Don't wanna be here? Send us removal request.
Text
...Thế nhưng, mọi người thức dậy vào buổi sáng và nhìn ra thế giới bên ngoài sẽ thấy hướng gió thay đổi mỗi ngày. Nhưng nếu hôm nay trong lòng đã có quyết định về nơi muốn đến, thì gió thổi hướng nào có quan trọng gì đâu? Ít nhất lần này, tấm visa này sẽ đưa tôi đến nơi tôi muốn đến.
0 notes
Text
Chúng ta đã cùng nhau trải qua 1 tháng với việc làm quen nhưng kiến thức vừa cũ vừa mới. Như lạm phát, GDP, cán cân thương mại, dòng tiền hay phân tích bối cảnh kinh tế, phân bổ rủi ro, phân chia danh mục đầu tư, đầu tư theo chu kỳ kinh tế....v.v..tất cả đều là những mảnh ghép giúp anh em hiểu hơn cách mà chu kỳ kinh tế vận hành. Nó ảnh hưởng thế nào đến túi tiền của mình.
Để gói gọn kiến thức tài chính trong 25 ngày là điều không thể. Ngày 25 không phải là một bài học kết thúc. Mà nó là khởi đầu cho hành trình tìm hiểu kiến thức tài chính rộng lớn.
Series này được triển khai từ những thắc mắc của các bạn như "muốn hiểu nhưng không biết tìm hiểu gì trước" "muốn học nhưng không biết bắt đầu từ đâu"....v.v.và với những kiến thức được tinh gọn và trang bị trong 24 ngày qua. Giờ đây nó là tiền đề và cơ sở để các bạn có thể hiểu và biết mình cần tìm hiểu thêm điều gì về phân tích vĩ mô. Từ đó tự lên lộ trình và update kiến thức phù hợp với bản thân.
Chúc các bạn thành công
0 notes
Text
Ngày 24: Thực chiến - Xây dựng kế hoạch đầu tư cho 1 tỷ đồng dựa trên phân tích vĩ mô (P2)
3. Tiền Mặt - 15%
Với tất cả sự chân thành mà nói, quản trị rủi ro trong đầu tư là yếu tố tôi khuyên các bạn đặt lên hàng đầu. Dù đang trong giai đoạn phục hồi hay ở bất kỳ thời điểm nào của nền kinh tế, rủi ro vẫn luôn hiện hữu, ví dụ như lạm phát toàn cầu tăng trở lại, xung đột địa chính trị leo thang, hoặc đơn giản là thiên thạch lao vào trái đất đưa sever trái đất về thời khủng long, đó là một trong rất nhiều những biến số chúng ta không thể tính toán được. Giữ một phần hoặc nhiều phần tiền mặt giúp chúng ta có thêm “đạn” để mua vào khi thị trường có những đợt điều chỉnh bất ngờ hoặc xuất hiện các cơ hội hấp dẫn. Và quan trọng nhất là củng cố niềm tin, với những ai mới bước chân vào con đường đầu tư, bạn sẽ không bao giờ muốn trải qua cảm giác nhìn thị trường rơi nhưng trong túi rỗng tiền đâu.
Đây là nguyên tắc quản trị rủi ro cơ bản.
Ngoài ra, trữ lượng tiền mặt giúp chúng ta linh hoạt điều chỉnh danh mục nếu bối cảnh vĩ mô thay đổi đột ngột. Thử tưởng tượng xem nếu bạn điều chỉnh danh mục đầu tư là 65% chứng khoán, 25% BDS, 0% tiền mặt. Nếu ck và bds tăng trưởng như dự kiến, mức độ lợi nhuận của bạn ở hạng mục chứng khoán bạn có mức tăng trưởng là khoảng 30%.
Tức là nếu bạn đầu tư 500tr, và số tiền này tăng gấp đôi, bạn sẽ thu về 1 tỷ.
Nếu bạn đầu tư 650tr và số tiền này cũng tăng gấp đôi, bạn sẽ thu về 1 tỷ 3. Mức chênh lệch lợi nhuận là bằng đúng 150tr.
Nhưng sẽ thế nào nếu không may hạng mục CK này chia đôi từ giá bạn sở hữu, còn trong tay bạn thì không còn đồng xu nào để điều chỉnh danh mục ?
Tôi nghĩ không quá khó để bạn có thể hiểu được điều này.
4. Vàng - Crypto - 10%
Thật lòng màn nói, thật khó để có thể xếp chung 2 đối thủ truyền kiếp này với nhau. Một thứ được cho là bảo chứng cho tiền pháp định, một thứ thì đòi thay thế tiền pháp định.
Với vàng mà nói thì đó là công cụ trú ẩn lạm phát dài hạn cũng như là kênh đầu tư mang giá trị ổn định về lâu dài, ý tôi khi nhắc tới chữ lâu dài có nghĩa là rất lâu và rất dài.Con số phải kể tới là nhiều năm hoặc nhiều chục năm.
Thêm vàng vào danh mục giúp đa dạng hóa và giảm thiểu rủi ro tổng thể, vì vàng thường có xu hướng biến động ngược chiều với chứng khoán trong các giai đoạn khủng hoảng.
Còn với vàng điện tử, ông vua không ngai: với những gì thị trường crypto thể hiện tôi có thể gói gọn nó lại trong 5 chữ “bơm thổi để úp bô”. Bỏ qua những giá trị viễn vông như cái gọi là tính ẩn danh, hay tiện lợi, hay công nghệ blockchain gì đó, lời khuyên của tôi với các bạn khi tham gia Crypto, hãy xem nó là 1 kênh đầu tư sinh lời siêu tốc - tính thanh khoản cao và rủi ro về sự sụp đổ là lớn nhất. Thế thì với một cái nhìn kỳ thị như thế tại sao tôi lại đưa Crypto vào làm danh mục đầu tư ?
Thực tế mà nói, đã mindset là một người đi đầu tư tức là mục đích của bạn là tham gia những game tài chính để mang thêm tiền về túi. Dù game đó mang giá trị thặng dư như chứng khoán, mang tính bơm thổi như crypto, hay thậm chí là úp bô như lanvar. Thì mục đích cuối cùng vẫn là để kím tiền, vậy nên chỉ cần bạn giữ được suy nghĩ này, không quan tâm tới những giá trị vớ vẩn mà những nhà sáng lập nói. Thì bạn vẫn sẽ ổn khi tham gia vào thị trường này, miễn là gi��i hạn rủi ro ở mức cho phép.
Ít nhất là ở thời điểm hiện tại, khi xã hội vẫn chưa đạt đỉnh thịnh vượng của chu kỳ kinh tế, các dấu hiệu suy thoái nhà nhà tiêu tiền, người người chạy GLC vẫn chưa có, với quan điểm của tôi Crypto ở giai đoạn này không nên nhiều hơn 10% tổng danh mục đầu tư.
Các bạn có thể thắc mắc rằng, trong bối cảnh lạm phát có xu hướng tăng cao, chiến tranh thương mại giữa các cường quốc vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, Mỹ vẫn áp thuế VN ở mức tương đối cao trong thời gian tới, việc này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng nhất định lên các doanh nghiệp từ đó tạo ảnh hưởng xấu 1 cách gián tiếp lên nền kinh tế. Vậy tại sao CK - Crypto lại chiếm hơn 50% danh mục đầu tư.
Mặc dù những tác động tiêu cực trên là có thật và cần được nhìn nhận nghiêm túc, nhưng lý do tôi vẫn duy trì tỷ trọng chứng khoán ở mức tương đối cao là bởi tôi tin rằng Việt Nam có khả năng ứng phó và thích nghi với thách thức này, và tác động tổng thể lên toàn bộ thị trường chứng khoán (bao gồm các ngành không bị ảnh hưởng trực tiếp) có thể được hạn chế hơn những gì chúng ta tưởng tượng. VN cũng không còn lạ gì với chiến lược “dùng thuế quan để lạnh chư hầu” và với nhiều chục năm bị cấm vận kinh tế chùng với đường lối ngoại giao cây tre, chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm trong việc nên làm thế nào để dung hoà ổn định nền kinh tế, hợp tác thúc đẩy cùng phát triển. Có thể không ngoa khi nói việc tôi đặt mức tỷ trọng 50% cho CK và Crypto là dựa vào niềm tin cho sự phát triển kinh tế của VN trong thời gian tới.
0 notes
Text
Ngày 23: Thực chiến - Xây dựng kế hoạch đầu tư cho 1 tỷ đồng dựa trên phân tích vĩ mô (P1)
Lưu ý mọi kiến thức chỉ dừng lại ở lý thuyết và phân tích chủ quan của người viết, tất cả chỉ là thông tin tham khảo, không phải lời khuyên đầu tư, người đọc nên tự phân tích và chịu trách nhiệm với các hạng mục đầu tư của mình.
May quá cái series này cuối cùng cũng tới ngày kết thúc rồi. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu và làm quen với đủ các thể loại khái niệm. Từ những khái niệm cơ bản về GDP, lạm phát, lãi suất, cho đến việc nhận diện chu kỳ kinh tế, phân tích dòng tiền hay tìm hiểu tâm lý đám đông trên thị trường. Hôm nay, tất cả những kiến thức đó sẽ hội tụ lại thành một bài hoạch định thực tế và quan trọng nhất: làm thế nào để bạn, với 1 tỷ đồng trong tay, dựa trên những phân tích vĩ mô để có thể đưa ra quyết định đặt tiền vào đâu.
Để xây dựng một kế hoạch, chúng ta cần biết mình đang đứng ở đâu. Điểm sơ tí cập nhật và đánh giá nhanh bối cảnh vĩ mô hiện tại, nhìn từ góc độ toàn cầu và đặc biệt là Việt Nam. Để xem chúng ta nên hoặc có thể làm gì nhé.
1: Đầu tiên chúng ta có thể xác định được rằng,Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi chậm và đầu tăng trưởng. Lý do là các chỉ số GDP, sản xuất, xuất nhập khẩu và tiêu dùng đều cho thấy sự cải thiện rõ rệt sau giai đoạn khó khăn. Dù tốc độ tăng trưởng chưa bứt phá như trước đại dịch, nhưng đây là tín hiệu tích cực của việc nền kinh tế đã qua đáy và đang dần nhen nhóm trở lại.
2. Chính sách đang thiên về nới lỏng và hỗ trợ tăng trưởng.
Về chính sách Tiền tệ: NHNN VN đã chủ động cắt giảm lãi suất điều hành từ năm 2023-2024, tạo ra một môi trường tiền tệ tương đối nới lỏng. Lãi suất huy động và cho vay đã giảm, thúc đẩy hoạt động kinh doanh và tiêu dùng. Điều này thể hiện vai trò của chính phủ trong việc kích thích tổng cầu.
Còn với chính sách Tài khóa: Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh giải ngân đầu tư công vào hạ tầng và thực hiện các chính sách miễn giảm thuế, hỗ trợ doanh nghiệp. Những biện pháp này nhằm tạo công ăn việc làm và cải thiện năng lực sản xuất của nền kinh tế. Thời gian gần đây có thể kể tới là các dự án tuyến đường cao tốc, đường sắt cao tốc, hay sân bay Long Thành..v.v. đều đang được khẩn trương đưa vào triển khai hoạt động.
3. Dòng tiền đang có xu hướng chuyển dịch từ tài sản an toàn sang tài sản rủi ro, nhưng vẫn còn sự thận trọng. Điều này chungs ta có thể thấy từ mức lãi suất giảm khiến tiền gửi ngân hàng bớt hấp dẫn, thúc đẩy dòng tiền tìm kiếm các kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn. FDI vào Việt Nam vẫn duy trì ổn định, cho thấy niềm tin dài hạn của nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù FII có thể còn biến động theo diễn biến lãi suất toàn cầu, nhưng xu hướng chung đang dần tích cực hơn.
4. Thị trường đang ở trạng thái thận trọng nhưng lạc quan. Thường thì sau giai đoạn khó khăn, tâm lý nhà đầu tư sẽ dần ổn định. Tuy nhiên, vẫn còn những e ngại về các rủi ro tiềm ẩn ví dụ như chiến tranh thương mại hay lạm phát nhen nhóm trở lại, nên thị trường chưa thực sự hưng phấn tột độ. Điều này tạo ra một trạng thái cân bằng tương đối, không quá bi quan nhưng tất nhiên còn xa mới tới đoạn bong bóng khủng hoảng..
Quay trở lại vấn đề chính, dựa trên những bối cảnh hiện tại đa phân tích, nếu có 1 tỷ đồng, kế hoạch phân bổ của tôi sẽ như thế nào.
1: Chứng khoán - 50%
Như đã nói ở những bài trước, chứng khoán là kênh đầu tư hưởng lợi trực tiếp và thường phản ứng nhanh nhất khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi và đầu tăng trưởng, đặc biệt khi có chính sách tiền tệ nới lỏng. Lãi suất thấp làm giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, kích thích sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận. Đặc biệt là khi tiền gửi ngân hàng ít hấp dẫn, dòng tiền thông minh sẽ tìm đến thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn nhưng kèm với đó là yếu tố tăng trưởng bình ổn. Chúng ta đang thấy xu hướng này khi nhiều nhà đầu tư cá nhân và tổ chức dần quay lại thị trường.
Thông thường sau giai đoạn điều chỉnh sâu, nhiều cổ phiếu đã trở về mức định giá hợp lý, thậm chí hấp dẫn nếu xét đến triển vọng phục hồi lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo học thuyết về chu kỳ kinh tế, chứng khoán thường là kênh đi trước nền kinh tế. Tức là, thị trường chứng khoán thường tạo đáy và bắt đầu đi lên khi nền kinh tế vẫn còn trong giai đoạn khó khăn, dự báo cho sự phục hồi sắp tới.
Vậy nên ở giai đoạn này, tôi sẽ ưu tiên các cổ phiếu thuộc các ngành có tính chu kỳ cao và hưởng lợi trực tiếp từ chính sách nới lỏng và đầu tư công, hoặc các ngành và các doanh nghiệp được hỗ trợ chính sách kinh tế phù hợp với giai đoạn chiến tranh thương mại như hiện tại.
Cụ thể là ngành nào hay tên mã CK, tôi nghĩ các bạn nên tự dựa vào khẩu v�� đầu tư và kiến thức đầu tư để lựa chọn cho phù hợp với danh mục.
2: Bất động sản - 25%
Bất động sản thường có độ trễ nhất định so với chứng khoán. Thị trường này đang trong giai đoạn ấm lên sau một thời gian dài trầm lắng, và có tiềm năng phục hồi trong trung và dài hạn khi lãi suất vay mua nhà giảm và các vấn đề pháp lý dần được tháo gỡ. Đặc biệt với một số vốn tương đối nhỏ như tiêu đề, thì kỳ vọng vào việc lướt lát ngắn hạn thường sẽ đem lại mức lợi nhuận không tương xứng với rủi ro. Nhất là với bản thân tôi người có ít kinh nghiệm trong việc bị sóng đánh nên khẩu vị của tôi trong mảng này là chiến lược lấy ngắn nuôi dài.
Lãi suất cho vay mua nhà thời gian gần đây có dấu hiệu giảm, đó cũng là yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ nhất cho thị trường bất động sản. Chính phủ cũng đang có những động thái tháo gỡ vướng mắc pháp lý cho các dự án. Dẫn tới dòng tiền dịch chuyển từ gửi tiết kiệm sang các kênh đầu tư sẽ tìm đến bất động sản như một tài sản có giá trị thực và khả năng sinh lời bền vững trong dài hạn là điều có thể nhìn thấy được.
Bất động sản còn là tài sản hữu hình, có giá trị nội tại và hơn hết là một kênh chống lạm phát dài hạn một cách cực kỳ hiệu quả. Với những rủi ro về lạm phát và số vốn ít ỏi mà tôi có, việc lựa chọn BDS dài hạn thường sẽ là lựa chọn tối ưu.
0 notes
Text
Ngày 22: Xây dựng chiến lược phân bổ tài sản linh hoạt theo chu kỳ kinh tế. (P2)
Giai đoạn phục hồi và tăng tăng trưởng: Ở giai đoạn này GDP thường có xu hướng bắt đầu tăng trưởng trở lại, tỷ lệ thất nghiệp giảm và niềm tin kinh doanh và tiêu dùng được cải thiện. Lãi suất lúc này vẫn còn thấp, chính sách tiền tệ còn nới lỏng để hỗ trợ kinh tế. Điều này dẫn tới tâm lý nhà đầu tư có phần lạc quan hơn khiến dòng tiền dễ quay trở lại thị trường tài chính, đặc biệt là các thị trường có rủi ro cao.
Chiến lược phân bổ giai đoạn này thường sẽ là:
1: Tăng tỷ trọng chứng khoán, đặc biệt là các ngành có tính chu kỳ cao như ngân hàng, bất động sản, sản xuất. Đây là thời điểm vàng để tích luỹ và gia tăng tỷ trọng của mảng này vì giá trị vẫn còn đang thấp nhưng tính thanh khoản đã bắt đầu tăng trở lại. Báo hiệu cho 1 chu kỳ tăng trưởng mới.
2:Giảm dần tỷ trọng tiền mặt và vàng: dĩ nhiên rồi, khi đã chuyển vốn sang các tài sản sinh lời cao hơn. Việc giảm dần các tài sản phòng thủ trú ẩn như vàng và tiền mặt là điều cần thiết. Hoặc để an toàn hơn anh em có thể giữ nguyên tỷ trọng tiền mặt, chỉ giảm tỷ trọng vàng.
3: Bất động sản giai đoạn này cũng thường sẽ có dấu hiệu phục hồi với một số phân khúc nhất định, thanh khoản có phần cải thiện. Có thể xem xét tích lũy. Còn với bản thân tôi thì không có tiền cho mảng này nên trường hợp này tôi không có ý kiến.
4: Ông hoàng của giới tài chính - Crypto: Giai đoạn này Crypto có thể bắt đầu tăng trưởng trở lại do dòng tiền rẻ và tâm lý lạc quan. Tuy nhiên với quan điểm của tôi Crypto chỉ phù hợp để đầu tư khi kinh tế đang nằm ở giai đoạn thịnh vượng. Tức tiền trong xã hội còn nhiều và chỉ đầu tư và tham gia 1 thời gian ngắn. Khi chu kỳ thịnh vượng kết thúc để quay trở về giai đoạn suy thoái, lúc này sẽ rút vốn ra khỏi Crypto và chờ tới chu kỳ sau.
Cuối cùng là giai đoạn thịnh vượng của nền kinh tế: “Hưng Phấn Tột Độ, Rủi Ro Tiềm Ẩn" là 8 chữ ngắn gọn nhưng đủ để diễn tả hết bối cảnh của giai đoạn này. Một giai đoạn cả xã hội ai cũng là doanh nhân toàn cầu, ai cũng bàn về kinh tế, Hublot đeo tay và GLC trả góp chạy đầy đường.
Bối cảnh kinh tế lúc này thường là GDP tăng trưởng mạnh mẽ, thất nghiệp ở mức thấp, lạm phát có xu hướng tăng cao, Ngân hàng trung ương bắt đầu cân nhắc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Hưng phấn, tham lam là tâm lý phổ biến ở giai đoạn này và đây cũng là lúc bong bóng tài chính phát triển mạnh mẽ nhất.
Chiến lược phân bổ ở giai đoạn này chỉ ngắn gọn trong vài chữ: Cái gì có lời thì nên chốt, cái gì lời nhiều thì nên chốt dần, cái gì chưa lời thì nên cắt, cái gì đang âm thì không nên giữ. Những tài sản mang giá trị âm mà có thể giữ lại chỉ nên là các tài sản mang giá trị đầu tư lâu dài, tức là dù có lên giá trong vài năm tới cũng không bán. Phần còn lại như lướt sóng hay đầu tư mạo hiểm chúng ta nên tính dần tới chuyện rời khỏi cuộc chơi.
Sẽ không có bất kỳ một công thức chung nào để áp dụng cho tất cả mọi người với cùng 1 số tiền. Nhưng tôi sẽ đưa cho các bạn một vài gợi ý để có thể tự xác định chu kỳ kinh tế và lên kế hoạch phân bổ danh mục đầu tư hợp lý.
1: Xác định vị trí hiện tại của nền kinh tế: Chúng ta đang ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh tế?
Điều này có thể được xác định dựa vào những kiến thức vĩ mô đã học suốt 20 bài vừa qua như GDP tăng trưởng ra sao? Lạm phát thế nào? Lãi suất đang có xu hướng tăng hay giảm? Chính phủ đang làm gì?
2: Đánh giá dòng tiền đang được bơm hay rút ra khỏi nền kinh tế?
3: Xây dựng kịch bản cho tương lai gần: Dựa trên các phân tích trên, bạn nghĩ trong 6-12 tháng tới, nền kinh tế sẽ đi theo hướng nào? Từ đó thiết lập tỷ trọng phân bổ tài sản dựa trên kịch bản và khẩu vị rủi ro của bạn.
Không có một kênh đầu tư nào tốt nhất mọi lúc, mọi nơi. Đầu tư thông minh không phải là giỏi đầu tư 1 loại tài sản , mà là biết khi nào nên ưu tiên tài sản nào, và khi nào nên rút lui. Việc liên tục theo dõi dòng tiền kinh tế, hiểu chu kỳ vĩ mô và linh hoạt trong phân bổ tài sản chính là bí quyết để bảo toàn và gia tăng tài sản của bạn trong mọi điều kiện thị trường.
0 notes
Text
Ngày 21: Xây dựng chiến lược phân bổ tài sản linh hoạt theo chu kỳ kinh tế. (P1)
Chúng ta đã đi một chặng đường dài, từ việc hiểu các chỉ số vĩ mô cơ bản, cách chúng tác động đến dòng tiền, cho đến việc nhận diện rủi ro và cả yếu tố tâm lý thị trường. Mục tiêu ban đầu của series này, là hướng cho anh em khả năng nhận biết khi nào nên đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, vàng, hay crypto, và khi nào nên siết chặt giữ tiền mặt?
Nguyên tắc đầu tiên là "Đầu Tư Theo Dòng Tiền". Tiền chảy vào đâu thì chúng ta đầu tư vào đó. Tương tự như Trade what you see , not what you think. Đầu tư theo dòng tiền đơn giản là tìm hiểu xem tiền đang chảy vào đâu trong nền kinh tế, và rút ra từ đâu. Các chính sách tiền tệ và tài khóa của chính phủ và ngân hàng trung ương chính là những quả bom nổ chậm để điều hướng dòng chảy của tiền.
Khi mục tiêu là phát triển kinh tế, dĩ nhiên Ngân hàng trung ương sẽ ban hành các chính sách như giảm lãi suất, bơm tiền vào hệ thống , chính phủ tăng chi tiêu công, giảm thuế vaf như đã nói ở bài 20. Lúc này, tiền mặt trở nên kém hấp dẫn vì lãi suất gửi ngân hàng thấp và lạm phát có thể tăng. Dòng tiền sẽ chảy mạnh vào các tài sản rủi ro hơn như chứng khoán vì chi phí vay rẻ, doanh nghiệp dễ kinh doanh hơn, lợi nhuận tăng, hay bất động sản vì lãi suất vay mua nhà thấp, nhu cầu vay tăng, đầu cơ bất động sản sôi động. Thậm chí, một phần dòng tiền này sẽ tìm đến crypto như một kênh đầu tư có tiềm năng sinh lời đột biến. Khỏi phải nói, trong khái niệm cung cầu, một trò chơi mang giá trị cốt lõi là tăng cầu giảm cung như Crypto luôn là 1 thị trường tiềm năng cho việc bơm thổi. Tiền rẻ mà lại không nhét chút đỉnh vào Crypto thì quả là đáng tiếc. Đấy là tôi nghe người ta nói vậy.
Ngược lại, khi mục là kìm hãm lạm phát, Ngân hàng trung ương thương sẽ ban hành các chính sách như tăng lãi suất, hút tiền về từ thuế hoặc trái phiếu, chính phủ cắt giảm chi tiêu, tăng thuế. Lúc này chi phí sử dụng vốn tăng cao, hoạt động kinh doanh khó khăn hơn, lợi nhuận doanh nghiệp giảm sút. Dòng tiền dĩ nhiên sẽ rút khỏi các tài sản rủi ro và tìm về nơi an toàn hơn. Tiền mặt trở nên hấp dẫn hơn vì lãi suất gửi ngân hàng cao. Vàng trực tiếp trở thành kênh trú ẩn an toàn khi có lo ngại về suy thoái hoặc bất ổn.
Hiểu được quy luật tiền chảy vào đâu giúp anh em tạo ra một chiến lược phân bổ tài sản chủ động. Tại sao lại là phân bổ tài sản chủ động ? Đó là vì nó phải là một chiến lược có khả năng điều chỉnh theo từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế và bối cảnh vĩ mô MỘT CÁCH LINH HOẠT. Linh hoạt là điều tối quan trọng. Sẽ thế nào nếu 100% tài sản của bạn nằm ở BDS nhưng chẳng may bạn cần sử dụng tiền mặt nhưng hiện tại lại là giai đoạn BDS đóng băng ?
Chiến lược phân bổ tài sản theo giai đoạn có thể chia ra làm vài phần như sau.
Giai đoạn Suy thoái: bối cảnh giai đoạn này thương sẽ là GDP giảm, thất nghiệp cao, doanh nghiệp khó khăn, lạm phát có thể giảm mạnh hoặc thậm chí giảm phát. Ngân hàng trung ương có thể bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế.
Chiến lược phân bổ giai đoạn này có thể kể tới như
1: Tăng mạnh tỷ trọng tiền mặt nhằm bảo toàn vốn, tránh thua lỗ và tạo cơ hội mua vào khi thị trường giảm sâu. Mà cũng chẳng riêng gì giai đoạn suy thoái, ở tất cả các giai đoạn của kinh tế tiền mặt luôn là thứ bạn phải dành ra 1 phần cố định, suy thoái chỉ là yếu tố thúc đẩy để chúng ta tăng tỷ trọng tiền mặt lên.
2: Tăng tỷ trọng vàng như là 1 kênh trú ẩn an toàn trong giai đoạn bất ổn và giảm phát.
3: Bắt đầu tích lũy và tăng dần tỷ trọng chứng khoán theo thời gian. Đặc biệt là các cổ phiếu có định giá rẻ, triển vọng phục hồi tốt khi kinh tế hồi phục, hoặc những cổ phiếu sẽ là mũi nhọn cho phát triển kinh tế giai đoạn hậu suy thoái.
4: Hạn chế bất tuyệt đối những game tài chính mang tính thanh khoản kém, rủi ro cao hoặc phụ thuộc vào giai đoạn kinh tế thịnh vượng. VD như BDS hoặc Crypto
0 notes
Text
Ngày 20: Yếu tố con người trong phân tích vĩ mô.
Làm sao để phân biệt “tin tức” và “bản chất vĩ mô” ?
Chúng ta đã dành nhiều thời gian để nói về những con số khô khan, những biểu đồ phức tạp của kinh tế vĩ mô. Nhưng có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao đôi khi thị trường lại phản ứng hoàn toàn không giống với những gì các con số ấy thể hiện? Ví dụ cùng là Nonfarm thấp hơn cùng kỳ, ở tháng trước phản ứng của thị trường nhìn chung lại khá tốt, nhưng lại cho thấy phản ứng tệ hơn vào tháng này.
Hay tại sao, một tin tức kinh tế dù tốt đến mấy cũng không thể kéo thị trường lên, hoặc ngược lại, một tin tức không tới nỗi xấu lại đẩy mọi thứ xuống vực sâu một cách khó hiểu?
Thị trường tài chính không chỉ là nơi những con số nhảy múa. Nó còn là một sân khấu khổng lồ, nơi hàng triệu nhà đầu tư, mỗi người một cảm xúc, một niềm tin, đang cùng nhau trình diễn một vở kịch không hồi kết. Tâm lý thị trường chính là thái độ chung của tập thể nhà đầu tư đối với một tài sản hay một thị trường cụ thể. Nó là giá trị thể hiện của những kỳ vọng, nỗi sợ hãi, niềm tin và hành vi của số đông. Vậy có sai không khi nói giá trị của thị trường tài chính vốn dĩ được hình thành từ giá trị niềm tin, từ cổ phiếu, bất động sản, chứng khoán chứ không chỉ riêng gì crypto ?
Khi đám đông tràn ngập lạc quan, họ tin rằng giá sẽ tăng không ngừng, sẵn sàng mua vào bằng mọi giá. Điều này tạo ra một vòng xoáy tích cực, đẩy giá lên cao hơn nữa. Anh em hẳn có thể thấy điều này trong các giai đoạn bong bóng tài sản, khi mọi người đổ xô vào mua mà không cần quá quan tâm đến nền tảng giá trị thực sự. Kể cả mức độ gia tăng về giá và về lượng nó có vô lý tới đâu đi nữa. Lanvar là 1 ví dụ.
Ngược lại, khi nỗi sợ hãi bao trùm, nhà đầu tư chỉ muốn bán tháo bằng mọi giá, dù có phải chịu lỗ nặng. Nỗi sợ hãi này lây lan nhanh chóng, tạo ra xu hướng giảm giá sâu và kéo dài, đây là thứ mà chúng ta gọi là khủng hoảng hay suy thoái.
Từ những điều này chúng ta có thể giải thích, tâm lý đám đông có sức mạnh khuếch đại xu hướng rất lớn. Nó có thể khiến thị trường phản ứng một các phi lý trí với tất cả các sự việc, không theo bất kỳ quy luật nào của kinh tế học. Và trớ trêu thay, chính những lúc tâm lý đám đông đạt đến mức cực đoan hưng phấn tột độ hay sợ hãi cùng cực lại thường là lúc thị trường sắp sửa quay xe,đánh dấu đỉnh hoặc đáy của một chu kỳ. Nhưng đừng nhầm lẫn với câu nói “Hãy tham lam khi người khác sợ hãi, hãy sợ hãi khi người khác tham lam” vì với đa phần nhà đầu tư ngoài kia, họ luôn nhận định sai phần lớn nhà đầu tư ngoài kia đang nghĩ gì. Đôi khi tưởng sợ hãi nhưng thật ra vẫn còn là tham lam đấy.
Vậy thì, các cái mớ kiến thức chúng ta đã học như GDP, lạm phát, lãi suất, chúng được thị trường tiêu hóa như thế nào? Đây chính là lúc nguyên tắc kinh điển "Mua tin đồn, bán tin thật" phát huy tác dụng.
Anh em hãy tưởng tượng một báo cáo kinh tế quan trọng sắp được công bố, ví dụ FED sắp họp để đưa ra quyết định về lãi suất chẳng hạn. Trước khi tin tức chính thức được công bố, thị trường đã sôi sục với những lời đồn đoán, những phân tích, những kỳ vọng. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp đã bắt đầu đặt cửa chọn phe, mua vào hoặc bán ra dựa trên những gì họ dự đoán. Giá cả tài sản đã bắt đầu dịch chuyển đáng kể từ giai đoạn này. Với những doanh nhân tài chính như chúng ta, không hiếm khi thấy những giai đoạn được gọi là “giá chạy trước tin” đúng không. Đó chính là cách đám đông phản ứng với tin đồn
Đến khi tin thật được công bố. Nếu tin tức đó đúng y như kỳ vọng của số đông, thì thường thị trường sẽ không có biến động lớn, hoặc thậm chí là giảm nhẹ. Tại sao? Vì tin tốt hay tin xấu vốn đã được phản ánh hết vào giá cả trước đó rồi. No more surprise
Nhưng nếu tin tức đó tốt hơn kỳ vọng, như kiểu một sự bất ngờ tích cực, thị trường có thể bật tăng mạnh mẽ. Đây là lúc những người đã "mua tin đồn" trước đó thắng lớn, và những người chưa kịp vào lệnh sẽ nhanh chóng "đuổi theo" để không bỏ lỡ. Trong phân tích kỹ thuật chúng ta biết điều này với khái niệm
“Những người từng bỏ lỡ cơ hội mua ở vùng giá tốt, sẽ cảm thấy bị bỏ rơi nên chấp nhận nhảy vào mua ở vùng giá cao”
Ngược lại, nếu tin tức đó xấu hơn kỳ vọng như kiểu một bất ngờ tiêu cực, thì thị trường sẽ phản ứng rất mạnh, giảm sâu. Bởi vì rủi ro chưa được thể hiện hết vào giá cả trước đó, giờ đây khi tin thật được đưa ra tệ hơn nhiều so với tin đồn, sự thất vọng và sợ hãi bùng lên.
Ví dụ, giả sử thị trường đã kỳ vọng Fed sẽ giảm lãi suất 0.25%. Giá cổ phiếu có thể đã tăng nhẹ trước đó vì sự lạc quan cho nền kinh tế, giảm bớt áp lực trở nợ cho doanh nghiệp. Khi Fed chính thức giảm 0.25%, thị trường có thể chỉ đi ngang có xu thế tăng hoặc thậm chí giảm nhẹ vì không có gì bất ngờ. Nhưng nếu Fed giảm 0.5% , thị trường sẽ ăn mừng bằng một phiên tăng điểm mạnh. Ngược lại, nếu Fed chỉ giảm 0.1% hoặc giữ nguyên lãi suất, đó chắc chắn sẽ là cú sốc đẩy cả thị trường đi vào sắc đỏ.
Điều này dẫn chúng ta đến một khái niệm quan trọng hơn, đó là phân biệt giữa "tin tức" và "bản chất vĩ mô".
Tin tức là những sự kiện hàng ngày, những con số được công bố định kỳ, chúng chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Bản chất vĩ mô mới là xu hướng sâu xa hơn, là cấu trúc thực sự của nền kinh tế, là những động lực dài hạn. Một tay non sẽ chỉ tập trung vào tin tức và phản ứng tức thì. Nhưng một sói già sẽ nhìn xa hơn, cố gắng hiểu bản chất đằng sau những tin tức đó. Một tin tức xấu trong ngắn hạn có thể không làm thay đổi bản chất tốt đẹp của nền kinh tế, và ngược lại, một vài tin tốt cũng không thể che giấu được bản chất yếu kém, mong manh của một nền kinh tế.
Vậy câu hỏi là, làm thế nào để chúng ta không bị cuốn theo những cảm xúc nhất thời của đám đông?
Tôi nghĩ điều này cũng tương tự như trading, làm sao để kiểm soát cảm xúc khi giao dịch. Qua nhiều năm làm cộng đồng với vô số các thể loại bài viết, tôi nghĩ các bạn cũng đã nhẵn mặt với các thể loại phương pháp kiểm soát cảm xúc rồi. Vậy nên ở đây tôi chỉ dẫn ra một vài điều cần lưu ý
1: Khi thị trường hưng phấn tột độ, khi ai cũng nói về lợi nhuận dễ dàng, hãy đặt câu hỏi: Liệu giá trị thực có đang bị bơm thổi? Ngược lại, khi thị trường hoảng loạn, khi ai cũng muốn bán tháo vì sợ hãi, đó lại là lúc bạn nên nhìn vào cơ hội.
2: Hãy luôn tập trung vào bức tranh lớn. Cũng giống như trading, tôi luôn khuyên các bạn đừng để những tin tức nhỏ lẻ, những dao động ngắn hạn của thị trường làm bạn lạc lối. Hãy luôn quay lại với phân tích bản chất vĩ mô, chu kỳ kinh tế và dòng tiền dài hạn. Học cách phân biệt giữa thông tin và cảm xúc. Đọc tin tức, nhưng đừng để tin tức làm bạn sợ hãi hay hưng phấn thái quá. Hãy tự hỏi: Tin tức này có thay đổi bản chất kinh tế không? Hay chỉ là phản ứng nhất thời của thị trường?
Và quan trọng nhất là phải kiểm soát được cảm xúc cá nhân. Học cách nhận diện và kiểm soát tham lam và sợ hãi là kỹ năng quan trọng nhất của một nhà đầu tư thành công. Sau đó hãy tự xây dựng cho mình một kế hoạch đầu tư rõ ràng dựa trên phân tích vĩ mô của bạn và kiên trì tuân thủ nó. Tương tự như một hệ thống giao dịch trading. Một kế hoạch hay hệ thống vững chắc sẽ là kim chỉ nam giúp anh em tránh được những quyết định cảm tính khi thị trường biến động.
0 notes
Text
Ngay 19: Khi nào nên nắm giữ tiền mặt và khi nào nên dịch chuyển tài sản?
Có lẽ trong đầu tư việc khó khăn nhất không phải là lựa chọn đầu tư cái gì, mà là quyết định có nên nắm giữ tiền mặt hay không.
Trên thực tế người ta thường tranh cãi với nhau câu chuyện:
1: Nắm giữ tiền mặt như gửi ngân hàng để hưởng lãi suất tiền gửi - nhưng lạm phát tăng cao sẽ gây mất giá đồng tiền
2: Mang tiền đi đầu tư với rủi ro cao nhưng bù lại là kỳ vọng lợi nhuận lớn.
Trong môi trường kinh tế biến động, giữ tiền mặt có thể giúp anh em tránh rủi ro, nhưng nếu ôm quá lâu, lạm phát sẽ ăn mòn dần giá trị tài sản, hoặc anh em sẽ bỏ lỡ cơ hội sinh lời từ các kênh khác. Để đến khi nhìn lại lượng tiền mặt mình có cuối cùng vẫn chưa đủ để mua bất kỳ tài sản lớn nào.
Để biết khi nào nên lựa chọn giữ tiền mặt, anh em cần để ý đến những dấu hiệu bất ổn của thị trường, một số dấu hiệu chúng ta có thể kể tới như:
1: Lãi suất tăng mạnh, đó là tín hiệu của siết chặt nền kinh tế. Như đã nói ở những bài trước, NHNN thường có các mục tiêu như tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, bình ổn nền kinh tế và dĩ nhiên tuỳ theo thời điểm sẽ có mục tiêu được đặt ưu tiên hơn. Ví dụ ở thời điểm hiện tại, với FED kiềm chế lạm phát là mục tiêu được ưu tiên nhất, song song với đó vẫn phải có cách chính sách hỗ trợ kinh tế phù hợp để tránh cho các doanh nghiệp nhận những cú sốc từ chương trình thuế quan của Trump.
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất, điều này thường có nghĩa là họ muốn kiềm chế lạm phát hoặc làm chậm nền kinh tế. Lãi suất cao làm chi phí vay tăng, khiến chứng khoán, bất động sản, và crypto trở nên kém hấp dẫn. Lúc này, giữ tiền mặt hoặc gửi tiết kiệm là lựa chọn an toàn, vì anh em có thể kiếm lãi suất tốt mà không lo thị trường lao dốc cắm đầu.
Ví dụ vào năm Năm 2022, Fed tăng lãi suất từ 0,25% lên 4,5% để đối phó lạm phát 8%. Kết quả, S&P 500 giảm 20%, Bitcoin rớt từ 69.000 USD xuống 16.000 USD, và thị trường bất động sản Mỹ đóng băng hoặc nát bét. Ở Việt Nam, lãi suất ngân hàng buộc phải tăng lên 8-9% để giữ mức độ hấp dẫn cho VND, nhiều nhà đầu tư rút tiền từ chứng khoán để gửi tiết kiệm. Nếu anh em giữ tiền mặt hoặc gửi ngân hàng lúc đó, đã tránh được khoản lỗ lớn và còn hưởng lãi suất cao. Anh em có thể hỏi rằng làm sao biết khi nào NHTW tăng lãi suất để di chuyển tài s��n sang tiền mặt, tất nhiên là từ các chỉ số kinh tế và nhìn cách dòng tiền vận hành chứ còn gì nữa. Mọi thứ thường không quá rõ ràng như kiểu 1+1=2, nhưng nó vẫn luôn hiện diện ở đó để chúng ta có thể thấy được.
2 : Xung đột địa chính trị, như chiến tranh thương mại hay xung đột quân sự, thường làm nhà đầu tư hoảng sợ, rút tiền khỏi chứng khoán, crypto, và đổ vào tài sản an toàn như tiền mặt, USD, hoặc vàng. Khi tin tức về căng thẳng địa chính trị xuất hiện liên tục, giữ tiền mặt hoặc 1 phần tiền mặt giúp anh em chờ thị trường ổn định trước khi đầu tư.
3: Khi nền kinh tế bước vào giai đoạn suy thoái, tức GDP giảm, thất nghiệp tăng, tiêu dùng yếu, các kênh đầu tư rủi ro như chứng khoán hay bất động sản thường giảm mạnh. Dĩ nhiên rồi, trong bối cảnh thất nghiệp, thắt chặt chi tiêu thì ai mà mang tiền đi đầu tư vào các kênh rủi ro cao làm gì.
Thế thì khi nào chúng ta không nên giữ tiền mặt ? Dĩ nhiên là khi cả xã hội đang ưu tiên cho mục tiêu phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách tiền tệ, hiệp định thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng đều ủng hộ cho công cuộc phát triển kinh tế. Và thường thì lạm phát cao sẽ được chấp nhận ở giai đoạn này vì đó không phải là mục tiêu ưu tiên. Anh em có thể nhìn thấy nó qua những thứ như.
1: Ngân hàng trung ương giảm lãi suất hoặc bơm tiền vào nền kinh tế, đây là tín hiệu rõ ràng nhất để thấy rằng kinh tế đang được tiêm 1 liều dopamin tăng trưởng. Chứng khoán, bất động sản, và crypto thường tăng mạnh trong giai đoạn này, vì chi phí vay rẻ và dòng tiền đổ vào các kênh rủi ro. Giữ tiền mặt lúc này có thể làm anh em bỏ lỡ cơ hội lớn.
2: Khi lạm phát tăng, giá trị thực của tiền mặt giảm dần. Nếu CPI tăng mạnh, giữ tiền mặt là cách chắc chắn để tài sản bốc hơi. Lúc này, anh em nên chuyển sang vàng để bảo vệ giá trị, bất động sản thường tăng theo lạm phát, hoặc chứng khoán nếu biết chọn đúng ngành. Tất nhiên đây chỉ là lý thuyết trong trường hợp lý tưởng. Còn trên thực tế nếu lựa chọn sai phân khúc bất động sản hay chọn trúng ngành chứng khoản ảm đạm. Thì việc chấp nhận rủi ro lạm phát vài % 1 năm có vẻ vẫn là phương án tốt hơn.
3: Khi GDP tăng, thất nghiệp giảm, và tiêu dùng mạnh lên. Không cần phải nói, ngược lại với giai đoạn giữ tiền mặt, đây là thời điểm vàng để đầu tư. Như người ta hay nói đây là giai đoạn đánh đâu cũng thắng, nhà nhà đầu tư, người người đầu tư vì tiền ngoài xã hội quá nhiều, cứ mua là ăn, cứ múc là có lời, và cuối cùng cả xã hội đu đỉnh vì sử dụng đòn bẩy tài chính quá lớn.
Vậy câu hỏi đặt ra là nếu hiện tại anh em có 1 tỷ đồng, anh em sẽ để số tiền này vào đâu ?
0 notes
Text
Ngày 18: Làm thế nào để dự đoán được các chính sách của Chính Phủ và Ngân Hàng Trung ương ?
Hôm nay đã là ngày 18, chúng ta gần như đã đi qua hết các khái niệm cơ bản cần biết để hình thành nên tư duy phân tích vĩ mô, cũng đã đào sâu vào dòng tiền là gì và cách nó chảy qua các kênh tài chính thế nào. Nhưng nó chỉ mới dừng lại ở việc chúng ta hiểu vì sao lại có những chính sách đó, hiểu những chính sách và bối cảnh đó tác động đến kinh tế như thế nào. Nhưng đầu tư là câu chuyện dự đoán, để kiếm được tiền bạn thực sự phải nhìn ra điều đó sớm hơn người khác. Hoặc phải hành động nhanh hơn người khác. Để làm được điều đó, hôm nay mình sẽ dắt anh em đi tìm câu trả lời cho 4 câu hỏi.
1: Tại sao chúng ta cần phải đọc vị chính sách vĩ mô?
Như chúng ta đã tìm hiểu ở những bài trước, Chính phủ và Ngân hàng Trung ương là những người kiểm soát và hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế. Họ làm điều đó thông qua việc tăng hay giảm lãi suất, chi tiêu công, cho đến việc in tiền hay quản lý tỷ giá, để có thể thay đổi hướng đi của dòng tiền, ảnh hưởng trực tiếp đến túi tiền của chúng ta.
Ví dụ như vào năm 2020-2021, khi dịch bệnh bùng phát, nhiều NHTW trên thế giới, bao gồm cả FED và NHNN Việt Nam, đã quyết định giảm lãi suất mạnh và bơm một lượng lớn tiền vào nền kinh tế. Đây là một chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm kích thích kinh tế. Anh em cũng đã thấy dòng tiền chảy mạnh vào chứng khoán và bất động sản như thế nào rồi đấy. Trên thực tế nếu anh em hiểu và nắm bắt được xu hướng chính sách này sớm cùng với đó là sự quyết đoán trong đầu tư, anh em hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội biến nó trở thành cú xoay chuyển vị thế cuộc đời.
2: Chính phủ bơm tiền và thu tiền như thế nào thông qua chính sách tài khóa?
Chính sách tài khóa là những quyết định của Chính phủ về chi tiêu và thu thuế, khác với chính sách tiền tệ của NHNN là điều khiển nền kinh tế thông qua lãi suất và in tiền.
Đầu tiên là chi tiêu công. Khi kinh tế gặp khó khăn, Chính phủ thường tăng chi tiêu vào các dự án hạ tầng lớn như xây đường, cầu, sân bay. Điều này góp phần tạo ra việc làm, kích thích các ngành liên quan như vật liệu xây dựng, thép, xi măng phát triển.
Ví dụ vào năm 2023-2024, Việt Nam đẩy mạnh đầu tư công vào các dự án cao tốc, sân bay Long Thành. Điều này không chỉ giúp GDP tăng trưởng mà còn kéo theo sóng tăng trưởng cho các doanh nghiệp xây dựng, vật liệu xây dựng, cái này chúng ta đã nói về sự tăng trưởng của nhóm ngành ở bài 16
Tiếp theo là thuế. Chính phủ có thể tăng hoặc giảm thuế để tác động đến hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân và doanh nghiệp. Nếu giảm thuế thu nhập cá nhân hay thuế doanh nghiệp, người dân và doanh nghiệp tất nhiên sẽ có nhiều tiền hơn để chi tiêu và tái đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi muốn kiềm chế lạm phát hoặc thắt chặt chi tiêu, họ có thể tăng thuế. Trong một ví dụ ở bài nào trước đấy mình cũng đã nhắc anh em về giai đoạn covid-19, 1 trong những cách giúp chính phủ bơm tiền ra nền kinh tế đó chính là giảm thuế.
Khi phân tích chính sách tài khóa, anh em hãy nhìn vào các kế hoạch ngân sách, các gói kích thích kinh tế, hay những thay đổi về luật thuế mà chính phủ công bố.
3: Ngân hàng Trung ương nới lỏng và siết chặt nền kinh tế ra sao bằng chính sách tiền tệ?
Chính sách tiền tệ như đã nói là những hành động của NHTW như NHNN Việt Nam hay Fed để kiểm soát lượng tiền trong lưu thông và lãi suất. Một công cụ quan trọng mà chúng ta đã nói đến nhiều là lãi suất điều hành. Đây là mức lãi suất mà NHTW quy định cho các ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau. NHTW giảm lãi suất điều hành, chi phí vay vốn của các NHTM sẽ giảm, từ đó họ có thể cho vay với lãi suất thấp hơn ra thị trường. Điều này khuyến khích doanh nghiệp vay tiền để mở rộng sản xuất, người dân vay tiền để mua sắm, kích thích kinh tế và đẩy dòng tiền vào các tài sản rủi ro như chứng khoán hay bất động sản.
Ngược lại, khi NHTW tăng lãi suất điều hành, thường mục đích là để kiềm chế lạm phát điều này dẫn tới chi phí vay vốn tăng cao, làm chậm lại nền kinh tế và dòng tiền có xu hướng rút về các tài sản phòng thủ như vàng hay tiền mặt. Ví dụ năm 2022 NHNN buộc phải tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát theo xu hướng toàn cầu ấy
Ngoài lãi suất, NHTW còn có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Đây là việc NHTW mua hoặc bán trái phiếu chính phủ trên thị trường. Khi mua trái phiếu được chính phủ phát hành, NHTW bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, tăng lượng tiền trong lưu thông. Hoặc ngược lại, khi bán trái phiếu, họ hút tiền về, giảm lượng tiền. Những động thái này trực tiếp điều chỉnh thanh khoản của nền kinh tế và tác động đến dòng tiền.
Dành cho ai thắc mắc là nếu NHTW bán trái phiếu để thu tiền mà NHTM không muốn mua hoặc mua không đủ thì sao. Điều này sẽ được giải quyết qua các hợp đồng nghiệp vụ ngân hàng, ví dụ như NHTW mua trái phiếu từ NHTM những NHTM phải cam kết mua lại trái phiếu từ NHTW trong tương lai, tất nhiên là với những điều kiện và cam kết bổ sung khác. Hoặc thay đổi lợi suất trái phiếu chào bán, thay đổi kỳ hạn giao dịch hoặc phải bán qua nhiều phiên. Nói chung là có nhiều cách khác nhau mà cái này cũng k ảnh hưởng mấy tới túi tiền của mình nên không cần đào sâu.
Một công cụ khác là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các NHTM phải giữ lại tại NHTW. Nếu tăng tỷ lệ này, các ngân hàng sẽ có ít tiền hơn để cho vay ra, làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
4: Làm thế nào để đọc vị các tín hiệu chính sách?
Việc đọc vị chính sách tất nhiên là không dễ. Giống như trading, đôi khi các thông điệp của Chính phủ hay NHTW có thể mơ hồ hoặc nói thế này nhưng lại làm thế khác. Vậy nên cốt lõi anh em cần Theo dõi các báo cáo và phát biểu chính thức như các báo cáo kinh tế vĩ mô, hay thông cáo báo chí sau các cuộc họp của NHTW, nhất là các động thái từ Powell sau mỗi phiên họp FOMC hoặc sau các đợt điều chỉnh lãi suất (mấy ông giám đốc của chi nhánh FED thì không cần quan tâm).
Anh em cần biết rằng NHTW thường có các mục tiêu như ổn định lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định tỷ giá. Khi một mục tiêu trở nên ưu tiên hơn, chính sách có thể sẽ thay đổi. Khi nào cần ưu tiên gì thì chắc qua 18 bài học và đủ các thể loại ví dụ rồi nên mình cũng không nhắc lại nữa.
Chú ý quan sát cách lãi suất thực tế thay đổi, cách các ngân hàng thương mại phản ứng, hoặc sự thay đổi của các chỉ số kinh tế sau khi có chính sách mới. Ví dụ như thương mại Mỹ-Trung hiện tại là điều đã được dự đoán trước, nên các doanh nghiệp Mỹ đã tích trữ hàng hoá trong thời gian dài, điều này cho thấy dù 1-2 tháng sau sự kiện tăng thuế với nhau nhưng CPI của Mỹ tháng gần nhất vẫn cho kết quả tốt. Điều này đến từ việc dự đoán được động thái và có sự chuẩn bị tốt. Nhưng sau khoảng thời gian bán hết hàng hoá dự trữ từ trước thì sao ?
Việc phân tích chính sách vĩ mô không chỉ giúp anh em dự đoán xu hướng của thị trường tài chính mà còn giúp mình hiểu rõ hơn về bức tranh tổng thể của nền kinh tế. Khi anh em có thể đọc vị được động thái của các nhà hoạch định chính sách, chúng ta sẽ phần nào giảm bớt rủi ro cho danh mục đầu tư mỗi khi thị trường rung lắc.
0 notes
Text
Ngày 17: Tài sản phòng thủ và tài sản rủi ro - Phân bổ tài sản phù hợp với chu kỳ kinh tế.
Hôm qua, chúng ta đã nói về việc các chỉ số kinh tế không đại diện cho từng nhóm ngành cụ thể, và việc lựa chọn ngành phù hợp khi thị trường biến động sẽ giúp anh em hạn chế được rủi ro thâm hụt tài sản. Vậy thì hôm nay chúng ta sẽ làm quen với khái niệm, tài sản phòng thủ là gì và hoạt động ra sao khi thị trường rung lắc.
Anh em cứ hình dung thế này, tài sản phòng thủ giống như chiếc áo giáp bảo vệ chúng ta khi thị trường gặp sóng gió. Chúng là những loại tài sản có xu hướng giữ giá ổn định, thậm chí tăng giá, khi nền kinh tế gặp khó khăn, lạm phát tăng cao, hoặc có những bất ổn về chính trị. Có vài loại tài sản phòng thủ tiêu biểu mà anh em đã biết.
Đầu tiên là vàng. Dĩ nhiên rồi, đây là bố của các thể loại tài sản phòng thủ rồi. Vàng được coi là kênh trú ẩn an toàn bởi giá trị của nó không phụ thuộc quá nhiều vào hiệu suất kinh tế của một quốc gia hay một công ty cụ thể. Khi lạm phát tăng cao, tiền mất giá, hoặc khi có các cuộc khủng hoảng, chiến tranh, nhà đầu tư thường đổ xô vào vàng để bảo toàn tài sản. Điều đấy còn cho thấy rằng Vàng là loại tài sản có giá trị niềm tin tuyệt đối, thậm chí ở một vài quốc gia việc mua Vàng như 1 loại tài sản tích trữ và thậm chí không quan tâm tới giá của nó là bao nhiêu như đã trở thành 1 nét truyền thống. Anh em còn nhớ bài Ngày 11 không, khi mình nói về việc dòng tiền có thể chảy từ chứng khoán, bất động sản sang vàng đấy.
Tiếp theo là trái phiếu chính phủ. Đây là khoản vay mà anh em cho chính phủ vay. Vì chính phủ là bên có khả năng trả nợ cao nhất, nên trái phiếu chính phủ được coi là cực kỳ an toàn, đặc biệt là trái phiếu của các nước có nền kinh tế ổn định. Khi kinh tế bất ổn, lãi suất giảm, trái phiếu chính phủ thường hấp dẫn hơn vì mang lại dòng tiền ổn định.
Và cuối cùng thì là tiền mặt. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng giữ tiền mặt cũng là một chiến lược phòng thủ đấy. Khi thị trường quá rủi ro, không chắc chắn điều gì sẽ xảy ra, việc giữ tiền mặt giúp anh em tránh được những thua lỗ tiềm ẩn. Hơn nữa, tiền mặt còn giúp anh em sẵn sàng chớp lấy cơ hội khi thị trường giảm giá. Miễn là phân bổ lượng tiền mặt hợp lý thì ở những thời điểm nhất định, có thể anh em đã nghe câu nói “Tiền mặt là Vua”.
Vậy câu hỏi đặt ra là: khi nào thì nên tăng tỷ trọng tài sản phòng thủ?
Thường là khi anh em thấy các tín hiệu sau: lạm phát tăng cao, tức là khi CPI tăng mạnh, tiền mất giá, vàng sẽ là lựa chọn hàng đầu . Hoặc khi kinh tế có dấu hiệu suy thoái, tức là GDP tăng trưởng chậm lại, PMI dưới 50, tỷ lệ thất nghiệp tăng, dòng tiền sẽ có xu hướng tìm đến nơi an toàn hơn. Rồi khi có bất ổn địa chính trị, chiến tranh, xung đột, những biến động lớn trên thế giới sẽ khiến nhà đầu tư tìm kiếm các tài sản có giá trị bền vững như vàng. Và cả khi lãi suất có xu hướng giảm, điều này thường xảy ra khi Ngân hàng Trung ương muốn kích thích nền kinh tế, làm cho các kênh gửi tiết kiệm kém hấp dẫn hơn, và trái phiếu chính phủ có thể trở thành lựa chọn tốt. Nhưng đừng nhầm lẫn việc lãi suất giảm sẽ khiến giá vàng tăng hay giảm vì như đã nói, vàng phụ thuộc rất lớn vào cung cầu chứ không chỉ riêng bất kỳ chính sách kinh tế nào.
Ngược lại với tài sản phòng thủ, tài sản rủi ro, chẳng cần giới thiệu thì với những doanh nhân toàn cầu như chúng ta thì đã quá quen thuộc với những thứ này rồi. Tuy nhiên để cho những anh em không biết thì mình cũng phải nói lại.
Đầu tiên là cổ phiếu. Khi công ty làm ăn tốt, kinh tế thuận lợi, lợi nhuận tăng trưởng, giá cổ phiếu tăng. Nhưng ngược lại, khi kinh tế khó khăn, lợi nhuận giảm sút, giá cổ phiếu cũng có thể lao dốc không phanh. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp công ty báo lỗ nhưng cổ phiếu lại vẫn cứ tăng hoặc ngược lại, mọi lý thuyết chỉ mang tính tương đối nên việc lựa chọn danh mục đầu tư cần xem xét kỹ càng.
Đất đai, nhà cửa cũng là một tài sản có rủi ro và lợi nhuận cao. Giá bất động sản thường tăng theo chu kỳ kinh tế, đặc biệt là khi có dòng vốn FDI đổ vào, hoặc khi đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, bất động sản cũng có thể đóng băng hoặc giảm giá khi lãi suất tăng cao hay chính sách tín dụng thắt chặt.
Và cuối cùng là ông hoàng bơm thổi Crypto, vua của các thể loại rủi ro. Nổi bật nhất tất nhiên là anh cả Bitcoin. Đây là loại tài sản biến động cực kỳ mạnh. Tiềm năng lợi nhuận có thể lên tới hàng trăm, hàng nghìn phần trăm, nhưng rủi ro thì ôi thôi không phải nói, sáng mở mắt ra TK có 10 tỷ, tối nhắm mắt lại TK về 0 đồng là chuyện hết sức bình thường.
Vậy khi nào thì mình nên tăng tỷ trọng tài sản rủi ro?
Các dấu hiệu lý thuyết có thể kể đến như, kinh tế đang phục hồi hoặc tăng trưởng mạnh, tức là khi GDP tăng trưởng tốt, PMI trên 50, tỷ lệ thất nghiệp giảm, niềm tin kinh doanh tăng cao, các doanh nghiệp sẽ làm ăn phát đạt, kéo theo giá cổ phiếu tăng. Hoặc khi lạm phát được kiểm soát hoặc ở mức thấp, điều này giúp Ngân hàng Trung ương có thể duy trì lãi suất ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn phát triển và nhà đầu tư có động lực rót tiền vào các kênh sinh lời. Rồi khi lãi suất có xu hướng tăng nhẹ hoặc ổn định, cho thấy kinh tế đang khỏe mạnh, ngân hàng vẫn muốn thu hút tiền gửi nhưng không quá cao đến mức bóp nghẹt doanh nghiệp. Và cả khi chính sách của chính phủ hỗ trợ tăng trưởng, ví dụ các gói kích thích kinh tế, đầu tư công, cắt giảm thuế như chúng ta đã học về chính sách tài khóa và tiền tệ ở bài 9.
iệc không bỏ tất cả trứng vào một giỏ là nguyên tắc vàng mà chắc có lẽ anh em đã liên tục nghe nói. Anh em cần kết hợp cả tài sản phòng thủ và tài sản rủi ro trong danh mục của mình. Tỷ lệ phân bổ sẽ thay đổi tùy thuộc vào mục tiêu tài chính của anh em, khả năng chấp nhận rủi ro và quan trọng nhất là giai đoạn của chu kỳ kinh tế, yếu tố vĩ mô và quan trọng nhất là không sử dụng đòn bẩy tài chính quá sức chịu đựng.
Ví dụ, trong giai đoạn suy thoái hoặc lạm phát cao như năm 2022, anh em nên tăng tỷ trọng tài sản phòng thủ như vàng, tiền mặt và một phần nhỏ các cổ phiếu ngành thiết yếu, y tế. Giảm tỷ trọng các tài sản rủi ro như công nghệ, bất động sản.
Hoặc ngược lại, trong giai đoạn phục hồi hoặc tăng trưởng mạnh như năm 2023, anh em nên tăng tỷ trọng tài sản rủi ro như cổ phiếu công nghệ, ngân hàng, thép, bất động sản công nghiệp. Giảm dần tỷ trọng vàng và tiền mặt.
Điều quan trọng nhất là phải linh hoạt. Dòng tiền không đứng yên, và nền kinh tế cũng vậy. Hiểu được vai trò của tài sản phòng thủ và rủi ro chính là bước đầu tiên để anh em bắt đầu hành trình thay đổi vị thế cuộc đời của mình.
0 notes
Text
Ngày 16: Làm sao lựa chọn nhóm ngành đầu tư phù hợp với chu kỳ kinh tế ?
Hôm qua chúng ta đã tìm hiểu về cách mà các chỉ số kinh tế ảnh hưởng thế nào tới các thị trường tài chính, nhưng đồng thời chúng ta cũng biết rằng chỉ số kinh tế là đại diện cho cả nền kinh tế, không đại diện cho một nhóm ngành cụ thể nào. Vậy nên việc chỉ số kinh tế thấp nhưng vẫn có các nhóm ngành tăng trưởng là chuyện hoàn toàn bình thường. Vậy làm cách nào để chúng ta có thể nhìn ra điều này và lựa chọn những nhóm ngành đầu tư phù hợp khi thị trường rung lắc ? Cụ thể là trong thị trường chứng khoán. Câu trả lời sẽ có trong bài hôm nay.
Đầu tiên chúng ta phải biết, nhóm ngành cổ phiếu là gì ?
Trên thực tế cổ phiếu được phân ra vài nhóm ngành chính như sau.
Công nghệ: Phần mềm, viễn thông, công nghệ AI, 5G.
Tiêu dùng thiết yếu: Thực phẩm, đồ uống, hàng tiêu dùng cơ bản.
Năng lượng xanh: Điện gió, điện mặt trời, năng lượng tái tạo.
Vận tải: Logistics, cảng biển, vận chuyển hàng hóa.
Thủy sản: Nuôi trồng, xuất khẩu tôm, cá.
Dòng tiền chảy vào các ngành phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, chỉ số kinh tế và địa chính trị.
Ví dụ Khi PMI trên 50: nghĩa là nhà máy bận rộn, đơn hàng tăng, khối lượng sản xuất đơn hàng, dịch vụ, việc làm của các nhà máy có sự tăng trưởng. Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp tới:
1: Ngành công nghệ tăng: Nhà máy cần phần mềm, AI, 5G để tối ưu sản xuất, đặt hàng công ty công nghệ. Doanh thu công nghệ tăng, cổ phiếu lên (ví dụ như năm 2023 là 20%). FDI cũng đổ vào viễn thông, AI khi PMI cao.
2: Tiêu dùng thiết yếu tăng: Thực tế mà nói, khi kinh tế mạnh, việc làm tăng, người dân chi tiêu nhiều cho gạo, sữa, mì. Doanh nghiệp tiêu dùng bán chạy, lợi nhuận cao, cổ phiếu dĩ nhiên là không giảm được.
Ví dụ khi CPI cao (khoảng 5-7%) do giá dầu, xăng tăng, tiền mất giá (vì sao CPI thước đo lạm phát lại liên quan tới giá xăng dầu đã có nói ở những bài trước). Điều này trực tiếp ảnh hưởng tới:
1: Năng lượng xanh tăng: Giá dầu tăng cao như 80-110 USD/thùng vào năm 2022 khiến EU, Việt Nam đẩy mạnh phát triển năng lượng sạch. Doanh nghiệp năng lượng xanh được vay vốn ưu đãi , ký hợp đồng lớn phát triển thuận lợi.
2: Vàng tăng: Lạm phát làm tiền mất giá, nhà đầu tư mua vàng để bảo toàn vốn, cùng với việc lạm phát khiến chi phí bỏ ra để sản xuất, lưu trữ 1 khối lượng vàng tương đương trước đây cũng tăng lên, điều đó cũng tạo động lực cho sự tăng giá của Vàng.
3: Vận tải giảm: Giá nhiên liệu thường chiếm tới 30-40% chi phí vận tải, CPI cao làm chi phí này đội lên. Chi phí vay cao càng khiến cho vận tải gặp bất lợi khi lạm phát tới. Biên lợi nhuận bị thu hẹp khiến cho tiềm năng tăng trưởng dĩ nhiên là nhỏ lại.
Thực tế từ 2022-2025 khi cơn bão lạm phát ở Mỹ đạt mức 7%, giá dầu tăng mạnh từ biến động chiến tranh, NHNN VN buộc phải tăng lãi suất lên mức 6% để kiềm chế lạm phát, điều này trực tiếp tạo nên áp lực cho doanh nghiệp khiến chỉ số PMI sụt giảm xuống 47. Trong bối cảnh này chung ta thấy.
1: Công nghệ giảm 15%, vì chi phí vay cao tầm 10-12%/năm, công nghệ như phần mềm, viễn thông, AI, 5G cần vốn lớn cho nghiên cứu, phát triển R&D, và triển khai hạ tầng như trạm 5G. Các khoản đầu tư này thường dài hạn, lợi nhuận chưa đến ngay, nên khi lãi suất cao, doanh nghiệp cắt giảm R&D để tiết kiệm, trực tiếp ảnh hưởng tới phát triển của doanh nghiệp khiến cổ phiếu giảm giá. Công nghệ thường có tài sản vô hình như kiểu bằng sáng chế, phần mềm, hợp đồng công nghệ nhiều hơn tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy móc. Ngân hàng đánh giá tài sản vô hình rủi ro hơn, nên áp lãi suất vay cao hơn hoặc yêu cầu thế chấp khắt khe, làm chi phí vay của công nghệ tăng mạnh. Như trong ví dụ trên là khoảng 10-12%/năm so với trung bình 8-10% của ngành khác.
2: Tiêu dùng thiết yếu: Giảm nhẹ 5%. Ngành này ít phụ thuộc vào vay vốn lớn vì loại sản phẩm có vòng quay vốn nhanh, lợi nhuận ổn định. Tài sản thế chấp hữu hình như nhà xưởng, kho hàng dễ được ngân hàng chấp nhận, nên chi phí vay thấp hơn công nghệ, khoảng 8-9%/năm. Nhu cầu tiêu dùng cơ bản ổn định dù lạm phát, nên cổ phiếu dù có giảm cũng không đáng kể. Nhưng bù lại khi kinh tế mở rộng cũng ít có tiềm năng đột phá.
3: Năng lượng xanh: tăng 10%. Dù cũng cần vốn lớn cho dự án, ngành này lại thường được chính sách ưu đãi như đã nói ở trên (EU, Việt Nam thúc đẩy năng lượng sạch), hay như vay vốn xanh lãi suất thấp , chỉ khoảng 7-8%/năm từ các quỹ quốc tế hoặc ngân hàng. Tài sản thế chấp có giá trị cao, dễ vay. Lãi suất NHNN chỉ cố định khoảng 6% vì là được ưu tiên hỗ trợ.
4: Vận tải: Giảm 15%. Ngành này chịu chi phí vay cao khoảng 9-11%/năm vì cần vốn cho tàu, xe, nhưng trong bối cảnh lạm phát giá nhiên liệu tăng làm chi phí vận hành đội lên, lợi nhuận giảm. Tài sản thế chấp tàu, xe tuy là có giá trị, nhưng rủi ro thanh khoản cao khi lạm phát, nên trong bối cảnh suy thoái thường sẽ bị siết cho vay.
5: Thủy sản: Giảm 8%. Ngành này thì cần vốn cho nuôi trồng, chế biến, nhưng xuất khẩu sang EU thời điểm đó chậm vì lạm phát, mà cũng chả phải mỗi thời điểm đó, EU là thị trường lớn của thuỷ sản, nên cứ lạm phát hay thuế má có vấn đề thì kiểu gì thuỷ sản cũng là thằng ăn đòn đầu tiên. Tài sản thế chấp như trại nuôi, nhà máy ổn, nhưng chi phí vay vẫn cao do rủi ro thị trường xuất khẩu. Ngành này chịu tác động kép từ lãi suất và nhu cầu giảm. Nên nếu lựa chọn thì cũng khó nghĩ đấy.
Nhìn chung thì đầu tư chưa bao giờ là dễ dàng, đây là phân tích về sự ảnh hưởng của các nhóm ngành, còn trên thực tế khi lựa chọn đầu tư sẽ có những doanh nghiệp được hưởng chính sách, hỗ trợ đặc biệt để phát triển và sống trong giai đoạn suy thoái. Hoặc là doanh nghiệp đó là mũi nhọn của ngành, hoặc ngành đó là mũi nhọn của nền kinh tế. Cho nên trong tất cả các quyết định đầu tư anh em cần chọn lọc thật kỹ để đưa ra quyết định sáng suốt.
Nội dung bài viết chỉ nêu lên một vài nhóm ngành tiêu biểu, chứ không kể tên toàn bộ các đại diện ngành của TTCK vì có nhiều ngành sẽ có mức độ phức tạp riêng biệt. Ví dụ như Ngân Hàng sự tăng trưởng phụ thuộc vào nghiệp vụ và chính sách là nhiều. Hay với thép phụ thuộc phần lớn vào giá nguyên liệu, nhu cầu xây dựng hay thương mại quốc tế nhiều hơn CPI và PMI nên cũng không được nhắc tới. Chỉ kể tên và phân tích những ngành tiêu biểu không có yếu tố đặc thù.
Có thời gian sẽ nhắc tới mấy thằng này sau, vì đi sâu hơn thì nó thành mẹ series về chứng khoán rồi chứ k còn là phân tích cơ bản nữa
0 notes
Text
Ngày 15: Làm cách nào để dự đoán thị trường tài chính từ các chỉ số kinh tế ?
Nếu ở ngày 14, anh em đã thấy thị trường lên xuống theo chu kỳ kinh tế, từ tăng trưởng rực rỡ đến suy thoái ảm đạm, thế nhưng câu hỏi là làm cách nào để chúng ta có thể nhìn thấy trước điều đó để dịch chuyển dòng tiền hoặc tái cơ cấu lại danh mục đầu tư ? Trong phân tích cơ bản, điều đó phụ thuộc vào phần lớn các chỉ số kinh tế và cách mà chúng ta hiểu và đọc được cách mà nó ảnh hưởng tới kinh tế ra sao.
Chỉ số kinh tế là con số đo lường sức khỏe của nền kinh tế, giống như cơ thể con người muốn biết có ổn không thì phải thông qua các xét nghiệm máu ấy. Những chỉ số chính mà chúng ta sẽ tìm hiểu hôm nay:
1: CPI chỉ số giá tiêu dùng dùng để đo lạm phát. Được đo bằng cách tính mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ cơ bản mà người dân thường mua, như gạo, xăng, điện, quần áo. Nếu CPI tăng, nghĩa là giá cả leo thang, tiền mất giá. Các cơ quan thống kê như Tổng cục Thống kê Việt Nam, Cục Thống kê Lao động Mỹ khảo sát giá của các mặt hàng mỗi tháng, rồi tính trung bình theo công thức. Còn công thức là gì thì anh em tra trên google chứ mình không nhớ.
2: PMI chỉ số quản lý mua hàng dùng để đo sức khỏe của ngành sản xuất, cho biết nhà máy có bận rộn hay ế ẩm. PMI trên 50 nghĩa là sản xuất tăng, dưới 50 là co lại. Cũng tương tự như CPI, PMI được Viện Cung Ứng khảo sát và thống kê các thông số như việc làm, đơn hàng mới, sản lượng, tồn kho, rồi tính theo công thức của họ để cho ra kết quả từ 0-100
Điều đó có nghĩ là trên 50 thì là mạnh nhưng dưới 50 thì là yếu, tuy nhiên chỉ số này là đại diện của nên kinh tế, không đại diện cho 1 ngành hay 1 nhóm ngành công nghiệp hay 1 công ty cụ thể nào. Nên việc PMI dưới 50 nhưng 1 vài nhóm ngành vẫn tăng trưởng là chuyện hết sức bình thường.
Tiếp tục trở lại năm 2022, khi thị trường tài chính Việt Nam chao đảo vì chiến tranh Nga-Ukraine. Giá dầu Brent tăng từ 80 lên 110 USD/thùng, vì đứt nguồn cung như đã nói ở những bài trước, giá dầu trực tiếp đẩy lạm phát toàn cầu lên 8%. CPI Mỹ chạm 7%, cao nhất 40 năm, khiến FED buộc phải tăng lãi suất từ 0,25% lên 4,5% để kiềm chế lạm phát. Dòng tiền ngay lập tức rút khỏi các thị trường mới nổi để quay trở về Mỹ nhằm hưởng mức lãi suất hấp dẫn, làm VN-Index giảm 20%, từ 1.500 xuống 1.200 điểm.
Nhóm cổ phiếu công nghệ là nhóm giảm đầu tiên với mức giảm 15%, vì lo kinh tế chậm. Nhóm tiêu dùng thiết yếu giảm nhẹ 5%, nhờ nhu cầu thực phẩm ổn định vì dù có lạm phát thì không thể để bụng đói được,
Vàng tăng từ 60 lên 70 triệu đồng/lượng, vì dân tìm nơi trú ẩn do ngại NHNN sẽ vào chu kỳ tăng lãi suất để tạo sức hấp dẫn cho VND tránh cho việc USD bị rút đi quá nhiều, hạn chế tăng trưởng lạm phát….v.v(cái này đã nói ở nhiều bài trước nên ở đây mình không nhắc lại nữa).
Crypto như Bitcoin rớt từ 60.000 xuống 27.000 USD, lỗ 55%, vì lãi suất cao, tầm này lo cho cái mồm và giữ công việc còn khó chứ nói gì đến việc đâm đầu vào các trò chơi rủi ro.
Vậy nên nếu anh em thấy CPI Mỹ 7% thÌ có thể dự đoán sớm muộn gì FED cũng quay trở lại với chu kỳ tăng lãi suất, thì việc mua vàng, tránh cổ phiếu công nghệ và crypto là những điều cần thiết.
Đến năm 2023, kinh tế Việt Nam lấy lại đà tăng trưởng. PMI nhảy lên 52, cho thấy nhà máy bận rộn, nhờ hiệp định RCEP và FDI từ Nhật, Hàn đạt 28,5 tỷ USD. Đơn đặt hàng sản xuất bền vững ở Mỹ tăng 5%, báo hiệu nhu cầu công nghệ và thiết bị tăng. Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất từ 6% xuống 5,5%, kích thích mua bán. Dòng tiền quay lại cổ phiếu và bất động sản công nghiệp. VN-Index lên 1.100 điểm, nhóm cổ phiếu công nghệ tăng 20%, nhờ nhu cầu AI. Nhóm tiêu dùng thiết yếu tăng 10%, do tiêu dùng nội địa phục hồi. Vàng ổn ở 70 triệu đồng/lượng vì các tác động địa chính trị thế giới vẫn làm tăng nhu cầu nắm giữ vàng.
Sự kiện địa chính trị như là công tắc dịch chuyển dòng tiền. Căng thẳng Mỹ-Trung năm 2023 chuyển FDI vào Việt Nam, làm bất động sản khu công nghiệp và cổ phiếu công nghệ tăng. Nhưng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang năm 2025, chuỗi cung ứng chip gián đoạn, nhóm công nghệ có thể sẽ giảm đầu tiên. Bằng chứng là apple mất 700 triệu đô từ các lệnh cấm thuế quan của Trump, buộc phải dịch chuyển hàng trăm tấn Iphone từ Ấn Độ về Mỹ để nhanh chóng né thuế và đáp ứng kịp nhu cầu thị trường.
Việc đọc và hiểu được các chỉ số kinh tế giúp anh em dự đoán được phần nào phản ứng của thị trường và điều chỉnh danh mục đầu tư hợp lý. Và quan trọng nhất là hạ rủi ro đòn bẩy tài chính lớn.
0 notes
Text
Ngày 14: Chu kỳ kinh tế - Khi nào nên tham lam và tháo chạy
Hãy tưởng tượng nền kinh tế như một vòng tròn, lặp đi lặp lại qua bốn giai đoạn: mở rộng, đỉnh, suy thoái, và phục hồi. Trong giai đoạn mở rộng, mọi thứ đều rực rỡ: GDP tăng, việc làm nhiều, nhà máy xí nghiệp chạy hết công suất, và VN-Index bay cao, nhà nhà có GLC trả góp, game tài chính đa cấp như kiểu lan var, gamefi bùng nổ khắp nơi.
Đến giai đoạn mọi thứ đạt đỉnh điểm, cũng là lúc lạm phát bắt đầu nhen nhóm. Rồi suy thoái đến, như một cú đấm: GDP giảm, công nhân mất việc, VN-Index lao dốc, và dòng tiền chạy khỏi cổ phiếu để tìm nơi trú ẩn như vàng. Cuối cùng, phục hồi là khi mọi thứ dần ổn định, chính phủ bơm tiền, tiền rẻ ở khắp mọi nơi với mức lãi suất hấp dẫn, các nhà đầu tư thông minh bắt đầu gom hàng giá rẻ. Hiểu bốn giai đoạn này, anh em sẽ biết khi nào nên mua cổ phiếu FPT, khi nào giữ trái phiếu chính phủ, hay khi nào đổ tiền vào đất Thủ Đức.
Ngược dòng thời gian 1 lần nữa, quay về giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008, một ví dụ điển hình về chu kỳ kinh tế. Trước năm 2008, kinh tế toàn cầu ở giai đoạn mở rộng: GDP Mỹ tăng 3-4% mỗi năm, Việt Nam đạt 6,3% năm 2007, xuất khẩu dệt may và cà phê sang Mỹ, EU bùng nổ. VN-Index đạt mức 900 điểm, bất động sản HCM đụng vào nóng bỏng tay, giá đất quận 7 tăng 50% chỉ trong một năm. Đây là lúc nhà đầu tư đổ tiền vào cổ phiếu Vinamilk, MWG, hay đất nền, vì tầm này cứ múc là ăn mà, có phải suy nghĩ phân tích gì đâu. Nhưng đến cuối 2007, kinh tế Mỹ chạm đỉnh, bong bóng nhà đất phình to, và dấu hiệu lạm phát xuất hiện khi giá dầu Brent chạm 90 USD/thùng. Nhà đầu tư thông thái bắt đầu chuyển từ cổ phiếu sang vàng hoặc trái phiếu chính phủ, vì họ nghe trong gió có mùi khủng hoảng.
Và tất nhiên rồi, suy thoái ập đến năm 2008, khi Lehman Brothers phá sản, kéo S&P 500 giảm 57% và VN-Index sụp từ 900 xuống 300 điểm, mất 67%. Xuất khẩu dệt may Việt Nam giảm 10%, từ 62,7 tỷ USD xuống 56,4 tỷ USD, vì Mỹ và EU cắt đơn hàng. Các công ty xí nghiệp lớn phải xa thải hàng trăm nghìn công nhân, thất nghiệp đô thị tăng lên 4,6%. Lạm phát Việt Nam vọt lên 19,8% do chính phủ in tiền cứu kinh tế. Đây là giai đoạn tồi tệ nhất để giữ cổ phiếu hay bất động sản, vì giá đất quận 7 giảm 30% và thị trường chứng khoán gần như đóng băng. Giá vàng được dịp bay tốc nóc, SJC tăng từ 18 triệu đồng/lượng lên 25 triệu đồng/lượng. Những nhà đầu tư nhìn nhận được những dấu hiệu rủi ro sắp tới, nhanh chóng chuyển dòng tiền sang vàng hoặc trái phiếu chính phủ đã bảo vệ được vốn, thậm chí có lời.
Đến năm 2010, kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi. Chính phủ Việt Nam tung gói kích thích 145 nghìn tỷ VND, giảm lãi suất từ 14% xuống 10%, giúp doanh nghiệp như Vinatex mở lại nhà máy. VN-Index hồi phục từ 300 lên 500 điểm, bất động sản quận 7 tăng giá trở lại 20%. Xuất khẩu cà phê sang Đức tăng 10%, nhờ các hiệp định thương mại mới. Đây là lúc nhà đầu tư thông minh bắt đầu mua cổ phiếu giá rẻ, hay đất nền giá thấp. Kết quả như nào thì anh em cũng thấy rồi đấy, VN-Index đạt đỉnh mới vào năm 2017, cùng với sự bùng nổ của Crypto dư âm của sự thịnh vượng kéo dài nhiều năm sau đó.
Nhưng câu hỏi quan trọng nhất là: làm sao để chúng ta biết mình đang ở giai đoạn nào và nên làm gì? Câu trả lời là hãy nhìn vào các tín hiệu kinh tế.
Trong giai đoạn kinh tế mở rộng, GDP tăng, PMI trên 50, các chính sách hỗ trợ nền kinh tế được tung ra, chính phủ đẩy mạnh đầu tư công, ký kết nhiều hiệp định thương mại hỗ trợ kinh tế, cổ phiếu và bất động sản thường là lựa chọn tốt.
Khi kinh tế đạt đỉnh, một gia đình hàng xóm cơ bản bỗng 1 ngày đẹp trời thấy họ chạy 1 chiếc GLC mới toanh, đó là dấu hiệu của kinh tế đã đạt đỉnh. Hãy giảm tỷ trọng cổ phiếu, tăng vàng hoặc trái phiếu.
Trong suy thoái, thất nghiệp tăng, VN-Index giảm mạnh, vàng và tiền mặt là vua.
Giai đoạn phục hồi, lãi suất giảm, FDI tăng, hãy mua cổ phiếu giá rẻ và bất động sản tiềm năng. Ví dụ, nếu năm 2025, PMI Việt Nam dưới 50 và giá dầu tăng do bất ổn Trung Đông, đó là dấu hiệu suy thoái hãy giữ vàng. Ngược lại, nếu NHNN giảm lãi suất và FDI tăng, đó là dấu hiệu cho sự phục hồi.
Phân bổ tài sản ở mức phù hợp, và lựa chọn đòn bẩy tài chính hợp lý sẽ giúp bạn sống sót qua chu kỳ khủng hoảng. Nếu các bạn giữ 50% cổ phiếu, 30% trái phiếu, 20% vàng, thì trong suy thoái, hãy tăng vàng lên 30% và giảm cổ phiếu xuống 40%.
Trong phục hồi, làm ngược lại: tăng cổ phiếu lên 60%, giảm vàng xuống 10%.
Hiểu chu kỳ giúp anh em điều chỉnh danh mục linh hoạt, tối ưu lợi nhuận.
Nếu VN-Index giảm 10% tuần sau, dựa vào các sự kiện đang xảy ra, anh em sẽ bán cổ phiếu hay mua thêm vàng ?
0 notes
Text
Ngày 13: Vì sao khủng hoảng tài chính ở tận Mỹ lại có thể ảnh hưởng tới Việt Nam ?
Hôm nay chúng ta bước sang ngày 13 trong series 25 ngày khám phá kinh tế, và chủ đề lần này như tiêu đề, là khủng hoảng tài chính.
Nếu ở những bài trước, anh em đã thấy cảnh VN-Index lao dốc khi nhà đầu tư hoảng loạn hay dòng tiền chạy từ chứng khoán sang vàng trong lúc bất ổn, thì hôm nay, chúng ta sẽ đào sâu vào lý do tại sao cả một hệ thống kinh tế có thể sụp đổ, kéo theo GDP, việc làm, và thương mại quốc tế đi xuống.
Khủng hoảng tài chính không chỉ là mấy con số khô khan trên báo, mà là thứ có thể thay đổi cuộc sống của hàng triệu người, nó vẫn luôn hiện diện và như chực chờ để xuất hiện bất cứ thời điểm nào trong cuộc sống của chúng ta, mà thường là nó sẽ xuất hiện vào cái lúc chúng ta khốn khổ khốn nạn nhất.
Vậy nó là gì, bắt đầu từ đâu ?
Trước hết, hãy tưởng tượng khủng hoảng tài chính như một cơn đau tim của nền kinh tế. Khi hệ thống tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản mất thanh khoản hay sụp đổ, dòng tiền ngưng chảy, niềm tin biến mất, và mọi thứ tê liệt. Nó thường khởi nguồn từ những dấu hiệu nhỏ mà ít ai để ý, như giá nhà tăng phi mã hay sự gia tăng của các khoản vay tín dụng với mục đích đầu tư mạo hiểm, nhu cầu sử dụng đòn bẩy tài chính lớn.
Điều đáng sợ hơn là trong thế giới toàn cầu hóa, một trận bão ở Mỹ có thể gây sóng thần ở Việt Nam qua những sợi dây thương mại và tài chính vô hình nhưng chặt chẽ. Anh em thử nghĩ xem, nếu một ngày Vietcombank phá sản, tiền tiết kiệm không rút được, doanh nghiệp không vay được vốn, nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc thì đó chính là khủng hoảng tài chính, tất nhiên nó chỉ là ví dụ, chứ chả cần Vietcombank phá sản thì khủng hoảng tài chính nó cũng sẽ kéo tới. Để hiểu rõ về nó và mức độ ảnh hưởng, chúng ta sẽ cùng phân tích 1 ví dụ về khủng hoảng tài chính trong quá khứ.
Ngược dòng thời gian quay lại năm 2008, thời điểm thế giới đối mặt với một trong những cuộc khủng hoảng lớn nhất lịch sử. Mọi chuyện bắt đầu từ Mỹ, nơi bong bóng nhà đất phình to trong những năm đầu 2000. Sau khi bong bóng dot-com vỡ, FED giảm lãi suất từ 6,5% xuống còn 1% để kích thích kinh tế. Lãi suất thấp khiến người dân đổ xô vay tiền mua nhà, và các ngân hàng như Lehman Brothers cho vay thế chấp dễ dãi, thậm chí cho cả những người thu nhập thấp, không đủ khả năng trả nợ một gói vay tên Subprime với mức lãi suất cao hơn thông thường. Dĩ nhiên là với lượng cung tiền tăng một cách đột biến và nhiều như thế, điều đó khiến giá nhà ở Mỹ tăng vọt 80% chỉ trong vòng 5 năm, tạo nên một bong bóng bất động sản khổng lồ.
Nhưng các ngân hàng không dừng lại ở đó. Họ gói các khoản vay subprime này thành sản phẩm tài chính phức tạp, gọi là chứng khoán thế chấp, hay MBS, rồi bán cho nhà đầu tư khắp thế giới, từ châu Âu đến châu Á (hoặc hiểu đơn giản nó giống như 1 kiểu bán nợ nhưng là nợ có thế chấp ấy). Các cơ quan xếp hạng như Moody’s đánh giá sai lầm rằng mấy thứ này an toàn, thế là hàng nghìn tỷ USD đổ vào.
Rồi chuyện gì đến cũng đến. Năm 2007 bong bóng vỡ. Người vay subprime không trả được nợ, giá nhà sụt 30%, ngân hàng lỗ hàng trăm tỷ USD. Đỉnh điểm là tháng 9 năm 2008, khi Lehman Brothers tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ USD.
Sự kiện này như phát súng khởi đầu cho khủng hoảng toàn cầu. Niềm tin vào hệ thống tài chính tan biến, nhà đầu tư hoảng loạn bán tháo cổ phiếu, chỉ số S&P 500 của Mỹ cắm đầu chia đôi từ 1.500 điểm xuống còn 700 điểm. Ngân hàng dĩ nhiên là sợ xanh mang nên buộc phải ngừng cho vay, doanh nghiệp vay không được thì lại cạn vốn, vốn không có thì lại buộc phải cắt giảm nhân sự, hàng trăm nghìn người Mỹ mất việc vào thời điểm đó. Với lo ngại sự sụp đổ này sẽ lan rộng, người dân Mỹ rút tiền gửi hàng loạt, đẩy nhiều ngân hàng khác đến bờ vực. Vì như anh em có thể đã biết, các khoản tiền gửi khi chúng ta đưa vào ngân hàng nó vốn không nằm ở đó, mà họ đã mang đi cho vay và đầu tư hết, chỉ giữ lại 1 phần nhỏ ký quỹ để dành cho những khách có nhu cầu rút tiền. Khủng hoảng Mỹ chưa đủ nó lan tận sang châu Âu, nơi ngân hàng Đức và Pháp mất 200 tỷ USD từ MBS, và dĩ nhiên châu Á thoát làm sao được.
Việt Nam là một nền kinh tế mở với xuất khẩu chiếm 70% GDP năm 2008, Việt Nam không thể đứng ngoài cơn bão này. Mỹ và EU, hai thị trường chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu của ta, giảm mạnh đơn hàng dệt may, giày dép, thủy sản tới 15%. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 10%, từ 62,7 tỷ USD năm 2007 xuống 56,4 tỷ USD năm 2008. Doanh nghiệp như Vinatex phải cắt giảm 50.000 lao động, khiến tỷ lệ thất nghiệp đô thị nhích lên 4,6%.
Và cũng như các quốc gia khác, doanh nghiệp mà làm ăn không được thì VN-index cũng không khá khẩm hơn là bao. VN-Index tụt từ 900 điểm xuống 300 điểm, mất 67% giá trị. Nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu rồi đổ tiền mua vàng, đẩy giá vàng trong nước từ 18 triệu đồng/lượng lên 25 triệu đồng/lượng. GDP của Việt Nam, dù không suy thoái, cũng chậm lại từ 6,3% năm 2007 xuống 5,3% năm 2008 mức thấp nhất trong thập kỷ.
Trước tình hình đó, chính phủ tung gói kích thích kinh tế 145 nghìn tỷ VND, tương đương 8 tỷ USD để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Thuế VAT được giảm từ 10% xuống 5% cho các ngành như dệt may, thủy sản, và cho phép hộ kinh doanh ở chợ Bến Thành vay vốn lãi suất 0%. Đồng thời, chính phủ chi 50 nghìn tỷ VND vào hạ tầng như cầu Nhật Tân, cảng Lạch Huyện, tạo 100.000 việc làm mới. Ngân hàng Nhà nước thì giảm lãi suất từ 14% xuống 10%, giúp doanh nghiệp vay vốn giá rẻ để duy trì sản xuất, đồng thời bơm 20 nghìn tỷ VND vào hệ thống ngân hàng để đảm bảo thanh khoản, tránh cảnh phá sản như Lehman Brothers. Để giảm phụ thuộc vào Mỹ và EU, chính phủ đẩy mạnh xuất khẩu sang ASEAN và Trung Quốc, nhờ đó cà phê sang Nhật Bản tăng 10%, và Vinacafe cũng ký được hợp đồng 500 triệu USD với Đức. Thế cho nên các ông làm ăn kinh doanh được, thậm chí xuất được hàng đi nước ngoài, hay ký kết được hợp đồng lớn xuyên quốc gia, đừng nghĩ là mình giỏi mà là nhờ chính phủ đi ngoại giao đấy.
Nhưng như những bài viết trước, chúng ta đã thấy hệ quả của việc in tiền kích thích kinh tế, trường hợp này thì lạm phát được đẩy lên 19,8%, buộc Ngân hàng Nhà nước siết cung tiền vào cuối năm 2008. Chính phủ cũng trợ giá thực phẩm, xăng dầu, giữ giá xăng ở 15.000 VND/lít dù giá dầu thế giới tăng 20%. Nhờ các biện pháp kịp thời, Việt Nam tránh được suy thoái, giữ GDP tăng trưởng 5,3% cao hơn mức trung bình toàn cầu là -2%. Thất nghiệp được kiểm soát ở 4,6%, thấp hơn nhiều so với Mỹ là 10%, và xuất khẩu phục hồi năm 2009, đạt 62 tỷ USD.
Qua ví dụ này anh em có thể đã hình dung vì sao những biến động từ tận nước Mỹ xa xôi, cách chung ta tận bên kia bán cầu, thế mà bằng cách nào đấy vẫn ảnh hưởng được tới túi tiền của mình.
0 notes
Text
Ngày 12: Cán cân thương mại có ảnh hưởng thế nào đến nền kinh tế.
Nếu ở những ngày trước, chúng ta đã thấy xuất khẩu giúp tăng GDP, hay giá dầu và gạo ảnh hưởng xuất khẩu, thì hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao Việt Nam giàu lên nhờ xuất khẩu dệt may, cà phê, nhưng cũng dễ tổn thương khi nhập khẩu xăng dầu. Thương mại quốc tế hay cán cân thương mại là câu chuyện về xuất khẩu, nhập khẩu, và tác động trực tiếp đến GDP điều đó gián tiêp gây ra các cuộc chiến tranh thương mại trong quá khứ và tương lai.
Vậy đầu tiên chúng ta cần hiểu, thương mại quốc tế là gì?
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia, bao gồm:
1: Xuất khẩu - tức là bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ ra nước ngoài. Ví dụ như thực phẩm - may mặc - điện tử là xuất khẩu hàng hoá, hoặc du lịch - vận tải - bưu chính - viễn thông là xuất khẩu dịch vụ
2: Nhập khẩu thì ngược lại - tức là mua hàng hoá hoặc dịch vụ từ nước ngoài
3: Cán cân thương mại: Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Nếu xuất khẩu > nhập khẩu, gọi là xuất siêu; ngược lại là nhập siêu.
Trong bài viết “Dùng thuế quan để lệnh chư hầu” tôi đã từng nói sơ về khái niệm chênh lệch cán cân thương mại, và nó cũng là lý do chính khiến cho Trump khơi mào chiến tranh thương mại khắp nơi như hiện tại.
Chúng ta đã biết nó là gì thế thì nó ảnh hưởng tới kinh tế như thế nào ?
1:Xuất khẩu tăng làm GDP tăng, nhập khẩu tăng có thể giảm GDP nếu không kiểm soát. Lý do thì các bạn có thể xem lại bài ngày 4 “GDP sức khoẻ của nền kinh tế”
2: Nhập khẩu nhiều có thể gây lạm phát, việc thiếu USD để chi trả mạnh cho việc nhập khẩu lượng lớn hàng hoá có thể khiến tỷ giá VND/USD bị đẩy lên quá cao. Bạn cũng có thể đọc thêm về điều này ở bài Ngày 3: Lạm phát – Vì sao VND lại có mệnh giá lớn ?
và 1 vài lý do khác như xuất khẩu giúp thu hút dòng vốn đầu tư, vì điều đó thể hiện Việt Nam là một thị trường tiềm năng cho đầu tư và sản xuất, xuất khẩu mạnh cũng giúp đẩy mạnh cơ hội việc làm hơn, hãy tưởng tượng sẽ ra sao nếu toàn bộ thực phẩm bạn sử dụng đều là hàng hoá nhập khẩu, có nghĩa là đâu đó ngoài kia sẽ có hàng trăm nghìn thậm chí hàng triệu người thất nghiệp.
Nếu điều này chưa đủ khiến cho bạn hình dung thì chúng ta có thể phân tích ví dụ sau.
Năm 2022, thế giới chao đảo vì chiến tranh Nga-Ukraine, làm giá dầu và hàng hóa tăng chóng mặt. Việt Nam thời điểm đó vẫn là một nền kinh tế mở phụ thuộc lớn vào thương mại quốc tế, với xuất khẩu chiếm 90% GDP và nhập khẩu xăng dầu chiếm hơn 80% nhu cầu. Nga, nhà xuất khẩu dầu lớn thứ hai thế giới, bị phương Tây cấm vận do chiến tranh. Ukraine, cửa ngõ vận chuyển dầu Nga sang EU, bị phong tỏa. Nguồn cung dầu toàn cầu giảm 5%, trong khi nhu cầu phục hồi sau COVID-19. Kết quả cầu tăng cung giảm - giá dầu Brent tăng 37,5%, từ 80 USD/thùng lên 110 USD/thùng.
Giá gạo, lúa mì tăng 10-15% do Nga và Ukraine chiếm 25% xuất khẩu lúa mì toàn cầu. Giá phân bón tăng 20% vì Nga là nhà cung cấp lớn. Điều này làm chi phí sản xuất nông nghiệp và công nghiệp toàn cầu tăng mạnh. Chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, chi phí vận chuyển container từ châu Á sang EU tăng 30%. Các nước như Mỹ, EU giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhưng nhu cầu dệt may, điện tử từ Việt Nam vẫn cao nhờ các hiệp định thương mại tự do điều đó khiến cho xuất khẩu Việt Nam thời điểm đó có các bước chuyển mình lớn như.
Xuất khẩu dệt may, giày dép sang Mỹ, EU đạt 23 tỷ USD, tăng 20%. Hiệp định EVFTA giúp miễn thuế 70% hàng dệt may giúp nhà máy Vinatex nhận thêm đơn hàng từ H&M, Zara, thuê thêm 10.000 lao động. Công nhân may ở Đồng Nai tăng lương 10%. Tác động trực tiếp tới GDP thời điểm đó..
Hay như giá gạo tăng 10% do nguồn cung toàn cầu giảm, Việt Nam xuất khẩu 7,5 triệu tấn gạo và cà phê đạt 4 tỷ USD, tăng gần 15% mỗi loại so với cùng kỳ. Thậm chí thời điểm đó nhiều doanh nghiệp cà phê EU vì đứt nguồn cung nên đã tăng cường nhập khẩu cà phê rang xay Việt Nam, về thay đổi nhãn mác và bán ra thị trường dưới tên của họ. Và rất nhiều ngành nghề đạt được các thành tựu đột phá lớn khác.
Cùng với việc kiểm soát nhập khẩu như tăng nhập máy móc thiết bị để sản xuất, nhưng giảm nhập hàng tiêu dùng xa xỉ như ô tô và rượu điều này giúp cân bằng cán cân thương mại nhưng vẫn tạo đưởng ảnh hưởng tốt lên ngành sản xuất. Ngoại trừ xăng dầu vì nhu cầu nhập khẩu dầu quá cao, khiến cho giá dầu tăng 60% vẫn phải nhập.
Kết quả thời điểm đó:
1: Xuất khẩu chiếm 90% GDP, giúp Việt Nam đạt tăng trưởng 8,02%, cao nhất ASEAN . Tạo thêm 200.000 việc làm trong dệt may, nông nghiệp, điện tử, giữ thất nghiệp đô thị ở 2,8%.
2: Xuất siêu hút vốn FDI 27,7 tỷ USD vào khu công nghiệp, đẩy VN-Index từ 1.200 lên 1.300 điểm. Thu hút dòng vốn ngoại tế khiến tỷ giá VND ổn định quanh mức 23.500 dù áp lực giá cả nhập dầu tăng cao.
Tuy nhiên vì giá xăng dầu tăng mạnh nên dù xuất khẩu có tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng trưởng GDP, nhưng những hệ quả đến từ việc giá dầu quá cao là không thể tránh khỏi như lạm phát. Việc giá xăng dầu tăng cao kéo theo chi phí vận chuyển hàng hoá tăng mạnh, giá thành thực phẩm tăng 5-7% khiến lạm phát có thời điểm đạt mức 3.37%
Lạm phát cao khiến nhiều nhà đầu tư lo ngại về khủng hoảng, dòng tiền bị rút khỏi VN-Index chảy tiết kiệm để hưởng mức lãi suất ưu đãi, và Vàng. Giá vàng hiện tại như nào thì các bạn cũng đã biết rồi.
Các chính sách thời điểm đó mà chính phủ đã ban hành để kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng có thể kể đến như.
1: Ban hành gói 20 nghìn tỷ VND, giảm thuế VAT xăng dầu từ 10% xuống 8%, giảm thuế môi trường, góp phần giúp giá xăng dầu hạ nhiệt, giảm áp lực lên các mặt hàng thiết yếu.
2: NHNN tăng lãi suất từ 4,5% lên 6%. với những mục đích như thu hút tiền gửi từ vàng và USD về ngân hàng để giảm áp lực lên tỷ giá. Tạo sự hấp dẫn cho đồng VND để ngăn dòng tiền chảy ra nước ngoài, giữ dự trữ ngoại hối ở mức 90 tỷ USD.
3: Thông qua các hiệp định về thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp lớn ký các hợp đồng tỷ đô để tăng cường xuất khẩu. Và kiểm soát nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng.
Kết quả thì như anh em đã thấy. GLC trả góp chạy đầy đường.
Qua ví dụ trên chúng ta có thể thấy thương mại quốc tế là động lực tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng mang rủi ro. Xuất siêu 11,2 tỷ USD, giúp GDP tăng 8,02%, tạo việc làm, hút FDI, nhưng nhập khẩu dầu với giá cao đẩy lạm phát lên 3,37%. Chính phủ giảm thuế xăng dầu, NHNN tăng lãi suất để kiềm lạm phát, ổn định tỷ giá, nhưng làm tăng trưởng chậm lại. Tất cả những điều này là những hình thái thường xuyên sảy ra ở tất cả các thời điểm của n��n kinh tế, vậy anh em đã rút ra được bài học gì chưa ?
0 notes
Text
Ngày 11: Vì sao dòng tiền đầu tư lại chảy từ vàng sang chứng khoán, bất động sản hay thậm chí là Crypto ?
Hôm nay chúng ta sẽ đến với khái niệm cốt lõi của nền kinh tế “dòng tiền”, nếu như ở những bài trước chúng ta đã thấy VN-Index tăng giảm theo tâm lý thị trường, cách mà chính phủ điều chỉnh nền kinh tế, từ lãi suất tới tăng cung tiền hay thậm chí bán USD. Vậy nhưng điều đó ảnh hưởng thế nào tới dòng tiền trong nền kinh tế ?
Đầu tiên là về mặt khái niệm, dòng tiền là sự di chuyển của tiền giữa các kênh đầu tư khác nhau. Những kênh chúng ta có thể đã biết tới như chứng khoán, bất động sản, ngoại hối, vàng, giao dịch hàng hoá, trái phiếu và gửi ngân hàng. Sự dịch chuyển dòng tiền này được thúc đẩy bằng nhiều lý do, có thể là vì tâm lý nhà đầu tư trước những diễn biến địa chính trị, về các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, khủng hoảng tài chính và rất nhiều những lý do khác.
Sự dịch chuyển dòng tiền có thể trực tiếp ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, giá vàng, giá bất động sản, tỷ giá, GDP hay thậm chí là lạm phát. Tuy nhiên hãy hình dung các kênh đầu tư tài chính như những bình chứa nước thông nhau, dòng tiền chính là lượng nước luân phiên di chuyển qua các bình.
Ví dụ khi tiền rẻ (tức lạm phát cao) và khủng hoảng kinh tế ập tới, bạn nhận ra thị trường chứng khoán đang là thời điểm vàng để đầu tư với hàng loạt những công ty đang được định giá thấp hơn giá trị thật, bạn rút tiền chốt lời số vàng và USD đã từng mua được ở giá thấp, thời điểm bạn mua vàng chỉ loanh quanh 60tr/lượng và USD chỉ loanh quanh 25300đ/USD. Bạn mang tất cả số tiền rẻ đó đổ vào chứng khoán điều đấy góp phần làm VN-Index tăng trưởng và giá vàng có phần hạ nhiệt. Sau đó bạn tiếp tục thanh khoản chốt lời số cổ phiếu đã mua chuyển sang đầu tư BDS vì nhận thấy tiềm năng phân lô bán nền chưa được khai phá. Sự dịch chuyển dòng tiền này tiếp tục góp phần đẩy VN Index cắm đầu và BDS tăng phi mã. Khi BDS trở nên tăng quá cao, dấu hiệu lạm phát bắt đầu nhen nhóm, bạn cảm thấy BDS nhiều khả năng sẽ trở thành kênh đầu tư khó thanh khoản, ngân hàng có ý định siết chặt cho vay và hướng dần tới việc nâng lãi suất. Bạn nhanh chóng chốt lời số BDS đã đầu tư và chuyển hết tiền vào gửi tiết kiệm ngân hàng để hưởng mức lãi suất hấp dẫn.
Ôi bạn đầu tư thật là đẳng cấp, toàn mua được đáy bán ngay đúng đỉnh, nhưng đầu tư làm gì có chuyện thơm bơ như thế, rất nhiều những biến số có thể xảy ra khiến thời gian và số vốn đầu tư của bạn có thể thu hẹp hoặc nhỏ đi nhiều hơn so với dự tính. Nên vẫn phải nhắc lại quản lý vốn và tính thanh khoản là yếu tố quyết định cốt lõi đến sự sống còn trong đầu tư.
Nếu bạn vẫn chưa tưởng tượng ra thì ví dụ thực tế tới đây có lẽ sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn.
Nhân dịp Nga duyệt binh kỷ niệm 80 năm ngày chiến thắng chúng ta làm tí phân tích về dòng tiền giai đoạn chiến tranh Nga - Ukraine nhé.
Năm 2022, chiến tranh Nga-Ukraine nổ ra, làm rung chuyển thị trường toàn cầu, đặc biệt là giá dầu thứ mà Việt Nam phụ thuộc nặng nề. Trước khi chiến tranh nổ ra, Nga là nhà xuất khẩu dầu lớn thứ hai thế giới, cung cấp khoảng 12% dầu thô toàn cầu. Khi chiến tranh bùng nổ, phương Tây áp đặt cấm vận, làm Nga giảm xuất khẩu dầu. Đồng thời, Ukraine cửa ngõ vận chuyển dầu từ Nga sang châu Âu bị phong toả, kết quả là nguồn cung dầu toàn cầu giảm 5%. Đấy là thời điểm cái meme Putin kể câu chuyện châu Âu trừng phạt nước Nga bằng cách để cho dân châu Âu phát rét trở nên viral.
Cùng lúc đó, nhu cầu dầu toàn cầu đang phục hồi sau COVID-19. Với cung giảm mà cầu không đổi, giá dầu Brent nhảy từ 80 USD/thùng lên 110 USD/thùng (tăng 37,5%) chỉ trong vài tháng. Việt Nam nhập khẩu 70% xăng dầu từ nước ngoài. Giá dầu tăng kéo giá xăng RON95 trong nước từ 25.000 lên 30.000 VND/lít, từ di chuyển, vận chuyển, hàng hoá, khi xăng tăng mọi thứ đều tăng phi mã.
Khi mọi thứ tăng kéo theo chi phí sinh hoạt tăng cao, dẫn tới chỉ số CPI cũng tăng tốc mái, và dĩ nhiên lạm phát nhen nhóm quay trở lại.
Khi lạm phát tăng, nhà đầu tư lo ngại kinh tế sẽ chậm lại. Họ bắt đầu điều chỉnh hành vi, khiến dòng tiền dịch chuyển mạnh mẽ, họ bán tháo cổ phiếu và dịch chuyển tài sản vào vàng với quan điểm đây là kênh trú ẩn tài chính. Tất nhiên là trong bối cảnh địa chính trị như thế, lạm phát nhen nhóm trở lại, doanh nghiệp làm ăn khó khăn và nhiều khả năng sẽ trở lại với chu kỳ tăng lãi suất, thì việc dịch chuyển các tài sản có mức rủi ro cao như chứng khoán về với Vàng là quyết định hợp lý. Một phần dòng tiền thời điểm đó được dịch chuyển vào gửi tiết kiệm để hưởng mới lãi suất hấp dẫn 7%/ năm. Thời điểm đó giá dầu liên tục tăng, việc tăng lãi suất để thu hút tiền còn khiến đồng VND trở nên hấp dẫn hơn, tránh dòng tiền chảy vào USD để ổn định tỷ giá còn có cái mà mua dầu.
Và chuyện sau đó như anh em cũng đã biết. Chiến tranh mãi vẫn chưa hết, xã hội phải tăng nguồn cung từ nơi khác để đáp ứng chứ chờ Nga hết cấm vận có khi cả châu Âu đóng băng. Trong nguy có cơ, thời điểm đó các doanh nghiệp sản xuất viên gỗ lại ăn nên làm ra, góp phẩn giúp châu Âu qua khỏi mùa đông giá rét.
Qua bài phân tích này hy vọng anh em đã có hình dung tổng thể hơn về cách mà dòng tiền vận hành, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
0 notes
Text
Ngày 10: Nợ công - Chúng ta có thực sự gánh trên vai số nợ hơn 35tr VND ?
Chắc có lẽ không ít lần anh em đã từng đọc đâu đấy những tiêu đề kiểu như.
“Mỗi người Việt gánh hơn 36,7 triệu đồng nợ công”....v.v….vậy số tiền này đến từ đâu? Tại sao chúng ta không vay mà lại có nợ ? Chúng ta có cần thật sự phải trả số nợ này không ?
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu xem nó là gì.
Đầu tiên về mặt khái niệm, nợ công là gì ?
Nợ công là tổng các khoản vay mà CHÍNH PHỦ một quốc gia, bao gồm chính phủ trung ương và địa phương, PHẢI TRẢ. Khai niệm này được trích dẫn từ trang Thư Viện Pháp Luật, và ngay trong khái niệm cũng đã chỉ ra rõ đối tượng cần phải trả nợ. Số nợ này có thể đến từ:
1: Tiền vay trong nước ví dụ như trái phiếu chính phủ, phát hành khi chính phủ cần tiền để chi trả cho chi tiêu công, hỗ trợ kinh tế (như covid 19). Hay tiền vay ngoài nước từ các quốc gia khác hoặc các quỹ tiền tệ, ngân hàng thế giới.
2: Tiền vay bảo lãnh bởi nhà nước, là khoản vay của doanh nghiệp nhà nước ( EVN, Petrolimex) hoặc tổ chức được chính phủ chỉ định, mà chính phủ cam kết trả nợ nếu họ không trả được. Đây không phải nợ chính phủ vay trực tiếp, nhưng được tính vào nợ công vì chính phủ chịu trách nhiệm cuối cùng. Các khoản vay này thường để thực hiện dự án lớn, như đóng tàu , xây nhà máy điện , hoặc nhập xăng dầu
Những doanh nghiệp này có thể vay từ cách phát hành trái phiếu, hoặc tương tự như các doanh nghiệp khác là vay qua các ngân hàng thương mại, ngân hàng thế giới
Nếu chẳng may những doanh nghiệp này phá sản, chính phủ có nghĩa vụ đứng ra trả nợ cho các bên cho vay, bao gồm nhà đầu tư cá nhân, ngân hàng, tổ chức tài chính. Số tiền trả nợ được trích ra từ ngân sách, nên con số này được tính vào nợ công.
3: Tiền vay đến từ UBND các tỉnh thành phố vay. Và cũng tương tự như các doanh nghiệp nhà nước, UBND các tỉnh thành phố là cơ quan trực thuộc bộ máy chính phủ, nên nếu các cơ quan này không có khả năng trả nợ, chính phủ sẽ là người trả thay.
Ví dụ TPHCM từng vay 7000 tỷ thông qua phát hành trái phiếu để xây tuyến metro số 1. Số trái phiếu này được Vietcombank và nhà đầu tư mua với mức lãi suất là 7%/năm
Quay trở lại câu chuyện, chúng ta đã biết ai là người vay - vay từ đâu - và ai là người phải trả nợ. Vậy câu hỏi tiếp theo, vay để làm gì ?
Dĩ nhiên là để phục vụ nhu cầu của người dân, để chúng ta có thể hưởng một nền y tế giá rẻ, không phải chờ đợi, để xây cao tốc chạy dọc Bắc Nam, để xây trường trạm, ��iện đường kéo về buôn làng, để hỗ trợ kinh tế khi khủng hoảng tài chính, hỗ trợ các thành phố khi mưa lũ kéo tới, hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn vì covid 19….v.v..
Vậy chính phủ trả nợ cho những khoản vay này bằng cách nào ? Dĩ nhiên là bằng thuế (VAT, thuế thu nhập), doanh thu công hoặc vay nợ mới để trả nợ cũ (là đáo hạn đấy)
Quốc hội Việt Nam đặt trần nợ công ở 60% GDP, mức nợ công của Việt Nam năm 2024 được tính toán đâu đó tầm 36-37%. Thấp hơn nhiều so với mức mức ngưỡng 60% mà quốc hội đề ra. Con số này chia theo đầu người từ là mỗi người dân Việt Nam đang có mức “nợ công” là 37tr VND. Nhưng trên thực tế bạn không cần phải trả con số này 1 cách trực tiếp, mà sẽ trả thông qua thuế khi bạn mua xe hơi, khi bạn đi ăn uống, khi bạn mua xa sỉ phẩm, khi bạn có thu nhập cá nhân và những dịch vụ khác. Những thứ này là thứ bạn phải trả cho tất cả những tiện ích trong cuộc sống mà bạn đã nhận được, như giao dục, y tế, dịch vụ công.
Một số liệu nhỏ để bạn cảm thấy con số này không là gì:
Mức nợ công của Mỹ hiện tại đang loanh quanh 123-124%, vượt xa ngưỡng nợ trần là 77%
Mức nợ công trung bình của khối EU là 81%, trong đó Hy Lạp là cao nhất với 153%
Điều này cũng là một trong những lý do khiến Trump liên tục yêu cầu FED hạ lãi suất, vì với mức nợ công hiện tại, nếu lãi suất được giảm, chính phủ Mỹ sẽ dư ra rất nhiều tiền để có thể tái đầu tư và kéo dài thời hạn phải trả nợ. (mặc dù với USD thì Mỹ chỉ là nợ về mặt lý thuyết)
Vậy nên sau bài viết này, nếu có bất kỳ ai nói với bạn rằng "tôi đang gánh trên vai khoản nợ công 35trVND"
Hãy tự tin nói với họ "bạn chỉ cần đưa tôi 30tr, tôi sẽ trả giúp bạn 35tr tiền nợ công đó"
0 notes