DaiABank kênh thông tin ngân hàng lớn nhất châu Á với những kiến thức, tin tức cập nhật liên tục về hệ thống ngân hàng hàng đầu Châu Á
Don't wanna be here? Send us removal request.
Text
Các nghiên cứu trong nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng
Những nghiên cứu về phát triển dịch vụ phi tín dụng
Liên quan đến vấn đề Phát triển dịch vụ phi tín dụng của các Ngân Hàng thương mại ở Việt Nam đã có một số tác giả tiếp cận ở các mảng nghiệp vụ và góc độ khác nhau. Một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến các nghiệp vụ dịch vụ phi tín dụng của các NHTMVN trong thời gian qua như:
Nghiên cứu về các dịch vụ phi tín dụng hiện đại:
– Luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Tuấn Linh, Những giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam.Luận án đã trình bày một cách tổng quan về thẻ của các NHTM, đánh giá thực trạng phát triển thẻ của các Ngân Hàng thương mại ở Việt Nam từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thẻ trong nước và ngang tầm với thế giới.
– Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thu Hương , Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án đã trình bày về những vấn đề lý luận về phát triển DVNH điện tử trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích thực trạng các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển DVNH điện tử và các giải pháp phát triển DVNH điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
– Luận án tiến sĩ của tác giả Phùng Thị Lan Hương, Phát triển kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận án đã trình bày về những vấn đề lý luận về kinh doanh ngoại tệ từ đó phân tích một cách có hệ thống và khoa học thực trạng phát triển kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế của các NHTM VN trong thời gian từ 2006 -2011. Đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển kinh doanh ngoại tệ của các NHTM VN trong thời gian tới.
– Giáo trình, Dịch vụ ngân hàng hiện đại của tác giả Nguyễn Thị Qui . Nội dung của giáo trình này nêu rõ những đặc trưng cơ bản về DVNH hiện đại, thực trạng cũng như nhu cầu, định hướng và giải pháp phát triển DVNH hiện đại tại VN giai đoạn 2007-2010 và tầm nhìn 2020.
Nghiên cứu về các dịch vụ phi tín dụng truyền thống:
– Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thúy, Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ở Việt Nam. Luận án đã nghiên cứu cơ sở, lý luận, thực trạng cơ chế và tổ chức quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ở VN, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ở VN.
– Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Hồng Tâm, Vận dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh của NH trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá thực trạng vận dụng nghiệp vụ bảo lãnh hoạt động NHVN thời gian qua và đề xuất trong thời gian tới.
Nghiên cứu về phát triển dịch vụ phi tín dụng ngân hàng:
– Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Minh Điển, Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Luận án đã hệ thống hóa tương đối đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý luận về DVPTDcủa NHTM, nêu lên thực trạng phát triển một số DVPTDđiển hình của NHNo&PTNT từ đó đưa ra các nhóm giải pháp phát triển DVPTDcủa ngân hàng này.
– Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Anh Thủy, Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.Luận án đã hệ thống một cách toàn diện cơ sở lý luận về DVPTDngân hàng, phân tích thực trạng phát triển DVPTD của hệ thống NHTM Việt Nam, luận án sử dụng mô hình để đo lường sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng DVPTDcủa NH.
Xem thêm:
Ngân hàng là gì
Tài Khoản Ngân Hàng là Gì?
giá trị của ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Thanh toán không dùng tiền mặt
0 notes
Text
Tối ưu tài khoản ngân hàng - Cách Thương Thuyết Với Ngân Hàng
Nếu bạn mới mở hay đã có sẵn tài khoản ngân hàng, thì bước kế tiếp là tối ưu tài khoản giao dịch và tiết kiệm. Tối ưu là loại bỏ các khoản phí dịch vụ lãng xẹt và giải phóng khoản duy trì số dư tối thiểu khỏi nhà tù. Bạn đạt điều đó bằng cách đối thoại mặt-đối-mặt hoặc qua điện thoại (email không hiệu quả) với tiếp tân của ngân hàng.
Dưới đây là hướng dẫn giúp tối ưu tài khoản ngân hàng tăng thêm vài khoản lời, giảm được vài khoản phí, và tránh “đối thụi” trong màn thương thuyết nảy lửa với ngân hàng.
[caption id="attachment_366" align="aligncenter" width="719"]
Tối ưu tài khoản ngân hàng[/caption]
Tiêu Diệt Các Phí Xấu Xí
Hãy bảo đảm tài ngoản tiết kiệm và giao dịch của bạn không có các loại phí vớ vẩn nào như phí duy trì, phí thấu chi, phí mở tài khoản, phí phát hành thẻ… Các loại phí trên sẽ gột sạch lãi suất ít ỏi bạn được hưởng. Nếu bạn đang cho ngân hàng vay tiền để ngân hàng kiếm lãi cho người khác vay tiền, tại sao bạn phải trả thêm tiền phí cho họ?
Phí tào lao nhất là duy trì “số dư tối thiểu”. Bạn không thể rút quá số tiền tối thiểu bạn phải có trong tài khoản (trung bình là 100,000đ). Đây là một cách chiếm dụng vốn và khiến bạn bị hưởng lãi suất không kỳ hạn (hay còn gọi là lãi suất thấp nhất có thể). Đa số ngân hàng sẽ loại bỏ các loại phí phiền phức khi bạn thiết lập chuyển tiền trực tiếp – để công ty chuyển lương vào tài khoản của bạn hằng tháng.
Phí nóng phỏng tay nhất là phí thấu chi. Khi bạn mua hàng bằng thẻ ghi nợ (thẻ ATM, debit) vượt quá số tiền đang có trong tài khoản giao dịch (nếu bạn dùng thẻ tín dụng thì không sao), một số ngân hàng thay vì chặn giao dịch thì sẽ cho thông qua và tính phí thấu chi sau. Phí cắt cổ này lên đến lãi suất 15%/năm. Cách tốt nhất để tránh phí thấu chi là thiết lập chuyển khoản tự động và luôn có một lượng tiền gối đầu trong tài khoản (Tôi luôn có ít nhất 1,000,000đ trong tài khoản giao dịch).
Các khoản phí này chỉ mất đi khi bạn lật bài ngửa cuối cùng: đóng tài khoản ngân hàng. Lỡ như bạn đã có tài khoản ở một ngân hàng yêu thích nhưng bị tính phí lằng nhằng thì sao? Ít ai biết chỉ cần sử dụng những kịch bản thương thuyểt dưới đây, bạn sẽ khiến ngân hàng mở khóa ra những lợi ích bất ngờ.
Ghi Chú: Có vài khoản phí chấp nhận được như phí chuyển đổi ngoại tệ, phí cấp lại thẻ, phí cấp lại thiết bị bảo mật. Đừng xách súng đi cướp ngân hàng chỉ vì bạn bị trừ vài loại phí.
Cách Thương Thuyết Với Ngân Hàng
Mọi thứ ngoại trừ lực hút trái đất và luật pháp đều trả giá được. Chỉ vì một công ty đã niêm ý giá dịch vụ hay sản phẩm, không có nghĩa là bạn phải trả đúng y bong mức giá trên nhãn. Mỗi khi đi du lịch với ba, tôi đã không ít lần thấy ba tôi vừa giỡn chọc tiếp tân vừa hạ giá 30% cú rụp tại khách sạn.
Ngân hàng cũng không ngoại lệ. Hầu hết phí ngân hàng đều thương thuyết được
Trong thương thuyết, ai ở vị thế tốt hơn sẽ ra được các điều khoản lợi hơn. Bạn hãy hiểu các ngân hàng đều tốn một khoảng phí lớn để kiếm khách hàng và giữ chân khách hàng – bao gồm quảng cáo, chăm sóc, và công nghệ. Họ có thể bấm ngón tay trong 5 giây để so đo mất bạn chỉ vì 100,000đ là một quyết định tồi. Hãy dùng kiến thức này làm đòn bẩy để bạn ở “kèo trên” khi liên hệ bất kỳ công ty tài chính nào.
Mẫu Mở Tài Khoản Tốt Nhất
BẠN: Xin chào, tôi muốn mở một tài khoản tiết kiệm và một tài khoản giao dịch không có phí thường niên, miễn phí rút tiền mặt và không phải duy trì số dư tối thiểu.
TIẾP TÂN: Cáo lỗi cùng quý khách, nhưng ngân hàng chúng tôi không còn loại đó.
BẠN: Nhưng [Techcombank/ACB/HSBC/ANZ/đối thủ cạnh tranh] đang có loại tài khoản đó. Vui lòng kiểm tra lại xem ngân hàng bạn có tài khoản nào tương đương.
(Nếu tiếp tân không giúp được bạn, hãy hỏi đến quản lý. Hãy chuẩn bị được mời vào phòng VIP)
QUẢN LÝ: Xin chào, chúng tôi có thể giúp gì cho quý khách?
BẠN: (Lặp lại yêu cầu. Nếu quản lý không cho bạn lựa chọn mới, hãy thêm câu này:) Tôi đã là khách hàng được X năm rồi và tôi muốn tiếp tục sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Nhưng có các ngân hàng khác đang cho tôi ưu đãi tốt hơn. Bạn có thể làm gì để giúp tôi vẫn là khách hàng?
Quản Lý: Xin quý khách vui lòng chờ một chút… Trong trường hợp của quý khách, ngân hàng chúng tôi có thể đưa ra loại tài khoản này đúng với như mong muốn quý khách đã nêu!
BẠN: Tốt quá, xin cám ơn.
(Nếu quản lý cũng không giúp được bạn, hãy tìm ngân hàng khác. Có quá nhiều ngân hàng nội địa dịch vụ khách hàng kém ở Việt Nam.)
Trong đời sẽ có lúc xảy ra chuyện “Tấm đã nấu thành cơm, Cám đã nấu thành mắm”. Nếu sự đã rồi là bạn rút tiền quá lố, đè bẹp thiết bị bảo mật, hay lạc mất thẻ ngân hàng, thì hãy sử dụng kịch bản thương thuyết sau.
Mẫu Miễn Phí Dịch Vụ
BẠN: Xin chào, tôi thấy khoản phí thấu chi này và tôi muốn được bỏ phí ra đi.
TIẾP TÂN: Xin quý khách vui lòng chờ kiểm tra…Xin lỗi quý khách, ngân hàng không thể bỏ phí này. Bởi vì [lý do abcxyz].
Đừng nói những câu sau:
“Bạn chắc chứ?”
“Tôi có thể làm gì nữa không?”
“Okay.”
Những người thiếu kinh nghiệm thương thuyết thường bỏ cuộc sau lời từ chối đầu tiên. Đừng bỏ cuộc. Đừng tạo cơ hội cho công ty nói không một cách dễ dàng. Bạn chỉ mở miệng hỏi thôi mà, có mất gì đâu, mà nếu được thì quá hời.
Hãy thử các câu sau:
BẠN: Tôi thấy mình bị trừ tiền phí này và tôi muốn nó được bỏ đi. Bạn có thể làm gì nữa để giúp tôi? (Nhắc lại lời yêu cầu và nhờ họ sửa chữa một cách thiện chí.)
(Hầu hết mọi người sẽ thu lại được tiền phí. Các bạn đọc giả đã thử ở Úc, Mĩ và New Zealand thông báo tiết kiệm được vài triệu đồng nhờ kỹ thuật này. Nếu tiếp tân là một bà già khó tính, bạn hãy thử them sau.)
TIẾP TÂN: Xin lỗi thưa quý khách, chúng tôi không thể bỏ phí này.
BẠN: Tôi hiểu. Nhưng hãy xem lịch sử giao dịch của tôi. Tôi đã là khách hàng được X năm hơn rồi, và tôi muốn tiếp tục là khách hàng của ngân hàng. Tôi muốn phí này được loại bỏ – tôi lỡ lần này thôi. Bạn có thể làm gì để giúp tôi?
TIẾP TÂN: Hừm, xin quý khách vui lòng chờ trong giây lát. Chúng tôi thấy quý khách đã là khách hàng thân thiết…để em kiểm tra với quản lý…
(Là khách hàng dài lâu có lợi như thế, cho nên bạn nên ở một mối quan hệ dài lâu với một ngân hàng tốt. Và không đầu hàng khi bị từ chối khiến bạn tăng cơ hội thành công hơn 50% rồi.)
TIẾP TÂN: Thư quý khách, em đã kiểm tra với quản lý và được chấp nhận bỏ khoản phí. Quý khách có cần gì nữa không?
Nhờ kịch bản trên, tôi đã yêu cầu ngân hàng HSBC cấp lại thẻ và thiết bị bảo mật miễn phí để tiết kiệm 600,000đ.
—
Bạn đã tối ưu tài khoản ngân hàng của bạn như thế nào? Thủ thuật nào bạn đã áp dụng thành công? Chia sẻ ở bình luận bên dưới nhé.
Các mẫu đối thoại dịch từ www.iwillteachyoutoberich.com
0 notes
Text
Cạnh tranh trong kinh doanh và những điều cần biết về cạnh tranh
Cạnh tranh kinh tế
Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẽ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
[caption id="attachment_1219" align="aligncenter" width="703"]
cạnh tranh trong kinh doanh[/caption]
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành…
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh tranh phi giá cả (Khuyến mãi, quảng cáo) Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà �� đó, dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.
Cạnh tranh
Thuật ngữ "Cạnh tranh" được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao. Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành của khách hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra các quyết định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản xuất, và tự định giá cho sản phẩm hay dịch vụ.
Lợi thế cạnh tranh
Một thuật ngữ có liên quan đến cạnh tranh là lợi thế cạnh tranh là sở hữu của những giá trị đặc thù, có thể sử dụng được để "nắm bắt cơ hội", để kinh doanh có lãi. Khi nói đến lợi thế cạnh tranh, là nói đến lợi thế mà một doanh nghiệp, một quốc gia đang có và có thể có, so với các đối thủ cạnh tranh của họ. Lợi thế cạnh tranh là một khái niệm vừa có tính vi mô (cho doanh nghiệp), vừa có tính vĩ mô (ở cấp quốc gia). Ngoài ra còn xuất hiện thuật ngữ lợi thế cạnh tranh bền vững có nghĩa là doanh nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị trường một giá trị đặc biệt mà không có đối thủ cạnh tranh nào có thể cung cấp được.
Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Năng lực canh tranh của doanh nghiệp được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp và là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh không chỉ được tính băng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với thị phần mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất của doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh…
Năng lực cạnh tranh còn có thể được hiểu là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Đặc điểm
Cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vì nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh tranh.
Cạnh tranh cũng là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường, nhằm mục đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá để đạt được lợi nhuận cao nhất. Câu nói cửa miệng của nhiều người hiện nay "thương trường như chiến trường", phản ánh phần nào tính chất gay gắt khốc liệt đó của thị trường cạnh tranh tự do.
Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội.
Các loại cạnh tranh
Tùy theo cách thức tiếp cận khác nhau, có thể phân chia các loại cạnh tranh kinh tế khác nhau.
Cạnh tranh lành mạnh
Cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh tranh theo đúng quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh. Cạnh tranh có tính chất thi đua, thông qua đó mỗi chủ thể nâng cao năng lực của chính mình mà không dùng thủ đoạn triệt hạ đối thủ. Phương châm của cạnh tranh lành mạnh là "không cần phải thổi tắt ngọn nến của người khác để mình tỏa sáng".
Có thể thấy, kinh doanh như một cuộc chơi nhưng không giống như chơi thể thao, chơi bài hay chơi cờ, khi mà phải luôn có kẻ thua – người thắng (lose – win); trong kinh doanh, thành công của doanh nghiệp không nhất thiết đòi hỏi phải có những kẻ thua cuộc. Thực tế là hầu hết các doanh nghiệp chỉ thành công khi những người khác thành công (sự "cộng sinh của hai bên"). Đây là sự thành công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn nhau. Tình huống này được gọi là "cùng thắng" (win – win).
Ở Việt Nam có câu "buôn có bạn, bán có phường" có nghĩa là không nhất thiết các doanh nghiệp cạnh tranh cùng một mặt hàng phải sống chết với nhau mà thông thường phải liên kết với nhau thành các phố kinh doanh cùng một mặt hàng như phố hàng trống, hàng mã….
Cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh là tất cả những hành động trong hoạt động kinh tế trái với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng. Và cũng gần như sẽ không có người thắng nếu việc kinh doanh được tiến hành giống như một cuộc chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt chỉ dẫn đến một hậu quả thường thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự sụt giảm mức lợi nhuận ở khắp mọi nơi.
Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty, doanh nghiệp thường xuyên phải cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy trì sự phát triển và gia tăng lợi nhuận. Do đó các nhà kinh doanh cho rằng cạnh tranh thuộc phạm trù tư bản nên quan điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết các nhà kinh doanh đều nhầm tưởng "cạnh tranh" với nghĩa đơn thuần theo kiểu "thương trường là chiến trường".
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi cho doanh nghiệp mình. Đôi khi đó là sự trả giá của người khác. Đây là tình huống "cùng thua" (lose – lose). Không ít cơ sở sản xuất, doanh nghiệp còn sử dụng những chiêu thức "đen" nhằm hạ thấp và loại trừ các doanh nghiệp hoạt động trên cùng một lĩnh vực ngành nghề để độc chiếm thị trường.
Những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh
Một trong những thủ đoạn "đen", ít tốn kém đầu tư mà gây thiệt hại lớn cho các đối thủ cạnh tranh là tung tin thất thiệt, thường gọi là tin đồn. Tin đồn có ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp đối thủ, tập trung vào các vấn đề nhạy cảm như phương thức kinh doanh, tổ chức nhân sự, chất lượng sản phẩm, thậm chí đôi khi cả những khuyết tật đời tư cá nhân của các nhân vật chủ chốt trong đơn vị, doanh nghiệp đó.
Trên thế giới, không ít các đại gia lừng danh đã từng là nạn nhân của những thông tin thất thiệt này như: Sony, Erickson, Coca Cola, Pepsi...
Ở Việt Nam, tuy nền kinh tế thị trường mới hình thành và phát triển chưa lâu nhưng thủ đoạn tung tin thất thiệt cũng xảy ra và đang có chiều hướng ngày một gia tăng kiến nhà nước không kiểm soát một cách hiệu quả được, làm không ít doanh nghiệp làm ăn chân chính thiệt hại kinh tế rất lớn.
Đó là những thủ đoạn tung tin đồn gây thiệt hại lớn, còn như cạnh tranh kiểu tin đồn cò con thì hầu như diễn ra hằng ngày mà nhiều người gọi là "hội chứng" tin vịt.
Ví như: một doanh nghiệp đang tham gia đấu thầu xây dựng một công trình, bỗng có tin đồn doanh nghiệp này đang có vấn đề về tài chính, hay các công trình đã được doanh nghiệp thực hiện trước đó có nhiều vấn đề gian dối không bảo đảm chất lượng, thế là thua thầu, thậm chí không được tham gia đấu thầu chờ kết quả kiểm tra. Tương tự như vậy, khu du lịch này muốn hạ bệ khu du lịch kia thì tung tin: khu du lịch ấy mất vệ sinh, chất lượng phục vụ kém,trật tự an ninh không bảo đảm... thế là dễ dàng mất khách.
Tin đồn thất thiệt đang trở thành một vũ khí cạnh tranh của những doanh nghiệp làm ăn không lương thiện. Việc đối phó được với hình thức cạnh tranh "bẩn" này rất khó khăn. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa (đặc biệt là ở Việt Nam) chưa có được những biện pháp hữu hiệu để chống lại hình thức cạnh tranh bằng cách tung tin thất thiệt này, hầu hết họ đều dựa vào các cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhưng ngay các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng rất lúng túng và bị động trong xử lý đối với thủ đoạn cạnh tranh "đen" này. Minh chứng cụ thể nhất là hội chứng tin đồn về giá gạo ảo trong những tháng đầu năm 2008, làm cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng lao đao, các cấp ngành chức năng lúng túng, gây cho việc xuất khẩu gạo trì hoãn, thiệt hại cho kinh tế của Việt Nam.
Mặc dù hiện nay ở Việt Nam đã có Luật Cạnh tranh, trong đó đưa ra nhiều hành vi bị cấm như: mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc trong kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp khác, quảng cáo sai với thực chất, phân biệt đối xử trong hiệp hội, bán hàng đa cấp bất chính. Như vậy, thủ đoạn tung tin thất thiệt để cạnh tranh được xếp vào điều cấm: gièm pha doanh nghiệp. Đây là hành lang pháp lý để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh hơn, các cơ quan chức năng có cơ sở pháp lý để xử lý những thủ đoạn cạnh tranh bằng tin đồn "đen".
Tuy nhiên, việc phát hiện nguồn gốc phát xuất của tin đồn không phải là việc đơn giản, đòi hỏi rất nhiều thời gian công sức, tiền bạc mới điều tra được. Mà nếu có điều tra ra được thì chế tài xử lý cũng còn nhiều bất cập, thậm chí còn rất nhẹ so với những thiệt hại vô hình cũng như hữu hình mà thương hiệu của doanh nghiệp đó gánh chịu.
Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền, hiệp hội ngành nghề trong việc phòng chống tin đồn thất thiệt, giải pháp tốt nhất là các nhà sản xuất, kinh doanh phải tự bảo vệ mình, bằng nghiệp vụ quản trị thông tin, bằng chất lượng sản phẩm và chữ tín của doanh nghiệp.
Trong cạnh tranh cần tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ để loại trừ đối thủ cạnh tranh, giành giật quyết liệt thị phần, khuyến trương thương hiệu sản phẩm, khống chế nhà cung cấp và khóa chặt khách hàng. Theo quan điểm đó, sẽ luôn có người thắng và kẻ thua trong kinh doanh. Cách nhìn về một kết cục thắng – thua được Gore Vidal viết như sau: "Chỉ thành công thôi chưa đủ. Phải làm cho kẻ khác thất bại nữa".
Sự khác biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh là một bên có mục đích bằng mọi cách tiêu diệt đối thủ để tạo vị thế độc quyền cho mình, một bên là dùng cách phục vụ khách hàng tốt nhất để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn đối thủ của mình.
Cạnh tranh kinh tế không phải là "chiến tranh" và cũng không phải là "hòa bình". Cạnh tranh kinh tế không còn là những động thái của tình huống (contextual act) hay không phải chỉ là những hành động mang tính thời điểm mà là cả tiến trình tiếp diễn không ngừng, khi đó các doanh nghiệp đều phải đua nhau để phục vụ tốt nhất khách hàng.
Cạnh tranh tự do và độc quyền
Cạnh tranh tự do hay cạnh tranh hoàn hảo:
Là loại cạnh tranh theo các quy luật của thị trường mà không có sự can thiệp của các chủ thể khác. Giá cả của sản phẩm được quyết định bởi quy luật cung cầu trên thị trường. Cung nhiều cầu ít sẽ dẫn đến giá giảm, cung ít cầu nhiều sẽ dẫn đến giá tăng.
Cạnh tranh độc quyền:
Là sự cạnh tranh mang tính chất "ảo", thực chất cạnh tranh này là sự quảng cáo để chứng minh sự đa dạng của một sản phẩm nào đó, để khách hàng lựa chọn một trong số những sản phẩm nào đó của một doanh nghiệp nào đó chứ không phải của doanh nghiệp khác.
Loại cạnh tranh này xảy ra khi trên thị trường một số lượng lớn các nhà sản xuất sản xuất ra những sản phẩm tương đối giống nhau nhưng khách hàng lại cho rằng chúng có sự khác biệt, dựa trên chiến lược khác biệt hoá sản phẩm của các công ty.
Ví dụ, trên thị trường có các sản phẩm xà bông tương đối giống nhau. Nhưng có hãng thì bảo rằng sẽ đem lại làn da mềm mại sau khi tắm, hãng thì bảo là đem lại hương thơm tươi mát, hãng thì bảo rằng sẽ làm trắng da.
Trong cạnh tranh độc quyền có thể phân chia thành hai loại:
* Độc quyền nhóm: Là loại độc quyền xảy ra khi trong ngành có rất ít nhà sản xuất, bởi vì các ngành này đòi hỏi vốn lớn, rào cản gia nhập ngành khó. Ví dụ: ngành công nghiệp sản xuất ôtô, máy bay.
* Độc quyền tuyệt đối: Xảy ra khi trên thị trường tồn tại duy nhất một nhà sản xuất và giá cả, số lượng sản xuất ra hoàn toàn do nhà sản xuất này quyết định. Ví dụ: Điện, nước ở Việt Nam do nhà nước cung cấp.
Quy định của pháp luật ở Việt Nam
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về vấn đề cạnh tranh. Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và ban hành Luật cạnh tranh và luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2005.
Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Theo đó, có hai hành vi cạnh tranh là vi phạm pháp luật là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hành vi hạn chế cạnh tranh
Là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.[2]
Cần lưu ý rằng pháp luật ở Việt Nam không quy định về việc chống độc quyền hay xu hướng thống lĩnh thị trường của một hoặc một nhóm doanh nghiệp vì việc độc quyền được coi là một hệ quả tất yếu của sự cạnh tranh bình đẳng trong một nền kinh tế thị trường. Tuy vậy pháp luật ở Việt Nam lại nghiêm cấm việc lạm vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường để thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo đó, Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.[3]
Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh. Bản thân các doanh nghiệp đó phải có thị phần đáng kể để có thể liên kết hạn chế cạnh tranh.
Nếu hai doanh nghiệp thì phải có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan. Ba doanh nghiệp thì phải chiếm từ 65% trở lên. Bốn doanh nghiệp thì phải có 75% thị phần trở lên.[4]
Đối với doanh nghiệp thuộc diện này thì pháp luật nghiêm cấm thực hiện những hành vi kinh doanh như sau:[5]
Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh này được thể hiện qua các hoạt động sau:[6]
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn: Là việc các doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khỏe để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
Xâm phạm bi mật kinh doanh.[7]
Ép buộc trong kinh doanh: Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
Gièm pha doanh nghiệp khác: Bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác: Là hình thức gây rối bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Ngoài ra còn các hành vi khác như:
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Phân biệt đối xử của hiệp hội.
Bán hàng đa cấp bất chính.
Bên cạnh đó quyền cạnh tranh trong kinh doanh luôn được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Điều 4 Luật cạnh tranh quy định về quyền cạnh tranh trong kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh. Và việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật cạnh tranh.
Những cách giúp cạnh tranh thắng lợi
Xem xét đánh giá tình hình, chiến thắng bằng “thay đổi”
ây là một nguyên tắc được dùng phổ biến nhất trong đấu tranh quân sự và chính trị, và nó cũng thích hợpb trong cạnh tranh kinh tế thời hiện đại, vì doanh nghiệp hiện đại là một hệ thống lớn kiểu mở cửa. Doanh nghiệp muốn trao đổi thông tin và trao đổi năng lượng với môi trường toàn xã hội. Nó khác với hệ thống sản xuất kiểu nhỏ hoặc kiểu đóng cửa - chịu sự ràng buộc bởi các nhân tố chính trị,kinh tế, khoa học kỹ thuật,.. đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi các nguồn kinh doanh nội bộ và các hệ thống phụ thuộc nội bộ. Cái gọi là “thích hợp” có nghĩa là doanh nghiệp phải giữ địa vị “ người thích ứng”, phải thay đổi theo tình hình thay đổi của môi trường bên trong, bên ngoài.
Câu nệ - không thay đổi, cứng nhắc - bảo thủ là điều tối kị trong cạnh tranh, phải xem xét đánh giá tình hình biết trước làm trước là “pháp bảo” của thắng lợi. Các doanh nghiệp phải có khả năng nhìn xa trông rộng và có sáng kiến để đối phó những thay đổi, những sự cố đột biến, tránh tình trạng không kịp đề phòng, không kịp trở tay.
Xuất kỳ bất ý đánh vào chỗ không chuẩn bị
Trên thương trường, hạt nhân của “bất ngờ, đánh vào chỗ không chuẩn bị” được thể hiện ở chữ “kỳ”. Phải lợi dụng nhược điểm tư duy quán tính của đối phương, nắm lấy chỗ hở tư tưởng của đối phương, đột phá những nếp cũ, quy tắc cũ và kiến thức cũ của tư duy trong mọi người, bất ngờ giành thắng lợi. Mưu l ược “xuất kỳ bất ý” mà các ông chủ hiện đại thường dùng đều dốc tâm sức vào chữ “kỳ”. Nếu muốn thành công, đòi hỏi bạn phải có tư tưởng kinh doanh xuất kỳ, đưa ra sản phẩm lạ thường, xảo thuật kinh doanh lạ thường, phương thức tiêu thụ và thái độ phục vụ khác lạ.
Nhanh chóng giành thắng lợi
“Thời gian là vàng bạc” là câu nói cửa miệng của người hiện đại và sự thực cũng như vậy. Đây là câu tổng kết kinh nghiệm cạnh tranh hiện đại.
Sở dĩ thời gian được sánh với tiền bạc là vì thời gian có thể trực tiếp ảnh hưởng đến giá trị của đồng tiền. Trong cuộc sống kinh tế hiện đại, với số lượng tiền như nhau, cùng với năm tháng qua đi thì giá trị của đồng tiền cũng thay đổi. Mặt khác, thời gian cũng ảnh hưởng đến chiếm dụng và tốc độ quay vòng của đồng tiền. Vốn sản xuất của doanh nghiệp cũng nằm trong quỹ đạo vận động không ngừng đó, vận động này có thể mang lại gia tăng của giá trị. Vận động quay trở lại lúc ban đầu, gọi là vòng quay của đồng vốn. Thời gian đồng tiền quay vòng một lần càng ngắn thì số lần quay vòng trong thời gian nhất định sẽ càng nhiều. Tổng vốn chiếm dụng càng nhỏ thì tăng gía trị do số vốn bằng nhau mang lợi càng nhiều, hiệu quả kinh tế càng cao.
Thông thường người thành công đều có hiểu biết như sau: thị trường thay đổi nhiều, cạnh tranh gay gắt, những cơ hội này thường thường sớm tàn lụi và không bao giờ trở lại. Nếu như không thể nhanh chóng nhìn nhận được và nắm chắc cơ hội này, phản ứng chậm chạp, không dứt khoát thì sẽ bị người khác nhanh chân đi trước, khi đó hối hận không còn kịp nữa. Người cạnh tranh hiện đại phải rất coi trọng “cơ hội” phải tranh thủ thời gian từng giây từng phút, nếu có cơ hội phải quyết đoán, dứt khoát bắt tay vào làm ngay.
Lùi trước tiến sau
Binh pháp có phép dùng binh:” Đánh đòn phủ đầu, lùi trước tiến sau”, tranh thủ hành động trước, sau đó tuỳ thời cơ để ứng biến, từ đó giành thành công lớn. Nhưng còn có một số người thành công nhờ thận trọng chờ thời cơ, ra tay hành động sau, cũng làm nên nghiệp lớn.
Người hành động sau trong cạnh tranh cũng có thể thắng được người khác, trên tất cả các mặt đều tỏ ra ưu thế hơn người hành động trước, họ có thể tiếp thu bài học thất bại của người đi trước để giành được hiệu quả kinh tế tương đối tốt. Nhưng người làm sau phải nhằm đúng thời cơ, hành động dứt khoát, quyết đoán, quyết không thể hành động mù quáng để dẫn đến thất bại quá sớm, cũng không nên do dự chần chừ mà để lỡ thời cơ.
Tập trung ưu thế
Cạnh tranh kinh tế thực chất là cuộc cạnh tranh về nhân lực, vật lực và tài lực. Nhưng bất kỳ cá nhân, tập thể nào cũng đều bị hạn chế trong những nguồn lực này. Trong tình hình như vậy, phải sử dụng nguồn vốn như thế nào để có hiệu quả nhất – đây là một trong những điểm mấu chốt để cạnh tranh thắng lợi. Người thành công thật sự thì quy mô sự nghiệp của họ không thể trải ra quá rộng mà chỉ nên hành động trong phạm vi mình có thể nắm chắc được. Như vậy bảo đảm tập trung ưu thế, đột phá trọng điểm. thúc đẩy toàn cục.
Hướng tới cái lợi tránh cái hại
Hướng tới cái lợi – tránh cái hại là một trong nhữgn nguyên tắc bắt buộc người quyết sách phải tuân theo khi lựa chọn phương án tối ưu. Trong cạnh tranh kinh tế, bất kỳ doanh nghiệp nào cho dù thực có lực mạnh đến đâu đều có điểu yếu và điểm mạnh của mình, đều không thể chiếm lĩnh toàn bộ thị trườngn. Muốn trong một thời gian ngắn chiếm được ưu thế canh tranh chi phí thấp nhất, con đường duy nhất có thể lựa chọn là hướng tới cái lợi, tránh cái hại, phát huy sở trường, tránh sở đoản.
Vu hồi giành thắng lợi
Mặc dù là cao thủ lão luyện hay là người mới bước vào thương trường đều không thể nóng lòng ăn ngay được. Cho dù trong sự nghiệp hay trong cuộc sống không thể lúc nào cũng thuận buồm xuôi giói. Trong cong có thẳng, trong thẳng có cong – đây là chân lý không bao giờ thay đổi. Nhất là trong đối kháng và cạnh tranh của thị trường, hai bên đều có kế hoạch gây nhiễu đối phương, làm chậm trễ hành động của đối phương, kéo dài thời gian của đối phương, làm giảm hiệu quả của đối phương.
Vì vậy trong cạnh tranhn chúng ta không thể mãi mãi chỉ đi theo con đường thẳng, trên vấn đề “thẳng” và “cong” phải cố gắng nhìn xa trông rộng, dự báo tương lai một cách chính xác, dũng cảm đối mặt với khó khăn, tỉnh táo nhìn nhận thành tích. Vừa làm hảo hán trong hoàn cảnh thuận lợi, không quá đắm mình trong tình thế có lợi, lại vừa làm anh hùng trong hoàn cảnh khó khăn, không hề dao động trước nguy cơ áp lực.
Tích tiểu thành đại
Sở dĩ biển trở thành đại dương bao la do từng hạt nước nhỏ tích tụ lại, sở dĩ có núi cao là do từng viên đất nhỏ hợp lại. Cạnh tranh kinh tế cũng như vậy. Người thành công đều bắt đầu từ những cái nhỏ nhất, tích ít thành nhiều, tích tiểu thành đại. Trong cuộc đọ sức thị trường, có lúc phải “thấy lợi nhỏ không làm. thấy bệnh nhẹ không từ chối”, song không thể sơ suất bỏ qua. Nếu những cuộc đọ sức nhỏ thuộc về một khâu trong chiến lược thì phải tranh thủ từng phút, hễ đánh là thắng. Rất nhiều ông chủ đã dùng chiến lược, “tránh thực lấy hư, biến chính thể thành vụn vặt”, cuối cùng đã chiến thắng được đối thủ lớn mạnh.
Mưu cầu thắng lợi lùi bước
Những người thành công đều biết vận dụng thành thạo chiến thuật tiến thoái hợp lí, hơn nữa đây còn là “pháp bảo” của thành công. Trong tình thế ở vào bất lợi, có thể đầu hàng, có thể giảng hoà, cũng có thể rút lui. Trong 3 điều này, đầu hàng là thất bại hoàn toàn, giảng hoà là một nửa thất bại, rút lui có thể chuyển bại thành thắng.
Trong cạnh tranh kinh tế, lùi bước cũng là một khái niệm rất có giá trị. Có thể dự báo xem xét trước được hay không những thất bại hoặc tình hình xấu có thể xảy ra để có kế hoạch và thu xếp chu đáo, có thể tiến có thể lui là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ lãnh đạo.
Lấy rẻ để giành thắng lợi
Vì mục đích phát triển lâu dài, người thành công thường phải hy sinh một vài lợi ích nhỏ trước mắt, thậm chí bỏ ra một số vốn để mở rộng việc kinh doanh buôn bán từ nay về sau và cũng từ đó để gây dựng lòng tin.
Chuyện lời lãi – thua lỗ trong buôn bán có lúc không thể tính toán bằng bàn tính nhỏ được, mà phải dùng bàn tính lớn mới có thể tính rõ ràng được. Người kinh doanh của doanh nghiệp phải thông qua hạch toán tỉ mỉ, điều tra và dự tính chu đáo thị trường mục tiêu “thả dây dài để câu cá lớn”. Vì vậy, chỉ cần người đầu tư có con mắt đặc biệt và có khứu giác thương nghiệp nhạy cảm, có khi trước tiên giữ một lượng vốn nhỏ thậm chí buôn bán lỗ vốn cũng được, chỉ cần đầu tư trên thị trường có tiềm lực phát triển thì cuối cùng vẫn giành được thắng lợi lớn.
0 notes
Text
Các loại hình tổ chức tín dụng
Các loại hình tổ chức tín dụng
Căn cứ vào phạm vi được thực hiện các hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng được phân biệt thành Tổ chức tín dụng là ngân hàng và Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Vậy tín dụng là gì?
Tín dụng là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người vay. Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Người đi vay có nghĩa vụ trả số tiền hoặc giá trị hàng hóa đã vay khi đến hạn trả nợ có kèm hoặc không kèm theo một khoản lãi.
Tổ chức tín dụng ngân hàng
Được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo khoản 7 điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng.
Được thực hiện các hoạt động kinh doanh khác có liên quan đến hoạt động nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán (phát hành trái phiếu, thực hiện các nghiệp vụ tài chính như tham gia mua cổ phiếu của các công ty hoặc thành lập các công ty cổ phần…).
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, tổ chức tín dụng là ngân hàng bao gồm những loại hình ngân hàng như sau:
[caption id="attachment_1225" align="aligncenter" width="671"]
tín dụng[/caption]*
Ngân hàng thương mại
Chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là về tín dụng, tiết kiệm, và các dịch vụ thanh toán, cụ thể là: cất, giữ, mua bán, chuyển nhượng, quản lý các chứng khoán và giấy tờ có giá, cho thuê động sản và bất động sản, thực hiện các nghiệp vụ về vàng, kim khí quý… lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu, hàng đầu của các ngân hàng thương mại.
*
Ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển
:
Chuyên thực hiện các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn.
Nguồn vốn để cấp tín dụng của ngân hàng là vốn tự có, các quỹ dự trữ, các khoản tiền gửi dài hạn, vốn huy động bằng việc phát hành giấy tờ có giá, hoặc dưới hình thức nhận các nguồn tài trợ, cho vay của các tổ chức tài chính quốc tế, hay từ Chính phủ, ngân hàng chủ yếu tập trung nguồn vốn để cấp tín dụng cho các dự án kinh tế trọng điểm và dài hạn.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động ngân hàng, ngân hàng đầu tư còn có thể thực hiện những nghiệp vụ tài chính, dịch vụ có liên quan đến đầu tư như tham gia mua cổ phiếu của các công ty hoặc góp vốn thành lập các công ty cổ phần sau đó bán lại cổ phiếu hoặc góp vốn vào các doanh, tham gia vào thị trường chứng khoán.
*
Ngân hàng chính sách
:
Là ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước, do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập.
Mục tiêu hoạt động: thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao như góp phần thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước (xóa đói giảm nghèo, sống chung với lũ, thực hiện chương trình thúc đầy xuất khẩu lao động…).
*
Ngân hàng hợp tác
:
Do các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình tự nguyện thành lập.
Lợi nhuận không phải là mục tiêu chính của loại hình ngân hàng hợp tác.
Ngân hàng chủ yếu cấp tín dụng cho những thành viên đã đứng ra thành lập ngân hàng, rất hạn chế việc cho vay đối với những chủ thể không phải là thành viên của ngân hàng.
*
Ngân hàng liên doanh
:
Có thể hoạt động dưới hình thức có một phần vốn nước ngoài. Được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh bằng vốn góp của bên Việt Nam và bên nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Có tư cách pháp nhân, trụ sở chính ở Việt Nam, và phải được sự cho phép của nhà nước Việt Nam, được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép thành lập và hoạt động.
Mục tiêu: tìm kiếm lợi nhuận là chủ yếu.
Đối với loại hình ngân hàng liên doanh, ngoài trụ sở chính, ngân hàng còn có thể mở chi nhánh, văn phòng đại diện
*
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
:
Là một bộ phận phụ thuộc vào ngân hàng nước ngoài, được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Không có tư cách pháp nhân, chỉ hoạt động theo cơ chế ủy quyền, được ngân hàng mẹ ở nước ngoài bảo đảm chịu mọi trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ cũng như các cam kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Các chi nhánh của một ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam hoạt động độc lập với nhau.
*
Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng ở nước ngoài
:
Là một bộ phận của tổ chức tín dụng ở nước ngoài đặt tại Việt Nam theo giấy phép mở văn phòng đại diện do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp.
-Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Theo Luật các tổ chức tín dụng, Tổ chức tín dụng phi ngân hàng chủ yếu được thành lập dưới hình thực là Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính.
+ Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. Công ty tài chính không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm và tiền gửi không kỳ hạn. Công ty tài chính là một chủ thể có tư cách pháp nhân.
Công ty Tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau: 1. Công ty Tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh. 2. Công ty Tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức Công ty cổ phần. 3. Công ty Tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân. 4. Công ty Tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.. 5. Công ty Tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính được thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. + Công ty cho thuê tài chính: Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam, hoạt động chủ yếu là cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau: 1. Công ty cho thuê tài chính Nhà nước: là công ty cho thuê tài chính do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh. 2. Công ty cho thuê tài chính cổ phần: là công ty cho thuê tài chính được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. 3. Công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng: là công ty cho thuê tài chính hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình làm chủ sở hữu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. 4. Công ty cho thuê tài chính liên doanh: là công ty cho thuê tài chính được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh. 5. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài: là công ty cho thuê tài chính được thành lập bằng vốn của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Hoạt động của công ty cho thuê tài chính: Công ty cho thuê tài chính được phép huy động vốn từ các nguồn sau: a) Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của các tổ chức, cá nhân. b) Vay vốn ngắn, trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. c) Phát hành các loại giấy tờ có giá: Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ sau: a) Cho thuê tài chính; b) Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính
-Dựa vào tiêu chí sở hữu vốn điều lệ của Tổ chức tín dụng, có thể chia các Tổ chức tín dụng thành các nhóm: Tổ chức tín dụng nhà nước, Tổ chức tín dụng cổ phần (dưới hình thức công ty cổ phần), Tổ chức tín dụng hợp tác, Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài.
+ Tổ chức tín dụng nhà nước:
Có vốn thuộc sở hữu của nhà nước, về bản chất là doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tiền tệ.
Do nhà nước ký quyết định thành lập (Thủ tướng Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc ngân hàng ký quyết định thành lập), nhà nước cử người điều hành, quản trị.
Mục tiêu: thực hiện những chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước (Ngân hàng Công thương…)
+ Tổ chức tín dụng cổ phần:
Được thành lập trên cơ sở một phần vốn góp của các cổ đông, về bản chất là một công ty cổ phần. Cổ đông góp vốn có thể là nhà nước.
Do Ngân hàng nhà nước ký giấy phép thành lập, người lãnh đạo điều hành sẽ do đại hội cổ đông bầu nên theo quy định của Luật Doanh nghiệp
Mục tiêu: tìm kiếm lợi nhuận là chủ yếu (ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam…).
+ Tổ chức tín dụng hợp tác:
Vốn do các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác tự nguyện đóng góp.
Tồn tại dưới hình thức hợp tác xã, hoạt động tuân theo Luật Hợp tác xã và Luật các Tổ chức tín dụng.
Do Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp giấy phép thành lập, thành phần lãnh đạo là Ban quản trị, ban chủ nhiệm do các xã viên bầu ra.
Mục tiêu: tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, trường hợp người không phải là thành viên của Tổ chức tín dụng muốn vay phải có sự đồng ý của trên 2/3 thành viên là thành viên của Tổ chức tín dụng.
Đối với loại hình tổ chức tín dụng hợp tác, trên thực tế vẫn còn tồn tại mô hình quỹ tín dụng nhân dân. Quỹ tín dụng nhân dân là loại hình tổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. Đây là một hoạt động về nguyên tắc mang tính phi lợi nhuận, lấy việc tương trợ cộng đồng làm mục tiêu chính.
+ TCTD có vốn đầu tư nước ngoài :
Có một phần vốn hoặc 100% vốn điều lệ là của bên nước ngoài.
Có sự khác biệt so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở chỗ: bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam phải bắt buộc là các tổ chức tín dụng nước ngoài, không được là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Mặt khác, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nguồn: Đại Á Bank
0 notes
Text
Đánh giá kết quả đa dạng hóa hoạt động tín dụng của các NHTMCP
Dựa vào phương hướng và loại đa dạng hóa cho thấy yêu cầu phát triển về số lượng, quy mô, tốc độ tăng trưởng các hình thức, các loại và phương thức cấp tín dụng và vận dụng một số chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS [32, tr.136], [117, tr.1-6], tác giả đưa ra các tiêu chí đánh giá kết quả đa dạng hóa hoạt động tín dụng bao gồm:
Tiêu chí về số lượng
Số lượng các hình thức cấp tín dụng, số lượng loại và phương thức cấp tín dụng của các NHTMCP. Số lượng càng lớn, cho thấy sự đa dạng về mặt số lượng các hình thức cấp tín dụng, đa dạng về mặt số lượng các loại và phương thức cấp tín dụng.
Tiêu chí về quy mô
Tỷ trọng dư nợ của từng hình thức cấp tín dụng, dư nợ của mỗi loại và phương thức cấp tín dụng cho thấy mức độ tập trung của các NHTMCP. Tỷ trọng dư nợ càng cao, chứng tỏ mức độ tập trung càng cao của các NHTMCP đối với phát triển từng hình thức cấp tín dụng, đối với các loại và phương thức cấp tín dụng.
Tiêu chí về tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng dư nợ từng hình thức cấp tín dụng, độ tăng trưởng dư nợ mỗi loại và phương thức cấp tín dụng. Tốc độ tăng trưởng càng cao, chứng tỏ sự thúc đẩy càng nhanh của các NHTMCP trong quá trình đa dạng hóa hoạt động tín dụng.
Tiêu chí an toàn
Đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng đảm bảo không vượt ngưỡng an toàn đối với các chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS (xem Bảng 1.2), chứng tỏ quá trình đa dạng hóa hoạt động tín dụng của các NHTMCP đảm bảo hiệu quả và an toàn.
Tiêu chí CAMELS
Khả năng thanh khoản, S: Sensitivity: Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường) bao gồm nhiều chỉ tiêu định lượng và định tính. Trong đó, có các chỉ tiêu tác động gián tiếp (Hệ số tạo vốn nội bộ, hệ số tài sản có thanh khoản/Tổng tài sản nợ,…) và các chỉ tiêu tác động trực tiếp đến quá trỉnh đa dạng hóa hoạt động tín dụng. Tác giả vận dụng một số chỉ tiêu tác động trực tiếp để đánh giá kết quả đa dạng hóa hoạt động tín dụng theo tiêu chí an toàn như sau:
Bảng 1.2. Một số chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS
Các yếu tốChỉ số
Capital Adequacy (C)-An toàn vốn: Đây là phần vốn chủ sở hữu của TCTD và khả năng của TCTD đáp ứng các khoản cấp tín dụng ngày càng mở rộng cũng như các định hướng phát triển tài sản tiềm năng mà TCTD cần đạt được. Hệ thống phân tích CAMEL xem xét khả năng trong việc huy động thêm vốn chủ sở hữu và khả năng ứng phó đối với những cú sốc đến bản cân đối của TCTD.Tỷ lệ an toàn vốn: Vốn ngân hàng/ Tài sản có điều chỉnh rủi ro (rủi ro tín dụng + rủi ro thị trường + rủi ro động)
Asset Quality (A)-Chất lượng tài sản: Theo dõi chất lượng tài sản nói chung và các khoản cấp tín dụng nói riêng của các TCTD trong tiếp xúc với nhiều rủi ro. Vì vậy, phải theo dõi các chỉ số về chất lượng tài sản xem xét các khoản nợ xấu, sự phù hợp với hệ thống phân loại các khoản cấp tín dụng.Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ xấu trừ dự phòng/Tổng dư nợ cho vay
Management (M)– Quản lý : Một yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh và sự an toàn của ngân hàng là năng lực và chất lượng quản lý. Nhưng rất khó đo lường, chủ yếu là yếu tố thuộc về chất lượng về quản lý con người, các chính sách quản lý chung của tổ chức, các hệ thống thông tin, các chế độ kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Tuy vậy, một số chỉ tiêu có thể hiện về hiệu quả quản lý, tính hợp lý về quản lý.Thu nhập từ các khoản cấp tín dụng/mỗi nhân viên
Earnings (E)-Lợi nhuận: Đây là nhân tố quan trọng của việc phân tích mức độ hiệu quả các khoản cấp tín dụng. Phân tích khả năng tạo thu nhập từ các khoản cấp tín dụng, góp phần gia tăng vốn bền vững và chỉ ra triển vọng phát triển trong tương lai của TCTDTỷ lệ thu nhập từ cho vay/Tổng thu nhập
Tỷ lệ thu nhập khác từ HĐTD /Tổng thu nhập
Liquidity (L)-Thanh khoản: Đây là nhân tố được sử dụng khi phân tích khả năng của TCTD trong việc xác định nhu cầu vốn cho vay nói riêng. Đánh giá khả năng thanh toán của các tài sản ngắn hạn cũng là một nhân tố rất quan trọng trong việc đánh giá tổng quan khả năng quản lý thanh khoản.Tỷ lệ cho vay/vốn huy động
Tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn dùng cho vay trung dài hạn.
Sensitivity to market risk (S)-Độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường: Hầu hết, các tài sản của các TCTD đều có liên quan đến rủi ro thị trường ở các mức độ khác nhau. Trong hoạt động tín dụng có sự nhạy cảm trước biến động về lãi suất, tỷ giá hoặc những thay đổi giá cả trên thị trường tài chính.
Nguồn: https://daiabank.com.vn
0 notes
Text
Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Căn cứ định hướng phát triển chung của ngành NH và thực tế hoạt động trong những năm gần đây, NH TMCP Công Thương Việt Nam cần xác định rõ chiến lược và định hướng phát triển hoạt động bán lẻ như sau:
– Mở rộng thị phần hoạt động: Phát triển hoạt động bán lẻ cần dựa trên cơ sở khả năng sinh lời và tính bền vững. Phát triển mạng lưới đa kênh phân phối sản phẩm dịch vụ, cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho thị trường. Gia tăng số lượng khách hàng và nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng bán lẻ, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận của hoạt động ngân hàng bán lẻ.
– Đẩy mạnh công tác marketing: Tăng cường công tác KH, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động bán lẻ và hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
– Áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ tiện ích đến mọi người dân, tranh thủ vốn đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức thế giới.
– Phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có sức cạnh tranh và thích ứng nhanh trong quá trình hội nhập.
– Phòng ngừa và hạn chế rủi ro hoạt động bán lẻ cần được xem là một biện pháp then chốt để phát triển hoạt động bán lẻ của NH TMCP Công Thương Việt Nam. Vấn đề phòng ngừa và hạn chế rủi ro hoạt động bán lẻ cần được nhận thức và xử lý trên cơ sở toàn diện, nhất quán và đồng bộ.
– Nâng cấp hệ thống thông tin báo cáo. Số lượng và chất lượng thông tin báo cáo hoạt động bán lẻ luôn là điều quan tâm của các NHTM, do vậy NH TMCP Công Thương Việt Nam cần áp dụng các biện pháp kiên quyết hơn nhằm sớm cải thiện tình hình thông tin báo cáo còn thiếu và chưa kịp thời như hiện nay.
– Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đặc biệt phát triển các dịch vụ tiện ích và các dịch vụ NH điện tử. Phát triển mạnh dịch vụ NH bán lẻ một cách an toàn và bền vững, nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng bán lẻ.
Nguồn: https://daiabank.com.vn
1 note
·
View note
Text
Quản lý hoạt động của Ngân hàng thương mại
Hoạt động của Ngân hàng thương mại
Trong quá trình Quản lý hoạt động của Ngân hàng thương mại cần : đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, bảo đảm mức sinh lời cao, Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên và đảm bảo mức sinh lời cao.
Đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên
Đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên đối với khách hàng là một yêu cầu cao nhất, chỉ đạo việc quản lý hoạt động của bất kỳ Ngân hàng thương mại nào. Nó xuất phát từ đặc trưng cơ bản của nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng thương mại là dựa chủ yếu vào vốn bằng tiền nhàn rỗi của xã hội. Hơn nữa , nó cũng là dấu hiệu nói lên khả năng tài chính mạnh hay yếu của một ngân hàng thương mại .
Để duy trì khả năng thanh toán , Ngân hàng Thương mại phải bảo đảm ở mọi thời điểm , toàn bộ tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ phải thanh toán. Đồng thời phải bảo đảm trong tổng số tài sản ấy phải có những tài sản có tính thanh khoản cao, đủ đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt , trang trải hết số thiếu trong thanh toán bù trừ , hoặc những nhu cầu vay mượn chính đáng của khách hàng, trong khi vẫn quy định được tỷ lệ dự trữ theo quy định.
Bảo đảm mức sinh lời cao
Mục tiêu cuối cùng của Ngân hàng Thương mại là lợi nhuận . Trong môi trường cạnh tranh, Ngân hàng Thương mại phải phấn đấu để có mức lợi nhuận cao mới mong tồn tại và phát triển . Nó đòi hỏi bất kỳ Ngân hàng Thương mại nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động cho vay và đầu tư, tức là cho vay được nhiều với thu nhập tiền lãi cao.
Xử lý hài hòa mối quan hệ
Trong kinh doanh , muốn giữ vững và cạnh tranh được, Ngân hàng Thương mại vừa phải bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên vừa bảo đảm mức sinh lời cao.
– Bảo đảm tỷ lệ cần thiết của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hoặc tỷ lệ giữa vốn đó với tổng tài sản có rủi ro.
– Đánh giá khả năng tài chính của Ngân hàng Thương mại trên cơ sở tính điểm theo 5 chỉ tiêu là : Tỷ lệ vốn , chất lượng tài sản có, chất lượng quản lý, tiền lãi và thanh khoản.
– Có biện pháp hữu hiệu phòng chống rủi ro trong kinh doanh và tiến hành phân tích tác động của biến động rủi ro lãi suất đối với thu nhập vủa ngân hàng.
0 notes
Text
Thang đo Parasuraman & ctg (1988)
Parasuraman & ctg (1988) đã xây dựng và kiểm định thang đo năm thành phần của chất lượng dịch vụ, gọi là thang đo SERVQUAL, với các biến thuộc từng thành phần như sau:
1. Thành phần tin cậy
(Khả năng thực hiện một dịch vụ hứa hẹn một cách chính xác và đáng tin cậy)
– Khi công ty XYZ hứa sẽ thực hiện một điều gì đó vào khoảng thời gian cụ thể, công ty sẽ thực hiện.
– Khi bạn gặp khó khăn, công ty XYZ thể hiện sự quan tâm chân thành trong giải quyết khó khăn.
– Công ty XYZ thực hiện dịch vụ đúng ngay từ lần đầu tiên.
– Công ty XYZ cung cấp dịch vụ đúng vào thời điểm mà công ty hứa sẽ thực hiện.
– Công ty XYZ thông báo cho khách hàng khi nào dịch vụ sẽ được thực hiện.
2. Thành phần đáp ứng
(Mong muốn được hỗ trợ khách hàng và cung ứng dịch vụ nhanh chóng)
– Nhân viên trong công ty XYZ phục vụ bạn nhanh chóng, đúng hạn.
– Nhân viên trong công ty XYZ luôn luôn sẵn sàng giúp đõ bạn.
– Nhân viên công ty XYZ không bao giờ tỏ ra quá bận rộn để không đáp ứng yêu cầu của bạn.
3. Thành phần năng lực phục vụ
(Kiến thức và tác phong của nhân viên cũng như khả năng của họ để truyền niềm tin và sự tự tin)
– Hành vi của nhân viên trong công ty XYZ ngày càng tạo sự tin tưởng đối với bạn.
– Bạn cảm thấy an toàn khi thực hiện giao dịch với công ty XYZ.
– Nhân viên trong công ty XYZ bao giờ cũng tỏ ra lịch sự, nhã nhặn với bạn.
– Nhân viên trong công ty XYZ có kiến thức để trả lời các câu hỏi của bạn.
4. Thành phần đồng cảm
(Mức chăm sóc, cá thể hóa mà công ty cung ứng cho khách hàng)
– Công ty XYZ thể hiện sự quan tâm đến cá nhân bạn.
– Công ty XYZ có những nhân viên thể hiện sự quan tâm đến cá nhân bạn.
– Công ty XYZ thể hiện sự chú ý đặc biệt đến những quan tâm nhiều nhất của bạn.
– Nhân viên trong công ty XYZ hiểu được những nhu cầu đặc biệt của bạn.
5. Thành phần phương tiện hữu hình
(Các phương tiện vật chất và hình thức của nhân viên)
– Công ty XYZ có trang thiết bị hiện đại.
– Cơ sở vật chất của công ty XYZ trông rất hấp dẫn.
– Nhân viên của công ty XYZ có trang phục gọn gàng, cẩn thận.
– Các phương tiện vật chất trong hoạt động dịch vụ rất hấp dẫn tại công ty XYZ.
– Công ty XYZ bố trí thời gian làm việc thuận tiện.
0 notes
Text
Những ngân hàng là thành viên NAPAS
Napas là gì?
Napas có tên tiếng Anh là National Payment Services. Thẻ Napas được sử dụng như thẻ ATM nội địa tại thị trường trong nước. Với phương châm hoạt động “Một kết nối. Mọi thanh toán”, Napas hy vọng mang lại tiện ích cho người dùng trên phương thức kết nối tối ưu để dễ dàng thanh toán mọi phát sinh giao dịch cần thanh toán của người dùng. Hiện, thẻ Napas có tính bảo mật cao hơn khi sử dụng công nghệ chip bảo mật công nghệ cao. Đây là công nghệ hiện đại hàng đầu được ứng dụng cho dịch vụ thẻ. Mọi thông tin trên thẻ cũng được mã hóa ở mức độ cao nên khó có thể làm giả mạo nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Để nhận biết thẻ Napas bạn có thể quan sát trên thẻ ATM của bạn, mặt trước hoặc mặt sau của thẻ có in biểu tượng logo Napas. Cũng có một vài trường hợp ngân hàng chưa in dấu hiệu này lên thẻ, bạn nên liên hệ ngân hàng phát hành thẻ để tìm hiểu và sử dụng.
Napas là gì? Công dụng của thẻ ATM nội địa Napas
Napas là thương hiệu thẻ quốc gia do công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam phát triển. Với sản phẩm thẻ Napas, khách hàng có thể dùng để thanh toán hóa đơn dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại máy ATM, máy POS trên toàn quốc.
Thẻ Napas là gì?
Napas có tên tiếng Anh là National Payment Services. Thẻ Napas được sử dụng như thẻ ATM nội địa tại thị trường trong nước. Với phương châm hoạt động “Một kết nối. Mọi thanh toán”, Napas hy vọng mang lại tiện ích cho người dùng trên phương thức kết nối tối ưu để dễ dàng thanh toán mọi phát sinh giao dịch cần thanh toán của người dùng. Hiện, thẻ Napas có tính bảo mật cao hơn khi sử dụng công nghệ chip bảo mật công nghệ cao. Đây là công nghệ hiện đại hàng đầu được ứng dụng cho dịch vụ thẻ. Mọi thông tin trên thẻ cũng được mã hóa ở mức độ cao nên khó có thể làm giả mạo nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Để nhận biết thẻ Napas bạn có thể quan sát trên thẻ ATM của bạn, mặt trước hoặc mặt sau của thẻ có in biểu tượng logo Napas. Cũng có một vài trường hợp ngân hàng chưa in dấu hiệu này lên thẻ, bạn nên liên hệ ngân hàng phát hành thẻ để tìm hiểu và sử dụng.
Công dụng của thẻ ATM nội địa Napas
Bạn cần hiểu rõ vấn đề là ngân hàng bạn mở thẻ sẽ liên minh với Napas tạo nên một hệ thống thẻ, gọi chung là thẻ Napas. Chứ Napas không trực tiếp phát hành thẻ cho bạn sử dụng. Vì vậy, với thẻ ATM nội địa Napas khách hàng sẽ hưởng trọn những chức năng của thẻ ghi nợ nội địa như thanh toán hóa đơn dịch vụ, thanh toán mua hàng trực tuyến, chuyển rút tiền tại máy ATM/ máy POS.
Danh sách các ngân hàng
STT
Tên Ngân hàng
A
Ngân hàng thành viên kết nối trực tiếp với Banknetvn
1
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)
2
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
3
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank)
4
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
5
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank)
6
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín( Sacombank )
7
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương( Saigonbank )
8
Ngân hàng TMCP An Bình( ABBank )
9
Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng song Cửu Long ( MHB )
10
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank)
11
Ngân hàng TMCP Đại Dương (Oceanbank)
12
Ngân hàng TMCP Phương Tây( Westernbank )
13
Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex( PG Bank )
14
Ngân hàng liên doanh Việt Nga( VRB )
15
Ngân hàng TMCP Đại Tín (TRUSTBank)
16
Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank)
17
Quĩ Tín dụng Nhân dân Trung Ương (CCF)
18
Ngân hàng Thương mại TNHH Một Thành Viên Dầu khí Toàn cầu (GPBank)
19
Ngân hàng TMCP Đại Á (Dai A Bank)
B
Các Ngân hàng kết nối gián tiếp
21
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
22
Ngân hàng TMCP Kỹ thương (Techcombank)
23
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)
24
Ngân hàng TMCP Nam Việt (Navibank)
25
Ngân hàng TMCP Tiên Phong (Tien Phong Bank)
26
Ngân hàng TMCP Phương Nam (Southern Bank)
27
Ngân hàng TMCP Việt Á (VietA Bank)
28
Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIBank)
29
Ngân hàng TMCP Thịnh Vượng (VP Bank)
30
Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu (EIB)
31
Ngân hàng TMCP Hàng Hải (MSB)
32
Ngân hàng Phát triển nhà tp Hồ Chí Minh (HD Bank)
33
Ngân hàng TNHH Indo Vina Bank (IVB)
34
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB)
35
Ngân hàng Liên doanh VID Public
36
Ngân hàng TMCP Bắc Á (Nasbank)
37
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB)
38
Ngân hàng TNHH MTV Standard Chartered (SCVN)
39
Ngân hàng TNHH MTV Hong Leong VN (HLBVN)
40
Ngân hàng TMCP Liên Việt (LVB)
41 Ngân hàng TMCP Đông Á (DongABank)
1 note
·
View note