Bốc Dịch Là chuyên trang Huyền học, giới thiệu về các môn khoa học phương Đông. Đặc biệt là Kinh dịch, gieo quẻ lục hào, bát tự và cuối cùng là Tử vi. Mang đến cho bạn cách nhìn khoa học nhất về bộ môn mệnh lý đã có từ ngàn năm trước.
Don't wanna be here? Send us removal request.
Quote
1, Hào Thế Lúc chiêm bốc mỗi quẻ tất phải xem quan hệ tác dụng giữa hào Thế và Dụng thần, thể hiện tâm thái chỗ quẻ chủ đối với chỗ chiêm bốc sự vật, đồng thời còn thể hiện chỗ tin tức bên trong một giai đoạn chiêm sự vật phát triển. Hào Thế là trái tim của quẻ, là linh hồn củ quẻ, là lúc bản thân chiêm bốc thì lấy hào Thế làm trung tâm để phân tích thành bại, cát hung của sự vật, thông thường là lục thân trì thế không nên khắc dụng thần, cũng không nên gặp tuần không, nguyệt phá. (có liên quan Tuần không và Nguyệt phá sau này sẽ có luận thuật) Trì Thế, chỗ nói trì thế, chính là một lục thân nào đó lâm hào Thế, tức là tên gọi một hào nào đó trì thế, như ví dụ quẻ 1-2, tức là Thê Tài trì Thế. Chấn cung: Lôi Địa Dự (Lục hợp) Ly cung: Hỏa Sơn Lữ (Lục hợp) Lục thần 【 Quẻ gốc 】 【 Quẻ biến 】 Câu trần Thê tài Canh Tuất ━ ━ ×→ Tử tôn Kỷ Tị ━━ Chu tước Quan quỷ Canh thân ━ ━ Thanh Long Tử tôn Canh Ngọ ━━ (Ứng) Huyền vũ Huynh đệ Ất Mão ━ ━ ×→ Quan quỷ Bính Thân ━━ Bạch hổ Tử tôn Ất Tị ━ ━ Đằng xà Thê tài Ất Mùi ━ ━ (Thế) Chỗ Lục thân trì thế đều có chủ, nhưng chỗ này chỉ là một cách để rút ra tin tức, không phải là luận đoán cát hung chuẩn xác và tiêu chuẩn duy nhất. Hiện chỉ nói sơ qua tác dụng từng lục thân trì thế, như sau: + Tử tôn trì thế: Dự trắc mua bán, xuất hành, phiền não là cát, trắc thăng học, đi thi, quan chức, hôn nhân phái nữ con cái, thì không cát. + Huynh đệ trì thế: Trắc mua nhà cửa, trúng thưởng, thư tín thì cát, nhưng trắc mua bán, tài vận, hôn nhân phái nam thì hung. + Phụ mẫu trì thế: Trắc thăng học, đi thi, thư tín, văn thư, khế ước thì cát, trắc tật bệnh con cái, sinh đẻ thì không cát. + Thê tài trì thế: Trắc mua bán, hôn nhân phái nam, tài vận, mất vật thì cát, trắc trưởng bối, cha mẹ thì không cát. + Quan quỷ trì thế: Trắc quan vị, thăng quan, điều công tác, hôn nhân con cái, đi thi thăng học là cát, trắc anh em an nguy, tật bệnh thì không cát. 2, Hào Ứng Hào Ứng cùng hào Thế là đối nghịch nhau, đại biểu cùng hào Thế người, sự hoặc vật đối nghịch với ta, là cùng ta quan hệ không mật thiết. Như: Lúc bói hùn vốn làm ăn, hào Ứng là hợp tác, lúc bói hôn nhân, hào Ứng là nhà của đối phương. Chú thích: Chương này cần lý giải ý nghĩa của Thế Ứng. Bài viết Tri thức cơ sở về Lục Hào – Chương 3 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH.
https://bocdich.com/tri-thuc-co-so-ve-lu%cc%a3c-hao-chuong-3/
0 notes
Quote
Sau khi khởi quẻ là sắp xếp quẻ (xưa gọi là Nạp Giáp), chỗ nói xếp quẻ, chính là ở trên 6 hào của quẻ, phối trên can chi, thế ứng, lục thân, lục thần. Dự trắc Lục hào chủ yếu là rút ra tin tức từ trong những nội dung này. Tri thức cơ sở về Lục Hào – Chương 2 – Xếp quẻ * Phương pháp xếp quẻ: Sắp xếp quẻ chính là yếu tố đem dùng để chiêm đoán ghi chép lại và vẽ lên trên quẻ, xác định tên quẻ, quẻ này thuộc về cung nào, cùng thuộc tính ngũ hành. Hỏa Châu Lâm pháp đem 64 quẻ phân ra làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ: + 8 quẻ cung Càn thuộc kim, gồm: Càn vi Thiên, Thiên Phong cấu, Thiên Sơn độn, Đại Địa phủ, Phong Địa quan, Sơn Địa bác, Hỏa Địa tấn, Hỏa Thiên đại hữu. + 8 quẻ cung Khảm thuộc thủy, gồm: Khảm vi Thủy, Thủy Trạch tiết, Thủy Lôi truân, Thủy Hỏa ký tế, Trạch Nhân cách, Lôi Hỏa phong, Địa Hỏa minh di, Địa Thủy sư. + 8 quẻ cung Cấn thuộc thổ, gồm: Cấn vi Sơn, Sơn Hỏa bí, Sơn Thiên đại súc, Sơn Trạch tổn, Hỏa Trạch khuê, Thiên Trạch lý, Phong Trạch trung phu, Phong Sơn tiệm. + 8 quẻ cung Chấn thuộc mộc, gồm: Chấn vi Lôi, Lôi Địa dự, Lôi Thủy giải, Lôi Phong hằng, Địa Phong thăng, Thủy Phong tỉnh, Trạch Phong đại quá, Trạch Lôi tùy. + 8 quẻ cung Tốn thuộc mộc, gồm: Tốn vi Phong, phong thiên tiểu súc, phong hỏa gia nhân, phong lôi ích, thiên lôi vô vọng, hỏa lôi phệ hạp, sơn lôi di, sơn phong cổ. + 8 quẻ cung Ly thuộc hỏa, gồm: Ly vi Hỏa, hỏa sơn lữ, hỏa phong đỉnh, hỏa thủy vị tể, sơn thủy mông, phong thủy hoán, thiên thủy tụng, thiên hỏa đồng nhân. + 8 quẻ cung Khôn thuộc thổ, gồm: Khôn vi Địa, Địa Lôi phục, Địa Trạch lâm, Địa Thiên thái, Lôi Thiên đại tráng, Trạch Thiên quái, Thủy Thiên nhu, Thủy Địa bỉ. + 8 quẻ cung Đoài thuộc kim, gồm: Đoài vi Trạch, Trạch Thủy khốn, Trạch Địa tụy, Trạch Sơn hàm, Thủy Sơn kiển, Địa Sơn khiêm, Lôi Sơn tiểu quá, Lôi Trạch quy muội. 8 cung xếp ra 64 quẻ kể trên là có thuận theo thứ tự nhất định. Đầu tiên, thuận theo thứ tự 8 cung là dựa theo Hậu Thiên Bát Quái đồ xếp theo thứ tự, cùng xếp theo thứ tự trong 《 Kinh thị Dịch truyện 》 hơi có khác nhau. Hậu thiên Bát quái đồ dựa theo phương vị Càn ở tây bắc, Khảm ở chính bắc, Cấn ở đông bắc, Chấn ở chính đông, Tốn ở đông nam, Ly ở chính nam, Khôn ở tây nam, Đoài ở chính tây, phương hướng sắp xếp thuận theo chiều kim đồng hồ, tất cần phải chú ý: Nam bắc đông tây trong Bát quái đồ, đúng cùng địa đồ hiện đại là thượng bắc hạ nam là trái nghịch, mà là thượng nam hạ bắc? Thứ là mỗi cung quẻ thứ nhất đều là do hai quẻ đơn giống nhau xếp chồng lên mà thành, gọi chung là quẻ bát thuần. Quẻ Bát thuần là cung chủ của cung này. Cho nên lấy tên quẻ bát thuần để mệnh danh tên cung, lấy thuộc tính ngũ hành của quẻ bát thuần, thống lĩnh 7 quẻ còn lại của cung này. Như cung Càn là thuộc kim, tiếp theo các quẻ Thiên Phong cấu, Thiên Sơn độn, Thiên Địa phủ, Phong Địa quan, Sơn Địa bác, Hỏa Địa tấn, Hỏa Thiên đại hữu, đều thuộc kim. Ngoại trừ quẻ bát thuần ra, phép xếp tên quẻ còn lại là từ trên xuống dưới, lấy chủ tượng thứ nhất của 8 quẻ làm tiêu chí để định tên. Càn vi Thiên, Khảm vi Thủy, Cấn vi Sơn, Chấn vi Lôi, Tốn vi Phong, Khôn vi Địa, Đoài vi Trạch. VD như quẻ Địa Thiên thái, quẻ thượng là Khôn, Khôn là Địa, quẻ hạ là Càn, Càn là Thiên, cho nên gọi là quẻ Địa Thiên Thái. Quẻ Thiên Địa Phủ, thì quẻ thượng là Càn, là Thiên, quẻ hạ là Khôn, là Địa, cho nên gọi là quẻ Thiên Địa phủ. Trong mỗi một cung lại căn cứ sắp xếp thứ tự mà phân biệt thành 6 quẻ thế, 1 quẻ thế, 2 quẻ thế, 3 quẻ thế, 4 quẻ thế, 5 quẻ thế, quẻ du hồn, quẻ quy hồn. * Sắp xếp Thế Ứng: Khái niệm Thế và Ứng trong Bốc phệ nhiều nhất là sử dụng một đôi, thông thường đem Thế làm bản thân hoặc là phương diện của mình, đem Ứng làm người khác hoặc là ở phương diện đối lập với Ta. Trong quẻ sắp xếp Thế Ứng, chính là để xác định một hào nào trong quẻ là hào Thế, một hào nào giao là hào Ứng. Thế và Ứng ở trong quẻ, nói chung là trung gian cách hai vị. Như hào Thế ở hào sơ, thì hào Ứng ở hào 4; Thế ở hào 2, thì ứng ở hào 5; Thế ở hào 3, Ứng ở hào 6; Thế ở hào 4, Ứng ở hào 1, Thế ở hào 5, Ứng ở hào 2; Thế ở hào 6, ứng ở hào 3. Thế và Ứng trung gian cách hai vị, gọi là Gian hào. Xác định hào Thế trong quẻ, là căn cứ chỗ phía trước nói vị trí quẻ ở trong 8 cung. Quẻ Bát thuần là quẻ 6 thế, cho nên danh như ý nghĩa, quẻ bát thuần Thế ở hào 6 cũng chính là hào thượng, còn quẻ 1 thế thì Thế ở hào sơ, quẻ 2 thế thì Thế ở hào 2, quả 3 thế thì Thế ở hào 3, quẻ 4 thế thì Thế ở hào 4, quả 5 thế thì Thế ở hào 5, quẻ Du hồn thì Thế ở hào 4, còn quẻ Quy hồn thì Thế ở hào 3. Cổ nhân có một ca quyết xác định Hào Thế: 8 quẻ đứng đầu Thế lấy lục, Lấy xuống hào sơ vòng lên trên; 8 quẻ Du hồn lập hào tứ, 8 quẻ Quy hồn tường hào tam. * Phép xếp Nạp Giáp: Cổ nhân cho rằng phép sắp xếp Nạp Giáp, có thể nghiên cứu lý thiên địa sinh dục. Cho rằng Càn nạp Giáp, Nhâm; Khôn nạp Ất, Quý, trênnn dưới bao nhau. Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài nạp Canh Tân Mậu Kỷ Bính Đinh, tượng trưng 6 người con ở trong phụ mẫu Càn Khôn. Cùng thiên can phối hợp nhau, 8 quẻ cũng đều ở trên địa chi mỗi một hào đều quy định cố định. Chiếm quẻ xếp Nạp Giáp, chính là căn cứ quẻ bát thuần Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài ở trong mỗi một quẻ chỗ vị trí nội ngoại khác nhau, chỗ đại biểu thiên can và địa chi là đánh dấu cho mỗi một hào. + Quẻ Càn ở nội quái, sơ giao khởi Giáp Tý, hào 2 là Giáp Dần, hào 3 là Giáp Thìn; quẻ càn ở ngoại quái, hào 4 là Nhâm Ngọ, hào 5 là Nhâm Thân, hào 6 là Nhâm Tuất. Bởi vì quẻ Càn thuộc dương, cho nên phối thiên can địa chi cũng thuộc dương, quẻ dương cách vị trí đếm thuận, 6 hào quẻ nội ngoại là thuận theo thứ tự từ Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất. + Quẻ Khôn ở nội quái, hào sơ khởi Ất Mùi, hào 2 là Ất Tị, hào 3 là Ất Mão; quẻ Khôn ở ngoại quái, hào 4 là Quý Sửu, hào 5 là Quý Hợi, hào 6 là Quý Dậu. Quẻ Khôn là âm, cho nên phối thiên can địa chi đều thuộc âm, quẻ âm cách vị trí đếm nghịch, 6 hào quẻ nội ngoại thuận theo thứ tự là Mùi Tị Mão, Sửu Hợi Dậu. + Quẻ Khảm ở nội quái, hào sơ khởi Mậu Dần, hào 2 là Mậu Thìn, hào 3 là Mậu Ngọ; ở ngoại quái, hào 4 là Mậu Thân, hào 5 là Mậu Tuất, hào 6 là Mậu Tý. + Quẻ Cấn ở nội quái, hào sơ là Bính Thìn, hào 2 là Bính Ngọ, hào 3 là Bính Thân; quẻ Cấn ở ngoại quái, hào 4 là Bính Tuất, hào 4 là Bính Tý, hào 6 là Bính Dần. + Quẻ Chấn là con trưởng, quẻ có thuyết con trưởng thay cha, quẻ Chấn nạp địa chi cùng quẻ Càn hoàn toàn giống nhau, chỉ qua là thiên về chữ Canh. Ở nội quái, hào sơ khởi Canh Tý, hào 2 là Canh Dần, hào 3 là Canh Thìn; ở ngoại quái, hào 4 là Canh Ngọ, hào 5 là Canh Thân, hào 6 là Canh Tuất. + Quẻ Tốn ở nội quái, hào sơ khởi Tân Sửu, hào 2 là Tân Hợi, hào 3 là Tân Dậu; quẻ Tốn ở ngoại quái, hào 4 là Tân Mùi, hào 5 là Tân Tị, hào 6 là Tân Mão. + Quẻ Ly ở nội quái, hào sơ là Kỷ Mão, hào 2 là Kỷ Sửu, hào 3 là Kỷ Hợi; ở ngoại quái, hào 4 là Kỷ Dậu, hào 5 là Kỷ Mùi, hào 6 là Kỷ Tị. + Quẻ Đoài ở nội quái, hào sơ là Đinh Tị, hào 2 là Đinh Mão, hào 3 là Đinh Sửu; ở ngoại quái, hào 4 là Đinh Hợi, hào 5 là Đinh Dậu, hào 6 là Đinh Mùi. Có một ca quyết đơn giản: Càn ở nội Tý Dần Thìn, Càn ở ngoại Ngọ Thân Tuất; Khảm ở nội Dần Thìn Ngọ, Khảm ở ngoại Thân Tuất Tý; Cấn ở nội Thìn Ngọ Thân, Cấn ở ngoại Tuất Tý Dần; Chấn ở nội Tý Dần Thìn, Chấn ở ngoại Ngọ Thân Tuất. Tốn ở nội Sửu Hợi Dậu, Tốn ở ngoại Mùi Tị Mão: Ly ở nội Mão Sửu Hợi, Ly ở ngoại Dậu Mùi Tị: Đoài ở nội Tị Mão Sửu, Đoài tại ngoại Hợi Dậu Mùi; Khôn ở nội Mùi Tị Mão, Khôn tại ngoại Sửu Hợi Dậu. * Xếp Ngũ hành: Căn cứ địa chi mỗi hào ở trong quẻ, đánh dấu ở trên ngũ hành kim thủy mộc hỏa thổ. Thập nhị địa chi cùng ngũ hành phối hợp như sau: Tý là thủy, Sửu là thổ, Dần là mộc, Mão là mộc, Thìn là thổ, Tị là hỏa, Ngọ là hỏa, Mùi là thổ, Thân là kim, Dậu là kim, Tuất là thổ, Hợi là thủy. * Ghi chép Nhật Nguyệt: Chiêm bốc Nhật Nguyệt, là một nhân tố trọng yếu, bước đầu tiên chiếm quẻ là phải ghi chép dùng Thiên can và Địa chi chiêm bốc ngày và giờ, có lúc cũng cần phải biết năm và giờ. Tháng lấy âm lịch suy toán khá là thuận lợi, địa chi tháng âm lịch là cố định: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tị, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu. Nhưng phải chú ý, ở trong chiêm bốc, khởi tháng dừng ở ngày, không phải là mỗi tháng theo âm lịch là khởi ngày mùng một, dừng ở ngày 30. Mà là chiếu theo tiết khí toán khởi dừng ở ngày. Tiết Lập xuân tháng giêng, tiết Kinh Trập là tháng 2, tiết Thanh Minh là tháng 3, tiết Lập Hạ là tháng 4, tiết Mang Chủng là tháng 5, tiết Tiểu Thử là tháng 6, tiết Lập Thu là tháng 7, tiết Bạch Lộ là tháng 8, tiết Hàn Lộ là tháng 9, tiết Lập Đông là tháng 10, tiết Đại Tuyết là tháng 11, tiết Tiểu Hàn là tháng 12 (tháng chạp). Như đầu năm, ngày 25 tháng 12 là Lập Xuân, thì từ ngày này tháng giêng là khởi năm nay, kết thúc ở trước tiết Kinh Trập năm này. Như đầu năm, ngày 25 tháng 12 sau tiết Lập Xuân toán quẻ, tháng ứng là Dần, mà không phải là đầu tháng Sửu của một năm. Xưa suy tính can chi khá phức tạp, thông thường người phải mượn nhờ 《 Vạn Niên lịch 》 để tra. Sau khi xác định ngũ hành và lục thân của quẻ, ở trên ngũ hành và lục thân cũng phải nhớ tháng và ngày. * Xếp Hào biến: Quẻ gặp giao biến, phải nắm hào biến hóa ra xếp trên Nạp Giáp, Ngũ hành, Lục thân. Đầu tiên xác định biến ra quẻ gì, hào biến ở nội quái chỉ biến nội quái, hào biến ở ngoại quái chỉ biến ngoại quái, quẻ nội ngoại đều có hào biến, thì quẻ nội ngoại đều biến. Nhưng phải nhớ, chỉ nhớ có biến hóa hào biến, không có hào biến hóa thì không trọng ghi dấu nạp giáp, ngũ hành và lục thân. Hào Biến xếp nạp giáp và ngũ hành, lấy quẻ biến ra là ở nội hay là ở ngoại mà xếp. Như quẻ biến ra là quẻ Càn ở nội, thì nhớ lấy “Càn ở nội Tý Dần Thìn”. Nhưng ở lúc xếp lục thân, không lấy sau quẻ biến chỗ cung là “Ta”, vẫn lấy chỗ chiếm được thuộc tính ở quẻ gốc là “Ta”. * Xếp Lục thân: Lục Thân là chỉ 5 loại danh tính tượng trưng: phụ mẫu, tử tôn, quan quỷ, thê tài, huynh đệ. 4 loại này cùng quẻ thân hợp cùng một chỗ, gọi chung là Lục Thân. Lục Thân (ngoại trừ quẻ thân ra, lấy xuống như nhau) là căn cứ ngũ hành sinh khắc để xác định. + Ngũ hành tương sinh là kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim. + Ngũ hành tương khắc là kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim. Phép nhớ đơn giản, lấy kim thủy mộc hỏa thổ làm thứ tự (Chú ý vị trí thứ 2 là thủy, mà không phải là mộc, cùng tục xưng kim mộc thủy hỏa thổ là khác nhau!) Đếm thuận sinh vị trí kề bên, khắc là cách một vị. Dụng 8 chữ để nói là “Kề vị tương Sinh, Cách vị tương Khắc“. Xác định lục thân lấy thuộc tính ngũ hành chỗ cung thuộc quẻ đó làm bản thân Ta, lấy thuộc tính ngũ hành từng hào trong quẻ đó là Nó, xem quan hệ sinh khắc giữa Nó và Ta, là Nó đến sinh Ta, hay là Ta sinh Nó, là Nó khắc Ta, hay là Ta khắc Nó, dựa theo quy tắc “Sinh Ta là Phụ mẫu, Ta sinh là Tử tôn, khắc Ta là Quan quỷ, Ta khắc là Thê tài, Tỉ hòa là Huynh đệ” để xác định mỗi hào là Lục Thân nào. Như chiếm được quẻ Địa Thủy sư, bởi vì quẻ này là Quy hồn cung Khảm, cung Khảm thuộc thủy, tức Ta là thủy: Hào 6 ∥ Dậu kim Phụ mẫu (kim sinh mộc, sinh Ta là Phụ mẫu). Hào 5 ∥ Hợi thủy Huynh đệ (thủy và thủy tương đồng là tỉ hòa, tỉ hòa là Huynh đệ). Hào 4 ∥ Sửu thổ Quan quỷ (Thổ khắc thủy, khắc ta là Quan quỷ). Hào 3 ∥ Ngọ hỏa Thê tài (Thủy khắc hỏa, ta khắc là Thê Tài). Hào 2 / Thìn thổ Quan quỷ (thổ khắc thủy, khắc ta là Quan quỷ), Hào Sơ ∥ Dần mộc Tử tôn (Thủy sinh mộc, Ta sinh là Tử tôn). Chiếu theo ngũ hành sinh khắc thuận theo thứ tự, sinh khắc thuận theo thứ tự cũng có thể xếp ra ngũ thân: Phụ sinh Huynh, Huynh sinh Tử, Tử sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan sinh Phụ; Phụ khắc Tử, Tử khắc Quan, Quan khắc Huynh, Huynh khắc Tài, Tài khắc Phụ. * Phép xếp Lục Thú: Lục Thú, lần lượt theo thứ tự: Một là Thanh Long, hai là Chu Tước, ba là Câu Trần, bốn là Đằng Xà (phía dưới là Trùng, trong tự khố không có chữ này), năm là Bạch Hổ, sáu là Huyền Vũ. Xếp Lục Thú trong quẻ căn cứ chủ yếu là chiếm thiên can ngày, Quyết viết: Giáp Ất khởi Thanh Long, Bính Đinh khởi Chu Tước; Mậu nhật khởi Câu Trần, Kỷ nhật khởi Đằng Xà; Canh Tân khởi Bạch Hổ, Nhâm Quý khởi Huyền Vũ. Tức là nếu như chiêm bốc là ngày Giáp hoặc là ngày Ất, hào sơ của quẻ là Thanh Long, hào 2 là Chu Tước, hào 3 là Câu Trần, hào 4 là Đằng Xà, hào 5 là Bạch Hổ, hào 6 là Huyền Vũ. Xếp theo bảng dưới đây: Vị trí hào Ngày Giáp Ất Ngày Bính Đinh Ngày Mậu Ngày Kỷ Ngày Canh Tân Ngày Nhâm Quý Hào 6 Huyền vũ Thanh long Chu tước Câu trần Đằng xà Bạch hổ Hào 5 Bạch hổ Huyền vũ Thanh long Chu tước Câu trần Đằng xà Hào 4 Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Thanh long Chu tước Câu trần Hào 3 Câu trần Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Thanh long Chu tước Hào 2 Chu tước Câu trần Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Thanh long Hào sơ Thanh long Chu tước Câu trần Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Một, Phép định Quẻ cung, an Thế Ứng: (1) Phép an Thế Ứng: Thế, Ứng tất nhiên là vật không thể thiếu ở trong dự trắc Lục hào, cũng là một căn cứ rút ra tin tức sự vật cát hung, thành bại. Mỗi vị trí của hào Thế, Ứng ở trong quẻ là cố định bất biến. Mọi người có thể căn cứ phối xếp ra 64 quẻ trong toàn đồ (dưới đây gọi tắt là “Trang phối đồ”, bản thân tổng kết ra một quy luật để tiện dễ nhớ. Sau đây là quy luật chỗ tôi tổng kết: + Thế Ứng tương cách hai hào vọng, bản cung Thế hào cư đỉnh thượng; (Giải thích: Hào Thế, Ứng cách 2 hào vị, hào Thế quẻ của cung gốc ở hào 6) + Sơ Tứ phản, Thế cư nhất; (Chỉ có lúc hào sơ và hào 4 khác nhau, hào Thế ở hào sơ); + Tam Lục đồng, Thế cư nhị; (Chỉ có lúc hào 3 và hào 6 giống nhau, thì hào Thế ở hào 2); + Thượng Hạ âm dương cùng tương chiến, Thế cư tam hào định bất biến; (Lúc quẻ Hạ hào 123 đối quẻ Thượng hào 4,5,6 âm dương khác nhau, thì hào Thế ở hào 3); + Sơ Tứ đồng, Thế cư tứ; (Chỉ có lúc hào sơ và hào 4 giống nhau, thì hào Thế ở hào 4); + Tam Lục phản, Thế chiêm ngũ; (Chỉ có lúc hào 3 và hào 6 khác nhau, thì hào Thế ở hào 5); + Nhị Ngũ đồng, quái chủ Du hồn Thế chiêm tứ; (Chỉ có lúc hào 2 và hào 5 giống nhau, thì hào Thế ở hào 4, quẻ này là quẻ Du hồn); + Nhị Ngũ phản, quái vi Quy hồn Thế chiêm tam. (Chỉ có lúc hào 2 và hào 5 khác nhau, thì hào Thế ở hào 3, quẻ này là quẻ Quy hồn). Chú thích: Trong đó chỗ giống nhau và khác nhau, là chỉ chỗ hào âm dương giống nhau hoặc là khác nhau. (2) Phép định Quẻ cung: Sau khi an Thế Ứng xong thì phải định quẻ cung, định quẻ cung là lấy vị trí hào Thế để định. Quy luật đơn giản tổng kết như sau, mọi người cũng có thể căn cứ xếp theo phối đồ, tự tôi viết ra khẩu quyết như sau: + Quẻ Thuần, nhận cung tự nhẹ nhàng; (Giải thích: Quẻ bản cung, quẻ cung là quẻ gốc, nhận cung đương nhiên là nhẹ nhàng. ) + Thế cư nội quái, ngoại nhận cung; ( Giải thích: Lúc hào Thế ở nội quái thì ngoại trừ quẻ Quy hồn ra, quẻ ngoại là quẻ cung) + Quy hồn tình mê nội quái trung; ( Giải thích: Quẻ Quy hồn cung quẻ là quẻ nội. ) + Thế cư thượng quái, quẻ hạ đối xung là quái cung. (hào Thế lúc ở quẻ thượng, quẻ nghịch cung quẻ là quẻ hạ, chỗ nói quẻ nghịch chính là: Đem hào âm biến thành hào dương, hào dương biến hào âm, sau đó xem chỗ này là quẻ gì, thì cung quẻ là cái đó, (như vậy âm dương hỗ biến, vừa đúng là vị trí đối xung của quẻ Hậu thiên). Bên trên chính là quy luật an Thế Ứng định cung quẻ, mọi người có thể tự mình tổng kết ca quyết để tiện dễ nhớ. Hai tổ quy luật nói trên mọi người có thể phối hợp với Trang phối đồ mà tự nghiên cứu. Hai, Sắp xếp phối can chi: Xếp phối can chi mỗi quẻ là cố định bất biến, mọi người chỉ cần biết quy luật thì nắm chắc rất nhanh. Cụ thể phương pháp như sau: Càn nội Giáp Tý ngoại Nhâm Ngọ; Khảm nội Mậu D���n ngoại Mậu Thân. Chấn nội Canh Tý ngoại Canh Ngọ; Cấn nội Bính Thìn ngoại Bính Tuất. Khôn nội Ất Mùi ngoại Quý Sửu; Tốn nội Tân Sửu ngoại Tân Mùi. Ly nội Kỷ Mão ngoại Kỷ Dậu; Đoài nội Đinh Tị ngoại Đinh Hợi. Phép xưa đem loại phương pháp này thành xếp quẻ phối can chi, xưng là “Nạp Giáp”. Lúc ở thực tế dự trắc, thiên can bất luận cát hung, nhất bàn chích dụng lai phán đoạn sổ tự, sở dĩ sơ học giả tạm thì khả lược khứ bất ký, chỉ nạp địa chi là được, mỗi quẻ cần phải nạp khởi từ hào sơ, căn cứ quẻ âm dương nạp khác nhau chi cũng thuận nghịch khác nhau, quẻ dương nạp theo chiều thuận kim đồng hồ (Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất) là can chi dương; quẻ âm nạp theo chiều nghịch kim đồng hồ (Hợi, Dậu, Mùi, Tị, Mão, Sửu) là can chi âm. Ngoài phép nạp thiên can mỗi quẻ chỗ căn cứ dùng ca quyết nội quái hoặc ngoại quái tam hào giống nhau, phép nạp địa chi là: Nội quái hào 1, 2, 3 và Ngoại quái hào 4, 5, 6 tương xung. Cụ thể có thể xem ở Trang phối đồ. Đưa ví dụ thuyết minh như sau, như ví dụ quẻ 1-2. Chấn cung: Lôi Địa dự (Lục hợp) Ly cung: Hỏa Sơn lữ (Lục hợp) 【 Quẻ gốc 】 【 Quẻ biến 】 Canh Tuất thổ ━ ━ ×→ Kỷ Tị hỏa ━━ Canh Thân kim ━ ━ Canh Ngọ hỏa ━━ (Ứng) Ất Mão mộc ━ ━ ×→ Bính Thân kim ━━ Ất Tị hỏa ━ ━ Ất Mùi thổ ━ ━ (Thế) Giải thích: Nội quái là Khôn, tra đến trong khẩu quyết tìm ra là “Khôn nội Ất Mùi ngoại Quý Sửu” bởi vì là ở nội quái, cho nên hào sơ nạp Ất Mùi, sau đó, bởi vì là quẻ âm cho nên là tính nghịch hào 2 sẽ là Ất Tị, hào 3 là Ất Mão. Ngoại quái là Chấn, tra tìm trong khẩu quyết là “Chấn nội Canh Tý ngoại Canh Ngọ” bởi vì là ở ngoại quái, cho nên hào 4 nạp Canh Ngọ, sau đó, bởi vì là quẻ dương cho nên là tính thuận hào 5 sẽ là Canh Thân, hào 6 là Canh Tuất. Dưới đây là khẩu quyết chỗ tôi căn cứ Trang phối đồ tổng kết quy luật chỉ nạp địa chi, cụ thể không giải thích, mọi người tự lý giải. Như sau: Nội ngoại tương xung tự sáng tỏ, Càn Chấn Tý thủy Khảm sinh Dần, Khôn Mùi Tốn Sửu chiến bất nhàn, Cấn Thìn Ly Mão Đoài hỏa đốt, Những hào quẻ khác không luận thuật, Âm nghịch dương thuận chỉ đoán trước. Ba, Phối xếp Lục Thân Chúng ta thông qua gieo đồng tiền để khởi được quẻ gọi là “Quẻ gốc”, từ quẻ gốc chỗ hào động suy diễn ra quẻ gọi là “Quẻ biến”, phương pháp sắp xếp lục thân ở mỗi quẻ là dựa vào chỗ thuộc ngũ hành cung quẻ ở quẻ gốc, sau đó căn cứ lý luận ngũ hành sinh khắc để suy diễn ra, lục thân quẻ biến cũng dựa vào chỗ ngũ hành cung quẻ của quẻ gốc để suy diễn ra. Như VD ở quẻ 1-2: Chấn cung: Lôi Địa dự (Lục hợp) Ly cung: Hỏa Sơn lữ (Lục hợp) 【 Quẻ gốc 】 【 Quẻ biến 】 Thê tài Canh Tuất thổ ━ ━ ×→ Tử tôn Kỷ Tị hỏa ━━ Quan quỷ Canh Thân kim ━ ━ Tử tôn Canh Ngọ hỏa ━━ (Ứng) Huynh đệ Ất Mão mộc ━ ━ ×→ Quan Quỷ Bính Thân kim ━━ Tử tôn Ất Tị hỏa ━ ━ Thê tài Ất Mùi thổ ━ ━ (Thế) Giải thích: Quẻ gốc là quẻ Chấn cung có ngũ hành là mộc, căn cứ ngũ hành sinh khắc từng hào quẻ xếp lục thân như ở trên, còn quẻ biến là quẻ Ly cung có ngũ hành là hỏa, nhưng mà là quẻ biến, cho nên lúc nạp lục thân thì vẫn căn cứ ngũ hành cung quẻ ở quẻ gốc để suy diễn, cho nên được lục thân như ở trên. Bốn, Sắp xếp Lục thần Phương pháp sắp xếp Lục thần, là căn cứ quẻ khởi lấy ngũ hành can ngày để sắp xếp. Biểu 2-1: (Ngũ hành Lục thần) Lục thần Thanh long Chu tước Câu trần Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Chỗ thuộc ngũ hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy Chú thích: Lục thần tuy có chỗ thuộc ngũ hành, nhưng không có tham gia sinh khắc, cùng hào vượng suy ở trong quẻ là không có liên quan. Biểu 2-2 (Lục Thần phối thiên can) Can ngày Giáp, Ất Bính, Đinh Mậu Kỷ Canh, Tân Nhâm, Quý Lục Thần Thanh long Chu tước Câu trần Đằng xà Bạch hổ Huyền vũ Căn cứ chỗ thuộc ngũ hành can ngày, từ hào sơ quẻ gốc khởi thuận theo thứ tự như ở trên, sắp xếp thuận theo thứ tự từ dưới lên trên. Như VD quẻ 1-1: Can ngày khởi quẻ: Tháng Sửu, ngày Kỷ Tị. Chấn cung: Lôi Địa dự (Lục hợp) Ly cung: Hỏa Sơn lữ (Lục hợp) Lục thần 【 Quẻ gốc 】 【 Quẻ biến 】 Câu trần Thê tài Canh Tuất ━ ━ ×→ Tử tôn Kỷ Tị ━━ Chu tước Quan quỷ Canh thân ━ ━ Thanh Long Tử tôn Canh Ngọ ━━ (Ứng) Huyền vũ Huynh đệ Ất Mão ━ ━ ×→ Quan quỷ Bính Thân ━━ Bạch hổ Tử tôn Ất Tị ━ ━ Đằng xà Thê tài Ất Mùi ━ ━ (Thế) Giải thích: Can ngày là “Kỷ” ngũ hành là thổ, theo quy tắc ở biểu 2-2 được kết quả như trên. Tác giả: Lesoi – Tử Bình diệu dụng Bài viết Tri thức cơ sở về Lục Hào – Chương 2 – Xếp quẻ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH.
https://bocdich.com/chuong-2-xep-que/
0 notes
Quote
Trong phép Ngũ thuật của người Trung Hoa, có hai môn học liên quan nhau rất chặt chẽ, đó là môn Bát tự học và môn Lục Hào. Nó bổ sung cho nhau phép xem “Tượng”. Đây cũng là chỗ tinh túy mà bao lâu nay Đoàn Kiến Nghiệp đã tận dụng nó để bổ túc trong phép luận của Manh Phái. Tri thức cơ sở về Lục hào Chương 1, Âm Dương ngũ hành Một, Âm Dương ngũ hành Âm Dương ngũ hành là một loại khái niệm Triết học thời Trung Quốc cổ đại, là một loại quan điểm duy vật mộc mạc mà cổ nhân nhận biết tự nhiên. 《 Dịch 》 viết: “Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng Nghi.”, chỗ nói “Lưỡng Nghi” chính là âm dương, cho nên 《 Dịch 》lại viết: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo.” Âm Dương là chỉ sự vật mâu thuẫn, như ngày đêm, nóng lạnh, dài ngắn, đực cái, nam nữ, động tĩnh, cương nhu … Ngũ hành thì là phân tích đối với vạn vật thế giới càng chi tiết hơn, cổ nhân cho rằng, thế giới là từ 5 loại nguyên tố cơ bản là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tổ hợp lại thành, hơn nữa tiến thêm một bước còn cho rằng, 5 loại nguyên tố này là chuyển hóa qua lại với nhau, chế ước nhau, cho nên chuyển hóa và chế ước, từ đó cơ cấu và hướng đi cấu thành vạn vật trong trời đất là thiên hình vạn trạng. Đối với quy luật ngũ hành chuyển hóa, có thể phân ra là hai loại tương sinh và tương khắc: 1. Tương sinh: Kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim 2. Tương khắc: Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim Hai, Thiên can Địa chi Thiên can Địa chi gọi tắt là can chi, là một bộ phù hiệu mà thời Trung Quốc cổ đại dùng để tính toán lịch pháp. Trong đó, thiên can có 10 can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý; Địa chi có 12 chi: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Thiên can và địa chi kết hợp khởi lập thành tổ hợp 60 vị can chi, cũng gọi là Lục thập Hoa Giáp như biểu sau: + Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu; + Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi; + Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị; + Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão; + Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu; + Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Ba, Phân phối ngũ hành Can Chi Đã là thế giới vạn vật đều thuộc âm dương ngũ hành, như vậy thì thiên can địa chi cũng không ngoại lệ, cổ nhân đem can chi phân phối ngũ hành như sau: Kim kim mộc mộc thủy thủy hỏa hỏa thổ thổ Âm dương âm dương âm dương âm dương âm dương Tân Canh Ất Giáp Quý Nhâm Đinh Bính Kỷ Mậu Dậu Thân Mão Dần Hợi Tý Tị Ngọ Sửu Mùi Thìn Tuất Bốn, Nhị thập tứ tiết khí cùng mối quan hệ can chi Lịch pháp xưa nay là không ngoài hai loại là Lịch Thái Dương và Lịch Thái Âm. Lịch Thái dương như dương lịch ngày nay thế giới thông dụng (tiền thân là Lịch Nho lược, thế kỷ 16 Giáo Hoàng Grêgôriô XIII sửa chữa mà hình thành dương lịch hư ngày nay), Lịch Thái âm như Lịch Hồi giáo thông dụng ở các nước theo đạo Hồi Giáo. Hai loại lịch pháp này phân biệt chủ yếu ở chỗ: Lịch Thái dương lấy địa cầu xoay một vòng quanh Thái Dương (so với địa cầu mà nói, thì Thái dương vận hành xoay quanh Hoàng đạo một vòng) là một vòng quy về một năm, cũng đem bình quân thành 12 tháng, tổng thể còn lại thì chia làm tháng lớn nhỏ bình nhuận. Ưu điểm của lịch Thái dương là phân rõ 4 mùa, chuẩn xác không sai; còn lịch Thái âm thì nghiêm khắc lấy chu kỳ mấy tháng sóc vọng của mặt trăng, bởi vì không có chú ý đến chu kỳ địa cầu xoay quanh mặt trời, cho nên không thể chuẩn xác mà phân chia ranh giới 4 mùa. Trên thực tế âm lịch của truyền thống Trung Quốc là một loại âm dương hợp lịch, là một phương diện lấy chu kỳ mấy tháng sóc vọng (ngắm vào mồng một và ngày rằm âm lịch) của mặt trăng, một phương diện lại đúng dịp làm được mà thiết lập ra tháng nhuận cùng trở lại đồng bộ một năm. Chỗ nói 24 tiết khí là đem địa cầu quay xung quanh Thái dương (mặt trời) một vòng 360 độ cắt làm 24 phần là một vòng quy về một năm, tức là Thái dương ở Hoàng Kinh ở hướng đông mỗi lần di động một góc 15 độ là một “Khí”, di động một vòng 360 độ tổng cộng là 24 khí, âm lịch đem chỗ 24 tiết khí này đặt tên là Lập Xuân, Vũ Thủy, Kinh Chập, Xuân Phân, Thanh Minh, Cốc Vũ, Lập Hạ, Tiểu Mãn, Mang Chủng, Hạ Chí, Tiểu Thử, Đại Thử, Lập Thu, Xử Thử, Bạch Lộ, Thu Phân, Hàn Lộ, Sương giáng, Lập Đông, Tiểu Tuyết, Đại Tuyết, Đông Chí, Tiểu Hàn, Đại Hàn.Trong đó lấy 12 loại Lập Xuân, Kinh Chập, Thanh Minh, Lập Hạ, Mang Chủng, Tiểu Thử, Lập Thu, Bạch Lộ, Hàn Lộ, Lập Đông, Đại tuyết, Tiểu Hàn gọi là “Tiết khí”, còn lại gọi là “Trung khí”. Tiết khí, thông thường được lấy làm âm lịch, trên thực tế lại là nghiêm khắc dựa theo tính toán quy về một năm, thuộc về phạm trù âm lịch. Trong sắp xếp tứ trụ chỗ dùng năm tháng phân chia cũng là nghiêm khắc lấy tiết khí làm tiêu chuẩn, mà không phải là âm lịch thông thường hoặc là phân chia theo năm tháng dương lịch, chỗ này là nguyên tắc cơ bản khởi tứ trụ, khiến cho việc sắp xếp tứ trụ không bị ảnh hưởng bởi lịch pháp thay đổi mà bảo trì tính chuẩn xác, trọng yếu hơn là lấy năm hồi quy làm tiêu chí vài năm, phù hợp với tiết khí 4 mùa nóng lạnh thay đổi, tuân theo quan hệ nhân quả thiên đạo luân hồi, mà những chỗ này đều là cơ sở lý luận của mệnh lý học. Hiện đem quan hệ tứ trụ năm tháng cùng tiết khí sắp xếp như sau: + Lập Xuân 315 độ Dần; Lập Hạ 45 độ Tị; Lập Thu 135 độ Thân; Lập Đông 225 độ Hợi; + Vũ Thủy 330 độ Dần; Tiểu Mãn 60 độ Tị; Xử Thử 150 độ Thân; Tiểu Tuyết 240 độ Hợi; + Kinh Trập 345 độ Mão; Mang Chủng 75 độ Ngọ; Bạch Lộ 165 độ Dậu; Đại Tuyết 255 độ Tý; + Xuân Phân 0 độ Mão; Hạ Chí 90 độ Ngọ; Thu Phân 180 độ Dậu; Đông Chí 270 độ Tý. + Thanh Minh 15 độ Thìn; Tiểu Thử 105 độ Mùi; Hàn Lộ 195 độ Tuất; Tiểu Hàn 285 độ Sửu; Cốc Vũ 30 độ Thìn; Đại Thử 120 độ Mùi; Sương Giáng 210 độ Tuất; Đại Hàn 300 độ Sửu. Chú thích: 1. Nghiêm túc mà nói bắt đầu một năm là lấy tiết Lập Xuân làm chuẩn, như lúc 9 giờ 31 phút ngày 4 tháng 2 năm 1994 là tiết Lập Xuân, thì năm Giáp Tuất tính từ lúc 9 giờ 31 phút ngày 4 tháng 2 năm 1994 khởi đến tiết Lập Xuân năm 1995 là dừng. 2. Bắt đầu mỗi tháng nghiêm túc mà nói là lấy lúc thời khắc giao tiết làm chuẩn, như lúc 9 giờ 31 phút ngày 4 tháng 2 năm 1994 tiết Lập Xuân, thì tháng Dần (tháng giêng) năm Giáp Tuất tính từ giờ Lập Xuân, đến 3 giờ 38 phút ngày 6 tháng 3 tiết Kinh Trập là dừng, từ 3 giờ 38 phút ngày 6 tháng 3 khởi tính là tháng Mão (tháng 2 âm), còn lại cứ loại suy như vậy. Năm, Thiên can ngũ hợp Giáp Kỷ hợp hóa thổ, Ất Canh hợp hóa kim, Bính Tân hợp hóa thủy, Đinh Nhâm hợp hóa mộc, Mậu Quý hợp hóa hỏa. Chỗ nói là thiên can ngũ hợp, là chỉ 5 tổ thiên can tác dụng với nhau mà sản sinh thay đổi. Như Bính Tân hợp hóa thủy, là chỉ thiên can Bính gặp thiên can Tân, Bính vốn là hỏa, Tân vốn là kim, nhưng khi cả hại hợp lại một chỗ sẽ khởi phản ứng với nhau, nối lại hợp ở một chỗ, lại biến hóa thành thủy, giống như phản ứng hóa học thông thường, tính chất cả hai đều thay đổi, sinh thành tính chất mới. Đương nhiên ở trong lúc ứng dụng thực tiễn, hợp hóa là điều kiện nghiêm khắc, cũng không phải vừa thấy Bính Tân hợp thì cho là hóa thành thủy. Bính Tân như vậy, còn lại cái khác cứ loại suy ra. Sáu, Địa chi lục xung Bao gồm: Tý Ngọ xung; Sửu Mùi xung; Dần Thân xung; Mão Dậu xung; Thìn Tuất xung; Tị Hợi xung. Địa chi lục xung là chỉ giữa các địa chi sinh khắc mà biến hóa, như địa chi Tý gặp địa chi Ngọ, cả hai xung nhau qua lại đều có tổn thất. Về phần xung này là tốt hay xấu, cần phải suy luận toàn bàn. Bảy, Địa chi tam hợp Hợi Mão Mùi hợp hóa mộc; Tị Dậu Sửu hợp hóa kim; Thân Tý Thìn hợp hóa thủy; Dần Ngọ Tuất hợp hóa hỏa; Địa chi tam hợp lý giống như thiên can ngũ hợp, tức là giữa các địa chi tác dụng qua lại mà thay đổi tính chất, như 3 địa chi Hợi Mão Mùi tụ lại một chỗ, như vậy thì thành đổi hóa thành mộc. Ở trong thực tiễn địa chi tam hợp cũng có điều kiện nghiêm ngặt của nó. Tám, Địa chi bán Tam Hợp Bao gồm: Hợi Mão hợp mộc, Mão Mùi hợp mộc; Tị Dậu hợp kim, Dậu Sửu hợp; Thân Tý hợp thủy, Tý Thìn hợp thủy; Dần Ngọ hợp hỏa, Ngọ Tuất hợp hỏa. Địa chi bán tam hợp lý giống như địa chi tam hợp, chẳng qua bởi vì cả ba không có đầy đủ, cho nên lực lượng so với tam hợp phải nhỏ hơn một chút. Chín, Địa chi Lục Hợp Bao gồm: Tý Sửu hợp thổ; Dần Hợi hợp mộc; Mão Tuất hợp hỏa; Thìn Dậu hợp kim; Tị Thân hợp thủy; Ngọ Mùi hợp thổ. Địa chi lục hợp cũng là giữa các địa chi tác dụng lẫn nhau mà biến hóa, như Tý Sửu tụ ở một chỗ, thì biến hóa thành thổ, lực lượng địa chi lục hợp nhỏ hơn tam hợp và bán tam hợp. Tác giả: Lesoi – Tử Bình diệu dụng Bài viết Tri thức cơ sở về Lục Hào đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH.
https://bocdich.com/tri-thuc-co-so-ve-luc-hao/
0 notes
Quote
KINH DỊCH LÀ SÁCH BỎI HAY LÀ SÁCH TRIẾT LÝ ? Theo Trương Chí Triết , chủ biên tác phẩm Đạo Giáo Văn Hóa Tự Điển , thì Kinh Dịch chỉ là một cuốn sách bói ( bốc phệ chi thư) . Trương Thiện Văn , trong phần lời bạt của Tự điển Chu Dịch , cũng nhấn mạnh rằng “ Chu Dịch nguồn gốc là Tượng số , rồi phát triển thành Nghĩa lý ” , nhưng trong mục từ “ Chu Dịch ” lại viết : “ Nghiên cứu kỹ nội dung của Kinh và Truyện của Chu Dịch ta thấy , mặc dù Chu Dịch được sử dụng nhiều vào việc bói toán , nhưng thực chất trong nó chứa đựng ý nghĩa triết học cực kỳ thâm thúy . ” Trong điển tịch thời Tiên Tần , chẳng hạn hai tác phẩm điện hình nổi tiếng nhất là Tả Truyện và Quốc Ngữ, có chép việc trong thời kỳ Xuân Thu người sử dụng sách Chu Dịch vào việc bói toán rất nhiều : trong Tả Truyện có 19 lần nhắc đến việc này còn trong Quốc Ngữ là 3 lần . Xưa nay thảo luận về Dịch học không ngoài việc giảng tượng số và ý nghĩa . Các trường hợp sử dụng Chu Dịch trong Tả Truyện và Quốc Ngữ cũng không ra ngoài thông lệ đó . Hai học giả Ngô Tạ Diệu và Ngô Nghĩa Phương viết : “ Người đương thời ứng dụng Chu Dịch , đại khái là không ngoài việc quan sát các điểm triệu để suy luận , đoán việc hên xui , và dẫn lời bàn quẻ ( quái từ và hào từ ) để làm chứng cho những biến cố xảy ra ” ( Đương thời nhân ứng dụng Chu Dịch , đại thể thượng thuyết bất ngoại hồ chiêm sự suy luận dĩ đoán cát hung hòa dẫn dụng quái hào từ lai luận chứng nhân sự lưỡng cá phương diện ) . Các học giả có thể tạm thời kết luận : Lúc đầu Kinh Dịch là một tác phẩm bói toán , nhưng người đời sau đã nhận ra ý nghĩa triết học của tác phẩm này , vì việc thực hành chiếm bốc đã hàm ẩn một nhân sinh quan và vũ trụ quan , mặc dù thị kiến triết học này không được trình bày một cách tường minh . Nhưng cũng rất có thể chính cái nội dung tư tưởng chính trị ( đạo trị quốc an dân ) ngay từ đầu đã được lồng vào cái vỏ bói toán, vụ thuật để hướng dẫn nhận thức cho các thiên tử nhà Chu , như phần phân tích cấu trúc quái từ và hào từ của Lý Kính Trì cho thấy . Vào thời Tần Thủy Hoàng , cuốn kỳ thư này không bị đốt vì mọi người cho rằng đó là một cuốn sách bói toán . Toàn bộ các phương sĩ và các đời Tần và Hán đều sử dụng tác phẩm này vào mục đích chiêm bốc . Học thuyết Âm Dương của Trâu Diễn , Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư , đầy rẫy những lời giải đoán về Kinh Dịch mang tính chất ma thuật . Đến thời Vương Bật , ông khẳng định rằng đây là một tác phẩm mang nội dung triết lý sâu sắc , không phải chỉ là một cuốn sách bói . Đến thời Chu Hi , ông tổng hợp cả hai quan điểm , cũng giống như quan điểm của đa số nhà Dịch học hiện đại . Phùng Hữu Lan nhận định : “ Lúc đầu Kinh Dịch được soạn ra với mục đích bói toán, nhưng về sau, thậm chí cả khi không dùng để bói toán , ý nghĩa của lời giải đoán các quẻ và vạch tiếp tục được mọi người trích dẫn khi cần ủng hộ cho một lập luận nào đó . Trần Vinh Tiệp ( Wing – tsit Chan ) nói rõ hơn : “ Kinh Dịch phát dẫn từ thực hành bói toán . Văn bản kỳ bí , khó hiểu , không ai có thể rút ra được những kết luận triết lý xác định . Tuy nhiên , trong phần bình giải , được truyền thống gán cho Khổng Tử , nhưng sau đó ba bốn thế kỷ lại được các học giả cho là người khác là tác giả , có một đề cương rõ nét về một phương pháp tiếp cận đây duy lý đối với một vũ trụ sinh động và hài hòa ”. Bài viết KINH DỊCH LÀ SÁCH BỎI HAY LÀ SÁCH TRIẾT LÝ ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH - TẬN LỰC TRI THIÊN MỆNH.
https://bocdich.com/kinh-dich-la-sach-boi-hay-la-sach-triet-ly/
0 notes
Quote
Sẽ xảy ra các sự tình liên quan đến mẹ, vợ, hoặc con gái, tài lợi, sản nghiệp, bất động sản… Người chưa kết hôn dễ rơi vào một tình yêu chân thật, hồn nhiên. Đại vận Ở cung miếu vượng, không có sát tinh, mọi việc như ý, nguồn kiếm tiền mở rộng, sinh conm yêu đương thuận lợi, có cơ hội được khen thưởng, nên mua bất động sản; có sát tinh thì vất vả, sự nghiệp gặp trở ngại, nhưng trải qua nỗ lực vẫn có thể có thành tựu. Ở cung thất hãm, ra sức mà không đạt được kết quả tốt, vất vả mà khó thành, tiền bạc hao tán, không tụ tài; còn bất lợi với mẹ, vợ, con gái, hoặc đối với tình yêu hôn nhân, tình cảm phần nhiều gặp sóng gió, trắc trở, dễ thất tình, tương tư đơn phương, rất đau khổ phiền não về tinh thần. Thêm hóa kị và sát tinh thì càng hung, tiền bạc hao hụt, thậm chí phá sản, còn dễ sảy ra rối loạn, phiền phức về sức khỏe, gia đình, tình yêu và hôn nhân. Gặp Hóa kị, có tượng gia sản lụn bại, phần nhiều là ngầm hao tiền tốn bạc, dễ bị lừa gạt,; lại hãm địa dễ vì sắc mà tổn hại danh tiếng, hao tổn tiền bạc ( chớ ham sắc tham tiền, phàm việc gì cũng phải giữ gìn ). Có Hỏa tinh, Linh tinh đồng cung, là có tai họa kiện tụng, tật bệnh; nếu tam phương lại gặp Kình dương, Đà la, Thất sát là có tai họa, gặp năm Ất sẽ ứng. Vận tuổi trẻ gặp Thái âm, khá yên tĩnh, có duyên với ngươi chung quang, hoạc giỏi. Vận trung niên gặp nó là thích hành động, có tin thần lập sự nghiệp, nhiều bôn ba, ua tiếp cận người khác phái. Vận loãi niên chú trọng hưởng thụ, có tài phú. Lưu niên Lưu niên Thái Âm gặp Bạch hổ, chủ về mẹ gặp nạn tai, hoặc chủ về vợ gặp hung hiểm; Có thiên hình, Thiên vu đồng cung, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp chúng, cũng chủ về mẹ gặp nạn tai. Lưu niên gặp Thái âm Hóa kị, thường sẽ có tình trạng dây dưa lần nữa và kế hoạch bị trở ngại. Ví dụ, Thái âm Hóa kị ở cung Thiên di của lưu niên, sẽ có tình trạn lần nữa thời gian xuất hành hoặc quay về; Thái âm Hóa kị ở cung Mệnh của Lưu niên, là dễ bị mất ngủ, sự nghiệp trở ngại. Vận dụng hạn Thái âm hoặc phương vị Thái âm có thể cầu tài, dễ có tiền riêng; gặp chuyện nên xử lý kín, xử lý công khai sẽ bất lợi. Bài viết Đại vận hoặc lưu niên Thái âm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH - TẬN LỰC TRI THIÊN MỆNH.
https://bocdich.com/dai-van-hoac-luu-nien-thai-am/
0 notes
Quote
Chào các bạn, trang web bocdich.com đã đi vào hoạt động được 3 tháng. Trong thời gian đó, đội ngũ phát triển và biên tập viên đã nỗ lực để có những bài viết chất lượng, mang đến cho bạn đọc cái nhìn chân thực và dễ hiểu về thế giới kì bí của nên văn hóa phương Đông. Chúng tôi thấy đó là những điều chưa đủ để đưa những kiến thức đó đến gần hơn bạn đọc. Hãy bắt đầu mọi thứ bằng một câu hỏi Nay hệ thống Hỏi đáp Huyền học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, mục đích là tạo ra một không gian để mọi người cùng tham gia xây dựng và giao lưu. Tại đây, bạn có thể đặt bất một câu hỏi nào mà mình quan tâm, thắc măc. Sau đó mọi người sẽ cũng trao đổi và giải đáp cho bạn. Hơn thế nữa, mỗi lần đặt câu hỏi là một lần thêm kiến thức, thêm hiểu biết về khoa học Phương đông. Làm sao tôi có thể tham gia Rất đơn giản, bạn chỉ cần có một tài khoản facebook là đã có thể giam gia với chúng tôi rồi. Link truy cập: https://bocdich.com/hoidap Đăng nhập: Bấm vào phần Đăng nhập và chọn Facebook login. 3. Sau khi đăng nhập, bạn đã có thể tham gia hệ thống. Bài viết Hệ thống Hỏi đáp Huyền học đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH - TẬN LỰC TRI THIÊN MỆNH.
https://bocdich.com/he-thong-hoi-dap-huyen-hoc/
0 notes
Quote
Sẽ xảy ra các sự tình liên quan đến công việc, tài lợi, sản nghiệp, bất động sản. Có thể lập sự nghiệp, mở công ty, mua bán bất động sản. Nếu không có sát tinh xung phá, việc gì cũng đều thuận buồm xuôi gió, phát triển bình ổn, nhưng sẽ không phát triển đột ngột; tiền bạc, địa vị, hôn nhân, tiếng tăm, thi cử đều có điềm cát, giao dịch bất đổng sản sẽ phát tài, mọi việc như ý, trong gia đình có nhiều chuyên mừng, sinh con; dễ được trúng thưởng, trúng số; thêm cát tinh thì càng đẹp, có cơ hội thăng chức, thăng tiến, phát tài, có thể đầu tư lớn thêm; ưa gặp Lộc tồn, Hóa lộc, chủ về phát tài; có thể hợp tác làm ăn, có thể mua tậu bất động sản. Thêm sát tinh thì vận khí bình bình, chỉ chủ về gặp khó khăn trở ngại, kiện tụng nghiêm trọng; gặp Địa không, Địa kiếp sẽ biến thành cô độc; cảm giác trống rỗng, không chịu làm gì. Vận tuổi trẻ gặp Thiên phủ, là đại lợi về học hành; thêm cát tinh thì đứng đầu trong danh sách. Vận thanh niên mà gặp nó, thì khá kiêu ngạo; Trung vãn niên mà gặp nó, thì vững bước phát triển sự nghiệp; Sau 50 mà gặp nó, tuy tốt nhưng chỉ vẻ vang bề ngoài còn bên trong trống rỗng, nên giữ gìn những gì đã đạt được. Lúc vận dụng Thiên phủ, trong vận này, phương vị này có thể tích lũy tài phú, mở công ty, mở sản nghiệp Bài viết Đại vận hoặc lưu niên Thiên phủ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày BỐC DỊCH - TẬN LỰC TRI THIÊN MỆNH.
https://bocdich.com/dai-van-hoac-luu-nien-thien-phu/
1 note
·
View note