Rứa có tin quảng cáo khuyến mãi mobi không?
- Chẳng phải quảng cáo. Chỉ là tin nhắn của cô bạn.
- Mi có bạn gái? – Tôi ngạc nhiên hỏi.
Chỉ có cái gật đầu của Tuấn. Tôi nhìn kỹ hắn, xem kỹ hắn có bạn gái hồi nào vậy? Chả là trước đây, hắn rất nhát gái. Thấy gái như thấy cọp. Cũng may tại cái tính nhát gái ấy mà hắn được vợ. Cách đây 25 năm, nhiều lần bị bạn bè khích là đã 33, 34 rồi mà chẳng có người yêu. Tôi biết điều ấy và đã khuyên hắn cứ mạnh bạo lên, cứ chai mặt một phen thử coi. Hắn ừ ừ, rồi đâu lại vào đấy, chẳng có tiến triển gì trong chuyện tìm gái gú. Tôi tìm mọi cách để cho hắn có bạn gái. Tôi đã bàn với vợ tôi tìm cách giới thiệu cô bạn thân chưa có người yêu cho hắn. Vợ chồng tôi bàn đi bàn lại, rồi quyết định làm một bữa cơm, rủ hắn và cô bạn ăn cơm tại nhà tôi. Thực lòng, vợ chồng chúng tôi mong làm chim xanh cho hắn và cô bạn của vợ tôi. Cũng may cho chúng tôi, không biết cớ sao hắn lại bén duyên cùng cô bạn. Vợ tôi lên giọng kể công với tôi, nào là vợ biết cách làm mai, nào là vợ khéo xếp đặt cho hắn, chớ mười người như hắn, với cái tính ít nói, dễ gì có bồ, nói chi tới vợ. Tôi chỉ cười, rồi cũng kể công của mình, rồi phân tích chi li cho vợ tôi biết là cô bạn cũng qua tuổi thanh xuân nên họ bén duyên là thường tình của những đôi trai gái đã quá tuổi rạo rực. Thói đời, khi quá lứa, người ta thường chọn người bạn đời hơn là chọn người yêu. Bởi vì thời gian như trêu chọc họ. Họ không có thời gian để mà hẹn hò, để mà quan tâm, lo lắng cho nhau khi sự háo hức đã bắt đầu quay đầu đi xuống. Vả lại, nếu có quan tâm, săn sóc cho nhau thì cũng chỉ vì cái đích là thành vợ thành chồng nên họ vội vội vàng vàng, có khi chưa hiểu hết đối tượng. Đùng một cái, họ đính hôn. Họ cũng được mọi người vui mừng, cùng dự buổi lễ ăn hỏi, hoặc họ bỏ giai đoạn lễ hỏi, chỉ làm lễ cưới. Chỉ có niềm vui của mọi người trong các buổi lễ ấy. Gia đình đằng trai mừng vì thằng con trai dù qua tuổi thanh niên mà được thoát cảnh ế vợ. Cũng thế, nhà gái và người thân, bạn bè của cô ta hí hửng như trúng số độc đắc vì cô gái tránh được kiếp không chồng.
Từ ngày có vợ, Tuấn ít có thời giờ rủ tôi uống cà phê. Nhiều lần, tôi gọi điện, mời hắn, nhưng hắn từ chối. Tôi chỉ thầm trách hắn. Nhưng rồi nghĩ đi, nghĩ lại cần thông cảm cho hắn. Hắn phải đánh nhanh, đánh mạnh để có con chứ! Từ đó, tôi chỉ gọi nói chuyện khi thấy nhớ hắn.
Rồi vì công việc, hắn và vợ phải vào Sài Gòn sinh sống. Tôi nhớ lại hôm tiễn đưa, tôi cầm tay hắn lắc lắc:
- Mi nhớ gọi điện cho tau nghe! Nhớ là khi sinh con phải báo cho tau biết đó.
Hắn cười, tiếng cười pha chút buồn của kẻ sắp phải xa quê:
- Tau sẽ gọi điện mà!
Tôi bắt chặt tay hắn như sợ không còn bắt được nữa.
Tàu chuyển bánh, hai vợ chồng tôi vẫy tay tạm biệt vợ chồng Tuấn…
Đột nhiên, giai điệu của “Love Story” vang lên, kéo tôi về thực tại. Nhìn Tuấn, tôi thấy hắn có vẻ buồn buồn.
Ngày hôm sau, tôi tạm biệt vợ chồng hắn, về lại Đà Nẵng. Chúng tôi hẹn ngày gặp lại. Và chúng tôi đã gặp nhau thường xuyên trên mạng khi facebook phát triển. Chúng tôi thường gửi tin cho nhau qua mạng. Cũng nhờ internet, chúng tôi trao đổi với nhau nhiều chuyện. Kể cả những chuyện riêng tư.
Một hôm, tôi nhận tin nhắn của Tuấn. Hắn tin cho tôi biết hắn viết về chuyện có thực của hắn để dự thi trên tuần báo Gia Đình. Biết tôi có khiếu viết truyện, hắn muốn nhờ tôi xem chuyện hắn viết có được không. Tôi nhận lời xem bài viết của hắn. Hắn lấy làm mừng và gửi bài cho tôi xem để góp ý.
Rồi tôi nhận được bài hắn gửi. Tôi xin ghi ra đây để các bạn cùng tôi góp ý cho hắn.
Khi nghe tin tôi có người yêu chắc mọi người bàng hoàng, sửng sốt. Có vợ, có con sống hạnh phúc, thế mà có thêm người yêu thì quả là họa đến nơi chớ chẳng chơi. Nhưng, có ai hiểu cho tôi? Đến giờ, tôi vẫn không hiểu, sao đã có vợ con rồi mà tôi vẫn yêu thêm. Có phải bản năng thằng đàn ông trong tôi trổi dậy lòng tham lam trong tình yêu? Hay ở người tôi yêu có nét gì đó quyến rũ? Nhiều lúc ngồi một mình nghĩ về cô ấy, tôi cảm thấy sao lòng mình không tự chủ được chính mình?
Có phải tôi là kẻ ngoại tình? Có phải tôi phản bội tình yêu của vợ? Tôi tự nhủ lòng mình đâu dám thế! Trăm ngàn lần không thể!
Ban đầu, hình ảnh cô ấy cũng chỉ là hình ảnh của những lượt đàn bà trên đường sinh tử mà tôi đang qua. Rồi bạn bè chọc ghẹo, cặp đôi, rồi tôi với cô ấy như từ trong sâu thẳm ở cõi mơ hồ nào đó cảm thông nhau. Biết cô ấy có chồng con, thế mà tôi vẫn cứ nghĩ về cô ấy. Còn cô ấy, biết tôi có vợ, vẫn nghĩ về tôi. Dù tâm tưởng như là tri âm, tri kỷ, thế nhưng, chúng tôi vẫn không làm điều xúc phạm đến nhân phẩm của nhau. Cứ y như là cổ tích ấy.
“Thanh ơi! Anh nhớ em quá! Anh mong thấy em. Giờ, em có nhớ anh không? Sao, em nói với anh một lời đi!”. Nằm bên vợ mà tôi vẫn nghĩ về ánh mắt của cô ấy. Tôi có cảm giác mơ hồ hối tiếc sao không gặp cô ấy trước khi tôi có vợ, sao tôi chẳng cùng cô ấy chung sống với nhau? Mỗi lần nghĩ vậy, tôi như thấy một bóng người đang cười chế nhạo tôi: “Này Tuấn, ngươi tiếc điều gì? Sao ngươi không nghĩ mình đang hạnh phúc mà nghĩ đến ảo ảnh của tình yêu ở tận đâu đâu? Ngươi không biết con người ở đời này thường tiếc rẻ những thứ đáng lẽ họ không thể có hay sao? Ta biết cả tim đen của ngươi rồi. Ngươi muốn chứng tỏ ngươi là người đào hoa chứ gì? Ngươi muốn chứng tỏ là kẻ ngon hơn những đàn ông khác chứ gì? Ngươi muốn thả bản ngã của ngươi chạy rông như con chó động đực chứ gì? Ngươi hãy coi chừng những thứ ngươi đang tạo dần bi kịch của đời ngươi đó! Tội nghiệp cho ngươi quá! Giờ ngươi tính thế nào? Ngươi yêu vợ ngươi hay yêu cô ấy? Ngươi trả lời đi!”.
Tôi chỉ thở dài. Tôi đa đoan, tôi chuốc khổ. Tôi biết làm sao đây?
“Tôi già rồi! Tôi biết phận tôi mà! Anh đâu còn thương tôi. Giờ anh có nó rồi. Anh có đoái hoài gì đến tôi. Anh không cần tôi thì anh đi cho khuất mắt tôi. Nếu anh không đi thì để tôi đi. Anh đi đi! Đi cho khuất mắt tôi!”.
Vợ tôi đang hờn giận. Vợ tôi đay nghiến trong cơn ghen tức. Tôi bước ra khỏi nhà. Đường phố đã lên đèn. Tôi bị cuốn vào dòng người đêm. May mà không ai nhìn rõ tôi. May mà tôi không bị chỉ trỏ, làm trò cười cho thiên hạ. Đại khái, nào là tôi là cái thằng dại gái, bị vợ đuổi; nào là có vợ con rồi mà còn ham hố… Nhưng tôi không ngờ có một thằng người khác đang tìm tôi. Đích thị hắn, chồng của cô ấy. Hắn nhếch bộ râu cười vào mũi tôi: “Mày muốn cướp vợ tao à? Mày muốn phá vỡ hạnh phúc của gia đình tao à? – Hắn nắm cổ áo tôi, mắt trừng như muốn nuốt chững tôi – Đâu dễ thế hở? Tao cho mày nếm mùi lễ độ!”. Những cú đấm tới tấp trên mặt tôi. Máu từ miệng tôi; hình như răng tôi gãy thì phải. Tôi gắng gượng, lườm lại hắn. Tôi sợ hắn ư? Hắn cấm tôi yêu cô ấy được ư? Tôi muốn nói điều gí đó với hắn để hắn hiểu, nhưng tôi bị đánh tới tấp. Cơn đau làm tôi lóe lên cái ý nghĩ: Như kẻ lượm được tiền của kẻ khác đánh rơi, mình vui, thì có người khác buồn. Mình có chút hạnh phúc này thì người khác mất chút hạnh phúc khác. Và nếu mình mất của quý, có ai đó lượm được thì họ vui, còn mình buồn. Mình buồn khi có người khác vui. Cái lẽ đời là thế ư? Tôi tự hỏi trong cơn đau. Ý nghĩ đó cứ quay cuồng như muốn làm đầu tôi nứt, tôi hét lên. Mồ hôi ra như tắm. Tôi nghe rõ tiếng vợ tôi: “Anh! Anh sao thế? Em đây mà!”. Tôi mở to mắt. Chỉ màn đêm. Chỉ có bàn tay của vợ nắm tay tôi: “Anh mớ ngủ, làm em hết hồn”.
Tôi thường chở vợ đi sắm hàng vào ngày chủ nhật. Mua sắm hàng trở thành thú vui của vợ tôi. Mỗi lần mua được món hàng gì như thể gia đình tôi được một món hời. Có lần đi mua con dao, không biết nghe quảng cáo thế nào, vợ tôi lại mua thêm cái kéo, dù ở nhà có cả hai cái. Tính phụ nữ hay hay là thế! Dù không cần, nhưng cũng sắm, âu đó cũng là đức tính lo xa của phụ nữ.
Tay xách hàng, vợ tôi cười như được của: “Hôm nay, em sẽ làm món đặc biệt cho cha con anh ăn. Anh thích không?”.
Tôi cười, gật đầu…
Trên đường về, tôi gặp cô ấy đi cùng chồng con. Tôi nghe rõ tiếng cười của gia đình họ.
Đọc những lời Tuấn tâm sự, tôi chỉ biết cười trừ. Tôi chợt nhớ tới cô bạn ngày xưa. Tôi vội lên facebook tìm nụ cười của cô bạn tôi hồi ấy.
Trên facebook, tôi gặp lại đôi mắt ngày xưa. Tôi cũng thấy những hoa, những bánh, những thức ăn cô làm. Thấy cả ba, mợ của cô ấy. Tôi cũng nghe cả tiếng cười của cô ấy trên facebook.
Tiếng cười trên facebook. Tiếng cười của ngày xưa hiển hiện trong tôi.
Tháng 11 – 2013
0 notes
Text
CÀ PHÊ SÁNG VÀ TÔI

Tản văn Phan Trang Hy
Lệ thường, tôi ngồi cà phê buổi sáng. Ngồi cùng những người bạn. Ngồi để tìm chút hương vị ngày mới.
Ngồi nhâm nhi chút đắng ngọt, tôi như thấy mình đang nếm vị cõi đời. Cái mùi vị ấy tôi đã nếm hằng ngày, đã từng mời bè bạn khi gặp nhau, khi có chuyện vui buồn trong cuộc sống. Cái mùi vị cà phê có gì mà tôi không thể bỏ được? Tôi cũng không biết nữa.
Tôi nhìn ra đường. Một vài người già đi bộ chậm rãi. Nhìn những người ấy, tôi mường tượng có chút hình ảnh của Ba Mẹ tôi ngày nào. Tôi như thấy ở họ có dáng vẻ của Ba Mẹ tôi. Và tôi như thấy đó là dáng vẻ của mình nay mai. Nhiều lần tôi thấy dáng vẻ ấy. Cũng nhiều lần, tôi cùng bạn bè ngồi chuyện trò về cái dáng vẻ già nua của mình đang đến. Điều mà chúng tôi đồng điệu là không ai tránh được già và bệnh và xem đó là quy luật cuộc đời. Chúng tôi chép miệng khi có thằng bạn thân gần 10 năm bị bệnh, nằm một chỗ. Không gian di chuyến của nó là cái giường ở nhà và cái giường ở bệnh viện. Đến khi nó ra đi, chúng tôi như tự nói lời an ủi với lòng mình: Cái thân xác hắn không còn đau nữa. Chúng tôi cũng chép miệng khi biết tin một đứa bạn cùng trang lứa bị bệnh ung thư, dù gia đình giàu có, không tiếc tiền, lo thuốc thang đầy đủ, thế nhưng vẫn phải chấp nhận số mệnh, từ giã cõi đời. Và chúng tôi chép miệng là mong một ngày nào đó, nếu chúng tôi có ra đi thì xin Trời Phật thương tình được ra đi nhẹ nhàng để khỏi phiền cho người ở lại.
Cái vị đắng có chút ngòn ngọt của cà phê đưa tôi về với thực tại.
Trước mắt tôi là cô bé trạc tuổi con tôi ngồi ở một góc bên chậu cây cảnh. Dẫu tôi chẳng muốn chú ý đến ai, thế nhưng hình ảnh của cô bé lại đập vào mắt tôi. Thường xuyên, cô ấy uống chai nước ngọt tăng lực vào cái thời điểm đáng lẽ là ăn buổi sáng. Tôi không biết cô ấy tường tận, chỉ biết là cô ấy chưa bao giờ uống cà phê dù đây là quán bán cà phê là chính.
Cũng chừng ấy con người trong quán vào buổi sáng mỗi ngày. Thỉnh thoảng có vài người khách lạ. Nghe giọng nói của họ, tôi biết họ đang đi du lịch, đang tận hưởng những phút giây đầy ý vị của cuộc đời. Để rồi, sau này, họ có cái để nói, để khoe với người thân, bè bạn.
Và rồi cái quán cà phê xuất hiện đứa bé bán vé số. Nó đi từng bàn mời người mua. Không biết nó có linh tính gì mà nó không mời tôi mua. Kể cũng lạ là tôi chưa khi nào được mời mua vé số ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào. Nhìn đứa bé, tôi chỉ biết thương, cái tình thương thường tình, chứ chẳng biết làm gì khác.
Rồi lại xuất hiện người đàn ông bán tăm bông. Bạn tôi ngồi cùng bàn lấy hộp tăm nhãn hiệu Tình thương, rồi gửi tiền cho ông ta. Khi ông ta đi rồi, bạn tôi mới lên tiếng: Mua cho có mua, chứ mình mới mua hôm qua. Nhìn ông ta mời bàn khác, tôi thầm nghĩ: Đáng lẽ với cái tuổi của ông ta thì ông ta đâu phải nhọc nhằn, mưu sinh như vậy. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, mỗi người mỗi hoàn cảnh thì biết làm sao.
Bỗng bên cạnh bàn tôi có tiếng nói oang oang. Một giọng nói của một người đàn ông. Trong lời nói ấy, tôi như thấy đó là giọng nói của một kẻ vừa về hưu. Không muốn nghe cũng không được, bởi giọng nói ấy to, khoẻ. Ông ta nói về những người ở cơ quan ông ta cũng như ở cơ quan khác. Giọng ông ta đầy vẻ đắc ý khi kể về mấy người bị công an bắt vì liên quan đến tham nhũng. Cái giọng ấy nghe như thể rằng ông ta là người "tử tế". Dẫu oang oang, nhưng sau đó là giọng tiếc thương khi nói về ông A, ông B nào đó đã từng chơi đẹp trong những phi vụ làm ăn với những người cùng hội cùng thuyền. Và cũng có cả giọng giận dữ khi ông ta nói về bà X, bà Y không biết điều trong những mối quan hệ cũng như trong công việc.
Tôi cũng nghe ở bàn kia có những tiếng nói về chuyện mua bán nhà đất. Nào là miếng đất đó rẻ. Nào là mảnh đất kia khó bán vì anh em còn tranh chấp. Nào là chuyện bị lật kèo. Nói đến mua bán đất, tôi thực là may mắn. Tôi có sáu đứa em. Thế nhưng, Ba Mẹ tôi trước khi mất đã sang tên cho riêng tôi mảnh đất có nhà trên trăm rưỡi mét vuông. Ba Mẹ tôi chỉ để lại di nguyện cho tôi thực hiện. Bảy năm qua, tôi mong là thực hiện được di nguyện đó. Và tâm nguyện của tôi cũng được Ba Mẹ chấp nhận, Trời Phật thương tình. Tôi đã bán căn nhà và đất được suôn sẻ. Tôi mừng vui và các em tôi cũng mừng vui vì thực hiện được di nguyện của Ba Mẹ. Dù chúng tôi mừng vui nhưng lại ngậm ngùi. Ngậm ngùi vì Ba Mẹ tôi luôn dành tình yêu thương cho con cho cháu. Ngậm ngùi vì thấy mình chưa xứng đáng với tình yêu thương của Ba Mẹ. Ngậm ngùi cũng chẳng là chi khi Ba Mẹ không còn trên cõi đời.
Nhìn ra đường, trước mắt tôi là những chiếc xe. Những chiếc xe chở khách du lịch chậm rãi tìm chỗ đậu. Những chiếc xe chở những đứa trẻ đến trường. Những chiếc xe chở hàng, những chiếc xe máy của những người trẻ là shipper. Và đằng kia là chiếc xe tang đang di quan. Tôi như thấy những chiếc xe đang chở niềm vui nỗi lo của kiếp người trong ngày mới.
Và tôi nói lời tạm biệt với người bạn cùng bàn.
Tôi dắt xe ra khỏi quán.
Một ngày mới của tôi bắt đầu.
Tháng 8/2024
P.T.H
1 note
·
View note
Text
MỒ HÔI CÒN MẶN THÁNG NGÀY
MỒ HÔI CÒN MẶN THÁNG NGÀY
Tạp bút Phan Trang Hy

Mồ hôi ơi! Mồ hôi tháng ngày có còn mặn? Mồ hôi có vui buồn theo nhịp tử sinh?
Nhọc nhằn tháng ngày, mồ hôi người phu thấm ướt những vữa hồ dựng xây cao ốc, thấm nỗi khắc khoải trên những vỉa hè, trên những ngôi mộ trong nghĩa trang. Ướt sũng trên gương mặt sạm đen, ướt đầm trên lưng gầy cần lao, mồ hôi bốc hơi giữa ngày nắng nóng, như khóc giữa mùa bão giông.
Có mồ hôi trong từng kiếp sống. Có mồ hôi của kẻ bần cùng tìm ăn từng bữa. Có mồ hôi trẻ nhỏ bới tìm trên bãi rác những thứ thiên hạ bỏ đi. Có mồ hôi lênh đênh trên biển đi tìm nguồn sống. Có mồ hôi của những người lính trẻ luyện tập trên thao trường.
Mồ hôi ơi! Cuộc đời chẳng là gì nếu mồ hôi không đồng hành cùng mọi kiếp nhân sinh. Mồ hôi mặn nhưng đẹp lung linh, lấm tấm rạng ngời ánh mắt cười vui của gái xuân thì chăm làm, của chàng trai lo toan cuộc sống.
Tôi nhớ mồ hôi của học trò tôi trong những lần cắm trại. Mồ hôi đổ trong những trò chơi. Mồ hôi đổ trong đêm lửa trại. Cũng thứ mồ hôi ấy lại đổ trong những giờ lao động công ích, trong những lần dã ngoại, trong những dịp diễn văn nghệ mừng Xuân.
Tôi lại nhớ mồ hôi của mẹ tôi thuở nào. Mồ hôi của mẹ trong nồi canh nấu vội để cả gia đình có bữa cơm ngon. Mồ hôi của mẹ trong chén chè bột lọc thanh đượm vị gừng thơm cho tuổi thơ chúng tôi ngọt lịm. Mồ hôi của mẹ tất bật sớm hôm thành áo quần, sách vở cho con cái nên người. Mồ hôi của mẹ vào những ngày giỗ, ngày Tết ngày nào giờ tan biến vào hư không, vẽ nên ký ức đâu dễ gì quên được trong tôi. Và tôi không thể quên mồ hôi của ba tôi trong những ngày hè mở lớp dạy thêm, những ngày đáng ra ba tôi đi du lịch đó đây, những ngày đáng ra ba tôi nghỉ ngơi qua chín tháng miệt mài dạy học. Và tôi lại nhớ gương mặt lấm tấm mồ hôi của cô bạn cùng lớp ngày nào khi tập diễu hành trong dịp hội thao ở sân vận động Chi Lăng. Tôi như thấy mồ hôi trên má cô ấy khi tập văn nghệ chuẩn bị cho Đại hội trường Nữ Trung học Hồng Đức. Và suốt đời, tôi quen mùi mồ hôi của vợ. Tôi quen mùi mồ hôi ấy trong những lần gói, nấu bánh tét cuối năm hay những khi cô ấy đúc bánh xèo, hoặc làm bữa mì Quảng cho cả gia đình sum họp trong những ngày Chủ Nhật có con cháu vui vầy. Những lúc ấy, đôi khi tôi lấy khăn lau chút mồ hôi trên trán của vợ. Và hơn bao giờ hết là những lần vợ tôi bị cảm, cô ấy xông, mồ hôi ra như tắm. Tôi lau khô mồ hôi ấy. Không biết mồ hôi ra, hay do tôi lau mà vợ tôi bớt cảm?
Riêng tôi, mồ hôi vẫn đổ. Đó là lúc tôi thấy con thú đội mũ màu đỏ đánh nhau với ngư dân trên biển Đông. Thấy cảnh dân tình hỗn loạn, chạy trốn cảnh đạn bom. Tôi cũng chạy. Tôi cong đầu chạy lên núi. Đột nhiên, tôi như đang rơi xuống vực. Tôi giật mình toát mồ hôi. Thì ra tôi đang mơ. Cũng có lúc tôi lo lắng việc gì đó, hay khi xấu hổ, mồ hôi lại toát ra. Và tôi nhớ nhiều lần mồ hôi tôi chảy giữa cái nắng trưa, khi tôi kéo xe bò chở hàng thuê trong những năm khốn khó. Hoặc những lần chấm thi lớp 10 hay ngồi viết truyện trong lúc nóng nực, tôi cũng đổ mồ hôi. Mồ hôi tôi vẫn theo tôi bao ngày bao tháng. Tôi cảm thấy vui vui khi mồ hôi còn trên da thịt.
Trước mắt tôi là nụ cười vui của những công nhân có việc làm dù mồ hôi có đổ. Trước mắt tôi là những pha bóng của những cầu thủ trên người ướt đẫm mồ hôi. Trước mắt tôi còn biết bao người đổ mồ hôi, không quản nhọc nhằn, gian khó để làm nên bao điều hữu ích cho đời.
Mồ hôi đổ để có thành quả là hạnh phúc, không thành quả là buồn đau. Nhưng muôn đời mồ hôi vẫn mặn. Tôi nghe bên tai có lời nhắc nhở: "Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về với bụi đất.” (Sáng Thế 3:19).
Biết là vậy. Biết để thấy mồ hôi đổ đâu có uổng phí, bởi mồ hôi còn mặn tháng ngày trên da thịt tôi, trên da thịt những người thân yêu của tôi và trên da thịt bạn. Mồ hôi đổ để lúa kết tinh thành hạt ngọc của đất trời. Mồ hôi đổ cho cây trái bốn mùa dậy men, cho vườn rau xanh mướt khi mưa lành lúc nắng ngọt. Mồ hôi đổ theo những công trình khắp mọi nơi trên đất nước. Mồ hôi đổ để biến đảo Tổ quốc trường tồn. Mồ hôi chất chứa hy vọng, niềm vui của ngày mai hạnh phúc bao người.
Mồ hôi ơi! Trong tôi, mồ hôi còn mặn tháng ngày.
Tháng 5/2023
P.T.H
0 notes
Text
Một thời Đông Giang

(Ảnh sưu tầm)
Tùy bút của Phan Trang Hy
Trường tôi tròn 50 tuổi. Tôi tuổi gần 60, cái tuổi hiểu rõ thời khắc “60 năm cuộc đời” (Y Vân), cái tuổi nghe đâu cũng thuận. Dẫu tôi có trăm tuổi, có ngàn tuổi đi nữa, thì tôi cũng chẳng là gì trước cái vô cùng của trường tôi, Đông Giang – Hoàng Hoa Thám. Một thời hoa niên, tôi cùng bạn bè, dưới sự dìu dắt, dạy dỗ của thầy cô. Một thời ở đó có những vui buồn, non dại của tuổi học trò. Một thời ở đó có những ước mơ mà bạn bè tôi và tôi đã dệt.
Tôi quên sao được gió cát mù trời giữa nắng An Hải. Tôi quên sao được nắng gợn sóng nóng đến ghê người khi mùa hè đến. Tôi cũng không thể nào quên những cơn mưa kèm theo gió bấc làm tái môi lũ chúng tôi ngày ấy. Và rồi, chúng tôi lớn lên từ ngôi trường nửa phố nửa quê thuở nọ. Trong tôi còn nhớ mãi một thời Đông Giang.
Này là thầy Hiệu trưởng, người mà thế hệ chúng tôi khi nói về chuyện học ngày xưa, chúng tôi thường nhắc đến tên Thầy. Xin phép Thầy cho con được phép ghi cả tên họ của Thầy như là lời nhắn cho thế hệ mai sau, rằng, có một người Hiệu trưởng đầu tiên của trường Đông Giang là thầy Lâm Sĩ Hồng. Chúng tôi đâu quên được những lần thầy dạy chúng tôi. Thầy đã gợi mở cho chúng tôi về điều hay lẽ thật ở đời.
Còn đây là thầy Bang – thầy Tổng giám thị – với gương mặt cương nghị, với đôi mắt sáng, làn da hơi ngăm, luôn gây ấn tượng với chúng tôi trong những bài dạy Vật lý. Chúng tôi vừa thương vừa sợ Thầy. Nhưng thương thì nhiều hơn sợ.
Này là thầy Hiếu. Xin thầy cho em nêu những nghĩ suy của mình về Thầy khi đó. Có lẽ Thầy là người khó tính? Giờ, nghĩ lại có thể chính sự khó tính ấy đã giúp chúng em khôn lớn. Nghĩ đến Thầy, em lại nghĩ đến thầy Lương. Thầy cũng là người mẫu mực, khuôn phép. Lúc bấy giờ, chúng em bao vở, nếu không cẩn thận thì Thầy không vừa lòng. Giờ, ngẫm lại, thấy Thầy có lý của Thầy. Tất cả cũng muốn chúng em giản đơn mà tránh xuề xòa, kệch cỡm.
Và thầy Vân, tôi nào quên được. Một con người miệng nói tay làm, một con người xông xáo, dân dã - Thầy là tấm gương về sự nhiệt thành. Chiếc xe Gobel Thầy cỡi như một minh chứng rằng Thầy luôn thanh bạch.
Còn đây là thầy Bạn. Được học Anh văn năm lớp 8, tôi phục Thầy chi lạ! Ở Thầy có chút chịu chơi, có chút lãng tử của người con đất Đại Lộc. Xuân 2012, hôm Thầy về Đà Nẵng, tôi may mắn gặp Thầy. Vẫn dáng dấp của kẻ “hào hoa”, tôi đã nói với Thầy như thế.
Còn thầy Phó, một huynh trưởng, một người luôn gắn với phong trào, gắn với tình cảm thầy trò. Khởi sắc cho Đông Giang có một phần của Thầy. Tinh thần hướng đạo mà Thầy gieo đã sống ở vùng đất cát An Hải này theo thời gian, nhất là các bạn khóa 6, khóa 7… Còn đây, thầy Thành trầm tĩnh, mẫu mực thấm nhuần tư tưởng Tam giáo đồng nguyên.
Còn cô Khanh, dáng cao cao. Trong mắt tôi, Cô trẻ mà nghiêm làm sao. Cô là hình ảnh ngưỡng mộ của lũ học trò chúng tôi khi ấy.
Còn cô Nhi dịu dàng, kín đáo. Có dáng gầy gầy của cô gái Huế. Tôi như thấy lúc nào Cô cũng ngậm thuốc chống viêm họng.
Còn nhiều thầy cô nữa. Tất cả đã cho tôi nên người, tôi nào kể hết!...
Và các bạn trong lớp tôi, trên dưới 50 gương mặt. Có người tôi còn nhớ, có người tôi đã quên. Nhưng tất cả để lại trong tôi kỷ niệm đầy thân ái. May mà ở Đà Nẵng, tôi còn gặp một số bạn ngày xưa. Riêng tôi, thường xuyên gặp thằng Nguyễn Anh, trưởng lớp của chúng tôi từ năm 1967 đến năm 1971. Chúng tôi uống cà phê, nhắc lại kỷ niệm thuở học trò. Này là Đoàn Xuân Mỹ, đa tài, học giỏi, ít nói; này là Lê Tấn Khanh (nay đã mất) là cây toán của lớp; này là Ba “chuồn”, một cây vọng cổ; một Đình Phương, tay măngđôlin; một Xô (đã mất), giọng ca boléro; một Phan Phú A (đã mất), cây bóng chuyền; một Diệu Thuấn dịu dàng; một Loan bộc trực; một Kim Chi làm cho tôi khó nói... Và còn đây những bạn của tôi: chị Ba, chị Năm, Thân Thị Bay, Kim Sơn, Hạnh, Đỗ Thị Hòa, Trang, Kim, Nguyệt, Tú, Thu… Còn đây nữa là Xuân Thành, Văn Quận, Viết Lượng, Văn Tác, Đức, Trung, Minh, Hiệp Hòa, Cảnh, Giả, Tề, Phượng, Chánh, Hạc… Và biết bao người nữa tôi không thể kể hết ra đây.
Tôi mãi nhớ về tuổi học trò, nhớ về Đông Giang – Hoàng Hoa Thám, nơi ấy có hình ảnh khó nói nên lời mãi đọng trong tôi. Tôi nhớ đến một người để nhớ mọi người như lời bài hát của Trịnh Công Sơn.
Phan Trang Hy
0 notes
Text
CHÚT TÌNH CÙNG QUÁN VĂN

Tạp bút Phan Trang Hy
Tạp chí Quán Văn là một tạp chí văn học phong phú, đa dạng, không phân biệt vùng miền, tuổi tác, không phân biệt trong nước, ngoài nước. Tất cả vì một dòng chảy chữ nghĩa, chắt lọc những tư tưởng, tình cảm, mong ước của từng người viết. Một Quán Văn đủ đầy giọng điệu, thành bản hoà âm của bao người viết mang hơi thở từ quá khứ đến tương lai giữa muôn trùng thời khắc, giữa hữu hạn và vô cùng.
Và giữa hữu hạn và vô cùng ấy tưởng như không thể gặp nhau mà lại gặp nhau. Bởi đời người thì hữu hạn, song mong ước thì vô cùng. Lấy cái hữu hạn để thực hiện cái vô cùng quả là khó. Khó nhưng không phải không được. Khi niềm đam mê bùng phát trong hơi thở, trong nhịp đập con tim, trong nghĩ suy về chính mình, về những con người chung quanh, thì mong ước có thể trở thành hiện thực. Trong chừng mực nào đó, cái hữu hạn gặp cái vô cùng. Quả thật, đó là trường hợp mong ước của những người thực hiện tạp chí Quán Văn thành hiện thực. 12 năm được 100 số phát hành, đó là mong ước, là hiện thực, là sự gặp giữa vô cùng với hữu hạn. Và điều đó trở thành niềm vui không của riêng ai. Niềm vui đó là niềm vui chung của người viết cùng bạn đọc khi Quán Văn đạt thành quả ấy. Nhìn lại thành quả đang hiện hữu trước mắt, thành quả trên bàn tay, thành quả đọng trong tim, ai cũng nở nụ mừng vui trên ánh mắt, bàn chân, trên câu hát hát chào Quán Văn tròn 12 năm cùng 100 số. Mừng vui bởi mong ước ấy cách đây 12 năm được thai nghén và hình thành. Những ngày đầu gian nan, khó khăn đủ thứ. Thế nhưng, thời gian trôi đi để rồi Quán Văn chạm mốc 100 số được phát hành đến cùng bạn văn, bạn đọc.
Này là những số về những con người đam mê văn chương. Nỗi đam mê văn chương ấy có từ thuở thiếu thời đã từng gắn bó với Ý Thức một thời và giờ gắn bó với Quán Văn. Đó là Nguyên Minh, chủ biên của Quán Văn, mê văn chương đến nỗi quên cả lời hẹn cùng người yêu, để rồi tủi thân, nước mắt rơi ngon lành khi thoáng nghe lời ca trong bài hát "Anh còn nợ em" (thơ Phạm Thành Tài, nhạc Anh Bằng). Đó là Lữ Quỳnh, Lữ Kiều tài hoa trên nhiều lĩnh vực, phong độ trên những câu chữ như thể là người không có tuổi già. Đó còn là Đỗ Hồng Ngọc có nụ cười thơ ngộ lẽ đời với những trang viết hiền như bụt giữa đời thường.
Vui cùng Quán Văn, tôi còn bắt gặp một Nguyên Cẩn với ngòi bút tinh thông như nước, như lửa, như gió, như sấm sét, như đất vẽ nên nụ cười sảng khoái bên đời. Bên cạnh đó không thể không nhắc đến đôi vợ chồng nhà văn Trương Văn Dân và Elena Pucillo Truong với những tác phẩm đậm chất văn học Ý, văn học phương Tây hoà quyện chất văn học Việt Nam, văn học phương Đông.
Tôi còn bắt gặp những số viết về những dòng sông như sông Hương, sông Hàn, sông Sài Gòn, sông Potomac... Những dòng sông mang phù sa, mang con nước ngọt lành đổ ra biển lớn, có khác chi những tác phẩm mang nội dung, hình thức dâng tặng cho đời. Tất cả những số viết về những dòng sông ấy như hiện hữu cùng thời gian trên trang viết với sự cẩn trọng, công phu của từng tác giả.
Vui cùng Quán Văn, tôi không thể quên những ngày cùng các tác giả và bằng hữu có những chuyến đi khắp mọi miền. Một miền Tây nước Việt đầy ắp màu xanh của cây trái, kinh rạch, đầy ắp ánh mắt hiền, thân thiện của con người nơi đây. Một Phan Thiết nắng gió mặn nồng vị biển miền Trung, có cả tiếng lòng cư dân Chàm qua cây trái ngọt lành trên cát. Một Sài Gòn tất bật bao phận người vẫn hào hoa đón mừng bao bạn bè trong quán cà phê, trong những bữa cơm thân mật. Một Huế cổ kính, thanh lịch, với núi sông trầm mặc mà vẫn chân chất, dịu dàng qua cái bánh bèo, bánh bột lọc. Một Đà Nẵng đầy tình thân thiệt thà trên núi Sơn Trà vui cùng cây cỏ, cùng voọc chà vá chân nâu...
Vui cùng Quán Văn tròn 12 năm với 100 số, tôi nào quên được các tác giả như Hiếu Tân, Lê Ký Thương, Đoàn Văn Khánh, Nguyễn Minh Nữu, Hồ Sĩ Bình, Nguyễn An Bình, Hoàng Kim Oanh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thị Liên Tâm, Nguyễn Quang Chơn, Trần Thị Trúc Hạ, Ban Mai, Mã Lam, Đặng Châu Long, Hoài Huyền Thanh, Dung Thị Vân, Nguyễn Châu, Lương Minh, Quang Đặng ...
Vui cùng Quán Văn, không thể không nhắc nhớ những tiếng hát, tiếng đàn của những người yêu âm nhạc như Đoàn Đình Thạch, Đình An, Ngô Thị Mỹ Lệ, An Thảo, Quách Mạnh Kha... và cùng anh chị em khác trong những lần ra mắt Quán Văn.
Vui cùng Quán Văn, tôi nào quên được những lần phát hành. Tạp chí thành hình hài, thành sản phẩm nhưng đến với bạn đọc ngày một không dễ. Bởi lẽ, thời buổi hiện nay có nhiều phương tiện để người đọc tiếp cận với văn chương. Sách điện tử cùng các trang mạng văn chương trên Internet. Người đọc có quyền lựa chọn phương tiện để thể hiện niềm yêu thích văn chương. Do thế, tôi cũng có lúc buồn lo cho việc phát hành Quán Văn từng số bởi bạn đọc viện cớ bận làm ăn, bận chăm con, chăm cháu, rồi lơ dần việc đọc, không mặn mà với văn chương và nói lời từ chối mỗi khi tôi đem tạp chí đến chào mời.
Cũng may là những người yêu Quán Văn kể cả người viết và bạn đọc vẫn đồng hành cùng Quán Văn, cùng nắm tay nhau, cùng hát những bản tình ca, cùng góp công, góp của, cùng vỗ tay mừng mỗi khi Quán Văn ra mắt.
Với tôi, 12 năm với 100 số không chỉ làm nên tên tuổi của Quán Văn mà còn khẳng định một Quán Văn có những bài viết văn chương chất lượng trường tồn cùng thời gian trong dòng chảy Văn học Việt Nam.
Tháng 10/2023
P.T.H
0 notes
Text
Nối nụ tin yêu

Tản văn của Phan Trang Hy
Những ngày cuối tháng Ba, giòng sông Hàn khẩn trương những giai điệu rộn ràng của trời xuân Đà Nẵng. Những bụi mù, những khói dầu, những tiếng động, những giọt mồ hôi, những bữa cơm ăn vội… cũng không làm mệt những người thợ đang làm nốt những việc để hoàn thiện những chiếc cầu nối hai bờ giòng sông giữa lòng thành phố.
Xưa phố bên sông. Giờ sông giữa phố. Và, giờ sông đẹp thêm nhờ những chiếc cầu.
Đã qua những ngày vui khi Cầu Sông Hàn nối lòng người Đà Nẵng lại với nhau. Nối lòng người Quảng Nam - Đà Nẵng lại với nhau. Mừng Cầu Sông Hàn những người con Đất Quảng từ Tiên Phước, Hiên, Giằng đến Duy Xuyên, Đại Lộc, từ Chu Lai, Thăng Bình đến Cửa Đại, Điện Bàn, từ Hà Nội, Hải Phòng đến Sài Gòn, Đất Mũi… cũng về chung vui. Những người con Quảng Nam, Đà Nẵng nối tình anh em ruột thịt của Vu Gia, Thu Bồn, của Bà Nà, Non Nước… bên giòng sông quê Mẹ.
Rồi những chiếc cầu mới nối tiếp, những chiếc cầu nối đôi bờ giòng sông Hàn chảy ra Biển Đông. Ch��t trong tôi vang lên lời ca của một ai đó: Cầu này cầu ái, cầu ân…Có phải những chiếc cầu trên sông Hàn là cầu ái, cầu ân? Tôi không nghĩ chữ ái ân của chuyện vợ chồng, của những người bạn tình khác giới. Tôi đang nghĩ đến chữ ái, chữ ân trong lời ca ái tử, trong nỗi lòng ái quốc, trong ân tình, ân nghĩa thủy chung.
Và trong tôi vang lên lời ca Nhịp cầu nối những bờ vui. Lời bài hát ngày nào vẫn như vang trong từng con phố, như thấm trên từng cây lá hai bờ sông Hàn, như lung linh, nhảy múa trên những đèn trang trí, như rộn ràng khúc nhạc biến tấu của giai điệu đường phố trên đường Bạch Đằng, như cánh diều trên bãi biển Mỹ Khê, như những nụ cười rạng rỡ dưới những màn pháo hoa kỳ thú…
Nhịp cầu nối những bờ vui và những chiếc cầu nối những những bờ vui. Nối cả niềm tin yêu, nối cả gương mặt của tiền nhân với con cháu, nối cả đất liền với biển đảo, nối truyền thống Diên Hồng, Chi Lăng, Đống Đa với Phú Lâm, Gạc Ma. Trong tôi hiện lên điều ước. Ước gì có ngày nào đó, chiếc Cầu Rồng hướng ra Biển Đông có phép thần vươn mình ra tới tận Hoàng Sa, nối bán đảo Sơn Trà với quần đảo Cát Vàng, để Hoàng Sa mãi là của Việt Nam như trong sử sách.
Cách Cầu Rồng về phía Nam không xa là chiếc cầu mang hình dáng chiếc thuyền với cánh buồm duyên dáng. Tôi ước cánh buồm đó nối những chuyến tàu từ Đà Nẵng tới mọi miền của Tổ quốc. Nối Đà Nẵng với Trường Sa, Côn Sơn, Phú Quốc, Bạch Long Vĩ, Hạ Long, Cồn Cỏ… Nối Đà Nẵng với biết bao cảng trên khắp hành tinh này.
Tôi tin Rồng và cánh buồm nối khí thiêng dân tộc đến với con cháu Quảng Nam - Đà Nẵng hôm nay, nối anh linh tiền nhân đến với thế hệ mai sau bằng niềm tin và nghị lực, bằng sự yêu thương, hóa giải của mọi con dân nước Việt.
Trong tôi, những chiếc cầu trên sông Hàn như nối đêm với ngày, như nối tình yêu, ân nghĩa, nối khát vọng lớn lao, nối lòng bao dung, đạo làm người, nối bao điều tốt đẹp đến với cuộc sống hôm nay. Tôi tin chắc một điều là lòng người Quảng Nam - Đà Nẵng nối kết thành một khối vì thành phố của mình. Lòng người Đất Quảng cũng mong kết nối với đồng bào mình đang làm ăn, sinh sống khắp năm châu, cùng với bạn bè chân tình trên thế giới.
Trong tôi rộn lên lời bài hát: Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta…
Tôi đứng ở hữu ngạn sông Hàn nhìn những chiếc cầu như nối nụ tin yêu ngày mới.
Đà Nẵng, tháng Ba - 2013
Phan Trang Hy
0 notes
Text
BẤT CHỢT TRONG TÔI
Tùy bút Phan Trang Hy
BẤT CHỢT TRONG TÔI

Bất chợt cơn mưa bên cửa sổ, ngồi trong quán cà phê gần trường, tôi nghe lời bài hát Nhớ mùa Thu Hà Nội của Trịnh Công Sơn.
Rồi, bất chợt nắng ngọt tràn về, tôi như nghe lời thầy cô giảng thuở nọ. Tôi làm sao quên được ấm lời giảng Kiều của thầy Hồng hiệu trưởng, ngọt lời đọc thơ của cô Khanh, lời ví von giảng trong giờ vật lý của thầy Bang tổng giám thị, sôi nổi tài hoa của thầy Bạn trong giờ Việt văn, tỉ mỉ khắc nghiêm của thầy Lương trong giờ Vạn vật, bi hùng lời của thầy Hiếu trong giờ Lịch sử, chân chất trung thực của thầy Vân trong giờ Anh văn…
Tôi nhớ đến các bạn học cùng lớp ở Đông Giang ngày ấy. Tôi nhớ khi cắm trại ở Nam Ô, vui ơi là vui!... Tôi cũng nhớ từng tổ thi đua làm “bích báo”. Đứa nào đứa nấy đều muốn viết bài thật hay, đều muốn tỏ bày tình cảm với trường, với lớp. Trong tôi vẫn nhớ những lần tập văn nghệ, ai ai cũng muốn thể hiện mình qua những lời ca, điệu múa. Biết bao kỷ niệm về bạn cùng lớp, tôi nào kể hết…
Đôi khi ngang qua trường cũ, thấy các em vẫn áo trắng tan trường, tôi nghe lòng trĩu nặng. Áo trắng học trò dễ thương đến lạ! Dài bay bay nhẹ nhàng mang hương trời Đông Giang – Hoàng Hoa Thám, mang tình yêu, nỗi nhớ của bao thế hệ. Và trong tôi, thoáng thấy hình bóng của ai kia như vẫn đang đâu đây trong cõi trời An Hải, như trêu chọc tình tôi thuở học trò ngu ngơ, vụng dại.
Tôi nào quên được, bất chợt thấy đôi mắt diệu kỳ, đôi mắt to tròn và sáng của em nhìn những ai trong lứa bạn bè ngày ấy? Không biết khi ấy, em có nhìn, có nghĩ đến tôi không?...
Bất chợt đi trên đường Lê Lợi, tôi nhớ lại, khi học xong lớp 9, bọn chúng tôi chuyển qua học ở phố, con trai học ở Phan Châu Trinh, con gái học ở Nữ Trung học Hồng Đức. Từ đó, trong lòng tôi có những 3 trường: Đông Giang, Hồng Đức, Phan Châu Trinh. Một thời mến thương, tôi nào quên được!
Và rồi, tôi và em liên lạc qua Facebook, chỉ đọc tin của nhau, chỉ biết chúc mừng nhau khi em có món ngon, hoặc chưng bình hoa khoe cùng bè bạn. Chỉ thầm tự hào khi em viết truyện ngắn đăng trên trang nutrunghocdn.com. Đôi khi, tôi bắt gặp nỗi lo toan của em, lòng tôi tự nhủ thầm chỉ biết cầu mong em an bình.
Bất chợt nhận tin nhắn qua Messenger là em từ Fresno, California về dự họp mặt Nữ Trung học Hồng Đức ở Đà Nẵng, nhân tiện nhờ tôi mời các bạn thời học Đông Giang chuyện trò, hàn huyên. Tôi nhận lời. Và bọn chúng tôi có một buổi ấm tình thời niên thiếu. Riêng tôi và em, chỉ cười, chẳng biết nói chi.
May cho tôi, khi em có nhã ý mời tôi viết bài về tuổi học trò để đăng trên đặc san VỀ BÊN NHAU của Nữ Trung học Hồng Đức ở hải ngoại. Tôi có dịp nói thực lòng mình với em qua truyện ngắn “Bức thư thời áo trắng”. Tôi rất vui là em có biên tập lại. Khi truyện được in, em có tin cho tôi. Và tôi thật sự bất ngờ là em Nguyễn Anh Trinh, đồng môn của em, chọ tôi biết là chuyện của tôi và em được truyền trên khắp thế giới rồi. Tôi chỉ mừng như đứa học trò nhỏ thuở nào khi bị lỗi mà được mọi người tha thứ!
Bất chợt, bạn bè tôi thời sinh viên - lớp Kinh thương, Đại học Cộng Đồng Quảng Đà (đây là Viện Đại học thành lập vào năm 1974 tại Đà Nẵng, sau 1975 trường không còn) liên lạc với nhau và tổ chức gặp mặt sau hơn 43 năm xa cách. Không ngờ, trong lớp Kinh thương ngày ấy có Tôn Nữ Ái Châu và Hồ Thị Phú là bạn cùng lớp 12 A3 với em ở Nữ Trung học. Chúng tôi hàn huyên tâm sự. Đứa thì kể chuyện trong lớp Kinh thương ngày ấy chỉ có 5 cô xinh đẹp, còn lại là bọn con trai, hầu hết các cô đều đốn ngã biết bao đứa con trai cùng lớp. Và các bạn hỏi tôi là có để ý cô mô không. Tôi cười và lắc đầu. Riêng 2 cô bạn cùng lớp với em ngày ấy, phần nào cũng biết được lòng tôi nghĩ đến ai kia.
Và cũng bất chợt, anh Nguyên Minh và Hoàng Kim Oanh ra Đà Nẵng giới thiệu, ra mắt tập thơ của chị Aí Niệm và sau đó, luôn tiện đi Huế thăm vợ chồng Minh Tự, Nguyễn Thị Tịnh Thy. Trước đó, Trần Thị Trúc Hạ và anh Hồ Sĩ Bình cũng đã rủ rê tôi cùng đi trong dịp này. Chúng tôi ra Huế. Và cũng bất ngờ, có cả anh Đỗ Hồng Ngọc, anh Nguyên Cẩn cũng ra Huế dự hội thảo về Phật giáo. Chúng tôi được vợ chồng Minh Tự đãi cơm nước. Tối hôm đó, sau khi dùng cơm, chúng tôi đã văn nghệ văn gừng với nhau. Với tiếng đàn của Minh Tự, chúng tôi cất lời ca về xứ Huế thơ mộng, về những cuộc tình trong những bài hát. Và rồi bất chợt lời bài hát “Anh còn nợ em” vang lên, hòa quyện cùng tiếng đàn, chúng tôi hát hết lòng. Và người xúc động nhất là anh Nguyên Minh! Bởi như nhiều lần tâm sự, tôi được biết anh Nguyên Minh còn nợ trong cuộc tình một thuở. Tôi nghĩ hầu như ai đã có cuộc tình không trọn vẹn đều còn nợ nhau. Tôi cũng vậy. Và bất chợt, tôi đứng lên cầm cây đàn trên tay Minh Tự. Tôi tự đàn và hát “Ngậm ngùi”, thơ Huy Cận, nhạc Phạm Duy. Bài hát trước đây tôi đã từng hát khi dự tiệc mừng đậu Tú tài của bạn tôi năm 1974, còn bây giờ, tôi hát với lòng nghĩ đến em, người con gái tôi nào quên được.
Trong tôi hiện về thời non trẻ, áo trắng thần tiên ẩn hiện dáng em hiền. Tôi nhớ áo trắng ngày x��a tinh khôi đến lạ, nhớ nhớ tiếng cười trong veo tuổi học trò, nhớ những lần tan học vẫn dõi tìm bóng dáng ai kia.
Em vẫn ẩn hiện trong tôi. Tôi vẫn tìm em. Tìm được em rồi. Em biết tình tôi rồi. Tôi vẫn thường tìm trên Facebook, vẫn thấy em ở nơi ấy đó nghe! Mừng khi em gặp các bạn, mừng khi ai ấy hát vu vơ khúc nhạc tình thuở nọ.
Và tôi, tôi thầm hát, hát mãi trong lòng: Nhớ đến một người để nhớ mọi người.
Tôi hát thầm lời thương quý Đông Giang – Hoàng Hoa Thám. Tôi cũng thầm nhớ một thời Phan Châu Trinh, Hồng Đức. Tôi hát thầm yêu nhớ cả trời Đà Nẵng sáng mắt em hiền như thuở thư sinh. Tôi như thấy em cười cùng tôi trong ngày hội ngộ. Trong tôi vang lên giai điệu dịu dàng Nhớ đến một người để nhớ mọi người.
Tháng 4 – 2019
Phan Trang Hy
2 notes
·
View notes
Text
NHỮNG GÌ CÒN NHỚ TRONG TÔI
NHỮNG GÌ CÒN NHỚ TRONG TÔI
Tạp bút Phan Trang Hy

Những cơn mưa bất chợt cho tôi nhớ lại những ngày mưa xưa ấy. Những ngày lên phà qua sông đến trường tìm kiến thức, đến trường để được thấy bạn bè, thầy cô, để được học làm người. Tôi làm sao quên được cái lạnh như tan biến, chút nước mưa cũng khô đi khi ngồi trong lớp học ấm tình bè bạn. Không biết ngày mưa xưa ấy có còn trên con đường Bạch Đằng, trên đường Hùng Vương, quanh chợ Vườn Hoa chứng kiến những cậu học trò bên Quận Ba vội vàng đến trường, vội vàng đi về cho kịp chuyến phà chòng chành trên sông Hàn một thuở.
Một thuở được là học sinh của ngôi trường mang tên chí sĩ Phan Châu Trinh. Một thuở tôi tự hào được mặc bộ áo quần đồng phục trắng đi trên những con đường của Thị xã Đà Nẵng. Một thuở trong tôi nghĩ bọn con trai trường Phan Châu Trinh có thể là hình ảnh cho bọn con gái ở Nữ Trung học Hồng Đức, Phan Thanh Giản, Bồ Đề, Thánh Tâm, Sao Mai, Ánh Sáng, Bán Công, Nguyễn Hiền... để ý. Và trong tôi, cũng có thể là nhiều đứa con trai trong trường để ý đến bọn con gái, có lúc là cái đuôi theo tà áo dài trắng trên những cung đường của Thị xã. Tôi nhớ mãi cái thời chúng tôi thích bài hát Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy), nhớ mãi cái thời bao đứa con trai kế cho nhau nghe về những ánh mắt, nụ cười, sự dỗi hờn của bọn con gái. Nhiều lá thư viết muốn đưa cho ai đó mà chẳng dám đưa. Nhiều lời muốn nói với ai kia khi gặp mặt nhau mà chẳng dám nói. Nhiều thứ lắm muốn làm cho ai đó vui mà chẳng làm được. Để rồi, những mối tình lặng câm ấy trôi theo cùng năm tháng. Tưởng chừng nó chết theo thời gian. Nhưng rồi có khi trên đường đời gặp lại ánh mắt của người xưa, mối tình câm ấy hồi sinh. Hồi sinh nhưng trái tim của ai nấy giữ, bởi ai cũng biết phận mình. Trong lòng chỉ thầm hát lời ca "Tóc mai sợi vắn sợi dài/ Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm" (nhạc Phạm Duy).
Rồi những ngày nắng đến. Nắng ấm sân trường tôi trong những sáng thứ Hai chào cờ đầu tuần. Nắng vào lớp học, vào từng con tim nhiệt thành trên từng trang sách. Nắng trên những thân thể bọn con trai trong những lần dự hội thao cùng các trường trong Thị xã. Nắng theo cùng quả bóng chuyền, bóng rổ trong tiếng cổ vũ của khán giả. Nắng làm bao cầu thủ đổ mồ hôi trong những pha tranh bóng, sút vào goal. Nắng cũng theo chúng tôi trong những lần dã ngoại ở Nam Ô, Mỹ Khê, Non Nước... Nắng trong tôi những ngày tháng vội vàng, những ngày tháng chỉ muốn nhớ kiến thức đã được học để chuẩn bị cho kỳ Tú tài với hình thức trắc nghiệm và được máy IBM chấm. Những ngày tháng ấy tôi cứ ngỡ như mới đây. Thế mà đã nửa trăm năm. Thế rồi thời thanh xuân của tôi và các bạn đã qua. Thế là thời bảy mươi của chúng tôi vừa chạm tới.
Tôi nào quên được một buổi chiều dẫu là tình cờ. Tình cờ nghe cuộc gọi từ đâu xa lơ xa lắc. Và rồi ngỡ như mơ mà là thực. Đó là cuộc gọi của Hải Đà cho biết có mấy người bạn học hồi 12B3 từ Mỹ, Sài Gòn về, rất mong muốn gặp lại những bạn học thời trung học. Tôi vui đến không ngờ vì bạn tôi ngày ấy tìm ra số điện thoại của tôi và gọi cho tôi. Và kể từ đó, các bạn trong lớp chúng tôi tìm lại nhau. Rất vui và cảm ơn tấm chân tình của các bạn cùng lớp khi xưa, đặc biệt là hai bạn Đà, Mai. Có chuyện vui, buồn, chuyện đi thăm các thầy cô giáo cũ cũng nhờ tin từ Hải Đà. Ngôi nhà của Đà, Mai trở thành nơi tụ hội cho một số bạn của lớp khi có người từ xa về Đà Nẵng. Đâu phải là những món ăn đắc tiền, đâu phải cao lương mỹ vị, mà đó là những ổ bánh mì mua vội trên đường Phan Châu Trinh do Hồng Thúy mua chiêu đãi bạn bè một sáng hẹn cà phê ở nhà Đà, Mai. Đó là bữa cơm chay đạm bạc ở nhà Vân Anh. Và còn biết bao lần ăn uống ở những quán vỉa hè, vui cùng nhau nhân ngày hội ngộ.
Mà tôi nào nhớ hết được những người bạn trong lớp tôi thuở nọ. Bởi tôi vào trường Phan Châu Trinh chỉ khi được chuyển từ trường Đông Giang ở Quận Ba sang. Từ nhà đến trường gần 5 km, do vậy, tôi vội vã đến trường, vội vã về nhà khi tan học. Vội vội vàng vàng nên chẳng mấy khi để ý đến các bạn khác.
Nhiều khi đi trên đường Bạch Đằng vào lúc ban trưa, tôi lại nhớ những bữa trưa gặm bánh mì ngối trên ghế đá dọc sông Hàn để buổi chiều học tiếp. Nhớ những lần ngồi nhìn con nước, mơ mộng về một thời áo trắng tinh khôi, mong về ngày mai không còn chiến tranh, không còn tiếng bom rơi, đạn lạc. Ngồi mà mộng mơ theo lời ca: "Em hãy cùng ta mơ/ Mơ một ngày đất Mẹ/ Ngày bóng dáng quê hương/ Đường hoa khô ráo lệ..." (Đôi Mắt Người Sơn Tây, thơ Quang Dũng, nhạc Phạm Đình Chương).
Và tôi dễ gì quên những tháng ngày cặm cụi ôn bài để thi Tú tài. Những đêm mưa lạnh của những tháng trước và sau Tết Nguyên đán, tôi vẫn ngồi bên ngọn đèn vừa đủ sáng để ôn bài. Tôi không để ý giờ giấc, không để ý đến chung quanh. Chỉ biết học cho xong bài quên cả cái lạnh. Những đêm sắp đến ngày thi, dù nóng nực, đổ mồ hôi, kể cả những con muỗi bay quanh, tôi cũng vẫn cố công học. Thời điểm ấy, không chỉ riêng tôi mà hầu như tất cả các bạn học lớp 12 trong lớp, trong trường đều gắng sức. Nếu bọn con trai rớt Tú tài thì thật là đáng tiếc. Tương lai, kể cả số phận có thể tùy thuộc vào kỳ thi này. Vì thế, tôi và các bạn đều cố gắng luyện rèn những kiến thức, làm quen những câu hỏi trắc nghiệm trong các môn học. Thời điểm đó, thi tất cả các môn được học: học môn nào, thì môn đó. Đến giờ nghĩ lại, quả là tôi được may và không uổng công khi đậu Tú tài. Và những kiến thức năm nào, theo thời gian, 50 năm, tôi chỉ còn nhớ lơ mơ những tên gọi đạo hàm, phép tịnh tiến, cos, sin, tang, cotang…
Hầu như tôi chẳng nhớ được gì các tên bài học năm xưa.
Chỉ còn trong tôi tên lớp, tên trường mà tôi từng học: lớp 12B3, trường Trung học Phan Châu Trinh.
P.T.H
2 notes
·
View notes
Text
NINH HÒA XA MÀ GẦN

Tuỳ bút của Phan Trang Hy
NINH HÒA XA MÀ GẦN
Tình cờ tôi vào trang web Ninh-hoa.com. Không thể ngờ đó là trang mạng đồng hương thân hữu của huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bất ngờ vì nội dung phong phú; bất ngờ vì những người cộng tác đủ thành phần, lứa tuổi...
Không những tôi bắt gặp nội dung giới thiệu vế đất nước và con người Ninh Hòa mà tôi còn bắt gặp những vùng đất khác. Không những tôi hiểu được một phần nào về phong tục, tập quán của sông Dinh, vũng Rô, núi Đá Bia... mà còn biết thêm những tập tục của người Việt ở khắp nơi. Không những theo dòng cảm xúc bởi những bài văn, bài thơ mà tôi còn được thêm những kiến thức từ tư liệu, văn bản khảo cứu thuộc nhiều đề tài, lĩnh vực.
Điều ngạc nhiên là số lượng người tham gia viết. Rất ấn tượng! Có người ở tuổi “cổ lai hy”, có người vừa mới vào đời, có người dễ thương cùng tuổi mực tím... Có người quê gốc Ninh Hòa, có người là dâu rể, có người là thân hữu, có người lưu lạc xứ người, có người làm ăn, sinh sống khắp năm châu, bốn biển... Tất cả, tất cả tạo nên Ninh Hòa muôn sắc màu hương vị.
Tôi chỉ là khách tình cờ ghé đất mạng. Thế nhưng, ở đây cho tôi một nghĩ suy về một huyện duyên hải miền Trung: rất Ninh Hòa như cái tên vốn có.
Khi nhận được mail trả lời và mời cộng tác của Ban biên tập, tôi bất ngờ, có chút vui, sau đó lại có chút lo. Nhưng rồi, bởi mảnh đất này đã cho tôi niềm tin để “hòa” cùng các bạn.
Dù tôi chưa một lần đến cầu Sắt, hòn Bà, đèo Bánh Ít, nhưng Ninh Hòa vẫn cho tôi xao xuyến. Bởi lẽ, nơi này có nhà ngoại của cô ấy của tôi ngày xưa, trong mối tình vụng dại tuổi học trò. Và càng vui cho tôi hơn, qua mạng, tôi thấy như mình được các bạn chờ đón ghé thăm. Tôi chỉ tiếc là không được làm cháu rể của Ninh Hòa. Nếu có kiếp sau, có lẽ tôi cùng cô ấy ghé thăm nhà ngoại của cô ấy.
Còn gì vui hơn và thâm tình hơn khi có người hiểu mình. Tôi như thấy mình mơ về Ninh Hoà xa mà gần trong tâm tưởng.
Đà Nẵng, Tháng 5-2010
P.T.H
0 notes
Text
BỨC THƯ THỜI ÁO TRẮNG
BỨC THƯ THỜI ÁO TRẮNG
Truyện ngắn Phan Trang Hy
được Trương Thị Kim Chi (KimChi Trương), bạn học thời Trung học đệ nhất cấp biên tập, in trong VỀ BÊN NHAU, Đặc san NỮ TRUNG HỌC HỒNG ĐỨC ĐÀ NẴNG, 2014 và XUÂN VÀ VALINTINE, 2015, Tuyển Thơ Văn HƯƠNG QUÊ NHÀ
nguồn http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=23253

Đang ngồi xem ti vi, điện thoại báo có tin nhắn. Bình nghĩ thầm: Chắc tin khuyến mãi, quảng cáo. Nghĩ thế, nhưng hắn vẫn mở xem. Tin nhắn của thằng Anh, lớp trưởng của hắn hồi còn học trung học đệ nhất cấp. Là thông tin về thời gian, địa điểm họp số bạn ở Đà Nẵng chuẩn bị về tham dự 50 năm ngày thành lập trường. Đọc tin nhắn, hắn nhớ lại tuổi học trò, nhớ lại thời nhỏ trước khi vào học Phan Châu Trinh.
Rồi, ngày họp mặt cũng đến. Chỉ có 14 đứa, cả gái, cả trai ở Đà Nẵng có dịp gặp nhau. Biết bao kỷ niệm của tuổi học trò, của thời ngây ngô, thơ dại hiện về trong buổi gặp mặt.
Tiếng nói, tiếng cười rộn lên. Ngồi bên nhau, trước mặt mọi người là những ly cà phê, chanh đá, trà gừng, nhưng chẳng ai muốn đụng đến. Chỉ là cái cớ để mọi người tâm tình, trải bày nỗi lòng bấy lâu xa cách. Bọn hắn, giờ chớm tuổi 60. Thế nhưng, vẫn chất giọng Quảng Nam – Đà Nẵng, vì từng ấy đứa là dân sống ở đây, lấn át cả tiếng nhạc phát ra từ chiếc loa thùng. Bọn hắn bàn việc thăm trường, bàn việc góp bài cho tập san mừng ngày thành lập trường. Đủ thứ cả. Rồi, bọn hắn nhắc lại những gương mặt ngày xưa. Biết bao gương mặt thân quen, hoặc chỉ loáng thoáng, hiện về. Thằng Thành, bạn hắn, cái thằng hồi học đệ nhất cấp, thường lấy xe Yamaha màu đỏ, chở hắn đi học Anh văn ở Hội Việt Mỹ, ngồi bên cạnh bỗng lên tiếng:
- Chắc mi đang nhớ “nàng” phải không?
Hắn không trả lời. Chỉ im lặng. Không chối. Cũng không giả đò thanh minh thanh nga như hồi đi học. Quả thật trong lòng, làm sao hắn quên được cô ấy. Như thiên thần tinh khôi trong chiếc áo đầm trắng, cô ấy như làm ấm lòng bao đứa con trai khi chớm gió bấc về. Chiếc áo ấy như làm dịu mát bãi cát của sân trường trong những ngày chớm hạ.
Hồi ấy, hắn biết, và tin chắc là biết bao đứa con trai, kể cả hắn, tập tành làm thơ, viết nhạc, vẽ tranh tặng cho cô ấy. Có thể những tác phẩm ngây ngô ấy không đến với cô ấy. Nhưng hắn tin chắc là cô ấy biết rõ về chính mình, biết bọn con trai để ý. Hắn chỉ mong cô ấy đừng quan tâm đến ai cả. May ra có ngày nào đó hắn có cơ hội để tỏ lòng với cô ấy.
Và trong lòng hắn, có lẽ mối thương thầm vụng dại đã biến hắn trở thành người nuôi nhiều hy vọng. Hy vọng như hiện trên từng câu chữ hắn viết về cô ấy. Hy vọng trong những bài học, trong kỳ thi Tú tài IBM, trong kỳ thi vào ngành Kinh thương của Đại học Cộng đồng Quảng Đà. Hắn tin là có ngày hắn nói thật lòng mình với cô ấy. Hắn tin là vậy!
Quả thật muôn ngàn lần trước sau như một, hắn nuôi hy vọng trong niềm tin mãnh liệt là có ngày cô ấy biết được lòng thiệt của hắn. Thiệt như xứ Quảng quê hắn. Thiệt như giọng trầm nhẹ xứ “trầm hương” pha chút vị mặn Quảng Đà của cô ấy.
Tiếng nhạc vẫn dịu nhẹ. Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay… Hắn nhẩm hát theo. Rồi, hắn ngừng hát, nói với thằng Thành:
- Mi có tin chi về “nàng” không?
- Tau có vào facebook của “nàng”. Có gửi lời kết bạn. Facebook toàn là những ảnh chia sẻ về hoa, ẩm thực.
- Rứa hả!
Nói xong, hắn thầm nghĩ, là phải lên mạng để tìm cô ấy. Những ngày sau đó, hắn hăng hái lên mạng. Quên cả giờ giấc, thời gian... Hắn vào Google, đánh họ tên cô ấy. Hắn tìm thấy cô ấy thật rồi. Cô ấy tham gia viết bài ở các trang mạng Quyên book, Sáng tạo… Đặc biệt trang Nữ Trung học Đà Nẵng, hắn tìm thấy những hình của cô ấy. Hắn “save” những hình ấy. Tưởng nhìn hình để đỡ nhớ, ai dè, nỗi nhớ ngày xưa như có dịp bùng cháy trong lòng hắn.
Hắn nhìn kỹ những tấm hình của cô ấy khi về Đà Nẵng chụp với bạn bè, chụp lại một góc của trường xưa – “Nữ Trung học Hồng Đức”. Hắn làm sao quên được tấm hình đen trắng của cô ấy có ghi một số chữ, trong đó hắn đọc được hai chữ ĐÀ - NẴNG. Này là mái tóc dày mượt. Này là đôi mày thanh tú. Đôi mắt hơi suy tư, hiền quá đỗi. Cái miệng xinh xinh, nhân trung hiện rõ. Gương mặt ấy sáng mãi như tư chất sáng dạ, khéo làm của cô ấy.
Rồi hắn nhớ cái lần hắn viết thư chuẩn bị gửi cho cô ấy. Bức thư của tuổi học trò vụng dại đâu thể nào đến được với cô ấy. Hắn hình dung ngôi nhà xinh xắn của cô ấy ở cư xá Thanh Lịch. Hắn đâu quên được những lần đi ngang qua ngôi nhà ấy, hắn mường tượng ngày xưa có bóng dáng dịu dàng, hiền ngoan ngồi học bài, hoặc hát vu vơ khi làm những chiếc bánh ga-tô thơm lựng.
Thời gian cứ trôi. Nhưng, tuổi thư sinh như đọng trong lòng hắn…
Đang ngồi trước lap-top, chỉnh sửa lại tiểu thuyết “Người hay là những cơn mơ mạo danh” để kịp in, hắn nghe điện thoại kêu. Thằng Anh rủ hắn uống cà phê. Chả là chủ nhật, hắn thư thả cho khỏe một chút.
Hắn ngồi nghe thằng Anh tán chuyện. Thường hắn ít nói. Chỉ có thằng Anh nói. Qua câu chuyện, thằng Anh có kể cho hắn nghe “thiên tình sử” của đôi bạn cùng dạy với nó ở Duy Xuyên. Mối tình nào cũng có cái đẹp của nó. Đẹp như quê hắn. Đẹp như hắn từng nhớ đến cô ấy. Hắn im lặng ngồi nghe thằng Anh kể…
Tháng Ba vừa rồi, những người bạn của thằng Anh từng dạy ở Duy Xuyên có tổ chức họp mặt. Thằng Anh cũng tham dự. Cũng bình thường như những cuộc họp mặt khác nếu không có chuyện của Tuấn và Phượng. Mà câu chuyện thoạt nghe cũng chỉ có vậy: Ngày trẻ họ học chung, có tình cảm với nhau nhưng đã không đến được với nhau. Kỳ gặp mặt này bạn bè khuyến khích Tuấn nên tỏ lòng với Phượng… Và rồi Tuấn bỗng dưng đã trở thành một cậu bé, như thuở còn đi học: “Tôi chỉ xin nói với Phượng một lần, rồi sao cũng được. Phượng có chịu không?... Xin Phượng gọi tôi bằng anh. Và… và… xin cho anh được hôn lên má em một lần.”.
Nghe thằng Anh kể tới đó, hắn cũng muốn thú tội với bạn bè, với cô ấy là hắn cũng muốn được một lần gọi anh, em và được hôn lên má của cô ấy, dù có xót xa nước mắt.
Và trong hắn hiện lên thằng Bình hồi trẻ đang ngồi viết thư gửi cô ấy. Bức thư thời áo trắng thiệt thà hiện ra trong ký ức.
Tháng 3 – 2014 Phan Trang Hy
0 notes
Text
HƯƠNG GIÓ ĐÀ THÀNH
Tạp văn của Phan Trang Hy HƯƠNG GIÓ ĐÀ THÀNH

Gió lại về khi sớm, lúc hôm. Gió mơn man tìm hoa đùa cợt. Gió khoe tình trên cát Mỹ Khê; vui cùng con sóng Xuân Thiều, Non Nước. Gió trong tôi như trôi cùng cây cối Sơn Trà, Hải Vân, cùng lượn lờ theo Bà Nà – Núi Chúa…
Gió mang hương nồng vị biển. Khi mặt trời vừa chớm hừng phía Cù Lao Chàm, những con cá tươi ngon về trên bến bãi Thọ Quang, Phước Mỹ mang cả hương vị biển về từng con bếp phố quê. Này là những con nục đều nhau, mập khoảng hai ngón tay nằm trên những mẹt. Nhìn những con nục, tôi nhớ lại những lần thưởng thức chúng. Còn gì bằng khi chúng được hấp chín cùng nấm mèo, thịt heo ba chỉ, trộn cùng gia vị như tỏi, hành, gừng được cuốn với rau muống để y cộng cuốn bánh tráng. Hoặc đơn giản hơn là kho cùng với một chút xì dầu, gia vị, ớt màu…, những con nục thơm mềm như được đóng hộp. Tôi quên sao được cái hương vị ấy, kể cả xương, như tan trong miệng của tôi khi ăn chúng với cơm. Và còn đây là những con mực trắng hồng dưới nắng mới. Và tôi nhớ những lần vui cùng bạn bè trong những cuộc vui, chúng đã mang đến cho chúng tôi, những thực khách, ngẫm và thưởng thức được hương vị ngọt bùi của cuộc đời nhân thế. Nếu mực nhỏ, thì có thể hấp, hoặc xào chúng. Rất đơn giản, nhưng vẫn có hương vị riêng của những bữa ăn. Còn nếu chúng lớn, thì hấp, rồi cắt từng lát, xếp trên dĩa, ăn kèm với chuối chát, rau thơm chấm với nước mắm được pha chế. Hoặc cách khác là chúng được phơi khô, được nướng lên, xé rời từng sợi, chấm với tương ớt là có thức nhắm để vui cùng bè bạn tương giao.
Dọc những con đường ven biển như Nguyễn Tất Thành, Hoàng Sa, Võ Nguyên Giáp, Trường Sa… cũng như một số nhà hàng lớn trong phố, hương vị biển như tràn đến tận con mắt thực khách. Người ta chỉ trỏ, chọn từng con tôm, con ốc; người ta xem và cảm nhận hương vị của những con cua, con cá, tôm hùm. Hầu như hải sản Đà Nẵng đều có mặt ở các quán ăn trên những con đường, con phố đó. Đến Đà Nẵng, thưởng thức được hương vị biển thì mới cảm nhận một phần cái hồn của ẩm thực phố thị miền Trung.
Và gió còn mang hơi phố nồng nàn. Này là hương cà phê buổi sớm, khi chiều, kể cả tối. Chút hương cà phê vỉa hè, quán cóc giản đơn, uống vội khi chưa kịp ăn sáng của ai và cả tôi nữa. Có lần về quê thật sớm, tôi vội thưởng thức ly cà phê bên vỉa hè ở đầu đường Nguyễn Văn Thoại. Cầm ly cà phê hương vị đậm đặc, cái chất cà phê chỉ có ở Đà Nẵng, khi mặt trời chưa mọc, tôi thấy nhiều người đi bộ tập thể dục đang uống hương trời buổi sớm. Rồi tôi cũng thấy nhiều chiếc xe máy chở hàng tươi sống về các nơi. Tôi tưởng chừng hương của những bó rau lang, rau muống, của những quả cà rốt, su hào, cải bắp, những bó hành… trên những chiếc xe máy được các cô gái chở từ Điện Nam, Điện Ngọc ra như hòa trong khí trời Đà Nẵng. Tôi cũng nghe những tiếng rao hàng. Tôi như thấy hương của bắp Đại Lộc, Điện Bàn vừa nấu chín ngọt, như thấy hương của nếp, hương của lá gai nhuyễn thơm đường trong những chiếc bánh chưng, bánh ít tận Hội An.
Gió Đà Nẵng còn mang hương vị gió Lào. Ôi, làm sao tôi quên những lần nắng nóng. Cả khứu giác, xúc giác như nóng lên cùng gió! Cái nắng nóng tỏa mang hương lá khô queo như vắt hết mồ hôi trên từng thớ lá. Hương gió Lào như thấm cả đêm, trăn trở nỗi niềm của phận người cần lao trong những căn trọ.
Rồi những đợt gió bấc tràn về, gió mang hơi lạnh, mùi hương của đất trời Đà Nẵng như quánh lại, lạnh trong từng hơi thở. Còn gì thú bằng nếu đó là ngày nghỉ, được có ly cà phê nóng và nghe nhạc, nhìn ngắm phố phường, hoặc trầm tư thế sự, hoặc tịnh yên bên bằng hữu. Nếu có dịp, ghé một quán bánh xèo vào lúc xế chiều, hoặc tối nào đó, thật là thú vị khi thưởng thức những cái bánh vừa đúc, còn bốc khói. Những chiếc bánh xèo mang hương vị của gạo hòa trộn với tôm, trứng, thịt, giá đỗ… được chấm với nước mắm ngon, quyện vào nhau làm ngon miệng người dùng. Trên từng con phố ẩm thực, món bánh xèo dân dã tỏa hương vị ra tận đường từ những chiếc bếp lò đỏ lửa, bánh ngậy thơm như mời mọc bao người qua lại. Nếu bụng đói, khó mà không nuốt nước miếng!
Ai đã từng ghé thăm Đà Nẵng, cũng như người Quảng Nam- Đà Nẵng, quên sao được hương vị của mì Quảng và món bánh tráng cuốn thịt heo. Có thể nói đây là hai món ăn mang hương vị đặc biệt về ẩm thực của người dân xứ Quảng. Có thể khẳng định rằng, hai món ăn trên là hai món ăn đặc trưng của Quảng Nam - Đà Nẵng.
Và tôi làm sao quên được, những lần cùng người thân yêu trên những con đường tìm hương vị phố quê. Gió bên tôi, mang bao hương vị của xứ sở. Này là hương làng rau La Hường; này là hương lúa Hòa Vang đang độ vào mùa; này là hương trái cây đang vừa độ chín.
Gió Hòa Vang lại mang thêm hương chiếu Cẩm Nê. Này là những chiếc chiếu mới tinh thơm nắng, gió, mồ hôi làng chiếu. Còn gì thú vị bằng khi nằm trên chiếu vào những đêm hè, hương cói như phảng phất đem cả cái dịu dàng vào giấc ngủ. Còn gì hơn khi những đêm mưa, chiếu Cẩm Nê tỏa hơi ấm quyện lấy hơi người. Còn gì tuyệt diệu bằng nằm trên chiếc chiếu mới đêm tân hôn, hương trinh như tan chảy vào nhau, gắn chặt tình yêu đôi lứa!
Trong gió, tôi cũng cảm được hương vị của mùi nước mắm Nam Ô, cái hương vị trong từng bữa ăn thường có. Có thể, đó là bữa ăn của công nhân, với những cộng rau luộc, chấm vội cùng nước mắm dằm ớt, đưa vội những miếng cơm cho qua cơn đói; cũng có thể đó là bữa cơm ngon đầy đủ cá thịt của bao gia đình vẫn không thể thiếu chút nước mắm; và cũng có thể, trong mâm cúng giỗ, trên bàn có chén nước mắm kèm thêm… Cái mùi mắm ấy là một phần hương vị quê hương đi suốt bao phận người Đà Nẵng.
Gió cũng mang hương từ đá của làng nghề Non Nước đến cùng tôi. Và tôi đến cùng Non Nước, Ngũ Hành Sơn. Nhìn những tượng được khắc, trong tôi như cảm nhận được hương trinh của những tượng thiếu nữ, như hít được hương trầm linh diệu của tượng Phật, tượng Chúa, như thấm được mùi đời của bao tượng danh nhân. Và tôi không thể không thốt lên, mừng reo hương vị của lễ hội Quán Thế Âm còn vương vấn đâu đây trong những ngày còn lại.
Gió vẫn cứ về Đà Nẵng thân yêu. Và gió sông Hàn tỏa hương mùi pháo! Bao mùa thi pháo hoa quốc tế Đà Nẵng như hương đồng, hương phố, hương biển, hương núi tạo nên sắc màu đáng yêu, tạo nên chất hương riêng cho Đà Nẵng.
Chợt trong tôi lại rộn lên điệu ca: “Sống trong đời sống/ Cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không?/ Để gió cuốn đi/ Để gió cuốn đi” (Trịnh Công Sơn). Và tôi thấy cái lòng Đà Nẵng như hòa cùng gió. Hương gió Đà thành như thấm vào tôi!
Năm 2017
Phan Trang Hy
0 notes
Text
GIẢ SỬ VÀ KHÔNG GIẢ SỬ
Tản văn của Phan Trang Hy
GIẢ SỬ VÀ KHÔNG GIẢ SỬ

Giả sử ta không còn yêu nhau, thì quả đất này vẫn quay và mặt trời vẫn vậy. Vẫn ngày ngày cơn đói hành hạ cái dạ dày nhiễm chất độc từ biển, từ những bàn tay của kẻ nhân danh đồng chí, nhân danh tình hữu nghị. Và dù em không muốn hát nhưng em vẫn phải cuồng quay điệu nhạc của phận người nô lệ để vừa lòng bọn xâm lăng độc ác.
Giả sử rằng có người yêu nước lên án bọn bán nước cầu vinh, thì cả đồng bào Việt Nam có đồng lòng lên án? Giả sử bọn giặc nuôi mộng cướp nước ta thì đồng bào ta có sẵn sàng quyết chí vì nước quên thân? Và người lính có sẵn sàng hy sinh vì dân tộc?
Giả sử chiến tranh chống bá quyền bành trướng xảy ra thì ai là người yêu nước? Và bộ mặt dân tộc ta có như thuở làm nên những trận đánh Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chi Lăng, Đống Đa, Vị Xuyên?
Và không cần giả sử, là ta mãi mãi yêu nhau thì mặt trời vẫn vậy. Cơn đói không còn trên nét mặt của trẻ thơ, cái chữ khai phóng nụ cười tương lai dân tộc. Và không cần giả sử, là tự đáy lòng mỗi người Việt Nam biết ai là bạn, là thù.
Thôi, không cần giả sử nữa. Ta vẫn là ta, là đồng bào của nước Việt Nam!
Tháng 6/ 2016
Phan Trang Hy
0 notes
Text
Và em thấp thoáng trong mưa
Và em thấp thoáng trong mưa
PHAN TRANG HY

Có những cơn mưa thành lệ thường. Sáng nắng chiều mưa quen thuộc. Quen thuộc như những bước chân người thân đến bên ta; quen thuộc như giọng nói mà ta thương yêu, trìu mến; quen thuộc như mùi cơm canh nóng lúc hoàng hôn. Nhưng cũng có lúc mưa làm cho ta lo sợ. Sợ lo vì mưa lớn, mưa dữ khiến cuộc sống đời thường đảo lộn, đớn đau. Nào là mưa ngập phố phường, nào là mưa gây lũ quét, nào là mưa làm m���t mát, đau thương cho bao kẻ, bao người.
Nhiều lần, tôi cũng đi dưới mưa. Thế nhưng, cũng có khi bị bắt buộc. Thường là cực chẳng đã. Không dưng ai lại thích đi dưới mưa bao giờ. Thôi thì chịu vậy. Lấy đó làm ngọt làm ngào cho ra dáng chịu chơi, cho ra dáng bụi. Chớ đi dưới mưa kèm theo gió lạnh dễ gì vui. Nhưng nghĩ mình cũng còn may mắn, đi dưới mưa mà nghĩ về đời, nghĩ về người khác. Còn biết bao người phải đội mưa mưu sinh, phải dầm mưa lo toan cuộc sống. Còn biết bao người khốn khó dưới những cơn mưa trái khuấy cuộc đời.
Và may cho tôi khi có cơn mưa này. Không phải đây là cơn mưa bất thường. Bởi dự báo thời tiết đã phát đi. Bởi tôi làm biếng không đọc tin nhắn trên điện thoại.
Ngồi một mình trong quán cà phê quen thuộc trên đường Trần Hưng Đạo, tôi nhìn những giọt mưa như đang rửa bụi trần cho chậu hoa vàng treo bên cửa sổ để rồi qua cơn mưa, những bông hoa kia sẽ tươi thêm, ngời ngời sắc thắm. Nhìn những bông hoa đang tắm mưa, tôi mường tượng đó là những thanh nữ đang đùa vui giữa đất trời khiến cho hồn thi nhân, văn sĩ ngây ngô ngồ ngộ.
Tôi mở điện thoại di động chụp vài tấm ảnh có chậu hoa vàng dưới mưa. Tôi gửi qua messenger cho người bạn. Gửi xong tôi lấy làm vui lắm vì bạn nhắn lại là lãng mạn quá chừng. Tôi cảm ơn.
Và như là quán tính khi vào trang Facebook. Tôi vào trang nhà của em. Vẫn những ảnh về hoa, về cỏ trên sân nhà em ở. Tôi tự hỏi, không biết mùa này ở Fresno có mưa không? Và em có ngồi trong quán cà phê nào đó cùng bè bạn, người thân nhìn mưa không? Hay ngồi một mình? Đọc status của em, tôi thấy những hoa sứ, ngọc lan... quanh nhà em nở nụ cười hiền khô. Những bông hoa của bạn bè, người thân em tặng được bón chăm bởi bàn tay quen thói hay làm của em. Tôi mường tượng em vừa làm vừa cười hạnh phúc bên những bông hoa xinh ấy. Và tôi như thấy nụ cười của em thấp thoáng trong mưa...
Rồi tôi nhìn ra khung cửa, tôi thấy những bước chân vồi vội, những chiếc xe chạy gấp gáp. Những bước chân vồi vội ấy có kịp về nhà để không bị ướt áo, để nụ cười của bé con được sà vào lòng ba làm nũng. Những chiếc xe chạy gấp gáp ấy có kịp giờ hẹn cùng ai để nở nụ cười khi bàn tay ướt mưa vuốt mặt. Và ngoài kia, mưa như rải những nốt nhạc trên sông Hàn, dòng sông một thuở em qua, dòng sông một đời tôi mang nợ.
Mưa vẫn rơi rơi. Tôi nhìn mưa, lại nghĩ đó là những giọt nước mắt mừng vui của Ngưu Lang - Chức Nữ cho thời khắc được ở bên nhau. Nhìn mưa tôi như thấy em cười tự thuở thư sinh hát lời ca giọt mưa trên lá...
Những giọt mưa thành suối khe, thành sông hồ. Những giọt mưa về biển. Để rồi một ngày nắng lên, những giọt mưa ngày nào thành mây trời theo gió lang thang viễn du, rồi trở về đất. Những giọt mưa tuần hoàn. Những giọt mưa theo vòng luân hồi của vũ trụ có khác chi kiếp người giữa chốn trần ai.
Những giọt mưa ngày xưa, những giọt mưa ngày nay và ngày mai vẫn vậy.
Nhìn mưa tôi như thấy ở Fresno cũng có mưa. Mưa. Mưa. Mưa. Những bông hoa nhà em trong mưa. Và em thấp thoáng trong mưa.
P.T.H
3 notes
·
View notes
Text
NỖI NIỀM CÙNG SÁCH
Tản văn Phan Trang Hy

Sách trong cặp của những học trò trên trên những con đường đến trường. Sách nghe nỗi niềm trăn trở của cô bé mồ côi. Sách vui cùng cụ già qua câu kinh, câu kệ. Sách theo những con tàu từ đất liền đến những đảo để từng con chữ thấm mặn từng giọt mồ hôi của ngư dân, của lính biển.
Sách từng có mặt ở những vùng bị đạn bom cày xới, nhen nhóm niềm tin yêu, hy vọng, nỗi thao thức, trở trăn của bao người lính về một quê hương thanh bình, về một mái ấm đầy tiếng cười con trẻ. Sách trên giảng đường đại học theo nỗi khát khao của bao lớp sinh viên về một Việt Nam xinh đẹp, văn minh, nhân ái, với khát vọng tự cường.
Sách theo chân em trên những cung đường mới mở. Cả chân trời rộng lớn đầy những con chữ nói hộ bao người về tự do, hạnh phúc, về lẽ phải, tình yêu.
Thế nhưng, sách có những nỗi buồn bất tận. Nỗi buồn của thời thế chẳng ghi đủ đầy trên những trang văn. Nỗi buồn của sách bị cắt, bỏ những lời đấu tranh đòi công lý của những lớp người bị bần cùng, bị áp bức, bị cướp ngày, bị đè đầu, bị cưỡi cổ... Nỗi buồn của sách chẳng chở nổi chén rượu chia tay, chẳng mang nổi phận người cùng khổ. Nổi buồn của sách chất hàng đống trong những quyển sách bị bán như thứ giấy lộn, như những mảnh bìa cát tông ở các quày ve chai, sắt vụn. Đâu rồi lời của các thi nhân, văn sĩ? Đâu rồi lời của các nhà khoa học, của các danh nhân? Buồn làm sao khi chữ nghĩa của Immanuel Kant, Jean Jacques Rousseau, Charles de Secondat Montesquieu…, của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử... thành giấy vụn. Buồn làm sao khi lời của Thượng Đế, của Phật cũng nằm trong những bao giấy nằm chờ cân ký tính ra tiền.
Tôi cũng gặp nỗi buồn của sách khi sách được ai đó ký tặng, nhưng người được tặng hững hờ bỏ quên sách ấy trên ghế ở một quán cà phê. Hoặc đó là nỗi buồn của sách khi người được tặng không thèm đọc. Hoặc sách từng được ký tặng nằm ở sạp bán giấy vụn còn thơm mùi giấy, mực. Từng trang sách như thấm nỗi buồn của tác giả in sách, phát hành sách mà chẳng ai đoái hoài đến chút chữ nghĩa tưởng như là máu của mình. Từng trang sách cũng buồn khi ai đó có tủ sách to đùng, có nhiều sách quý hiếm, nhưng chẳng mấy khi đọc, xem sách chỉ là thứ tô trét cho cái mã háo danh, cho ta đây lắm chữ, lòe đời.
Và sách cũng như tôi, biết có người cần bó rau muống, nửa ký thịt heo, hay tô phở hơn cả sách. Biết để mà buồn, chứ làm gì được.
Tôi buồn như sách. Nhớ lúc còn khốn khó một thời, tiền lương không đủ chi phí cho gia đình, tôi đã từng chở hai bao tời sách trên xe đạp đi bán để mua sữa cho con. Tôi cũng chẳng nhớ gì ngoài việc thấy sách như đang nghẹt thở khi bị bỏ vào bao. Tôi bỏ sách vào bao mà tưởng chừng như thấy sách đang khóc trách móc tôi. Những quyển sách bị ướt bởi mồ hôi, mưa hay là nước mắt tôi?
Cầm tiền trên tay từ bà mua sách cũ, tôi thẫn thờ. Những đồng tiền trên tay tôi nhẹ tênh. Không biết những đồng tiền ấy mua được bao nhiêu sữa cho con? Tôi đạp xe như tên say rượu giữa cơn mưa chiều tháng mười.
Trong cơn mưa chiều tháng mười ngày ấy, tôi như kẻ mộng du. Cả mộng mơ của thời trai trẻ, cả khát vọng của một thuở thanh xuân của tôi có khác chi những quyển sách bị tôi đem bán. Những quyển sách ấy chứa chữ nghĩa đầy yêu thương, chân lý rồi sẽ ra sao khi chúng thành giấy vụn?
Và đêm hôm ấy, tôi bị cảm. Giấc ngủ của tôi chập chờn. Nào chữ nghĩa, tiền nong, thức ăn, đường, sữa lăn lộn, quấn siết thân tôi. Chúng hóa lửa đốt thân xác tôi. Tôi tưởng tượng sách đang gào thét trong lửa. Sách gào thét bởi một thời người ta đốt sách. Đốt sách để lập công, đốt sách để được là kẻ tiên phong, là người cách mạng. Sách thành tro, chữ nghĩa hóa kiếp, chữ nghĩa tan biến vào thiên địa, thành khói mây chờ đầu thai trở lại với đời.
Nhiều lần trong đầu tôi vẩn vơ so sánh sách với những cô gái. Không biết sự so sánh ấy có khập khiễng không. Bởi sách trước đây, thời nước ta bị giặc Minh xâm chiếm, sách bị cướp đem về Trung Hoa. Và hiện nay nhiều bộ sách quý hiếm, là báu vật của quốc gia, là sự thật của lịch sử, địa lý, văn hóa của dân tộc bị đánh cắp. Tôi nghĩ những cuốn sách ấy đang căm giận những bọn làm tay sai cho giặc và những kẻ cuồng trí tham lam. Sách có khác chi những cô gái căm giận kẻ cưỡng đoạt mình. Và tôi cũng vậy, cũng căm giận bọn người ấy.
Không lẽ, tôi và sách chỉ có buồn và giận. Chúng tôi cũng có vui mà!
Còn gì vui bằng khi sách có người đọc. Người đọc tìm trong sách những gì mình thích, mình cần cho công việc. Có thể những điều trong sách, người đọc không ưa, nhưng vẫn cần như những luận chứng cho tư duy của mình. Sách biết điều đó nên sách vẫn luôn hiện hữu trong cuộc đời của bao người dù lịch sử thăng trầm, dù cuộc sống lúc này lúc nọ. Sách vui vì sách trở thành phần thưởng của những cô cậu học trò khi k���t thúc năm học. Sách vui vì sách là nhịp cầu của đôi lứa yêu nhau. Sách vui vì sách là nguồn tri thức để những người nghiên cứu sáng tạo ra những công trình khoa học. Sách vui vì sách trở thành người bạn của biết bao ngư���i. Và hơn hết, sách vui vì sách còn là còn lịch sử, còn văn hoá của nhân loại.
Tôi cũng như sách, vui vì được bạn đọc quan tâm. Tôi nhớ những lần ra mắt sách của tôi. Những lời chúc mừng của người thân, bạn bè kèm chút quà gọi là góp sức cho người viết khiến lòng tôi xúc động và vui. Tôi vui vì những con chữ trong sách tôi viết có người đón nhận. Vui vì cảm thấy mình còn được mọi người yêu thương cũng như sách kia được mọi người nâng niu, yêu thích.
Niềm vui của sách đâu chỉ có trong những lần có ngày hội sách. Niềm vui của sách còn có trong những ánh mắt của người đọc ở những góc bàn yên tĩnh của thư viện ở các trường, ở thư phòng của những người yêu quý sách.
Sách vui cùng mọi người khi sách được mọi người góp công, góp của, chung sức, đồng lòng đóng góp xây dựng phòng đọc ở vùng quê, miền núi, ở hải đảo, đồng bằng.
Và tôi cùng sách vui biết bao khi sách được phát hành, được đến với mọi người dưới nhiều phương tiện, hình thức. Không còn khoảng cách thời gian, không gian, không còn sự ngăn cách khi sách là cầu nối tri thức giữa người với người có cùng mong ước, hy vọng.
Riêng tôi, tôi cũng có mong ước, hy vọng. Tôi nhìn thấy sách là bạn của muôn người. Tôi thấy những con chữ trong sách như máu nuôi sống linh hồn con người. Những con chữ trong sách đang và sẽ tồn tại trong vũ trụ, thành tiếng nói yêu thương gắn kết mọi người.
Tôi cùng sách mong ước, hy vọng thành lời, thành con chữ, tải nỗi niềm muôn thuở nhân gian. Và hơn hết, bên cạnh vàng bạc, châu báu, sách mãi là của quý vô giá cho người.
Tháng 5/2023
P.T.H
0 notes
Text
NƯỚC MẮT DÀNH ĐỂ YÊU THƯƠNG
NƯỚC MẮT DÀNH ĐỂ YÊU THƯƠNG
Tạp văn Phan Trang Hy

Nước mắt ngư dân hòa vào biển Đông để những mùa cá bội thu. Nước mắt ấy từng đổ khi bão tố cuồng nộ ngăn cản hải trình. Nước mắt ấy đớn đau khóc tiễn đưa những người con của biển lòng biển Mẹ. Nước mắt ấy khô khốc hờn căm khi ngư cụ, hải sản đánh bắt bị tàu cướp lấy sạch. Nước mắt ấy mừng mừng tủi tủi khi được mùa cá bội thu, khi được trở về cùng vợ con, làng xóm.
Trên cõi đời này, có nước mắt nào cho tâm nguyện chưa thành? Một thí sinh thi rớt có thể buồn khóc vô chừng, cũng có thể nuốt nước mắt vào trong lòng, gượng cười cùng bè bạn. Cũng có thể đó là giọt lệ buồn của người lâm chung biết chẳng còn sống trên cõi đời này được bao lâu khi biết bao việc lo cho gia đình, con cháu chưa xong, nên chưa yên lòng nhắm mắt. Cũng có thể đó là việc trả ơn nghĩa cho một ai đó chưa trọn vẹn mà phải chấp nhận.
Tôi làm sao quên được, đôi mắt của ba tôi trong những ngày cuối đời. Đôi mắt ba tôi như ngấn lệ. Những gì ba tôi dặn dò đều được ghi lại bằng lời trước khi từ giã cõi đời này. Tôi như thấy đôi mắt của ba tôi mãi dõi theo tôi. Và đôi mắt của mẹ tôi. Đôi mắt của mẹ từng khóc khi gia đình tôi kẻ ở miền Trung, người ở miền Nam. Và cũng đôi mắt ấy, mẹ khóc mừng khi bà nội và hai đứa em của tôi từ Đồng Nai về cùng gia đình ở Đà Nẵng.
Giọt nước mắt nào cho tôi? Những lúc ốm đau, bệnh hoạn, tôi không khóc. Nhưng từ trong sâu thẳm của lòng mình, tôi nén lòng chịu đựng sự đớn đau của thân xác. Tôi giữ những giọt nước mắt như giữ cái tình riêng của mình. Tôi muốn khóc lắm. Nhưng không thể khóc. Vì trước mắt tôi, bên cạnh tôi còn có bao người thân yêu. Nào là vợ, con, ba mẹ, anh em, bè bạn. Không lẽ tôi để những giọt nước mắt của mình làm tổn thương lòng của họ. Tôi cũng có lúc khóc, nhưng hầu như không ai thấy. Tôi khóc thầm, khóc lúc nửa đêm, khóc dấu lòng mình bằng nụ cười gượng gạo. Đó là những lúc tôi thấy thân phận bé nhỏ của mình trước mênh mông của đất trời, trước những thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh. Tôi đã từng khóc khi tôi hôn nụ hôn đầu với người mình yêu. Tôi và cô ấy từng khóc bên nhau khi tình yêu của chúng tôi gặp sóng gió. May mà cô ấy thành người bạn đời chia sẻ đắng cay ngọt bùi cùng tôi. Nước mắt của chúng tôi như hòa cùng nhau trong niềm yêu thương đi suốt cuộc đời.
Tôi nhớ lại những tháng năm cả thế giới bị dịch covid 19. Giờ giao thừa, tôi chở vợ tôi đi chùa. Tôi đứng ngoài cổng chùa, còn vợ tôi như lệ thường vào thắp hương cầu nguyện. Tôi không biết cầu nguyện những gì khi thấy mọi người đeo khẩu trang, chỉ còn hai con mắt chào nhau ngày tết. Tôi như muốn khóc. Thôi thì chỉ cầu cho quốc thái, dân an, thế giới yên bình. Trong tôi dâng nỗi buồn vô hạn. Nước mắt tôi như muốn trào ra, tôi chẳng biết sao mình xúc động đến vậy?
Thường ngày, tôi có xem tivi, cũng như trên mạng internet. Những giọt nước mắt buồn vui của bao người được ghi lại bằng hình ảnh. Đó là giọt nước mắt của những đứa trẻ vùng cao, miền xa, có hoàn cảnh khó khăn, học hành không đến nơi đến chốn. Đó là giọt nước mắt của những người bị thiên tai như động đất, sóng thần, bão, lũ. Đó là giọt nước mắt vô tội của những người dân bị thương tích, bị mất nhà cửa, người thân bởi chiến tranh, khủng bố. Và còn biết bao dòng nước mắt khác đã tuôn rơi. Quả là trên thế gian này, "nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng" (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Phi thường, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.527). Đó còn là giọt nước mắt vui khi người thân được đoàn viên, hội ngộ. Đó là giọt nước mắt hối lỗi, ân hận của những phạm nhân, giọt nước mắt hướng thiện. Đó còn là giọt nước mắt vui của người làm được việc tốt đẹp cứu giúp người đời. Giọt nước mắt khi người thân yêu được tai qua, nạn khỏi. Đó là những giọt nước mắt an lành, được tưới bởi nước cam lồ thánh khiết.
Thế nhưng đâu đó có những giọt nước mắt nhân danh đạo đức, từ bi, bác ái của bọn lòng dạ cáo, chồn, hổ, báo... giả nhân, giả nghĩa khóc than số phận con người. Đó là nước mắt Trịnh Hâm "giả tiếng kêu trời" sau khi xô Lục Vân Tiên. Đó là những giọt nước mắt hài hước, lố bịch, đóng kịch diễn ra ở đám tang cụ cố Hồng trong "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng cũng như bao đời nay.
Tôi có đứa cháu nội lên ba. Nó cũng có lúc khóc. Nghe tiếng khóc của nó dẫu có nước mắt nhưng biết đó là nước mắt giả đò, làm nhỏ. Đó là thứ nước mắt mong được người khác quan tâm. Quả là những giọt nước mắt con trẻ làm nũng chỉ có vui, đâu có buồn.
Thế nhưng trong tôi như thấy những giọt nước mắt căm thù ở đâu đó trong tiềm thức, bởi tôi đọc ở trong những trang sử, trong những câu thơ, câu văn có những giọt nước mắt căm thù cái ác, căm thù giặc cướp nước, căm thù bất công. Tôi mường tượng những giọt nước mắt của Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Đặng Dung… Ôi, những giọt nước mắt của anh hùng, hào kiệt! Tôi cũng bắt gặp giọt nước mắt của chị Dậu, Chí Phèo, cùng bao người cùng khổ muôn đời nay… Ôi, những giọt nước mắt của lương dân!
Thường thì ai cũng có những giấc mơ và nhớ giấc mơ đã qua. Nhiều đêm liền tôi mơ về những hình ảnh để giờ tôi như thấy diễn ra trước mắt mình. Này là hình ảnh của những của biết bao công nhân ở Bình Dương, Đồng Nai, Sài Gòn, Bắc Giang... vừa mất việc làm, tay nách xách mang chút quà của ngày cuối cùng ở nhà máy để ngày mai về lại nơi chốn quê nhà. Tôi nghe tiếng nói của họ. Ngày mai tau về, tau nhớ mày lắm đó. Nhớ điện cho tau nghe. Khi nào mình gặp lại. Bọn mình sống sao đây?... Nghe họ nói, tôi tưởng như nước mắt của họ thấm đẫm trên cung đường hồi hương. Nước mắt của họ có làm tim bao người xú động?
Cũng là những cơn mơ đến với tôi. Tôi mơ thấy bao người vật vã, khóc than bởi thiên tai, dịch bệnh, đói khổ. Và tôi mơ ngày sau rốt, nước mắt của bao người sẽ là nước mắt mừng vui khi tai qua nạn khỏi. Tôi thấy những giọt nước mắt mừng vui khi gieo nhân thiện lương, gặt quả phước hạnh. Quả là: “Người nào gieo giống trong nước mắt sẽ gặt hái cách vui mừng. Người nào vừa đi vừa khóc, đem giống ra vãi, chắc sẽ trở về cách vui mừng, mang bó lúa mình” (Thi Thiên 126: 5-6 VIE2010).
Nhiều khi những buổi chiều buồn, tôi thường tìm quán cà phê ngồi một mình. Không phải ngồi khóc một mình. Không phải giải khuây. Cũng không biết để làm gì. Có phải tôi tìm chính tôi? Tôi bâng quơ. Bởi không biết làm gì, thôi thì, lấy điện thoại mở Facebook xem sao. Tôi vào trang của một người bạn yêu thích nhạc. Và lời bài hát vang lên: “Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng/ Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong/ Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm/ Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong…” (Giọt nước mắt cho quê hương, Trịnh Công Sơn)
Nghe bài hát tôi thầm nghĩ nước mắt có dành để yêu thương không? Và ai từng khóc bởi yêu thương?
Tháng 07/2023
P.T.H
0 notes
Text
ÁO TRẮNG TRONG TÔI
ÁO TRẮNG TRONG TÔI
Tạp bút Phan Trang Hy

Câu văn cũ có níu được thời gian để cho tôi tìm dòng sông Hàn vấn vương sắc trời cổ tích. Bến phà xưa đâu có còn để vương hương tóc Hà Thân trên con đường em đi học, để tôi tìm dấu chân ai trên cát vàng Đông Giang của tuổi học trò ngu ngơ một thuở.
Tháng giao mùa cuối hạ đầu thu cho tôi tìm lại tháng ngày đi học. Tháng những ngày vui của tuổi học trò xếp lại theo những cánh phượng hồng chở những nhớ nhung, chở những mối tình câm thời áo trắng, để những bài thơ, câu hát đọng lại bên đời thành ký ức một thuở mộng mơ.
Tôi như thấy tôi thuở nọ ngu ngơ. Tôi tìm thấy tôi một thuở dại khờ. Dại khờ quên trước, quên sau, quên mở đầu sao cho suôn sẻ. Tôi chỉ ấp úng chẳng nói thành lời. Để rồi đến tận bây giờ mới liều mình mở miệng. Mà mở miệng để làm gì khi chẳng hát được câu hát nào, mở miệng để làm gì khi chỉ thầm hát theo câu hát cũ: “Tóc mai sợi vắn sợi dài/ Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”. Rồi tôi thầm nghĩ ngàn năm sau em và tôi có gặp lại đâu để mà thương, để mà thấy mặt nhau, để mà trách cứ nhau, hoặc nghĩ về nhau cho lòng đủ ấm.
Và tôi cũng ấm lòng khi biết em biết được tình tôi. Cũng an ủi cho tôi, một kẻ đến giờ vẫn cứ nghĩ về em, về những ngày học chung lớp. Những ngày chung lớp ấy, tôi làm sao quên được những lần em hát. Bài hát ngày xưa tôi không nhớ tên. Chỉ biết rằng khi em từ nước Mỹ trở về, em tặng tôi một dĩa CD có tiếng hát ấm giọng Nha Trang của em. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần. Trong tôi cứ vang lên lời ca “Ngàn năm thương hoài một bóng người thôi”... Lời ca ấy là lời của lòng tôi em có biết?
Lời ca ấy em hát và tôi nhẩm hát theo. Hát theo bao lần theo mùa, theo năm tháng. Mấy mùa học, mấy mùa thi, mấy mùa tựu trường trở thành dĩ vãng. Bao năm tháng tôi đi trên những chuyến phà qua lại sông Hàn, bao con đường có những tà áo dài trắng tinh khôi, bao con đường học trò cho tôi khôn lớn. Bao con đường tôi qua, bao kỷ niệm hoá thành gió, thành mây, thành nắng, thành mưa. Kỷ niệm trong tôi hoá già để em vẫn mãi tinh khôi thuở nọ. Và tôi cũng hoá già nhưng em mãi trẻ trong tôi.
Em vẫn là em, áo trắng ngây thơ của một thời Đông Giang. Và em vẫn là em khi về lại trường xưa mang tên Hoàng Hoa Thám.
Biết bao buồn vui trên đường đời tôi gặp, nhưng tôi không thể nào quên được những buồn vui của thuở học trò.
Có khi tôi ngang qua trường cũ. Ánh mắt của ai ngày xưa thấp thoáng đâu đây. Và tôi như thấy những ánh mắt sáng và hiền trong tà áo trắng hôm nay. Vẫn như tôi và em thuở nọ, tiếng cười tuổi học trò vẫn trong trẻo dưới nắng vàng, vẫn khúc khích làm duyên trong giờ ra chơi, vẫn làm xao xuyến những cậu con trai vừa lớn.
Như tôi và em thuở nọ, những ánh mắt hôm nay vẫn mở to chăm chú nghe lời thầy cô giảng dạy; vẫn khám phá cuộc đời ngoài vở sách, khao khát tương lai của tuổi học trò.
Như tôi và em thuở ấy, những học trò hôm nay cũng có những lần thuyết trình văn học, những đợt hùng biện tiếng Anh, những cuộc thi học sinh giỏi, tham gia làm bích báo, diễn văn nghệ, cắm trại, dã ngoại... Chắc những thứ đó sẽ là những ký ức đẹp về một thời đi học thuở thư sinh.
Như tôi và em thuở nọ, những con tim hôm nay vẫn đầy yêu thương trân quý bè bạn, thầy cô. Vẫn nhiệt huyết tràn đầy, miệng hát bài ca tuổi học trò mộng đẹp. Vẫn như tôi và em, và có lẽ hơn cả tôi và em, là thế hệ học trò hôm nay giỏi hơn chúng mình ngày ấy.
Và tôi tin một điều là bao thế hệ học sinh của trường Đông Giang thuở ấy và Hoàng Hoa Thám ngày nay cũng như ngày mai cùng niềm tin yêu và khát vọng như nhau.
Tôi như thấy mình là cậu học trò ngập ngừng bước vào trường năm học 1967- 1968. Và giờ, trong tôi rộn tiếng cười ngày hội ngộ. Tôi thấy cả một trời Đông Giang - Hoàng Hoa Thám đầy ắp tiếng nói, tiếng cười của bao thế hệ học sinh, của bao thầy cô giáo.
Trước mắt tôi và trong tôi là ngôi trường tôi đã từng học. Ngôi trường một thời cho tôi biết bao thương nhớ. Ngôi trường đã cho tôi và biết bao thế hệ học sinh nên người.
Trước mắt tôi là dáng hình của thầy cô giáo ngày nay, ngày xưa…
Trước mắt tôi là những tà áo trắng. Áo trắng ngày nay. Áo trắng ngày xưa…
Tháng 03/2023
P.T.H
0 notes
Text
Có một Phạm Duy như thế




Có một Phạm Duy như thế
Gia tài âm nhạc của Phạm Duy để lại cho đời quả là đồ sộ. Nhiều lần, tôi có trao đổi với một số thân hữu, nhiều người đều khẳng định Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ đóng góp lớn vào nền âm nhạc nước nhà. Phạm Duy cũng đã tự bạch là âm nhạc của ông có nhiều đề tài, chủ đề như Hương ca, Bé ca, Tình ca, Đạo ca, Tục ca, Rong ca, Thiền ca… Khi nghe những bài hát theo từng chủ đề, đề tài ấy, trong tôi chợt lóe lên là hiển hiện một Phạm Duy với nhiều cung bậc khác nhau của cuộc đời.
Nghe và đọc ca từ trong các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy, tôi lại gặp một Phạm Duy thể hiện rõ tính cách có đủ 3 yếu tố Cái Nó - Bản năng có người gọi là Tự ngã (The Id), Cái Tôi – Bản Ngã (The Ego) và Siêu Tôi - Siêu Ngã (The Superego).
Cái Nó (có người gọi là Tự ngã) – Bản năng (The Id) trong lời nhạc Phạm Duy
Theo Sigmund Freud, Cái Nó chính là nguồn cung cấp libido và chi phối suốt cuộc đời con người.
Không chỉ Phạm Duy mà bất cứ ai cũng đều có libido. Mỗi người thể hiện libido bằng hình thức của riêng mình. Có người, thể hiện bằng tranh tượng; có người thể hiện bằng động tác, cử chỉ, lời nói; có người dùng âm thanh. Riêng Phạm Duy, theo tôi, libido của ông được phô bày bằng giai điệu và ca từ âm nhạc. 10 bài Tục Ca như thể hiện một phần Cái Nó của ông.
Nghe 10 bài Tục ca, hình ảnh đầu tiên mà người nghe cảm nhận là hình ảnh sinh thực khí, các bộ phận trên cơ thể con người, kể cả chuyện giao hoan được Phạm Duy đưa vào âm nhạc,
Hình ảnh sinh thực khí nữ thành lời ca, quả là điều độc, lạ trong âm nhạc. Thực ra, trong văn học dân gian, hình ảnh này đã có trong ca dao, tục ngữ hoặc truyện cười, kể cả trong văn học đương đại cũng có. Còn trong tân nhạc Việt Nam hình ảnh này quả là “sốc” với người nghe như Tục ca số 2, số7, số10.
Hoặc các bộ phận trên cơ thể con người như đầu, chân, vú, tóc, răng,… mang dục tính cũng thành lời ca. Lời ca ấy khơi dục bằng âm thanh, hình sắc như trong các bài Tục ca số 3 – Gái Lội Qua Khe (thơ Bùi Giáng), Tục ca số 6 – Mạo Hóa.
Ngoài ra, chuyện giao hoan cũng đi vào lời ca như chuyện cợt đùa. Chuyện giao hoan thành lời cho âm nhạc quả là độc. như tục ca số 5 – Khỉ Đột (phóng tác Le Gorille của Georges Brassens), hoặc Tục ca số 4 – Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi.
Theo Freud thì Cái Nó là gốc rễ của mọi nguồn năng lượng tinh thần, khiến nó trở thành thành phần chính của tính cách. Chính vì thế, Cái Nó, cái libido thành lời ca đâu chỉ là chuyện vui mà nó là phần đời của Phạm Duy.
10 bài Tục ca tuy thể hiện Cái Nó - Bản năng (có người gọi là Tự Ngã), nhưng qua đó ta thấy được một Phạm Duy sống thực với chính mình, sống hết mình với thất tình, lục dục ở chốn nhân gian.
Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong lời nhạc Phạm Duy
Tiếp đến, tôi xin đề cập đến Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong một số bài nhạc của ông. Theo tôi, những chương khúc viết về Đạo ca, Thiền ca và trường ca Hàn Mặc Tử có lời chuyển tải được cái Siêu Tôi.
Trước tiên là chương khúc Đạo ca. 10 bài Đạo ca là sự đồng cảm, tương tri, tương ngộ giữa nhạc sĩ Phạm Duy và tu sĩ Phạm Thiên Thư. Lời của Phạm Thiên Thư hòa vào trong giai điệu, âm thanh của nhạc Phạm Duy ngợi ca cái Siêu Tôi.
Cái Siêu Tôi ở đây chính là sự ngợi ca chân lý của đời sống tinh thần, ngợi ca sự ngưỡng vọng thế giới tâm linh. Đối với người Việt, cụ thể, đó là ngợi ca về tiếng chuông chùa, ngợi ca lời kinh Phật. Tiếng chuông chùa, lời kinh Phật làm bừng thức tâm linh, xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sinh, đem thái bình cho thế gian, đem an vui cho nhân loại:
Bóng đêm qua rồi, bóng đêm qua rồi
Tiếng chuông vang hồi, tiếng chuông vang hồi
Thấy trong nhân loại tiếng chuông vang hồi
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông rơi.
Nụ hoa đang ngủ, giấc êm giữa nội
Giọt sương trên lá đón đưa ánh trời
Để cho con suối vươn vai trở mình
Chùa rêu lơ lửng giữa lưng núi mờ
Đại hồng, chuông lớn đã khua tiếng ròn
Nụ cười yên tĩnh ngát hương khói trầm
Lời kinh cao ngất A Di Đà Phật
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang…
(Đạo ca 8 – Giọt Chuông Cam Lồ)
Theo Sigmund Freud, Siêu Tôi là một phần trong tính cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng mà con người tiếp nhận từ cả cha mẹ và xã hội – nó chính là cảm nhận của con người về cái đúng sai trong cuộc sống. Chẳng hạn, mẹ thương yêu con là điều đúng, là lẽ đạo hợp với tự nhiên, tạo hóa. Mẹ luôn che chở, thương yêu, hy sinh vì con là chuyện thường tình của con người. Dẫu thường tình, nhưng tình yêu ấy là vĩ đại. Phạm Duy và Phạm Thiên Thư đã kể chuyện bằng âm nhạc về một bà Mẹ, đi tìm con khắp chốn, tìm con cả bốn mùa. Thế rồi, Mẹ chết đi hóa thành Mẹ chung của nhân loại. Chính tình yêu thương con vô bờ bến đã biến tình yêu của Mẹ ôm cả trần gian. Mẹ là Quán Thế Âm chốn bụi trần:
Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hóa thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng.
(Đạo ca 4 – Quán Thế Âm)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng còn thể hiện ở sự hướng thiện, hướng về chân lý, hướng về cái đẹp vĩnh hằng. Sự hướng đến chân thiện mỹ trở thành nhu cầu tâm linh, nhu cầu của sự thức tỉnh để lột xác, hóa thân của từng chủ thể để đạt đến cõi an lạc. Chỉ có thái độ, hành xử bình đẳng, trân trọng sự sinh hóa với muôn loài mới có th�� đạt đến cảnh giới an lạc, mới thấy tâm bình yên giữa nơi chốn luân hồi:
Tâm là đảo quý giữa biển luân hồi
Thần thánh đi rồi, chỉ có lòng thôi
Hiện hữu đây rồi, không ý không lời
Tôi không là Tôi, Người không là Người
Mười phương mây nổi như cánh hoa trôi
Như sóng ra khơi, như hơi gió thổi
Như mây xa vời, như bóng hạc trời
Tôi không là Tôi, Người không là Người.
(Đạo ca 9 – Chắp Tay Hoa)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng cũng được thể hiện ở lòng nhân ái. Đã là Người, thì lòng nhân ái cũng là điều giúp con người trở thành Người đúng nghĩa. Tục ngữ Việt Nam có câu “Thương người như thể thương thân”. Đó cũng là ý nguyện lớn đâu chỉ cho riêng ai. Thử tưởng tượng cảnh đời như thế nào khi có ý nguyện ấy được cất lên bằng lời ca tự cõi lòng:
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân!
(Đạo ca 2 – Đại Nguyện)
Ngoài ra còn các bài Đạo ca 1 – Pháp Thân, Đạo ca 3 – Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng, Đạo ca 5 – Một Cành Mai, Đạo ca 6 – Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu, Đạo ca 7 – Qua Suối Mây Hồng, Đạo ca 10 – Tâm Xuân cũng hướng đến cái siêu nhiên, sự thương yêu mầu nhiệm, sự hiến dâng cho tha nhân… Điều đó, cho thấy Phạm Duy và Phạm Thiên Thư phần nào hướng đến tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng.
10 bài Đạo ca, theo tôi là sự hiệp thông của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy cùng muôn vật, muôn loài; là sự hướng đến Đại Ngã vô cùng. Đó cũng là những gì trong con người Phạm Duy, Phạm Thiên Thư chứa cái Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) muốn hòa cùng Đại Ngã. Thật là quý khi âm nhạc Việt có chương khúc như vậy.
Ngoài Đạo ca, chương khúc Thiền ca gồm có 10 bài cũng hướng đến lý tưởng và tiêu chuẩn đạo đức. Trong Thiền ca, tiêu chuẩn đạo đức lý tưởng ấy hiện rõ trong quy luật nhân quả. Đây là quy luật hầu hết mọi vật, mọi chúng sinh được (bị) chi phối. Mọi thứ đều được (bị) cuốn vào vòng tử sinh luân hồi, kể cả lời hứa:
Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều.
(Thiền ca 10 – Nhân Quả)
Bên cạnh đó, chất Siêu Tôi còn được Phạm Duy hiển lộ bằng suy nghiệm của những người hành thiền bằng âm nhạc. Có thể Phạm Duy nhìn vũ trụ này vừa chung vừa riêng, vừa trống không vừa đầy ắp sinh trùng, vừa thực vừa hư, vừa động vừa tĩnh:
Thinh không
Vắng vẻ trầm ngâm
Lặng lẽ âm thầm
Yên tĩnh vô cùng
À à a a bỗng
Rộn rã tưng bừng
Nhất nhất trùng trùng
Nhưng cũng là không…
(Thiền ca 1 – Thinh Không)
Siêu Tôi trong Thiền ca còn được Phạm Duy chọn lọc những ngôn từ, như thanh lọc tâm hồn hướng đến cái đẹp, cái vô cùng của tạo hóa:
Một loài hoa không tên
Không sắc không hương
Mà như lòng tôi
Lộng lẫy thơm lừng
Tỏa ra bốn hướng
Một ngọn suối không tên
Bé nhỏ, ngoan hiền
Mà như lòng tôi
Nổi sóng lên đường
Thành bốn trùng dương
Và lòng tôi không tên
Như suối, hoa tiên.
(Thiền ca 4 – Không Tên)
Theo S. Freud thì Siêu Tôi hành động nhằm hoàn thiện và giáo hóa hành vi của con người. Nó đè nén tất cả các ham muốn không thể chấp nhận của Cái Nó và đấu tranh để bắt Cái Tôi hành động dựa trên các chuẩn mực lý tưởng thay vì theo các nguyên tắc của thực tế. Chính vì thế, Siêu Tôi trong Thiền ca của Phạm Duy còn hiển lộ ở thái độ cợt cười thất tình, lục dục - những thứ làm khổ con người - tự răn mình chọn lọc ký ức để an nhiên, tự tại:
Nhớ ơn người
Quên thù ai
Nhớ điều buồn
Quên điều vui
Nhớ tình này
Quên tình khác
Nhớ mình rồi
Quên mình luôn
Ha ha ha
Ha ha ha!
(Thiền ca 8 – Răn)
Cũng theo S. Freud, Siêu tôi chỉ dẫn giúp con người đưa ra phán xét. Chính sự phán xét mà con người mới tự răn mình và khuyên người khác. Bội bạc, dối trá, hung dữ, hận thù đem lại gì ngoài cái chết! Rõ là Phạm Duy đưa ra phán xét để thoát được bến mê, đến được bờ sông giác:
Muốn tới được bờ sông giác
An nhiên hát nhỏ, cùng tôi
Tôi là tôi, tôi cũng là em
Em là tôi, em cũng là anh
Là Xuân con bướm hút nhụy xuân tình
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.
(Thiền ca 5 – Xuân)
Ngoài ra, các Thiền ca còn lại như Thiền ca 2 – Võng, Thiền ca 3 – Thế Thôi, Thiền ca 6 – Chiều, Thiền ca 7 – Người Tình, Thiền ca 9 – Thiên Đường Địa Ngục cũng được chắt lọc lời ca mang hơi thở, giai điệu phù hợp với chất thiền.
Với 10 bài Thiền ca, Phạm Duy suy nghiệm, làm chứng cõi thiền bằng ngôn từ âm nhạc như đưa người yêu nhạc tự lắng hồn rửa sạch những bụi trần, hướng đến cõi siêu nhiên.
Siêu Tôi trong nhạc Phạm Duy, không những có trong Đạo ca, Thiền ca mà còn có trong trường ca Hàn Mặc Tử. Trong trường ca Hàn Mặc Tử, Phạm Duy đã chọn những bài thơ tiêu biểu của tập thơ Gái Quê, Thơ Điên (Đau Thương), và Xuân Như Ý để phổ nhạc. Trường ca này gồm 3 phần: phần I – Tình Quê, phần II – Trăng Sao, phần III – Ave Maria. Cũng trong trường ca này, phần III – Ave Maria cũng thể hiện Siêu Tôi. Siêu Tôi ở đây là sự ngưỡng vọng, là lời xưng tụng Đức mẹ Maria. Bởi Mẹ là Thánh Nữ tinh truyền giàu nhân đức, từ bi, với nhiều phép lạ nhiệm màu:
Maria Maria
Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Maria Maria
Run như run thần tử thấy long nhan
Maria Maria
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Maria Maria
Nhưng lòng nhuần ơn trìu mến
Maria Maria…
Theo Phúc âm Luca, Sứ thần Thiên Chúa Gabriel (Ga-bri-en) đến gặp thiếu nữ đồng trinh Maria để tiên báo về việc mang thai Chúa Giêsu. Lời báo tin ấy là Tin Mừng cho nhân loại. Để ngợi ca Tin Mừng ấy, Phạm Duy đã dựa vào lời thơ của Hàn Mặc Tử xưng tụng Sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Xưng tụng Gabriel cũng là xưng tụng hồng ân của Thiên Chúa với Mẹ Maria Sầu Bi, cũng như loài người tội lỗi:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe thơ màu nghiệm ra đời
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe xôn xao nghìn tinh tú
Để ca tụng bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm Xuân là rất đổi anh linh
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Lòng vua chúa như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi…
Mẹ Maria là Đấng tinh truyền. Xưng tụng Mẹ cũng là sự ngưỡng vọng về Phượng Trì vừa hư vừa thực. Sự ngưỡng vọng ấy hướng đến Cái Đẹp vĩnh hằng rực rỡ hào quang, bởi “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” (F.M. Dostoyevsky).
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một thời chưa thấu
Hồn tôi bay biết bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
A-men.
Theo S. Freud thì “Siêu Tôi luôn hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức”. Hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức trong trường ca này, có thể nói đó là sự ngưỡng vọng, ngợi ca Cái Đẹp: Phượng Trì, Sứ Thần Gabriel và Mẹ Maria.
Có thể nói rằng, những lời ca trong Đạo ca, Thiền ca và trường ca Hàn Mặc Tử hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức để Phạm Duy thể hiện Cái Tôi trong những lời ca lắng đọng còn lại.
Cái Tôi – Bản ngã (The Ego) trong lời nhạc Phạm Duy
Bên cạnh Cái Nó, Cái Siêu Tôi – theo tôi – Cái Tôi cũng cần đề cập. Bởi hầu hết nhạc Phạm Duy đều có Cái Tôi.
Trước tiên, đó là Cái Tôi yêu nước. Hầu như mọi người đều công nhận trong một số bài hát, cũng như một số trường ca, Cái Tôi yêu quê hương, đất nước của ông cất lên cùng tiếng lòng của người dân Việt. Đâu phải một mình Phạm Duy mới thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong âm nhạc. Nhưng qua lời ca, nghe lời ca ấy cất lên, người yêu nhạc lại thổn thức, trầm trồ có một nhạc sĩ viết lời ca với những giai điệu làm xao xuyến lòng người, khơi dậy cái tình yêu quê hương, đất nước ấy trong bản thể của người nghe. Cái tình yêu ấy bắt nguồn từ tiếng khóc đầu đời, từ lời ru của mẹ, của bà… Không thể không xúc động khi nghe lời ca:
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời! Người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi! Nước ơi!…
(Tình Ca)
Tình yêu quê hương, đất nước ấy cụ thể là yêu con “sông đào xinh xắn” đem nước tưới mát cánh đồng quê thơm mùa gặt hái, là yêu bóng dáng của mẹ, của chị, của em lúc tan chợ chiều vội về lo bữa cơm chiều đầm ấm, và là yêu nhớ cô gái có miếng cười duyên. Đó còn là yêu bóng đa che chở những trẻ quê lúc trưa hè im nắng, có những con trâu lành nằm nghe khúc sáo quê hiền hòa. Đó còn là tình cảm với những bà mẹ quê hát ru, vỗ về, ôm ấp tuổi thơ. Và chính những gì cụ thể đó, khi xa quê, tình yêu ấy dâng trào thành nỗi nhớ xốn xang:
Tình hoài hương!
Khói lam vương tâm hồn chìm xuống
Chiều soay hương!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Người phiêu lãng!
Nước mắt có về miền quê lai láng
Xa quê hương! Yêu quê hương…!
(Tình Hoài Hương)
Yêu quê hương, đất nước trong nhạc Phạm Duy còn là tiếng thở dài về cái nghèo của quê hương một thuở. Tiếng thở dài ấy không bi lụy mà là tiếng lòng quá đỗi yêu quê, bởi quê nghèo hiện lên với hình ảnh “những cánh đồng cát dài”, “lũy tre già tả tơi”, “ruộng khô”, “ông già rách vai”, “đàn trẻ gầy”, “người bừa thay trâu”,… Yêu đến nỗi chỉ mong có ngày được mùa, để gái trai rộn ràng niềm vui đôi lứa:
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.
(Quê Nghèo)
Cái Tôi yêu quê hương, đất nước ấy thành tiếng gọi thiết tha “Chiều ơi!”. Tiếng gọi chiều là tiếng gọi tự đáy lòng, tiếng gọi vọng vào vách núi, tiếng gọi vọng theo người quảy lúa, tiếng gọi vọng về lúc yên vui. Đó còn là tiếng gọi vọng vào hồn núi, hồn quê một thuở:
Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều
Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều
Chiều ơi! Biết chiều nào còn đứng trên nương
Phố phường nhiều chiều vắng quê hương, ới chiều
Chiều ới! Chiều ơi! Chiều ơi!
(Nương Chiều)
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy rất đặc biệt. Bởi, ngoài những bài ca mang đượm hồn quê hương đất nước, còn có hai trường ca để lại dấu ấn sâu đậm với người yêu nhạc không những bởi giai điệu phong phú, đa dạng, mà còn có lời ca mang đậm hồn nước vừa dân dã vừa trang trọng, vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Đó là trường ca Con Đường Cái Quan (Sài Gòn, 1960) và trường ca Mẹ Việt Nam (Sài Gòn, 1964).
Chính hai trường ca này cho người yêu nhạc cảm nhận được Cái Tôi yêu nước của Phạm Duy quả là đặc biệt. Phạm Duy từng viết: “Tôi đã chủ trương những cuộc lên đường trong âm nhạc… thì còn cuộc lên đường nào thú vị hơn là đường đi vào quê hương với những trường ca?
Trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN được thai nghén từ 1954, vừa lúc các cường quốc vừa chia đôi nước Việt Nam ra thành hai miền Quốc – Cộng với bản Hiệp Định Geneve. Tôi đang đi học nhạc tại Paris và bằng trường ca này, tôi phản đối sự chia cắt đó. Vào năm 1960, tôi hoàn tất phần còn lại của trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN.
Nếu CON ĐƯỜNG CÁI QUAN là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt thì MẸ VIỆT NAM là một âu ca, ca tụng Mẹ Tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng nhắm dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất ta và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn hiện tại.
Đây là một trường ca trong đó, lúc trẻ tuổi, Mẹ Việt Nam được biểu tượng bằng đất màu tươi tốt, đa tình, nền tảng của gia đình, ruộng nương, làng nước. Khi đứng tuổi, Mẹ hiện thân là núi non sắt đá, trong sự hy sinh ròng rã, vẫn bền bỉ đợi chờ và che chở cho người chinh phu chưa hết nợ binh đao. Mẹ còn âm thầm xót thương lũ con sông ngòi, có những đứa dại dột, hiếu thắng, phản bội Mẹ vì sự tranh giành lẫn nhau, gây oán hận phân chia, làm nát tan lòng Mẹ. Vào lúc tuổi già, Mẹ trở thành biển cả đại lượng bao dung, kêu gọi và ôm đón đàn con giang hồ, thành công hay thất bại. Nước mắt vui mừng của Mẹ gặp con bốc lên trời cao làm mây đầy đặn và ấm áp, bay đi rửa sạch địa cầu bằng ơn mưa móc, nối chặt chu kỳ trường ca MẸ VIỆT NAM” (Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca).
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy qua lời ca, đó chính là sự sáng tạo nghiêm túc, đầy trách nhiệm với nền âm nhạc Việt Nam cũng như với Tổ quốc Việt Nam. Ý thức trách nhiệm là người Việt Nam thì phải có tiếng nói, hành động như thế nào với hiện tình đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Làm được những điều đó là sự chọn lựa của từng cá nhân, trong đó có Phạm Duy. Bởi theo S. Freud thì Cái Tôi là thành tố của tính cách chịu trách nhiệm giúp con người xử trí với thực tại.
Bên cạnh đó, tôi còn bắt gặp Cái Tôi yêu đời, yêu người của Phạm Duy trong lời ca. Chỉ là lời ca viết cho con gái Thái Hiền hát, nhưng ở đó là cõi lòng của ông như trẻ thơ dành cho đời, cho người. Nào quê hương đẹp ngời cùng năm châu; nào là thương xá hay vỉa hè, nào là ngồi xe lam trên đường vui với biết bao là thú vị rộn tiếng yêu đời, yêu người:
Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
Nhìn mây trăng trắng bay trên nền trời
Nhìn mây trăng trắng bay ra ngoài khơi
Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
…………………………………………..
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!
Từ nơi xóm vắng hay trên lộ đầy
Từ nơi phố đó hay trong làng đây
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!
(Tuổi Xuân)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trong nhạc Phạm Duy còn là những gì cụ thể. Không xa rời cuộc sống, Cái Tôi ấy của Phạm Duy cất lên lời ca ngợi bà mẹ quê tảo tần, “vất vả trăm chiều”, “nuôi một đàn con chắt chiu” (Bà Mẹ Quê); ca ngợi hình ảnh em bé quê: “Em bé dân quê Việt Nam/ Là mầm non tươi thắm/ Sức mai sau xây đắp quê hương/ Cho nước giàu mạnh hơn” (Em Bé Quê); ca ngợi cuộc sống yên bình của người nông dân: “Chàng vừa cày sâu vừa hứng mưa trên mái đầu/ Hái bông ngô vàng hay bới khoai nâu/ Nàng vừa cuốc bẫm, tắm trong sương sớm/ Tát xong nước rồi, sẽ về thổi cơm/ Chữ i móc ngược, o o ó o tròn/ Còn trong một nước ứ ư/ Người người ơi, ta còn yêu nhau/ Người người ơi, ta đừng bỏ nhau” (Vợ Chồng Quê).
Còn đây là Cái Tôi yêu đời, yêu người qua những việc bình thường. Chính những thứ thường thường ấy làm nên điều kỳ diệu của tâm hồn. Chuyện kể, có lần Phạm Duy hồi hương, đi thăm miền Hậu Giang. Trên chuyến phà qua sông, ông nghe tiếng mời mua vé số. Trước mắt ông là cô bé bán vé số thật xinh: “Guốc mộc áo lành không rách/ Mắt tròn trong sáng và to/ Má em hoe và môi em đỏ/ Mái tóc dày mùi tóc thơm tho/ Với chiếc kẹp tóc thơm tho”. Ông móc túi ra, tặng cho em chút quà không nhỏ. Thế nhưng, em bé lắc đầu, bởi em không muốn xin tiền người. Thế là ông phải mua một lúc 20 tờ, dù chẳng tin vào xổ số. Em bé rất vui! Và thật bất ngờ, như một truyện ngắn với chi tiết đắt, gây ấn tượng ở phần cuối. Chỉ có lòng trân trọng, yêu quý con người và cuộc đời mới có kết thúc đẹp, lắng đọng hồn người như vậy:
Thế rồi phà tới bến quê
Thế rồi tôi bước lên xe
Bé thơ chạy tuốt lên bờ
Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra.
Con tặng cho ông đó
Thế rồi tôi vẫn còn đi
Trên đường giang hồ đây đó
Mang theo hương vị quê mùa.
Hương nồng tự đất quê ta
Đến từ kẹp tóc em thơ
Chiếc kẹp tóc thơm tho.
(Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trở thành máu thịt được truyền từ Mẹ Việt qua nhạc Phạm Duy. Cái Tôi ấy có khác chi tinh thần: “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn” (Phụng Hiến, Bùi Giáng). Cái Tôi ấy có khác chi tiếng gọi đồng bào từ thuở sinh ra từ bọc Mẹ Âu Cơ:
Trời cho anh được hơn muông thú
Sinh ra đời với kiếp con người
Trời cho anh bộ tim khối có
Cho linh hồn, cho biết buồn vui.
Mẹ cho anh còn hơn thế nữa
Cho tấm lòng không thiếu không thừa
Niềm vui hay niềm đau thấp thoáng
Anh yêu người, giun dế còn thương.
(Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào)
Yêu đời, yêu người, bởi đời và người luôn luôn cho ta nhiều thứ quý giá ở cõi người. Bởi đời và người tốt đẹp trong thế gian này ban ơn cho chúng ta biết bao điều. Do thế, yêu đời, yêu người như là bổn phận của chúng ta như là sự biết ơn. Đã là người không ai thoát được bổn phận ấy trong cõi đời:
Ôi ơn đời chói vói
Nhớ khi thân tròn ôm gối
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui
Ôi ơn đời mãi mãi
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ái ân muôn đời.
(Tạ Ơn Đời)
Ngoài ra, trong lời ca của Phạm Duy bộc lộ Cái Tôi khát vọng tự do. Bởi “Tự do đáng để trả giá” (Jules Verne), tự do là thứ quý nhất trên đời. Khát vọng tự do có trong lời ru con: “À ơi, con ngủ u ù cho muồi/ À ơi, cười vui trong giấc mộng/ À à ơi! Yêu đời tự do/ À à ơi, à à ơi! À à ơi, à à ơi!” (Vợ Chồng Quê). Cũng có cả trong lời xưng tụng ngợi ca: “Việt Nam đây miền xinh tươi/ Việt Nam đem vào sông núi/ Tự do công bình bác ái muôn đời” (Việt Nam! Việt Nam!). Và có cả trong lời nguyện cầu: “Tình nhân loại, nghĩa đồng bào/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Đang kêu to: Tự do yêu dấu/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Sống yên vui dưới mặt trời cao/ Sống yên vui dưới mặt trời cao” (Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào).
Không những thế, trong nhạc Phạm Duy, lời ca còn thể hiện Cái Tôi ước mơ. Đã là người, theo tôi nghĩ, ai cũng có mơ ước. Mơ ước giúp con người hy vọng vào cuộc sống, tin vào tương lai. Một cuộc sống buồn tênh bởi kiếp nghèo, bởi hoàn cảnh vẫn không ngăn được niềm ước mơ về cuộc sống an lành:
Đường về trong mơ đêm đêm phố lớn thênh thang
Ánh sáng kinh kỳ tràn lan
Đời nghèo không riêng thương yêu bóng dáng Xuân sang
Yêu phố vui, nhà gạch ngon
Đèn đêm không soi bóng vắng
Kinh đô thắc mắc
Im nghe phố buồn
Người đi trong đêm tối ám
Nghe mưa thức giấc
Khuyên nhau chờ mong.
(Phố Buồn)
Cái Tôi ước mơ còn thể hiện về một thời chấm dứt chiến tranh, hòa bình được trở về trên đất Mẹ Việt Nam để cho người con được một lần hát ru cho Mẹ giấc ngủ an lành. Quả là đẹp, bởi có gì đẹp hơn khi con nhìn Mẹ yên bình trong lời ru của con:
Mẹ năm mươi tuổi chiến tranh
Con hai mươi tuổi, Hòa Bình về chơi
Từ lâu súng nổ vang trời
Hôm nay yên lặng cho đời ngẩn ngơ
Mẹ tôi giấc ngủ khó khăn
Xưa nay ru mẹ toàn bằng đạn bom
Mẹ ơi! Giâc ngủ muộn màng
Con xin ru mẹ một ngàn lời ru…
(Ru Mẹ)
Cái Tôi ước mơ trong nhạc Phạm Duy luôn trong sáng. Đành rằng ước mơ suy cho cùng cũng chỉ là ham muốn, có tính dục, libido. Nhưng ở đây, Cái Tôi ước mơ ấy như được soi sáng bởi Cái Siêu Tôi để ước mơ càng thêm đẹp. Ước mơ của người bình thường là ước mơ có tiền có bạc để có cuộc sống sung túc, ước mơ thành nghệ sĩ để có tiếng tăm. Tất cả là ước mơ vì lợi danh. Thế nhưng, trong nhạc Phạm Duy, ước mơ giàu có, không phải chỉ để mình hưởng thụ; ước mơ thành nghệ sĩ là để cống hiến cho đời. Ước mơ đẹp như thế quả là đáng ngợi ca:
Cho tôi lại một mùa mưa rơi buồn ngoại ô
Đêm đêm đèn trong ngỏ soi sáng mảnh tim khô
Tôi mơ thành triệu phú cứu vớt gái bơ vơ
Tôi mơ thành thi sĩ đem thơ dệt mộng hờ.
(Kỷ Niệm)
Tôi từng đọc bài thơ “Mao Ốc Vị Thu Phong Sở Phá Ca” (Bài Ca Nhà Tranh Bị Gió Thu Phá) của Đỗ Phủ (712-770) trong đó có đoạn: “An đắc quảng hạ thiên vạn gian/ Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan/ Phong vũ bất động an như san/ Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc/ Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc” (tạm dịch: Ước sao có được nhà rộng muôn ngàn gian/ Giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều vui/ Gió mưa chẳng kinh động, vững như núi non/ Hỡi ôi, bao giờ thấy nhà ấy sừng sững trước mắt/ Riêng nhà ta bị phá nát, chịu rét đến chết cũng cam lòng). Ước mơ đó thể hiện Cái Tôi nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ. Ông xứng là Thi Sử, Thi Thánh như người đời ca ngợi. Còn Phạm Duy lại có ước mơ trong khi đất nước đau thương, đói nghèo, buồn khổ là “mơ thấy trăm họ tốt tươi”, “mơ thấy bên lề cuộc đời” đôi lứa rạng ngời yêu thương, mọi người đùa vui trong nắng đẹp. Uớc mơ của Phạm Duy, theo tôi, cũng cao cả, xứng đáng được ngợi ca:
Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi.
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong nắng cười…
(Quê Nghèo)
Theo Sigmund Freud thì Cái Tôi là một phần của tính cách có nhiệm vụ điều chỉnh những nhu cầu của Cái Nó, Cái Siêu Tôi và đời sống thực. Theo đó có nghĩa là nhu cầu về tình yêu là nhu cầu đích thực cần phải tồn tại. Nhu cầu đó vừa thuộc vào Cái Nó vừa thuộc vào Cái Siêu Tôi. Mặt khác, không có nhu cầu về tình yêu trong cuộc sống thì, một là Cái Nó trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu không có mà chỉ là sự tương tác của quan hệ xác thịt, hai là Cái Siêu Tôi trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu chỉ là những thứ thuần túy trên đầu môi, chót lưỡi, và khi đó đời sống thực cũng chẳng là gì. Bởi vậy, những bản nhạc tình của Phạm Duy đã thể hiện trọn vẹn Cái Tôi trong tình yêu. Đó là Cái Tôi đa tình có trong lời ca của Phạm Duy. Bởi “Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình” (Vịnh Chữ Tình, Nguyễn Công Trứ). Cái nòi đa tình thời nào cũng có. Không có cái nòi ấy, thì làm gì có những vần thơ, bài hát ca ngợi tình yêu trai gái. Không có Cái Tôi đa tình trong âm nhạc thì làm gì có những tác phẩm để đời, cho người yêu nhạc thưởng thức. Chính Cái Tôi này góp phần làm nên những tình khúc trong dòng nhạc tình của Phạm Duy. Từ bản nhạc bước đầu trong sự nghiệp sáng tác như Cô Hái Mơ (1942), phổ thơ Nguyễn Bính, rồi trong những năm đi theo kháng chiến, Phạm Duy cũng không quên soạn nhạc tình, nhưng thứ tình ở đây, theo ông, là “thứ tình ca ấp úng”:
Người ôi! Tôi thường hay muốn biết
Với tình hoa thắm thiết
Yêu tôi hay yêu đàn?
Yêu tôi hay yêu đàn?
Tình tang tính tính tình tang.
(Cây Đàn Bỏ Quên)
Rồi “thứ tình ấp úng” ấy cũng qua đi. Nhưng trong lòng của Phạm Duy nào dứt được tình. Cái Tôi đa tình lại trổi dậy để rồi sản sinh ra những bản nhạc tình khác. Đó là thứ tình cảm khát khao của đôi lứa yêu nhau, cần có nhau để tồn tại trong cõi nhân gian:
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi.
Ngày đôi ta vui tiếng hát vói đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi (ý y y)
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những ngón tay đan vòng tình ái (ớ ơ ờ).
(Ngày Đó Chúng Mình)
Đó còn là thứ tình cảm quyến luyến từ thuở yêu nhau đến cuối cuộc đời. Tình cảm ấy chỉ có được khi cả hai người thuộc về nhau, luôn nghĩ về nhau, yêu nhau, trân trọng nhau vì cuộc tình hiện hữu, và vì đến muôn đời sau. Xin đừng nói tiếng xót xa, xin đừng oán trách, xin đừng cay đắng cho nhau mà hãy vì tình yêu như thuở mộng mơ ban đầu:
Đừng xa nhau! Đừng quên nhau!
Đừng dứt tiếng ngậm sầu,
Đừng im hơi đắng cay rời nhau.
Đừng đi mau, để mãi mãi,
Là chiếc bóng đậm màu
Còn theo nhau tới muôn đời sau.
(Đừng Xa Nhau)
“Còn theo nhau tới muôn đời sau”, theo nhau mãi bởi tình yêu đâu dễ gì quên. Đâu dễ gì quên “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ). Đâu dễ gì quên cuộc tình thơ mộng, dư âm ngọt ngào còn mãi vấn vương. Đâu dễ gì quên ánh mắt long lanh, nụ cười hiền quá đỗi thuở yêu nhau. Vẫn luôn nhớ về nhau dù tình lỗi hẹn:
Trăm năm dù lỗi hẹn
Nghìn năm vẫn không quên
Vẫn nhớ y nguyên.
(Ngàn Năm Vẫn Chưa Quên)
Cái Tôi đa tình trong nhạc Phạm Duy còn là sự đau khổ khi tình yêu không còn, là sự tuyệt vọng đích thực khi cuộc tình tan vỡ. Có chăng còn lại nỗi đau tột cùng dẫu ngóng trông nhau mà chẳng thấy hình bóng của nhau. Dẫu tưởng nhớ về nhau thì chỉ là nỗi đau âm ỉ trong lòng. Có khóc cũng chẳng vơi bớt nỗi sầu thương nhớ, có gọi thầm tên nhau cũng chẳng là gì của nhau:
Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau
Có đi theo mùa ngâu tới suối reo nghìn thâu
Tình chôn đã lâu
Còn gì nữa đâu mà kể với nhau
Vết thương đau ngày nào
Có sống bao đời sau thì đã mất nhau
Còn gì nữa đâu mà gọi mãi nhau.
(Còn Gì Nữa Đâu)
Từ chỗ đa tình đến chỗ dại tình chỉ trong tấc gang. Đa tình quá nên phải dại tình thôi. Đó là lẽ đương nhiên. Cái dại trong tình yêu chỉ một mình biết một mình mình hay, chớ bày tỏ cùng mọi người cũng chẳng ích gì. Thôi thì, cứ hát một mình, ai hiểu được chừng nào hay chừng nấy, ai thông cảm, đồng cảm thì cứ hát cho bớt nỗi đau tình. Coi như tình yêu có chỗ trong lòng thiên hạ. Bởi tình yêu giờ chẳng còn, chỉ là sự cách xa, chia lìa đôi lứa. Có chăng chỉ là dư âm của cuộc tình đã lỡ và lời cầu chúc ai kia hạnh phúc:
Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người…
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.
(Nghìn Trùng Xa Cách)
Người đời thường nói không có cái dại nào giống cái dại nào. Điều đó đúng với cái dại tình trong nhạc Phạm Duy. Bởi cái dại tình trong nhạc Phạm Duy đẹp ở chỗ cứ vương hoài cuộc tình của tuổi thư sinh. Cái dại tình ấy đáng yêu làm sao! Ai từng qua cái dại tình ấy? Có nhiều lắm, Cái dại ấy của những ai từng cắp sách đến trường, của những ai từng đếm bước chân của mình trên con đường bình yên và của những ai một thời say đắm yêu nhau:
Con đường mộng hoa xưa, vẫn từng đôi từng lứa
Con đường vào mộng mơ, con đường mặn mà
Hỡi người tình Văn Khoa, bóng người trên hè phố
Lá đổ để đưa đường, hỡi người tình Trưng Vương
Hỡi người tình Gia Long, hỡi người trong cuộc sống
Con đường này xin dâng cho người bình thường
Hỡi người tình xa xăm, có buồn ra mà ngắm
Con đường thảnh thơi nằm nghe chuyện tình quanh năm.
(Con Đường Tình Ta Đi)
Có cái dại tình nào hơn khi trả hết những gì khi yêu nhau? Nào là trả lại khung trời đại học thuở yêu nhau, trả lại những buổi chiều vương vấn tình, trả lại những bước chân tìm nhau vồi vội, nào là trả lại hết khoảng trời mùa hạ vấn vương nỗi buồn cư xá, trả lại cả giọt mưa trên má, trên tóc, trên cả dáng hiền hòa. Trả lại tất cả: hẹn hò đôi lứa và cả môi mềm dịu ngọt cho em:
Trả lại em yêu mối tình vời vợi
Ngôi trường thân yêu, bạn bè cũ mới
Đừng buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài
Trả lại em yêu! Trả lại em yêu!
Mây trời xanh ngắt…
(Trả Lại Em Yêu)
Ngoài ra Cái Tôi đa tình còn được thể hiện bởi cái tình đam mê, nồng cháy. Cái tình đam mê, nồng cháy ấy là một phần của Cái Nó được điều chỉnh, bởi theo Freud thì “Cái Tôi chính là bộ phận của Cái Nó đã được điều chỉnh bởi tác động trực tiếp từ thế giới bên ngoài”. Do thế, không thể không đam mê, nồng cháy khi tình tay trong tay, môi trong môi, khi anh cùng em đi vào cõi mộng, khi anh rước em lên đồi tiên có cỏ mềm đọng giọt sương trinh nguyên chờ nắng sớm cho tình thơm như cỏ hồng, tình ngoan như tình nồng. Và cái tình đam mê, nồng cháy ấy để cho đất trời chứng giám:
Níu em trên đồi, cỏ thơm mùi sữa
Níu em yêu ngồi trên bãi cỏ non
Giương đôi tay ôm thân tròn ơn mưa móc
Hãy xõa mái tóc, rũ trên vai anh mòn
Đồi quen quen, cỏ ngoan ngoan, tưởng mơn man làn tóc rối mềm
Rồi nghe thêm lời van xin
Từ trong tim hoặc dưới suối tiên, ngã êm êm trên cỏ hoang
Trời trong em, đồi choáng váng, rồi run lên cùng gió bốn miền.
(Cỏ Hồng)
Cái tình đam mê, nồng cháy ấy có khác chi cánh phượng hồng rực rỡ khoe màu tình ái vang lên tiếng yêu đương thổn thức của con tim mù lòa bằng tiếng nói đơn sơ, bằng gió núi qua khe, bằng cơn mơ rụt rè, bằng tiếng hát yêu tinh của loài ma quái:
Yêu người, yêu có một lần thôi
Xin yêu, dù gian dối
Xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ
Khi bơ vơ còn nhiều
Thì đâu chối bỏ tình yêu.
(Phượng Yêu)
Và đam mê, nồng cháy hơn trong tình yêu là được sống cho nhau, dâng hiến cho nhau như mùa hè nung tình yêu lửa cháy, thiêu đốt cả đất trời để con tim tỏa nắng nhuộm hồng cả trăng sao. Tình yêu lên ngôi, tình yêu làm đất trời tỉnh giấc, đưa đôi lứa yêu nhau như thuở hồng hoang. Địa đàng bừng dậy:
Mùa hè thiên nhiên như tỉnh giấc
Mùa hè đưa ta tới hồng hoang
Trần truồng yêu nhau trong trời đất
Mùa hè của uyên ương.
Đôi ta chỉ có một mùa hè thôi
Đôi ta chỉ có một cuộc tình thôi…
(Hạ Hồng)
Cái Tôi trong lời ca của Phạm Duy còn nhiều lắm. Nhiều như di sản âm nhạc của ông để lại cho đời. Nhiều như những đắng cay, tủi nhục, những hạnh phúc, sướng vui… đi qua đời ông.
Qua một số ca từ thể hiện Cái Nó, Cái Siêu Tôi, Cái Tôi, một Phạm Duy còn lại cho đời là vậy!
Xin mượn lời của ông để kết thúc bài viết này: “Dù sao tôi cũng đang sống một cuộc đời phỉ nguyện. Tôi đã có đầy đủ vinh quang và tủi nhục (vì một sì-căng-đan về tình), hạnh phúc và khổ đau. Tôi cũng nói khá nhiều về cái chết. Coi như đã được sống tới tận cùng của cuộc sống…” (Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca).
2 notes
·
View notes