Text
Có một Phạm Duy như thế




Có một Phạm Duy như thế
Gia tài âm nhạc của Phạm Duy để lại cho đời quả là đồ sộ. Nhiều lần, tôi có trao đổi với một số thân hữu, nhiều người đều khẳng định Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ đóng góp lớn vào nền âm nhạc nước nhà. Phạm Duy cũng đã tự bạch là âm nhạc của ông có nhiều đề tài, chủ đề như Hương ca, Bé ca, Tình ca, Đạo ca, Tục ca, Rong ca, Thiền ca… Khi nghe những bài hát theo từng chủ đề, đề tài ấy, trong tôi chợt lóe lên là hiển hiện một Phạm Duy với nhiều cung bậc khác nhau của cuộc đời.
Nghe và đọc ca từ trong các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy, tôi lại gặp một Phạm Duy thể hiện rõ tính cách có đủ 3 yếu tố Cái Nó - Bản năng có người gọi là Tự ngã (The Id), Cái Tôi – Bản Ngã (The Ego) và Siêu Tôi - Siêu Ngã (The Superego).
Cái Nó (có người gọi là Tự ngã) – Bản năng (The Id) trong lời nhạc Phạm Duy
Theo Sigmund Freud, Cái Nó chính là nguồn cung cấp libido và chi phối suốt cuộc đời con người.
Không chỉ Phạm Duy mà bất cứ ai cũng đều có libido. Mỗi người thể hiện libido bằng hình thức của riêng mình. Có người, thể hiện bằng tranh tượng; có người thể hiện bằng động tác, cử chỉ, lời nói; có người dùng âm thanh. Riêng Phạm Duy, theo tôi, libido của ông được phô bày bằng giai điệu và ca từ âm nhạc. 10 bài Tục Ca như thể hiện một phần Cái Nó của ông.
Nghe 10 bài Tục ca, hình ảnh đầu tiên mà người nghe cảm nhận là hình ảnh sinh thực khí, các bộ phận trên cơ thể con người, kể cả chuyện giao hoan được Phạm Duy đưa vào âm nhạc,
Hình ảnh sinh thực khí nữ thành lời ca, quả là điều độc, lạ trong âm nhạc. Thực ra, trong văn học dân gian, hình ảnh này đã có trong ca dao, tục ngữ hoặc truyện cười, kể cả trong văn học đương đại cũng có. Còn trong tân nhạc Việt Nam hình ảnh này quả là “sốc” với người nghe như Tục ca số 2, số7, số10.
Hoặc các bộ phận trên cơ thể con người như đầu, chân, vú, tóc, răng,… mang dục tính cũng thành lời ca. Lời ca ấy khơi dục bằng âm thanh, hình sắc như trong các bài Tục ca số 3 – Gái Lội Qua Khe (thơ Bùi Giáng), Tục ca số 6 – Mạo Hóa.
Ngoài ra, chuyện giao hoan cũng đi vào lời ca như chuyện cợt đùa. Chuyện giao hoan thành lời cho âm nhạc quả là độc. như tục ca số 5 – Khỉ Đột (phóng tác Le Gorille của Georges Brassens), hoặc Tục ca số 4 – Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi.
Theo Freud thì Cái Nó là gốc rễ của mọi nguồn năng lượng tinh thần, khiến nó trở thành thành phần chính của tính cách. Chính vì thế, Cái Nó, cái libido thành lời ca đâu chỉ là chuyện vui mà nó là phần đời của Phạm Duy.
10 bài Tục ca tuy thể hiện Cái Nó - Bản năng (có người gọi là Tự Ngã), nhưng qua đó ta thấy được một Phạm Duy sống thực với chính mình, sống hết mình với thất tình, lục dục ở chốn nhân gian.
Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong lời nhạc Phạm Duy
Tiếp đến, tôi xin đề cập đến Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong một số bài nhạc của ông. Theo tôi, những chương khúc viết về Đạo ca, Thiền ca và trường ca Hàn Mặc Tử có lời chuyển tải được cái Siêu Tôi.
Trước tiên là chương khúc Đạo ca. 10 bài Đạo ca là sự đồng cảm, tương tri, tương ngộ giữa nhạc sĩ Phạm Duy và tu sĩ Phạm Thiên Thư. Lời của Phạm Thiên Thư hòa vào trong giai điệu, âm thanh của nhạc Phạm Duy ngợi ca cái Siêu Tôi.
Cái Siêu Tôi ở đây chính là sự ngợi ca chân lý của đời sống tinh thần, ngợi ca sự ngưỡng vọng thế giới tâm linh. Đối với người Việt, cụ thể, đó là ngợi ca về tiếng chuông chùa, ngợi ca lời kinh Phật. Tiếng chuông chùa, lời kinh Phật làm bừng thức tâm linh, xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sinh, đem thái bình cho thế gian, đem an vui cho nhân loại:
Bóng đêm qua rồi, bóng đêm qua rồi
Tiếng chuông vang hồi, tiếng chuông vang hồi
Thấy trong nhân loại tiếng chuông vang hồi
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông rơi.
Nụ hoa đang ngủ, giấc êm giữa nội
Giọt sương trên lá đón đưa ánh trời
Để cho con suối vươn vai trở mình
Chùa rêu lơ lửng giữa lưng núi mờ
Đại hồng, chuông lớn đã khua tiếng ròn
Nụ cười yên tĩnh ngát hương khói trầm
Lời kinh cao ngất A Di Đà Phật
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang…
(Đạo ca 8 – Giọt Chuông Cam Lồ)
Theo Sigmund Freud, Siêu Tôi là một phần trong tính cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng mà con người tiếp nhận từ cả cha mẹ và xã hội – nó chính là cảm nhận của con người về cái đúng sai trong cuộc sống. Chẳng hạn, mẹ thương yêu con là điều đúng, là lẽ đạo hợp với tự nhiên, tạo hóa. Mẹ luôn che chở, thương yêu, hy sinh vì con là chuyện thường tình của con người. Dẫu thường tình, nhưng tình yêu ấy là vĩ đại. Phạm Duy và Phạm Thiên Thư đã kể chuyện bằng âm nhạc về một bà Mẹ, đi tìm con khắp chốn, tìm con cả bốn mùa. Thế rồi, Mẹ chết đi hóa thành Mẹ chung của nhân loại. Chính tình yêu thương con vô bờ bến đã biến tình yêu của Mẹ ôm cả trần gian. Mẹ là Quán Thế Âm chốn bụi trần:
Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hóa thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng.
(Đạo ca 4 – Quán Thế Âm)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng còn thể hiện ở sự hướng thiện, hướng về chân lý, hướng về cái đẹp vĩnh hằng. Sự hướng đến chân thiện mỹ trở thành nhu cầu tâm linh, nhu cầu của sự thức tỉnh để lột xác, hóa thân của từng chủ thể để đạt đến cõi an lạc. Chỉ có thái độ, hành xử bình đẳng, trân trọng sự sinh hóa với muôn loài mới có thể đạt đến cảnh giới an lạc, mới thấy tâm bình yên giữa nơi chốn luân hồi:
Tâm là đảo quý giữa biển luân hồi
Thần thánh đi rồi, chỉ có lòng thôi
Hiện hữu đây rồi, không ý không lời
Tôi không là Tôi, Người không là Người
Mười phương mây nổi như cánh hoa trôi
Như sóng ra khơi, như hơi gió thổi
Như mây xa vời, như bóng hạc trời
Tôi không là Tôi, Người không là Người.
(Đạo ca 9 – Chắp Tay Hoa)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng cũng được thể hiện ở lòng nhân ái. Đã là Người, thì lòng nhân ái cũng là điều giúp con người trở thành Người đúng nghĩa. Tục ngữ Việt Nam có câu “Thương người như thể thương thân”. Đó cũng là ý nguyện lớn đâu chỉ cho riêng ai. Thử tưởng tượng cảnh đời như thế nào khi có ý nguyện ấy được cất lên bằng lời ca tự cõi lòng:
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân!
(Đạo ca 2 – Đại Nguyện)
Ngoài ra còn các bài Đạo ca 1 – Pháp Thân, Đạo ca 3 – Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng, Đạo ca 5 – Một Cành Mai, Đạo ca 6 – Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu, Đạo ca 7 – Qua Suối Mây Hồng, Đạo ca 10 – Tâm Xuân cũng hướng đến cái siêu nhiên, sự thương yêu mầu nhiệm, sự hiến dâng cho tha nhân… Điều đó, cho thấy Phạm Duy và Phạm Thiên Thư phần nào hướng đến tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng.
10 bài Đạo ca, theo tôi là sự hiệp thông của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy cùng muôn vật, muôn loài; là sự hướng đến Đại Ngã vô cùng. Đó cũng là những gì trong con người Phạm Duy, Phạm Thiên Thư chứa cái Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) muốn hòa cùng Đại Ngã. Thật là quý khi âm nhạc Việt có chương khúc như vậy.
Ngoài Đạo ca, chương khúc Thiền ca gồm có 10 bài cũng hướng đến lý tưởng và tiêu chuẩn đạo đức. Trong Thiền ca, tiêu chuẩn đạo đức lý tưởng ấy hiện rõ trong quy luật nhân quả. Đây là quy luật hầu hết mọi vật, mọi chúng sinh được (bị) chi phối. Mọi thứ đều được (bị) cuốn vào vòng tử sinh luân hồi, kể cả lời hứa:
Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều.
(Thiền ca 10 – Nhân Quả)
Bên cạnh đó, chất Siêu Tôi còn được Phạm Duy hiển lộ bằng suy nghiệm của những người hành thiền bằng âm nhạc. Có thể Phạm Duy nhìn vũ trụ này vừa chung vừa riêng, vừa trống không vừa đầy ắp sinh trùng, vừa thực vừa hư, vừa động vừa tĩnh:
Thinh không
Vắng vẻ trầm ngâm
Lặng lẽ âm thầm
Yên tĩnh vô cùng
À à a a bỗng
Rộn rã tưng bừng
Nhất nhất trùng trùng
Nhưng cũng là không…
(Thiền ca 1 – Thinh Không)
Siêu Tôi trong Thiền ca còn được Phạm Duy chọn lọc những ngôn từ, như thanh lọc tâm hồn hướng đến cái đẹp, cái vô cùng của tạo hóa:
Một loài hoa không tên
Không sắc không hương
Mà như lòng tôi
Lộng lẫy thơm lừng
Tỏa ra bốn hướng
Một ngọn suối không tên
Bé nhỏ, ngoan hiền
Mà như lòng tôi
Nổi sóng lên đường
Thành bốn trùng dương
Và lòng tôi không tên
Như suối, hoa tiên.
(Thiền ca 4 – Không Tên)
Theo S. Freud thì Siêu Tôi hành động nhằm hoàn thiện và giáo hóa hành vi của con người. Nó đè nén tất cả các ham muốn không thể chấp nhận của Cái Nó và đấu tranh để bắt Cái Tôi hành động dựa trên các chuẩn mực lý tưởng thay vì theo các nguyên tắc của thực tế. Chính vì thế, Siêu Tôi trong Thiền ca của Phạm Duy còn hiển lộ ở thái độ cợt cười thất tình, lục dục - những thứ làm khổ con người - tự răn mình chọn lọc ký ức để an nhiên, tự tại:
Nhớ ơn người
Quên thù ai
Nhớ điều buồn
Quên điều vui
Nhớ tình này
Quên tình khác
Nhớ mình rồi
Quên mình luôn
Ha ha ha
Ha ha ha!
(Thiền ca 8 – Răn)
Cũng theo S. Freud, Siêu tôi chỉ dẫn giúp con người đưa ra phán xét. Chính sự phán xét mà con người mới tự răn mình và khuyên người khác. Bội bạc, dối trá, hung dữ, hận thù đem lại gì ngoài cái chết! Rõ là Phạm Duy đưa ra phán xét để thoát được bến mê, đến được bờ sông giác:
Muốn tới được bờ sông giác
An nhiên hát nhỏ, cùng tôi
Tôi là tôi, tôi cũng là em
Em là tôi, em cũng là anh
Là Xuân con bướm hút nhụy xuân tình
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.
(Thiền ca 5 – Xuân)
Ngoài ra, các Thiền ca còn lại như Thiền ca 2 – Võng, Thiền ca 3 – Thế Thôi, Thiền ca 6 – Chiều, Thiền ca 7 – Người Tình, Thiền ca 9 – Thiên Đường Địa Ngục cũng được chắt lọc lời ca mang hơi thở, giai điệu phù hợp với chất thiền.
Với 10 bài Thiền ca, Phạm Duy suy nghiệm, làm chứng cõi thiền bằng ngôn từ âm nhạc như đưa người yêu nhạc tự lắng hồn rửa sạch những bụi trần, hướng đến cõi siêu nhiên.
Siêu Tôi trong nhạc Phạm Duy, không những có trong Đạo ca, Thiền ca mà còn có trong trường ca Hàn Mặc Tử. Trong trường ca Hàn Mặc Tử, Phạm Duy đã chọn những bài thơ tiêu biểu của tập thơ Gái Quê, Thơ Điên (Đau Thương), và Xuân Như Ý để phổ nhạc. Trường ca này gồm 3 phần: phần I – Tình Quê, phần II – Trăng Sao, phần III – Ave Maria. Cũng trong trường ca này, phần III – Ave Maria cũng thể hiện Siêu Tôi. Siêu Tôi ở đây là sự ngưỡng vọng, là lời xưng tụng Đức mẹ Maria. Bởi Mẹ là Thánh Nữ tinh truyền giàu nhân đức, từ bi, với nhiều phép lạ nhiệm màu:
Maria Maria
Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Maria Maria
Run như run thần tử thấy long nhan
Maria Maria
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Maria Maria
Nhưng lòng nhuần ơn trìu mến
Maria Maria…
Theo Phúc âm Luca, Sứ thần Thiên Chúa Gabriel (Ga-bri-en) đến gặp thiếu nữ đồng trinh Maria để tiên báo về việc mang thai Chúa Giêsu. Lời báo tin ấy là Tin Mừng cho nhân loại. Để ngợi ca Tin Mừng ấy, Phạm Duy đã dựa vào lời thơ của Hàn Mặc Tử xưng tụng Sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Xưng tụng Gabriel cũng là xưng tụng hồng ân của Thiên Chúa với Mẹ Maria Sầu Bi, cũng như loài người tội lỗi:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe thơ màu nghiệm ra đời
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe xôn xao nghìn tinh tú
Để ca tụng bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm Xuân là rất đổi anh linh
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Lòng vua chúa như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi…
Mẹ Maria là Đấng tinh truyền. Xưng tụng Mẹ cũng là sự ngưỡng vọng về Phượng Trì vừa hư vừa thực. Sự ngưỡng vọng ấy hướng đến Cái Đẹp vĩnh hằng rực rỡ hào quang, bởi “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” (F.M. Dostoyevsky).
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một thời chưa thấu
Hồn tôi bay biết bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
A-men.
Theo S. Freud thì “Siêu Tôi luôn hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức”. Hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức trong trường ca này, có thể nói đó là sự ngưỡng vọng, ngợi ca Cái Đẹp: Phượng Trì, Sứ Thần Gabriel và Mẹ Maria.
Có thể nói rằng, những lời ca trong Đạo ca, Thiền ca và trường ca Hàn Mặc Tử hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức để Phạm Duy thể hiện Cái Tôi trong những lời ca lắng đọng còn lại.
Cái Tôi – Bản ngã (The Ego) trong lời nhạc Phạm Duy
Bên cạnh Cái Nó, Cái Siêu Tôi – theo tôi – Cái Tôi cũng cần đề cập. Bởi hầu hết nhạc Phạm Duy đều có Cái Tôi.
Trước tiên, đó là Cái Tôi yêu nước. Hầu như mọi người đều công nhận trong một số bài hát, cũng như một số trường ca, Cái Tôi yêu quê hương, đất nước của ông cất lên cùng tiếng lòng của người dân Việt. Đâu phải một mình Phạm Duy mới thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong âm nhạc. Nhưng qua lời ca, nghe lời ca ấy cất lên, người yêu nhạc lại thổn thức, trầm trồ có một nhạc sĩ viết lời ca với những giai điệu làm xao xuyến lòng người, khơi dậy cái tình yêu quê hương, đất nước ấy trong bản thể của người nghe. Cái tình yêu ấy bắt nguồn từ tiếng khóc đầu đời, từ lời ru của mẹ, của bà… Không thể không xúc động khi nghe lời ca:
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời! Người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi! Nước ơi!…
(Tình Ca)
Tình yêu quê hương, đất nước ấy cụ thể là yêu con “sông đào xinh xắn” đem nước tưới mát cánh đồng quê thơm mùa gặt hái, là yêu bóng dáng của mẹ, của chị, của em lúc tan chợ chiều vội về lo bữa cơm chiều đầm ấm, và là yêu nhớ cô gái có miếng cười duyên. Đó còn là yêu bóng đa che chở những trẻ quê lúc trưa hè im nắng, có những con trâu lành nằm nghe khúc sáo quê hiền hòa. Đó còn là tình cảm với những bà mẹ quê hát ru, vỗ về, ôm ấp tuổi thơ. Và chính những gì cụ thể đó, khi xa quê, tình yêu ấy dâng trào thành nỗi nhớ xốn xang:
Tình hoài hương!
Khói lam vương tâm hồn chìm xuống
Chiều soay hương!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Người phiêu lãng!
Nước mắt có về miền quê lai láng
Xa quê hương! Yêu quê hương…!
(Tình Hoài Hương)
Yêu quê hương, đất nước trong nhạc Phạm Duy còn là tiếng thở dài về cái nghèo của quê hương một thuở. Tiếng thở dài ấy không bi lụy mà là tiếng lòng quá đỗi yêu quê, bởi quê nghèo hiện lên với hình ảnh “những cánh đồng cát dài”, “lũy tre già tả tơi”, “ruộng khô”, “ông già rách vai”, “đàn trẻ gầy”, “người bừa thay trâu”,… Yêu đến nỗi chỉ mong có ngày được mùa, để gái trai rộn ràng niềm vui đôi lứa:
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.
(Quê Nghèo)
Cái Tôi yêu quê hương, đất nước ấy thành tiếng gọi thiết tha “Chiều ơi!”. Tiếng gọi chiều là tiếng gọi tự đáy lòng, tiếng gọi vọng vào vách núi, tiếng gọi vọng theo người quảy lúa, tiếng gọi vọng về lúc yên vui. Đó còn là tiếng gọi vọng vào hồn núi, hồn quê một thuở:
Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều
Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều
Chiều ơi! Biết chiều nào còn đứng trên nương
Phố phường nhiều chiều vắng quê hương, ới chiều
Chiều ới! Chiều ơi! Chiều ơi!
(Nương Chiều)
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy rất đặc biệt. Bởi, ngoài những bài ca mang đượm hồn quê hương đất nước, còn có hai trường ca để lại dấu ấn sâu đậm với người yêu nhạc không những bởi giai điệu phong phú, đa dạng, mà còn có lời ca mang đậm hồn nước v���a dân dã vừa trang trọng, vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Đó là trường ca Con Đường Cái Quan (Sài Gòn, 1960) và trường ca Mẹ Việt Nam (Sài Gòn, 1964).
Chính hai trường ca này cho người yêu nhạc cảm nhận được Cái Tôi yêu nước của Phạm Duy quả là đặc biệt. Phạm Duy từng viết: “Tôi đã chủ trương những cuộc lên đường trong âm nhạc… thì còn cuộc lên đường nào thú vị hơn là đường đi vào quê hương với những trường ca?
Trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN được thai nghén từ 1954, vừa lúc các cường quốc vừa chia đôi nước Việt Nam ra thành hai miền Quốc – Cộng với bản Hiệp Định Geneve. Tôi đang đi học nhạc tại Paris và bằng trường ca này, tôi phản đối sự chia cắt đó. Vào năm 1960, tôi hoàn tất phần còn lại của trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN.
Nếu CON ĐƯỜNG CÁI QUAN là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt thì MẸ VIỆT NAM là một âu ca, ca tụng Mẹ Tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng nhắm dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất ta và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn hiện tại.
Đây là một trường ca trong đó, lúc trẻ tuổi, Mẹ Việt Nam được biểu tượng bằng đất màu tươi tốt, đa tình, nền tảng của gia đình, ruộng nương, làng nước. Khi đứng tuổi, Mẹ hiện thân là núi non sắt đá, trong sự hy sinh ròng rã, vẫn bền bỉ đợi chờ và che chở cho người chinh phu chưa hết nợ binh đao. Mẹ còn âm thầm xót thương lũ con sông ngòi, có những đứa dại dột, hiếu thắng, phản bội Mẹ vì sự tranh giành lẫn nhau, gây oán hận phân chia, làm nát tan lòng Mẹ. Vào lúc tuổi già, Mẹ trở thành biển cả đại lượng bao dung, kêu gọi và ôm đón đàn con giang hồ, thành công hay thất bại. Nước mắt vui mừng của Mẹ gặp con bốc lên trời cao làm mây đầy đặn và ấm áp, bay đi rửa sạch địa cầu bằng ơn mưa móc, nối chặt chu kỳ trường ca MẸ VIỆT NAM” (Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca).
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy qua lời ca, đó chính là sự sáng tạo nghiêm túc, đầy trách nhiệm với nền âm nhạc Việt Nam cũng như với Tổ quốc Việt Nam. Ý thức trách nhiệm là người Việt Nam thì phải có tiếng nói, hành động như thế nào với hiện tình đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Làm được những điều đó là sự chọn lựa của từng cá nhân, trong đó có Phạm Duy. Bởi theo S. Freud thì Cái Tôi là thành tố của tính cách chịu trách nhiệm giúp con người xử trí với thực tại.
Bên cạnh đó, tôi còn bắt gặp Cái Tôi yêu đời, yêu người của Phạm Duy trong lời ca. Chỉ là lời ca viết cho con gái Thái Hiền hát, nhưng ở đó là cõi lòng của ông như trẻ thơ dành cho đời, cho người. Nào quê hương đẹp ngời cùng năm châu; nào là thương xá hay vỉa hè, nào là ngồi xe lam trên đường vui với biết bao là thú vị rộn tiếng yêu đời, yêu người:
Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
Nhìn mây trăng trắng bay trên nền trời
Nhìn mây trăng trắng bay ra ngoài khơi
Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
…………………………………………..
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!
Từ nơi xóm vắng hay trên lộ đầy
Từ nơi phố đó hay trong làng đây
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!
(Tuổi Xuân)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trong nhạc Phạm Duy còn là những gì cụ thể. Không xa rời cuộc sống, Cái Tôi ấy của Phạm Duy cất lên lời ca ngợi bà mẹ quê tảo tần, “vất vả trăm chiều”, “nuôi một đàn con chắt chiu” (Bà Mẹ Quê); ca ngợi hình ảnh em bé quê: “Em bé dân quê Việt Nam/ Là mầm non tươi thắm/ Sức mai sau xây đắp quê hương/ Cho nước giàu mạnh hơn” (Em Bé Quê); ca ngợi cuộc sống yên bình của người nông dân: “Chàng vừa cày sâu vừa hứng mưa trên mái đầu/ Hái bông ngô vàng hay bới khoai nâu/ Nàng vừa cuốc bẫm, tắm trong sương sớm/ Tát xong nước rồi, sẽ về thổi cơm/ Chữ i móc ngược, o o ó o tròn/ Còn trong một nước ứ ư/ Người người ơi, ta còn yêu nhau/ Người người ơi, ta đừng bỏ nhau” (Vợ Chồng Quê).
Còn đây là Cái Tôi yêu đời, yêu người qua những việc bình thường. Chính những thứ thường thường ấy làm nên điều kỳ diệu của tâm hồn. Chuyện kể, có lần Phạm Duy hồi hương, đi thăm miền Hậu Giang. Trên chuyến phà qua sông, ông nghe tiếng mời mua vé số. Trước mắt ông là cô bé bán vé số thật xinh: “Guốc mộc áo lành không rách/ Mắt tròn trong sáng và to/ Má em hoe và môi em đỏ/ Mái tóc dày mùi tóc thơm tho/ Với chiếc kẹp tóc thơm tho”. Ông móc túi ra, tặng cho em chút quà không nhỏ. Thế nhưng, em bé lắc đầu, bởi em không muốn xin tiền người. Thế là ông phải mua một lúc 20 tờ, dù chẳng tin vào xổ số. Em bé rất vui! Và thật bất ngờ, như một truyện ngắn với chi tiết đắt, gây ấn tượng ở phần cuối. Chỉ có lòng trân trọng, yêu quý con người và cuộc đời mới có kết thúc đẹp, lắng đọng hồn người như vậy:
Thế rồi phà tới bến quê
Thế rồi tôi bước lên xe
Bé thơ chạy tuốt lên bờ
Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra.
Con tặng cho ông đó
Thế rồi tôi vẫn còn đi
Trên đường giang hồ đây đó
Mang theo hương vị quê mùa.
Hương nồng tự đất quê ta
Đến từ kẹp tóc em thơ
Chiếc kẹp tóc thơm tho.
(Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trở thành máu thịt được truyền từ Mẹ Việt qua nhạc Phạm Duy. Cái Tôi ấy có khác chi tinh thần: “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn” (Phụng Hiến, Bùi Giáng). Cái Tôi ấy có khác chi tiếng gọi đồng bào từ thuở sinh ra từ bọc Mẹ Âu Cơ:
Trời cho anh được hơn muông thú
Sinh ra đời với kiếp con người
Trời cho anh bộ tim khối có
Cho linh hồn, cho biết buồn vui.
Mẹ cho anh còn hơn thế nữa
Cho tấm lòng không thiếu không thừa
Niềm vui hay niềm đau thấp thoáng
Anh yêu người, giun dế còn thương.
(Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào)
Yêu đời, yêu người, bởi đời và người luôn luôn cho ta nhiều thứ quý giá ở cõi người. Bởi đời và người tốt đẹp trong thế gian này ban ơn cho chúng ta biết bao điều. Do thế, yêu đời, yêu người như là bổn phận của chúng ta như là sự biết ơn. Đã là người không ai thoát được bổn phận ấy trong cõi đời:
Ôi ơn đời chói vói
Nhớ khi thân tròn ôm gối
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui
Ôi ơn đời mãi mãi
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ái ân muôn đời.
(Tạ Ơn Đời)
Ngoài ra, trong lời ca của Phạm Duy bộc lộ Cái Tôi khát vọng tự do. Bởi “Tự do đáng để trả giá” (Jules Verne), tự do là thứ quý nhất trên đời. Khát vọng tự do có trong lời ru con: “À ơi, con ngủ u ù cho muồi/ À ơi, cười vui trong giấc mộng/ À à ơi! Yêu đời tự do/ À à ơi, à à ơi! À à ơi, à à ơi!” (Vợ Chồng Quê). Cũng có cả trong lời xưng tụng ngợi ca: “Việt Nam đây miền xinh tươi/ Việt Nam đem vào sông núi/ Tự do công bình bác ái muôn đời” (Việt Nam! Việt Nam!). Và có cả trong lời nguyện cầu: “Tình nhân loại, nghĩa đồng bào/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Đang kêu to: Tự do yêu dấu/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Sống yên vui dưới mặt trời cao/ Sống yên vui dưới mặt trời cao” (Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào).
Không những thế, trong nhạc Phạm Duy, lời ca còn thể hiện Cái Tôi ước mơ. Đã là người, theo tôi nghĩ, ai cũng có mơ ước. Mơ ước giúp con người hy vọng vào cuộc sống, tin vào tương lai. Một cuộc sống buồn tênh bởi kiếp nghèo, bởi hoàn cảnh vẫn không ngăn được niềm ước mơ về cuộc sống an lành:
Đường về trong mơ đêm đêm phố lớn thênh thang
Ánh sáng kinh kỳ tràn lan
Đời nghèo không riêng thương yêu bóng dáng Xuân sang
Yêu phố vui, nhà gạch ngon
Đèn đêm không soi bóng vắng
Kinh đô thắc mắc
Im nghe phố buồn
Người đi trong đêm tối ám
Nghe mưa thức giấc
Khuyên nhau chờ mong.
(Phố Buồn)
Cái Tôi ước mơ còn thể hiện về một thời chấm dứt chiến tranh, hòa bình được trở về trên đất Mẹ Việt Nam để cho người con được một lần hát ru cho Mẹ giấc ngủ an lành. Quả là đẹp, bởi có gì đẹp hơn khi con nhìn Mẹ yên bình trong lời ru của con:
Mẹ năm mươi tuổi chiến tranh
Con hai mươi tuổi, Hòa Bình về chơi
Từ lâu súng nổ vang trời
Hôm nay yên lặng cho đời ngẩn ngơ
Mẹ tôi giấc ngủ khó khăn
Xưa nay ru mẹ toàn bằng đạn bom
Mẹ ơi! Giâc ngủ muộn màng
Con xin ru mẹ một ngàn lời ru…
(Ru Mẹ)
Cái Tôi ước mơ trong nhạc Phạm Duy luôn trong sáng. Đành rằng ước mơ suy cho cùng cũng chỉ là ham muốn, có tính dục, libido. Nhưng ở đây, Cái Tôi ước mơ ấy như được soi sáng bởi Cái Siêu Tôi để ước mơ càng thêm đẹp. Ước mơ của người bình thường là ước mơ có tiền có bạc để có cuộc sống sung túc, ước mơ thành nghệ sĩ để có tiếng tăm. Tất cả là ước mơ vì lợi danh. Thế nhưng, trong nhạc Phạm Duy, ước mơ giàu có, không phải chỉ để mình hưởng thụ; ước mơ thành nghệ sĩ là để cống hiến cho đời. Ước mơ đẹp như thế quả là đáng ngợi ca:
Cho tôi lại một mùa mưa rơi buồn ngoại ô
Đêm đêm đèn trong ngỏ soi sáng mảnh tim khô
Tôi mơ thành triệu phú cứu vớt gái bơ vơ
Tôi mơ thành thi sĩ đem thơ dệt mộng hờ.
(Kỷ Niệm)
Tôi từng đọc bài thơ “Mao Ốc Vị Thu Phong Sở Phá Ca” (Bài Ca Nhà Tranh Bị Gió Thu Phá) của Đỗ Phủ (712-770) trong đó có đoạn: “An đắc quảng hạ thiên vạn gian/ Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan/ Phong vũ bất động an như san/ Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc/ Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc” (tạm dịch: Ước sao có được nhà rộng muôn ngàn gian/ Giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều vui/ Gió mưa chẳng kinh động, vững như núi non/ Hỡi ôi, bao giờ thấy nhà ấy sừng sững trước mắt/ Riêng nhà ta bị phá nát, chịu rét đến chết cũng cam lòng). Ước mơ đó thể hiện Cái Tôi nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ. Ông xứng là Thi Sử, Thi Thánh như người đời ca ngợi. Còn Phạm Duy lại có ước mơ trong khi đất nước đau thương, đói nghèo, buồn khổ là “mơ thấy trăm họ tốt tươi”, “mơ thấy bên lề cuộc đời” đôi lứa rạng ngời yêu thương, mọi người đùa vui trong nắng đẹp. Uớc mơ của Phạm Duy, theo tôi, cũng cao cả, xứng đáng được ngợi ca:
Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi.
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong nắng cười…
(Quê Nghèo)
Theo Sigmund Freud thì Cái Tôi là một phần của tính cách có nhiệm vụ điều chỉnh những nhu cầu của Cái Nó, Cái Siêu Tôi và đời sống thực. Theo đó có nghĩa là nhu cầu về tình yêu là nhu cầu đích thực cần phải tồn tại. Nhu cầu đó vừa thuộc vào Cái Nó vừa thuộc vào Cái Siêu Tôi. Mặt khác, không có nhu cầu về tình yêu trong cuộc sống thì, một là Cái Nó trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu không có mà chỉ là sự tương tác của quan hệ xác thịt, hai là Cái Siêu Tôi trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu chỉ là những thứ thuần túy trên đầu môi, chót lưỡi, và khi đó đời sống thực cũng chẳng là gì. Bởi vậy, những bản nhạc tình của Phạm Duy đã thể hiện trọn vẹn Cái Tôi trong tình yêu. Đó là Cái Tôi đa tình có trong lời ca của Phạm Duy. Bởi “Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình” (Vịnh Chữ Tình, Nguyễn Công Trứ). Cái nòi đa tình thời nào cũng có. Không có cái nòi ấy, thì làm gì có những vần thơ, bài hát ca ngợi tình yêu trai gái. Không có Cái Tôi đa tình trong âm nhạc thì làm gì có những tác phẩm để đời, cho người yêu nhạc thưởng thức. Chính Cái Tôi này góp phần làm nên những tình khúc trong dòng nhạc tình của Phạm Duy. Từ bản nhạc bước đầu trong sự nghiệp sáng tác như Cô Hái Mơ (1942), phổ thơ Nguyễn Bính, rồi trong những năm đi theo kháng chiến, Phạm Duy cũng không quên soạn nhạc tình, nhưng thứ tình ở đây, theo ông, là “thứ tình ca ấp úng”:
Người ôi! Tôi thường hay muốn biết
Với tình hoa thắm thiết
Yêu tôi hay yêu đàn?
Yêu tôi hay yêu đàn?
Tình tang tính tính tình tang.
(Cây Đàn Bỏ Quên)
Rồi “thứ tình ấp úng” ấy cũng qua đi. Nhưng trong lòng của Phạm Duy nào dứt được tình. Cái Tôi đa tình lại trổi dậy để rồi sản sinh ra những bản nhạc tình khác. Đó là thứ tình cảm khát khao của đôi lứa yêu nhau, cần có nhau để tồn tại trong cõi nhân gian:
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi.
Ngày đôi ta vui tiếng hát vói đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi (ý y y)
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những ngón tay đan vòng tình ái (ớ ơ ờ).
(Ngày Đó Chúng Mình)
Đó còn là thứ tình cảm quyến luyến từ thuở yêu nhau đến cuối cuộc đời. Tình cảm ấy chỉ có được khi cả hai người thuộc về nhau, luôn nghĩ về nhau, yêu nhau, trân trọng nhau vì cuộc tình hiện hữu, và vì đến muôn đời sau. Xin đừng nói tiếng xót xa, xin đừng oán trách, xin đừng cay đắng cho nhau mà hãy vì tình yêu như thuở mộng mơ ban đầu:
Đừng xa nhau! Đừng quên nhau!
Đừng dứt tiếng ngậm sầu,
Đừng im hơi đắng cay rời nhau.
Đừng đi mau, để mãi mãi,
Là chiếc bóng đậm màu
Còn theo nhau tới muôn đời sau.
(Đừng Xa Nhau)
“Còn theo nhau tới muôn đời sau”, theo nhau mãi bởi tình yêu đâu dễ gì quên. Đâu dễ gì quên “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ). Đâu dễ gì quên cuộc tình thơ mộng, dư âm ngọt ngào còn mãi vấn vương. Đâu dễ gì quên ánh mắt long lanh, nụ cười hiền quá đỗi thuở yêu nhau. Vẫn luôn nhớ về nhau dù tình lỗi hẹn:
Trăm năm dù lỗi hẹn
Nghìn năm vẫn không quên
Vẫn nhớ y nguyên.
(Ngàn Năm Vẫn Chưa Quên)
Cái Tôi đa tình trong nhạc Phạm Duy còn là sự đau khổ khi tình yêu không còn, là sự tuyệt vọng đích thực khi cuộc tình tan vỡ. Có chăng còn lại nỗi đau tột cùng dẫu ngóng trông nhau mà chẳng thấy hình bóng của nhau. Dẫu tưởng nhớ về nhau thì chỉ là nỗi đau âm ỉ trong lòng. Có khóc cũng chẳng vơi bớt nỗi sầu thương nhớ, có gọi thầm tên nhau cũng chẳng là gì của nhau:
Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau
Có đi theo mùa ngâu tới suối reo nghìn thâu
Tình chôn đã lâu
Còn gì nữa đâu mà kể với nhau
Vết thương đau ngày nào
Có sống bao đời sau thì đã mất nhau
Còn gì nữa đâu mà gọi mãi nhau.
(Còn Gì Nữa Đâu)
Từ chỗ đa tình đến chỗ dại tình chỉ trong tấc gang. Đa tình quá nên phải dại tình thôi. Đó là lẽ đương nhiên. Cái dại trong tình yêu chỉ một mình biết một mình mình hay, chớ bày tỏ cùng mọi người cũng chẳng ích gì. Thôi thì, cứ hát một mình, ai hiểu được chừng nào hay chừng nấy, ai thông cảm, đồng cảm thì cứ hát cho bớt nỗi đau tình. Coi như tình yêu có chỗ trong lòng thiên hạ. Bởi tình yêu giờ chẳng còn, chỉ là sự cách xa, chia lìa đôi lứa. Có chăng chỉ là dư âm của cuộc tình đã lỡ và lời cầu chúc ai kia hạnh phúc:
Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người…
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.
(Nghìn Trùng Xa Cách)
Người đời thường nói không có cái dại nào giống cái dại nào. Điều đó đúng với cái dại tình trong nhạc Phạm Duy. Bởi cái dại tình trong nhạc Phạm Duy đẹp ở chỗ cứ vương hoài cuộc tình của tuổi thư sinh. Cái dại tình ấy đáng yêu làm sao! Ai từng qua cái dại tình ấy? Có nhiều lắm, Cái dại ấy của những ai từng cắp sách đến trường, của những ai từng đếm bước chân của mình trên con đường bình yên và của những ai một thời say đắm yêu nhau:
Con đường mộng hoa xưa, vẫn từng đôi từng lứa
Con đường vào mộng mơ, con đường mặn mà
Hỡi người tình Văn Khoa, bóng người trên hè phố
Lá đổ để đưa đường, hỡi người tình Trưng Vương
Hỡi người tình Gia Long, hỡi người trong cuộc sống
Con đường này xin dâng cho người bình thường
Hỡi người tình xa xăm, có buồn ra mà ngắm
Con đường thảnh thơi nằm nghe chuyện tình quanh năm.
(Con Đường Tình Ta Đi)
Có cái dại tình nào hơn khi trả hết những gì khi yêu nhau? Nào là trả lại khung trời đại học thuở yêu nhau, trả lại những buổi chiều vương vấn tình, trả lại những bước chân tìm nhau vồi vội, nào là trả lại hết khoảng trời mùa hạ vấn vương nỗi buồn cư xá, trả lại cả giọt mưa trên má, trên tóc, trên cả dáng hiền hòa. Trả lại tất cả: hẹn hò đôi lứa và cả môi mềm dịu ngọt cho em:
Trả lại em yêu mối tình vời vợi
Ngôi trường thân yêu, bạn bè cũ mới
Đừng buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài
Trả lại em yêu! Trả lại em yêu!
Mây trời xanh ngắt…
(Trả Lại Em Yêu)
Ngoài ra Cái Tôi đa tình còn được thể hiện bởi cái tình đam mê, nồng cháy. Cái tình đam mê, nồng cháy ấy là một phần của Cái Nó được điều chỉnh, bởi theo Freud thì “Cái Tôi chính là bộ phận của Cái Nó đã được điều chỉnh bởi tác động trực tiếp từ thế giới bên ngoài”. Do thế, không thể không đam mê, nồng cháy khi tình tay trong tay, môi trong môi, khi anh cùng em đi vào cõi mộng, khi anh rước em lên đồi tiên có cỏ mềm đọng giọt sương trinh nguyên chờ nắng sớm cho tình thơm như cỏ hồng, tình ngoan như tình nồng. Và cái tình đam mê, nồng cháy ấy để cho đất trời chứng giám:
Níu em trên đồi, cỏ thơm mùi sữa
Níu em yêu ngồi trên bãi cỏ non
Giương đôi tay ôm thân tròn ơn mưa móc
Hãy xõa mái tóc, rũ trên vai anh mòn
Đồi quen quen, cỏ ngoan ngoan, tưởng mơn man làn tóc rối mềm
Rồi nghe thêm lời van xin
Từ trong tim hoặc dưới suối tiên, ngã êm êm trên cỏ hoang
Trời trong em, đồi choáng váng, rồi run lên cùng gió bốn miền.
(Cỏ Hồng)
Cái tình đam mê, nồng cháy ấy có khác chi cánh phượng hồng rực rỡ khoe màu tình ái vang lên tiếng yêu đương thổn thức của con tim mù lòa bằng tiếng nói đơn sơ, bằng gió núi qua khe, bằng cơn mơ rụt rè, bằng tiếng hát yêu tinh của loài ma quái:
Yêu người, yêu có một lần thôi
Xin yêu, dù gian dối
Xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ
Khi bơ vơ còn nhiều
Thì đâu chối bỏ tình yêu.
(Phượng Yêu)
Và đam mê, nồng cháy hơn trong tình yêu là được sống cho nhau, dâng hiến cho nhau như mùa hè nung tình yêu lửa cháy, thiêu đốt cả đất trời để con tim tỏa nắng nhuộm hồng cả trăng sao. Tình yêu lên ngôi, tình yêu làm đất trời tỉnh giấc, đưa đôi lứa yêu nhau như thuở hồng hoang. Địa đàng bừng dậy:
Mùa hè thiên nhiên như tỉnh giấc
Mùa hè đưa ta tới hồng hoang
Trần truồng yêu nhau trong trời đất
Mùa hè của uyên ương.
Đôi ta chỉ có một mùa hè thôi
Đôi ta chỉ có một cuộc tình thôi…
(Hạ Hồng)
Cái Tôi trong lời ca của Phạm Duy còn nhiều lắm. Nhiều như di sản âm nhạc của ông để lại cho đời. Nhiều như những đắng cay, tủi nhục, những hạnh phúc, sướng vui… đi qua đời ông.
Qua một số ca từ thể hiện Cái Nó, Cái Siêu Tôi, Cái Tôi, một Phạm Duy còn lại cho đời là vậy!
Xin mượn lời của ông để kết thúc bài viết này: “Dù sao tôi cũng đang sống một cuộc đời phỉ nguyện. Tôi đã có đầy đủ vinh quang và tủi nhục (vì một sì-căng-đan về tình), hạnh phúc và khổ đau. Tôi cũng nói khá nhiều về cái chết. Coi như đã được sống tới tận cùng của cuộc sống…” (Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca).
2 notes
·
View notes
Text
Trường ca Mẹ Việt Nam

Trường ca Mẹ Việt Nam
Phạm Duy viết nhiều trường ca, nào là Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Bầy Chim Bỏ Xứ, Minh Họa Kiều, Hàn Mặc Tử. Trường ca nào cũng mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Ở phần bài viết này, tôi xin nêu những điều cảm nhận trường ca Mẹ Việt Nam qua hình tượng Mẹ Việt Nam vừa cụ thể, chân thực vừa trừu tượng, hư ảo. Trường ca Mẹ Việt Nam gồm có 4 phần: Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ, và chung khúc Việt Nam, Việt Nam.
Trong phần I – Đất Mẹ, hình ảnh Mẹ Việt Nam hiện lên là người Mẹ của quê hương đồng ruộng Việt Nam trong thế kỷ XX trở về trước. Đó là người Mẹ “không son không phấn”, “chân lấm tay bùn”, “không mang nhung gấm”, “mang tấm nâu sồng”. Đó còn là hình ảnh người Mẹ xinh đẹp:
Đôi má tươi hồng, má tươi hồng, với bàn tay trắng
Nhỏ người vai lẳn vú căng tròn, tròn lưng ong
Hình ảnh Mẹ hiện thân là người phụ nữ khát khao tình yêu đôi lứa:
Đây ruộng đồng trinh
Mẹ khát khao mầm, mầm tươi ngon
Mẹ Việt Nam
Trời Đông ánh dương hồng
Cũng như chiều vàng mênh mông
Có đàn chim én lượn trên đất xinh
Chứa chan tình là tình mong chờ.
Ta như thấy nụ cười tươi dòn của Mẹ khi Mẹ Đón Cha Về vui duyên thề cùng cha trọn đạo nghĩa vợ tình chồng. Ta cũng thấy Mẹ chịu thương, chịu khó lo cơm nước cho gia đình yêu thương của mình:
Năm tháng lo gạo gánh nuôi chồng
Mẹ Việt Nam đêm ngày thầm mong
Lửa bếp thơm nồng tình uyên ương.
Và Mẹ hóa thân thành Châu Long, Kính Tâm với lòng dạ “trắng như ngần và sạch trong”, với tâm “từ bi” nhân ái. Ta cũng thấy Mẹ hóa thân thành Bà Trưng, Bà Triệu:
Việt Nam có anh hùng, mắt nhung và môi son
Giữa mùa Xuân giết giặc
Yêu nước non, hé môi cười.
Trong phần II – Núi Mẹ, Mẹ Việt Nam hiện lên là Bà Mẹ trong những cuộc chiến. Lời Mẹ Hỏi là lời quặn thắt, đớn đau của bao người phụ nữ Việt Nam khi tiễn chồng ra lính:
Lính vua! Lính chúa! Lính Làng!
Trời ơi! Giết bao nhiêu giặc
Cho chàng, chàng phải đi?
Lời hỏi ấy còn day dứt khi mùa Xuân đến, Mẹ bâng khuâng hỏi:
Hoa trên đồi, hoa trên đồi sớm tối còn tươi
Giữa ngày xuân mới, giữa hội mùa vui
Sao vắng tiếng cười?
Sao vắng bóng người?
Còn trong đoản khúc Mẹ Bỏ Cuộc Chơi của phần II này, ta thấy Mẹ là hình ảnh người phụ nữ trong “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn. Ta cũng thấy Mẹ hóa thành Vũ Nương chỉ hình bóng của mình như hình chiến sĩ ngả trên đồi khi nắng quái chiều hôm, nói với con đó là cha của Đản:
Gió hè qua, Mẹ ra con hỏi
Khi trên đồi, khi trên đồi nắng quái chiều hôm
Có phải chàng Trương gốc miền Nam Xương
Xa vắng xóm làng vì cha ở chiến trường
Nắng sẽ sẽ không đi, bóng Mẹ ngả trên đê
In hình người chiến sĩ, cho Mẹ nhìn con trẻ
Con ơi hỡi cha kìa
Mau ra đón cha về với con.
Mẹ còn là hình ảnh trong lòng người chiến sĩ. Nghe khúc ca Mẹ Trong Lòng Người Đi, ta thấy Mẹ đang dõi mắt theo bước chân của người lính. Bước chân người lính qua bao đồi núi, rú đèo vẫn vững vì mang trong tim hình bóng Mẹ:
Đồi cao, cao núi cao
Rừng sâu, sâu rú sâu
Cũng có, có lối leo đường trèo
Đường treo, treo giữa đèo
Đường dẫu, dẫu hiểm nghèo
Đường ta, ta vẫn có lối theo.
Trước măt ta là những người lính mang hình ảnh Mẹ trên đường hành quân, hăng hái lên đường ra trận, khi thì giơ tay thề nguyền, lúc hét tiếng xung phong, hò reo chiến thắng trên những con đường đến Lam Sơn, Thất Sơn, Hoành Sơn, Vạn Kiếp… cũng như trên những con đường tới những chiến công, đến với người thương:
Ra đi còn nhớ ngày nao
Nuôi con Mẹ vẫn nguyện cầu
Người sinh ra có nhau
Phải thương nhau mến nhau
Nhưng đã có biết bao phen khổ đau
Giặc xâm lăng nước nhà
Phải cứu lấy dân ta
Thì ta lên núi với Mẹ già.
Còn gì quý bằng tình yêu của Mẹ dành cho chiến sĩ. Tình yêu ấy là chỗ dựa vững chắc của những người ở hậu phương cũng như chiến sĩ để người lính an tâm lên đường đánh giặc:
Anh ơi! Phải lính thì đi
Nơi quê em gìn giữ lời thề
Vườn dâu em đốn sâu
Trẻ thơ khôn lớn mau
Cho chiến sĩ bước theo tiếng Mẹ kêu
Mẹ giơ tay đón chào
Gìn giữ lũ con yêu
Vì yêu, con chiến đấu dài lâu.
Lời Mẹ ngắn gọn đầy mệnh lệnh nhưng chất chứa niềm tin trong đoản khúc Mẹ Trả Lời. Lời Mẹ chính là lời non nước, quê hương:
Giữ dân! Giữ nước! Giữ làng!
Chàng ơi, giữ thân cho Mẹ
Cho nàng dạy con.
Còn trong đoản khúc Mẹ Hóa Đá, hình ảnh của Mẹ như tạc vào đá núi, không ngủ, đứng suốt bốn nghìn năm theo “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca, Phạm Duy) xót thương con dân Việt:
Gió mùa Đông, Mẹ không thấy mỏi
Đứng trông về, đứng trông về bốn cõi trời xa
Xót người nông phu chắp từng manh áo
Thương gái gánh về thùng bánh ế cuối ngày
Biết mấy nỗi thương vay, thấy trẻ nhỏ giơ tay
Con ngựa người vất vả, xe nặng nề qua ngõ
Thương thi sĩ hay buồn
Cho nên Mẹ hóa ra hòn núi cao.
Tiếp đến, phần III – Sông Mẹ đưa ta đến những dòng sông trên quê hương Việt Nam. Này là dòng sông mà người con gái lấy chồng xa quê, cứ mỗi chiều chiều lại ra đứng bờ sông nhìn về quê Mẹ, bồn chồn, nôn nao trong đoản khúc Muốn Về Quê Mẹ:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê Mẹ
Muốn về quê Mẹ
Mà không có đò!
Trong phần III này, khúc ca Sông Còn Mải Mê gợi lên trong lòng ta những dòng sông cuồn cuộn chảy về biển Đông:
Sông Hồng cuộn sóng lôi cuốn Sông Lô
Sông Đà, Sông Đuống trôi xu��ng Sông Cầu
Nghe Bạch Đằng Giang chôn bao nhiêu xác quân Tầu
Sông nào cũng muốn đến trước tranh lấy công đầu.
Còn trong khúc ca Sông Vùi Chôn Mẹ, nghe mà quặn lòng. Mẹ là hình ảnh Trưng Trắc, Trưng Nhị trầm mình rửa nhục. Mẹ là hình ảnh Vũ Nương tự tìm cái chết để minh chứng lòng trong trắng, để rồi chàng Trương hối hận, lập đàn giải oan. Và khi nghe đoạn cuối khúc ca này, trong tôi lại nhớ tới hình ảnh người Mẹ trong truyện ngắn của Khái Hưng được học hồi trung học. Đó là Lạc, cùng chồng là Thức, bơi thuyền vớt củi trong cơn lũ dữ trên sông Nhị Hà để đổi lấy tiền lo cái ăn cho con. Không may, thuyền bị chìm. Trong giờ phút sinh tử ấy, cả hai đều cố gắng bơi. Thức thấy Lạc đuối sức, bèn vội vàng đến cứu. Lạc bám vai chồng cùng bơi. Khi cả hai không còn sức, Lạc chỉ nói: “Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!”. Và “Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ” (Anh Phải Sống, Khái Hưng). Theo tôi, Phạm Duy đã nâng hình ảnh người Mẹ gần gũi, đời thường như bị dòng sông đời vùi chôn thân xác, trong giờ phút chọn cái chết vẫn luôn nghĩ đến con:
Nhớ Mẹ, nhớ Mẹ
Yêu đàn con, thương đàn con
Nên trao thân cho nước ngoan
Nhớ Mẹ, nhớ Mẹ
Trên trường giang mong đàn con
Sông trôi suốt đời trong trắng
Hỡi ôi! Có ngày, có Mẹ vui
Ôm sóng bơi, vớt củi sông dài
Ngờ đâu sông đảo điên say máu
Nước cuộn mau khiến cho Mẹ chìm sâu.
Cũng trong phần này, hình ảnh dòng sông được nhân hóa trong khúc ca Sông Không Đường Về. Nghe mà đau buồn, nghe mà xót ruột:
Sông đỏ như máu tranh đấu sông nâu
Sông nghèo xanh yếu kêu cứu sông giầu
Sông nhuộm vàng mau chia nhau uốn khúc khoe mầu
Sông rồng lôi kéo lũ rắn đi cắn sông đào.
Còn trong khúc ca Những Dòng Sông Chia Rẽ, mỗi lần, nghe mà ngậm ngùi cho số kiếp của lứa đôi bởi dòng sông Ngân ngăn cách; nghe mà tắc lưỡi ngẫm chuyện đời sông Thương; nghe mà buồn thương cho dòng sông Gianh, Bến Hải:
Nước đi là nước không về
Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông
Chia đôi bên bờ bến lạnh lùng
Cho Ngưu Lang và Chức Nữ ngại ngùng
Chia đôi dòng sông Thương
Nước bên đục bên trong
Nước ân tình đổi thành ra nước căm hờn
Chia sông Gianh phân tranh mộng đồ vương
Chia con sông Bến Hải buồn thương
Nước yên vui từ nguồn
Bỗng gây nên điều buồn
Dòng lệ tuôn thành sông không có linh hồn.
Hình ảnh “Những dòng sông chia rẽ” được khái quát là sự ngăn cách bởi lòng người - những đứa con của Mẹ Việt Nam. Sự ngăn cách ấy có xóa đi được hay không là khi những đứa con lầm đường lạc lối trở về cùng Mẹ:
Lũ con lạc lối đường xa
Có con nào nhớ Mẹ ta thì về.
Phần cuối là phần IV – Biển Mẹ. Mở đầu phần IV là khúc ca Mẹ Trùng Dương:
Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương.
Mẹ là biển, là vô cùng, bất tận, là mặn nồng vị muối, là tôm cá tươi ngon, là mưa gió hiền khô, là tình yêu thương vô bờ lan khắp Việt Nam:
Mẹ tìm con trong gió Bắc
Mẹ về phương Nam nắng gắt
Tình nhà mở cửa đem ra góp với bao la
Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại Mẹ hiền
Gió rít thông reo như kêu con mau trở về Mẹ yêu.
Khúc ca Biển Đông Sóng Gợn là khúc reo đoàn tụ của những con thuyền Việt quay về cùng biển Mẹ:
Biển Đông gợn sóng tứ bề
Gọi thuyền viễn xứ quay về Biển Đông.
Đó cũng là khúc ca mừng những dòng sông về cùng biển Mẹ:
Sông ra đi từ khi non dại
Từ miền ngoài sông lại Việt Nam
Có từ Hi Mã Lạp Sơn
Cũng về biển Mẹ thành con một nhà.
Còn trong khúc ca Thênh Thang Thuyền Về, ta như thấy cảnh đoàn viên của đàn con về với Mẹ sau những chuyến đi dài ngày trên biển. Chỉ có thuyền về trên lớp sóng vui, chỉ có biển êm sóng lặng, nước nôi hiền lành, chỉ có niềm thương yêu lan tỏa:
Về đây xây đắp mối tình, một mối tình
Về đây xây đắp mối tình ôi tình Việt Nam
Yêu nhà yêu nước, nước, nước và thương thương mọi người
Tình tính tang tang tính tình, yêu Mẹ già, thương Mẹ ta
Đàn con nhớ, nhớ yêu nhau
Đàn con nhớ, nhớ thương nhau.
Và trong khúc ca Chớp Bể Mưa Nguồn, ta thấy Mẹ đang cười, đang khóc, đang vui, đang buồn cùng đàn con bởi “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca), bởi biến động nhiễu nhương của cuộc đời. Nghe để mà tin rằng nụ cười của Mẹ, nước mắt của Mẹ rửa sạch tội lỗi của đàn con:
Đêm qua chớp bể mưa nguồn
Để người trong nước hết buồn lại vui
Vui buồn chút lệ rơi
Vui buồn khóc lại cười
Mẹ cười Mẹ bốc thành hơi
Mây từ biển quý lên ngôi trời già
Mây về khắp cõi đời
Mưa rửa lỗi con người.
Còn khi nghe khúc ca Phù Sa Lớp Lớp Mây Trời Cuộn Bay, ta như thấy trước mắt những ngọn sóng cần mẫn, miệt mài đêm ngày ôm lấy phù sa bồi đắp bãi bờ, để đồng chua rộng ra, nới ra thành ruộng mỡ màu:
Triều dâng, triều dâng, ngọn sóng, ngọn sóng theo trăng
Theo trăng vào bờ, ôm lớp phù sa, theo trăng vào bờ
Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô, sóng nhấp nhô
Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô, xa xa xa là xa
Đồng chua rộng nới, nới, nới, nới thành ra, ra ruộng mềm.
Và ta thấy “mây trời trắng cuộn” che nắng bốn mùa, đem mưa ngọt bùi khắp nơi nơi để đời người tươi đẹp, an vui “Vì đã biết, biết yêu nhau/ Vì đã biết, biết thương nhau”.
Trong chương khúc Mẹ Việt Nam ơi, ta thấy biết bao đứa con của Mẹ Việt Nam về cùng Mẹ, đang ở bên Mẹ, nắm tay Mẹ, hít hà bày tỏ tình yêu. Ta như thấy ta, biết bao anh chị em ta, những đứa con của Mẹ siết chặt tay, thề và hứa với Mẹ giữ mãi tình yêu của Mẹ:
Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!
Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ
Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ
Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới
Chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi
Ôi! Mẹ Việt Nam!
Còn gì đẹp bằng những đứa con yêu của Mẹ Việt Nam nguyện thề “giữ thơm quê Mẹ”!
Cuối cùng, trong phần chung khúc Việt Nam, Việt Nam là tiếng lòng của bao người con dân Việt.
Khi còn trong bào thai, ta nghe tiếng nói của mẹ, cha, bà, ông mừng vui khi biết mình có con, có cháu. Biết bao tiếng trầm trồ chúc phúc của người thân yêu. Rồi ta được sinh ra, bên vành nôi, ta lớn lên theo lời ru dịu ngọt của mẹ, của bà, có khi là lời hát cố sao cho nhẹ êm của cha, của ông. Việt Nam hình thành trong ta từ đó. Rồi khi lớn lên ta càng hiểu hơn về đất nước, con người Việt Nam. Dù gì đi nữa, ta cũng yêu nước Việt Nam mình như yêu cha mẹ, ông bà, như yêu mái nhà, con phố… Yêu từng trang cổ tích, yêu từng mái trường đến mùa thi phượng vĩ nở hồng… Yêu đủ thứ, kể cả nụ cười của cô bé ngày xửa, ngày xưa, kể cả đôi mắt ai kia ngời sáng… Và có lẽ, đến khi nhắm mắt lìa đời, làm sao ta quên được những gì đã qua, những gì ta yêu cả khi nhắm mắt:
Việt Nam, Việt Nam, nghe tự vào đời
Việt Nam, hai câu nói
Bên vành nôi: Việt Nam, nước tôi
Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người
Việt Nam, hai câu nói
Sau cùng khi lìa đời.
Yêu Việt Nam, từ lúc vào đời đến khi lìa đời vì Việt Nam ta tươi đẹp, vì Việt Nam khát vọng muôn đời về tự do, công bình, bác ái, vì Việt Nam “không đòi xương máu”, vì Việt Nam “kêu gọi thương nhau” như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo: “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn/ Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo” (“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”; Ngô Tất Tố dịch), và cũng vì mơ ước một nước Việt thanh bình:
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự Do, Công Bình, Bác Ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu.
Còn gì đẹp bằng trên đường tương lai, Việt Nam là lửa thiêng, nguyện tranh đấu cho đời khi lấy tình yêu thương làm vũ khí, công cụ xây dựng tình người bởi “Tình yêu thương là điều duy nhất chắc chắn có thể rọi sáng tất cả những đám mây đen của cuộc đời” (Sinclair Lewis):
Việt Nam trên đường tương lai
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình Yêu đây là khí giới
Tình Thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.
Và cuối chung khúc, ta như thấy ta cùng mọi người Việt Nam đồng cất lên tiếng hát ngợi ca:
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam muôn đời!
Nghe trường ca Mẹ Việt Nam, tưởng chừng như nghe cả hồn thiêng sông núi, cả những người Mẹ, cả văn hóa, lịch sử gần năm ngàn năm của nước Việt ẩn hiện trong lời ca.
Nghe để thấy trong từng nắm đất, ngọn rau, cây lúa đều có thịt da của Mẹ. Nghe để thấy trong từng dáng núi linh thiêng có bóng dáng Mẹ. Nghe để thấy hình sông nào trên quê làng yên bình, phố thị đông vui cũng có hình ảnh Mẹ. Nghe để rồi thấy biển Mẹ trùng dương mãi là Mẹ hiền ấp ôm, nuôi con dân Việt muôn đời.
Nghe để mà tin rằng lời thề “giữ thơm quê Mẹ” mãi là lời thề trước sau như một, lời thề in tạc vào Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ Việt Nam
Nghe để mà tin yêu vào cuộc đời này, tin yêu vào đất nước con người Việt Nam với khát vọng Tự do, Công bằng, Bác ái.
Và khi nghe xong trường ca Mẹ Việt Nam, tôi xin mượn lời của Sallust như là lời ca ngợi Phạm Duy: “Thật ngọt ngào khi phục vụ đất nước bằng những việc làm, và cũng không phải là vô lý khi phục vụ đất nước bằng ngôn từ”.
#phan trang hy#phạm duy#phantranghy#phê bình#tiểu luân#Phạm Duy#Phan Trang Hy#PHAN TRANG HY#Mẹ Việt Nam
0 notes
Text
Cái tôi của Phạm Duy trong trường ca Con Đường Cái Quan

Cái tôi của Phạm Duy trong trường ca Con Đường Cái Quan
Nghe nhạc Phạm Duy, điều đầu tiên tôi cảm nhận đó là tình yêu quê hương đất nước Việt Nam. Nhiều nhạc phẩm của ông đã đi vào lòng người dân Việt qua nhiều thế hệ.
Phải là Cái Tôi hòa vào hồn quê, hòa vào đất Mẹ Việt Nam, hòa vào tiếng lòng đồng bào mới có trường ca Con Đường Cái Quan. Khi học trung học, nhiều lần tôi nghe trường ca này trên Đài phát thanh Sài Gòn, lòng tôi thấy sao có ông nhạc sĩ tuyệt vời đến vậy. Từ đó tôi mê nhạc của ông và tôi dành dụm tiền mua những bàn nhạc ông viết, trong đó có tập trường ca này để về tập đàn, tập hát. Và càng ngày tôi càng nhận ra một Phạm Duy quá diệu kỳ, chỉ với âm thanh, ngôn ngữ mà như đưa người nghe, người yêu nhạc đến với những cung bậc tình yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam này.
Trong phần giới thiệu về trường ca này, Phạm Duy bày tỏ: “Trường ca Con Đường Cái Quan đưa ra một lữ khách trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau, đi từ ngày mới lập quốc cho tới khi hoàn thành xứ sở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền lòng người và đất nước”.
Nghe phần thứ nhất (Từ Miền Bắc), tôi như được chứng kiến hành trình của lữ khách. Tôi như thấy hình ảnh của cô thôn nữ miền Bắc hát làm duyên với lữ khách:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại
Dừng chân đứng lại
Cho em đây than đôi lời
Đi đâu vội mấy anh ơi….
Đáp lại lời cô gái là lời lữ khách:
Tôi đi từ Ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường….
Tôi cũng thấy bước chân lữ khách từ Ải Nam Quan vội đi trong lời ca của nàng Tô Thị. Và cả trong lời ca của đồng bào miền núi, để rồi tạm biệt:
Đường ngược đường xuôi
Nhớ nhau vì chuyện đầu môi
Tạm biệt một nơi
Thấy nhau ở cuối chân trời….
Tôi còn nghe lời ca của cô gái lái đò và lữ khách sang sông. Rồi tôi chứng kiến bước chân lữ khách về tới Thủ đô trong nỗi niềm xúc động vô bờ, để rồi bước tiếp trên đường cái quan:
Ra đi từ lúc trăng tơ, trăng một miền hoa cỏ
Trăng lên đầu cửa ô xa vẫn chưa mờ
Im nghe lời Thủ đô chào, ôi lời mừng đông đảo
Đi trong lịch sử dân ta luống nghẹn ngào.
Trong phần thứ hai (Qua Miền Trung), qua ca từ âm nhạc, tôi mường tượng trước mắt tôi là lũ trẻ chạy ra hát mừng chào đón lữ khách: Ai đi trong gió trong sương. Tôi cũng được nghe lời ru của người mẹ ngọt ngào: Ai vô xứ Huế thì vô. Và tôi thấy dân làng hát tiễn lữ khách “đi trên dặm đường trường”:
Hò hô hò hò ơi hò
Anh đi trên đường là gập ghềnh
Mau mau đi kẻo lỡ a truyện tình nước non
Hô hô hò khoan
Hò hô hò hò ơi hò
Mau mau đi kẻo là kẻo lỡ
Câu chuyện tình năm xưa là tình à năm xưa
Hô hô hò khoan.
Cũng trong phần thứ hai này, trên dải đất miền Trung nước Việt Nam, trên những tháp Chăm dọc theo chiều dài đất nước, tôi như nghe tiếng hát của Công chúa Huyền Trân thời nhà Trần, nuốt lệ vào lòng, tâm sự cùng hậu thế với nỗi đoạn trường trong Nước non ngàn dặm ra đi:
Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bằng hồn trinh nữ mơ màng
Bằng tình say đắm ơi chàng
Ước nuôi dân hòa bình trong ái ân.
Rồi tôi được nghe cô gái Huế với Gió đưa cành trúc la đà. Tôi cũng được nghe tiếng hát của lữ khách hòa cùng dân chúng trong lời ca: Tôi xa quê nghèo ruộng nghèo để vào miền Nam:
Hò hô hò hò ơi hò
Lênh đênh ven bờ là biển sâu
Hương thơm là thoang thoảng à đất mầu miền Nam
Hô hô hò khoan
Hò hô hò hò ơi hò
Lênh đênh ven bờ là biển giàu
Nghe nhịp cầu đã nối tình là à xưa
Hô hô hò khoan.
Phần thứ ba (Vào Miền Nam) được mở đầu bằng giọng hò của cô gái mời gọi: Anh đi đường vắng đường xa. Đáp lại tình cảm của cô gái, lữ khách mừng rỡ hát khúc hành ca Nhờ gió đưa về như lời tỏ tình. Còn gì đẹp bằng cô gái miền Nam cất lời ca Đi đâu cho thiếp theo cùng bằng lòng “theo lữ khách trên con đường và trong cuộc đời”; còn gì đáng yêu bằng lữ khách cất tiếng đáp lại:
Ví dầu tình bén duyên thề
Thì xin kết bạn đền nghì trúc mai.
Phạm Duy từng giới thiệu: “Lữ khách tìm được lương duyên ở cảnh và ở người. Lữ khách kết duyên cùng cô gái. Dân chúng miền Nam hát hò mừng đôi vợ chồng mới”. Bằng điệu hò lơ Đèn cao Châu Đốc, gió độc Gò Công, mọi người chúc đôi vợ chồng:
Vợ chồng son đã nuôi lòng ước mong
Thuận vợ chồng sẽ cùng tát biển Đông.
Trước mắt tôi là hình ảnh đôi vợ chồng trẻ hân hoan cất tiếng ca ngợi Cửu Long Giang cũng như hát ca Giã ơn cái cối cái chày và cùng dân chúng hát Về Miền Nam trong niềm vui bất tận:
Về miền Nam đem theo sương gió xưa
Về đồng khô đem cơn mưa rét về
Người về đây thương nhớ lắm con đường xa
Về miền Trung, ra xứ Bắc yêu mẹ cha
Đường từ xa đem ta đã tới đây
Chùa chiều nay rung chuông trên luống cày
Người gửi ơn ra bốn phía chân trời mây
Ngẩng đầu lên dâng vút đóa linh hồn say
Đường về đây… Đường về đây
Trời về Tây nghe gió cuồng bay….
Kết thúc trường ca Con Đường Cái Quan là Đường đi đã tới, tôi như thấy lời ca được cất lên từ lồng ngực đầy nhiệt huyết của toàn dân:
Đường đi đã tới…
Lòng dân đã nối
Người tạm dừng bước chân vui người ơi
Người mơ ước tới…
Đường tan ranh giới
Để người được mãi
Đi trong một duyên tình dài
Con đường thế giới xa xôi
Trong lòng dân chúng nơi nơi…
Nghe cả trường ca Con Đường Cái Quan, tôi không thể không nói lời biết ơn có một nhạc sĩ đã nói hộ bao người dân Việt về một nước Việt Nam thống nhất. Thống nhất trong lịch sử từ thuở chia đôi trăm con, từ thuở mở rộng cõi bờ đến hoàn thành xứ sở; thống nhất từ điệu hò, điệu lý đến truyền thuyết, cổ tích, ca dao…
Nghe trường ca Con Đường Cái Quan, tôi như thấy hình ảnh đất nước, con người Việt Nam qua bao thăng trầm của lịch sử. Nào là hình ảnh Ải Nam Quan, Chi Lăng ngăn dòng giặc Hán; nào là Đồng Đăng, Kỳ Lừa, sông Thương, Thăng Long, Tháp Rùa in hình đất Bắc. Nào là Truông Nhà Hồ, Phá Tam Giang không ngăn được bước chân đi; nào là Sông Hương, Núi Ngự, Tháp Chàm, Cù Mông man mác tình quê. Nào là Đồng Nai, Châu Đốc, Tiền Giang, Hậu Giang, Gò Công, Cần Thơ, Hà Tiên, Cà Mau đất mới đãi người. Tôi cũng thấy bao người: từ nàng Tô Thị đến Huyền Trân, từ cô cắt cỏ đến cô lái đò, từ dân thượng du đến cô gái Huế, từ em bé, bà mẹ đến dân chúng, … Biết bao con người Việt Nam hiện lên. Qua âm nhạc với những giai điệu và lời ca trong Trường Ca này, Phạm Duy đã làm được một điều là khơi dậy lòng yêu đất nước con người Việt Nam cho tôi, và tôi nghĩ, cho cả nhiều người nữa.
Theo tôi, Cái Tôi của Phạm Duy trong Con Đường Cái Quan chất chứa tình yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó cũng là điều đáng trân trọng nơi ông.
#phan trang hy#phạm duy#phantranghy#tiểu luân#phê bình#Phạm Duy#Phan Trang Hy#PHAN TRANG HY#Con đường cái quan
1 note
·
View note
Text
Phạm Duy, Phạm Thiên Thư và Đạo Ca


Phạm Duy, Phạm Thiên Thư và Đạo Ca
10 bài đạo ca là sự đồng cảm, tương tri, tương ngộ giữa nhạc sĩ Phạm Duy và tu sĩ Phạm Thiên Thư. Chỉ có tâm hồn “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mới có sự ứng hiệp như vậy. Sự ứng hiệp ấy đã tạo nên 1 chương khúc đạo ca cho âm nhạc Việt.
Trước hết, trong Pháp Thân (Đạo ca 1) là hình ảnh em và anh trong vô lượng kiếp. (Nếu) Em là (làm) kiếp chim, kiếp lá, kiếp hoa, kiếp gió, kiếp ao, chữ biếc; (thì) anh làm (là) cội băng mai, mưa tháng bảy, giọt sương sa, chim chích chòe, chim bói cá, thiền sư buồn mong hóa thân làm mực. Để rồi, cả anh và em hẹn:
Mai sau chờ nhau nhé, đầu thai vào kiếp hoa
Chốn mây mờ phiêu bạt, chờ đợi… chim hót ca
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!
Trong Đại Nguyện (Đạo ca 2) là hình ảnh muôn loài tương thân tương, tương ái. Đó là “sương” cùng “hoa” quấn quýt như hai kẻ yêu nhau:
Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ
Hoa yêu sương chẳng rời, hoa yêu sương tuyệt vời.
Đó cũng là:
Muôn loài như hoa thắm, xin làm một ánh dương
Cây cỏ mừng ánh nắng, tiếng chim hót dị thường…
Muôn loài như một cùng cất tiếng hát ca ước nguyện lớn: Thương người như thương thân!/ Thương người như thương mình!/ Thương người như thương thân!/ Thương người như thương mình!/ Thương người như thương thân!
Đạo ca 3 có tên là Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng (Ảo Hóa) như câu chuyện tình của Chàng Dũng Sĩ tìm dấu người yêu:
Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong ruổi sa trường
Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong suốt thời gian
Một chàng dũng sĩ đôi mắt u buồn như ánh trăng vàng
Lòng chàng nung nấu một mối u sầu tìm dấu người yêu.
Chàng tìm khắp chốn, khắp cõi mà chẳng thấy bóng người. Một hôm chàng cùng ngựa qua sông. Và rồi:
Ngựa vàng đã hóa thân, hóa thân là người yêu muôn thuở
Ngựa vàng đã hóa thân, hóa thân là người vẫn hằng mơ
Rồi chàng dũng sĩ, đôi mắt sáng ngời như ánh mặt trời
Cùng người yêu quý đi suốt cuộc đời, tình ái nở hoa
Viên thành đạo ca cho đời ca hát!
Còn trong Quán Thế Âm (Hóa Thân / Đạo ca 4) là câu chuyện về bà mẹ đi tìm con “trên đỉnh đồi lan trắng”, “trong động hang lan vàng”, “bên bờ sông lam tím”, “trong thung lũng cỏ hoang”. Cả 4 mùa Mẹ lang thang tìm con từ thời còn là thiếu phụ đến khi già tóc trắng. Rồi một hôm Mẹ hóa thân:
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng.
Trong Một Cành Mai (Đạo ca 5), thế giới hiện ra là một thế giới đầy nước mắt:
Em bé khóc đòi cha, như mẹ khóc đòi con
Người chồng khóc người vợ, người yêu khóc người yêu
Nước mắt vẫn đầy vơi, sinh tử vẫn còn đây
Ðời này qua đời nọ, tử sinh vẫn còn kia.
Quả là "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" (Khế Kinh). Nước mắt ấy là bởi sinh tử, hận thù, mê muội. Chỉ khi nào con người nguyện dâng, tự nhìn lại chính mình trong kiếp nhân sinh thì “đau buồn sẽ đổi thay”, “thoát khỏi nỗi tử sinh” như “Cành mai đã rụng rơi, rơi rụng xuống cuộc đời/ Một cành mai rụng rời, làn hương vẫn chẳng phai”. Hình ảnh cành mai như rực sáng, như ánh hào quang xua tan thế giới hận thù đầy nước mắt, mê muội:
Người không riêng của ai, nhân loại vẫn của người
Ðặt mình trong dòng đời, tử sinh cũng là vui
Một cành mai, mai mãi, mãi mãi
Một cành mai, mai mãi, mãi mãi
Mãi mãi....
Còn Đạo ca 5 là sự đồng điệu giữa những tâm hồn ngộ lẽ sinh tử ở đời, tôi lại nhớ và thấy hình ảnh Mãn Giác Thiền Sư dặn đệ tử: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai, Ngô Tất Tố dịch).
Và trong Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu (Đạo ca 6) là lời của tình yêu thương vô bờ bến của Mẹ cho con “yêu tiếng dịu dàng”, “ơn mãi tình nồng”, “mến Nhạc và Thơ”, “không oán thù người”... Tôi như thấy trước mắt tôi là hình ảnh mẹ tôi, là hình ảnh của tỷ tỷ bà mẹ, là hình ảnh Đức Mẹ Maria, là Quán Thế Âm bồ tát hóa thành Thượng Đế hát ru:
Con ơi! Mẹ là Thượng Ðế, cho con tâm lý nguyên sơ
Câu ru và dòng sữa quý, cho con nguyên lý diệu vời
Ru con rằng: Ðời muôn lối, như mây kết hợp, rồi tan
Thân con là Trời cao vói, tim con là cõi địa đàng
Ù ơ Mẹ ru con biết:
Yêu thương như câu đầu lòng
Nghìn năm còn đây thắm thiết
Câu ru mạch máu Ðông Phương.
Trong Qua Suối Mây Hồng (Vô Ngôn / Đạo ca 7) dựa trên truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Cuộc chiến giữa Thần Núi với Thủy Vương ở đây, chỉ là cuộc chiến “thầm lặng”, “vô ngôn”. Và kết thúc trong “thầm lặng”, “vô ngôn”:
Một sớm, hoa rụng nhài
Mỵ Nương và Thần Núi
Làn suối mây lưng trời
Đưa về nơi mãi mãi
Còn lại siêu hùng ca
Thiên Thư không cần chữ
Sáo Thần không cần lỗ
Vi vu trong lòng người
Một khúc ca giục người
Vượt muôn trùng ảo huyễn
Về chốn không lụy phiền
Suối mây này dẫn đến...
Giọt Chuông Cam Lộ (Đạo ca 8) là tiếng chuông, là tiếng đại hồng chung “ngọt lành, thơm mát” từng giọt, từng giọt xua tan bóng đêm, “đón đưa ánh trời”, đem tỉnh thức cho nhân thế, đem hân hoan đến muôn loài, đem an bình đến nhân loại:
Tiếng chuông lẫy lừng cho cội đá mừng
Xóm thôn tưng bừng, chim chóc xôn xao
Tiếng chuông lên núi, làm trái mật say
Xuống trên luống cầy, cho đòng lúa trổ
Tiếng chuông Cam Lộ cho biển trầm tư
Cho đời người hết ưu tư...
Trong Giọt Sương Cam Lộ, ta còn bắt gặp hình ảnh đẹp:
Một nụ mai nở giữa cơn gió rừng
Thiền Sư lững thững xuống non, chống gậy
Lòng tay nắm lấy tiết Ðông giá lạnh
Giọt mưa lóng lánh, lắng trên gậy vàng
Gậy Thiền đưa xuống không gian vô tận
Gậy Thiền đưa xuống thế gian cõi thường
Thời gian mãi mãi, tiếng chuông sáng ngời.
Hình ảnh ngời ngời mà ấm áp; mờ ảo mà gần gũi; lồng lộng mà dịu dàng bởi “Thiền Sư xuống núi, cứu nguy cho đời/ Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang”.
Và khi nghe Chắp Tay Hoa (Quy Y / Đạo ca 9), tôi như thấy tôi, thấy mọi người đang chắp tay nguyện cầu, tôn vinh giá trị vĩnh hằng của thế giới. Tôi như thấy Phạm Duy, Phạm Thiên Thư, cùng tôi và anh em, bè bạn, cùng người thân, cùng nhân loại chắp tay lạy Người, lạy Trời, lạy Đất, lạy Nước, lạy tất cả cái thế giới huyền diệu này, bởi: Đâu không là Phật? Đâu chẳng là Trời? Nghe để rồi thấy rằng muôn vật, muôn loài như bông hoa cỏ, hạt bụi rơi, suối xuôi non, mây lên ngàn, hoặc sông, hoặc nguyệt… cũng chỉ là ở tại tâm giữa trần ai luân hồi vọng tưởng. Và thấy rằng Chắp Tay Hoa là:
Chắp tay lạy Người, xin cho nụ cười
Chắp tay lạy Trời, cho đám mưa rơi
Chắp tay lạy Đất, cho mầm cây tươi
Chắp tay lạy Nước, cho mát cõi đời
Chắp tay lạy Người, chắp tay lạy Trời
Chắp tay lạy rồi, lạy mãi không thôi
Lạy mãi không thôi!
Lạy mãi không thôi!
Bài cuối của chương khúc đạo ca là Tâm Xuân (Tam Giáo Đồng Nguyên / Đạo ca 10). Nghe Đạo ca này, tôi liên tưởng đến những dự ngôn về một thời kỳ đẹp đầy ơn phước của Tạo hóa - thời kỳ Thánh Đức, thời kỳ Long Hoa Hội, thời kỳ Di Lặc hiển minh, thời kỳ Chúa tái lâm… Tôi chưa thấy tương lai như dự ngôn của các tôn giáo, nhưng tôi tin rằng, chính Tam Giáo (Phật, Nho, Lão) cũng như các tôn giáo khác đều cùng nguồn cội. Nguồn cội ấy là Tâm Xuân của mỗi người trong thế giới ta bà đầy biến động này. Chính Tâm Xuân đem lại sự yên bình, an vui, độ lượng, bao dung, đạo hạnh dù lòng người luôn nghĩ suy, trăn trở:
Mùa Xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Để rồi vươn tới, với lòng mênh mông…
10 bài đạo ca là sự hiệp thông của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy cùng muôn vật, muôn loài; là sự hướng thiện đến Đại Ngã vô cùng. Đó cũng là những gì trong con người Phạm Duy có chứa cái Siêu ngã - siêu Tôi (The Superego) muốn hòa cùng Đại Ngã. Thật là quý khi âm nhạc Việt có chương khúc như vậy.
0 notes
Text
Phạm Duy và Thiền Ca

Phạm Duy và Thiền Ca
Trong Những Trang Hồi Âm – Hát Trên Đường Về trên phamduy.com, Phạm Duy viết: “Tháng Sáu 1992, tôi đi hát ở Boston. Vì từ nơi cực Đông của Hoa Kỳ qua Pháp không xa lắm, tôi đi Paris chơi một tuần. Bỗng nhiên, tôi có một ngày chủ nhật đi lang thang một mình trong thành phố để gậm nhấm rồi hóa giải một nỗi buồn. Trong dĩ vãng, mỗi khi gặp phải chuyện buồn, tôi đều phản ứng như vậy. Ít lâu nay, trong cuộc đời về già không dễ dàng tung hoành như trước nữa, tôi luôn luôn bị vài nỗi buồn ám ảnh: buồn vì đang sắp sửa phải kết liễu một chuyện tình, buồn vì tình hình dân chúng – tôi cảm thấy - ở hải ngoại cũng như ở trong nước không còn thiết tha với người nghệ sĩ nữa, buồn vì sức khỏe mỗi ngày một giảm sút v.v…
Thế nhưng, trong một buổi sáng lãng đãng đi một mình giữa Paris nắng rực và vắng vẻ này, tôi lại đánh đuổi được sự dằn vặt trong tôi. Một lần nữa sau đạo ca, rong ca, tôi bỏ rơi con đường nhạc đời để tìm về nhạc đạo. Tôi lại tìm thấy an ủi trong siêu nhiên. Trong chỉ có một đêm (16-6-1992), tôi hoàn thành 10 bài hát – tôi muốn được gọi là thiền ca”.
Cả 10 bài thiền ca như bộc lộ được Cái Siêu Tôi (The Superego) của Phạm Duy.
Đầu tiên là Thinh Không (Thiền ca 01). Có nhiều thứ đấy, có muôn loài, có tĩnh, có động, trong cái Tiểu Ngã hòa cùng Đại Ngã vô thường: “Tất cả là tôi/ Mà cũng là chung”, “Nhất nhất trùng trùng/ Nhưng cũng là không”… Nghe cả bài, ta như thấy Phạm Duy, cùng tôi và mọi người nhìn Thiền Sư Từ Đạo Hạnh ngâm trong một đêm ngắm trăng trên sông:
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Vừng trăng vằng vặc in sông,
Chắc chi có có, không không mơ màng.
(Huyền Quang dịch?)
Còn trong Võng (Thiền ca 02), ta như thấy trước mắt cái võng đu đưa. Trên cái võng đó có nhân vật “tôi” nằm. Một người nằm võng, thường là để nghỉ ngơi, thư giãn, có khi để ngủ. Chính cái trạng thái ấy đưa con người vào cõi mơ mơ màng màng. Chắc sẽ có nhiều sắc tướng, hình tượng ẩn hiện trong tâm thức. Và cái võng cùng “tôi” khi đu đưa ấy có khác chi con lắc chuyển động trong vũ trụ. Chuyển động, đu đưa từ trần gian đầy cám dỗ, thú vui đến tiên cảnh phiêu bồng; chuyển động, đi khắp mọi cõi, mọi chốn mọi nơi, đi từ cái chết đến cái sống, từ tình yêu đến thù hận, từ an lạc đến khổ đau:
Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa
Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa
Ha, trần gian lạc thú
Ha, tiên cảnh phiêu du
Cõi tử, cõi sinh
Cõi tình, cõi hận
Núi đợi, vực chờ
Niềm vui, nỗi khổ.
Chợt nhân vật “tôi” như xuất hồn vía nhận ra là “tôi” vẫn nằm đó trên võng, nằm im. Và trước linh giác của “tôi” là võng đưa, võng đưa:
Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa
Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa
Tôi nằm đó
Nằm im mọi chỗ…
Khi nghe Thế Thôi (Thiền ca 03), trước mắt tôi hiện lên một vườn hồng. Như mọi người đều biết hồng là loài hoa đẹp. Và tôi nghĩ hình ảnh hoa hồng ở đây tượng trưng cho cái đẹp, cho sự thật. Mà cái đẹp và sự thật luôn có cái giá của nó bởi “Sự thật và hoa hồng đều có gai” (Henry David Thoreau):
Một vườn hồng
Một vườn hồng
Một vườn hồng
Chao ôi, rất nhiều gai đâm.
Rồi tôi nghe tiếp về một cuộc tình. Cuộc tình nào cũng có đam mê, nghĩa tình, bổn phận, nghĩa vụ nên tưởng là bền chặt, thế mà cũng dễ chênh vênh bởi những thứ không đâu vào đâu. Nghe để mà cảm nhận tự răn mình:
Một cuộc tình
Một cuộc tình
Một cuộc tình
Thật bền, rồi cũng chênh vênh.
Trong thực tế cuộc sống, con người luôn đối diện với tiếng khóc. Trong bài hát nói Chữ Nhàn, Nguyễn Công Trứ đã viết: “Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe/ Trần có vui, sao chẳng cười khì?/ Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi/ Chứa chi lắm một bầu nhân dục”!
Rõ là khóc đâu chỉ có khi buồn mà có cả khi vui, khi giận, khi thương, khi ghét. Giọt lệ rơi chứa cả thất tình, lục dục của con người:
Một giọt lệ
Một giọt lệ
Một giọt lệ
Mặn nhạt, đau thương, hạnh phúc.
Nghe đoạn cuối Thiền ca 03, ta như thấy là cái đẹp, sự thật, tình yêu, thất tình, lục dục, trong cuộc đời rồi cũng chỉ là “thế thôi”:
Một cuộc đời
Một cuộc đời
Một cuộc đời
Ừ, chỉ cần thế thôi.
Còn bài Không Tên (Thiền ca 04), hình ảnh đầu tiên được Phạm Duy nhắc đến là một loài hoa không tên, không hương sắc. Tôi rất bất ngờ khi có một loài hoa như thế. Không biết có một loài hoa như thế chăng? Tôi suy nghiệm và linh cảm rằng đây là loài hoa chủ của các chủng loại hoa có trên thế gian này. Loài hoa này, chẳng biết gọi tên là gì vì sắc màu của nó là tổng hợp của tất cả màu, hương của nó là tổng hợp của tất cả hương hoa. Thôi thì cứ gọi nó là “một loài hoa không tên”, loài hoa nở giữa lòng và tôi tạm gọi là “tâm hoa” như Phạm Duy ca ngợi:
Một loài hoa không tên
Không sắc không hương
Mà như lòng tôi
Lộng lẫy thơm lừng
Tỏa ra bốn hướng.
Và người yêu nhạc còn bắt gặp một hình ảnh ẩn dụ “ngọn suối không tên”. Đây là dòng tâm thức khởi nguồn, là dòng đời của con người:
Một ngọn suối không tên
Bé nhỏ ngoan hiền
Mà như lòng tôi
Nổi sóng lên đường
Thành bốn trùng dương.
Cuối bài hát, ta tưởng chừng đó là lời từ cõi lòng vô ngôn, từ Cái Siêu Tôi của Phạm Duy:
Và lòng tôi không tên
Như suối hoa tiên.
Bài Xuân (Thiền ca 05) là sự khởi đầu của một người tỉnh thức, tới được bờ sông giác. Bỏ lại bên kia đời nào là “bội bạc”, “dối trá”, “hận thù”, “chém giết” để “an nhiên hát nhỏ”:
Tôi là tôi, tôi cũng là em
Em là tôi, em cũng là anh
Là Xuân con bướm hút nhụy xuân tình
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.
Còn trong bài Chiều (Thiền ca 06), hình ảnh buổi chiều được đặt tên bài hát, cũng như xuất hiện trong ca từ. “Chiều” gợi nhiều liên tưởng trong tâm thức. Buổi chiều có người cho rằng đó là thời điểm sắp kết thúc một ngày của của trạng thái động, để chuyển dần đến trạng thái tĩnh; là thời điểm con người bắt đầu đối diện với chính mình, tự nhìn lại mình. Trong khoảng thời gian đó, biết bao thứ hiện ra, bao sự việc đã qua, bao con người đã hiện. Và theo tôi, những gì đặc biệt sâu đậm thường được nghĩ đến, hướng đến. Những thứ đó có thể là một việc làm ta bực mình, hoặc vui sướng; cũng có thể đó là nụ cười hiền, hoặc tiếng la mắng của ai đó; và cũng có thể là thành công hay thất bại của một ngày… Thôi thì cứ tạm gọi là “em”, là những gì có quan hệ với ta cho có vẻ dễ chấp nhận để tìm và gặp. Và khi gặp rồi thì:
Ta lôi em về
Ta kéo em đi
Nâng em lên Trời
Đem xuống âm ty
Chôn em trong lòng
Xong lấy em ra.
Khi đã chiêm nghiệm thấu đáo lẽ đời, khi trải qua những gì chứng kiến (Ta tìm em/ Và gặp em), thì dù có gì gì đi nữa, mọi vật, mọi biến động cũng qua (Ta chưa ôm em/ Thì mất em). Rồi cứ thế chiều rồi lại chiều cất lên tiếng lòng:
Trong chiều lên
Có loài người và cây cỏ
Hát êm
Ta tìm em
Và gặp em
Ta chưa ôm em
Thì mất em.
Trong Người Tình (Thiền ca 07), người nghe bắt gặp hình ảnh “người tình tuyệt vời” trong cõi người lấy cột mốc hữu hạn trăm năm. Mới nghe lời ca, tôi tự hỏi chất thiền của ca từ sao đưa con người vào cõi đắm mê sắc dục. Nào là “người tình tuyệt vời”, là người có tình ái “trăm lối nghìn nơi”; có cả “thật thà gian dối”; có “trăm năm tội lỗi”. Như thế “người tình tuyệt vời” quả là quá đa tình, đa đoan, yêu đương cuồng nhiệt, đắm đuối (yêu như hổ đói, hiến dâng cho người, yêu không kịp nói, yêu cũng vội thôi). Chất thiền chỉ hiển hiện đoạn cuối của bài ca. Nghe để mà chiêm nghiệm:
Người tình tuyệt vời
Từ đầu từ cuối
Thắng bại chẳng đòi
Mất còn chẳng ai
Người tình tuyệt vời
Đường tình đi mãi
Thất tình ngày rày
Thỏa tình ngày mơi…
Còn bài Răn (Thiền ca 08), mới nghe, tôi ngạc nhiên lời ca sao lại là những gì trần trụi, như là bản năng của con người. Như là Cái Nó, Cái Tôi ngự trị (“ăn, chơi; sống, chết, khóc, cười, nhớ, quên). Sao gọi đây là thiền ca? Nhưng rồi, nghe đi, nghe lại, nghe cho đến thấm, tôi mới thấy quả là chỉ là người từng trải đời mới viết được những ca từ an nhiên tự tại như vậy. Và tôi nghĩ chất thiền là vậy:
Ăn cho vừa/ Chơi cho thật/ Sống cho thẳng/ Chết cho ngay/ Yêu cho lâu/ Ghét cho mau/ Khóc cho đầy/ Cười cho rõ/ Há há há/ Ha ha ha! Nhớ ơn người/ Quên thù ai/ Nhớ điều buồn/ Quên điều vui/ Nhớ tình này/ Quên tình khác/ Nhớ mình rồi/ Quên mình luôn/ Ha ha ha/ Ha ha ha!
Còn bài Thiên Đường Địa Ngục (Thiền ca 09), là cuộc tình anh đi tìm em. Tìm em ở Thiên đường thấy em đó, nhưng rồi cũng chẳng được gặp em. Lại tìm em nơi Địa ngục; thấy em, nhưng thấy chỉ để mà thấy. Nghe xong bài ca, như ngộ ra rằng:
Tìm em cao thấp chỉ là ảo vọng
Thôi! Ở lưng chừng
Nhớ nhau mà sống.
Nhân Quả (Thiền ca 10) là bài cuối trong chương khúc thiền ca. Ca từ đẹp, gây ấn tượng cho người nghe. Không ấn tượng sao được khi bài ca nói về nhân quả trên trên cõi đời này. Đó là nhân quả của chiến tranh, hòa bình:
Tròn như viên đạn đồng đen
Đã khô vết máu quên miền chiến tranh
Tròn như trái đất yên lành
Muôn loài như một cõi sinh vẹn toàn.
Đó còn là nhân quả của tình yêu, duyên phận:
Tròn anh tim trẻ miên man
Trái tim trăm tuổi mới hoàn cơ duyên
Tròn em tung tóe cánh tiên
Chim không mỏi cánh triền miên phận mình.
Và cuối cùng là nhân quả của “lời hứa chung tình”:
Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều.
Nghe phần cuối bài ca, tôi như thấy một Phạm Duy viết thiền ca mà đa tình quá, nặng nợ với tình quá. Tình ở đây, đâu chỉ là chuyện nam nữ, gái trai, mà đó còn là chuyện gieo duyên gặt nợ của con người trong cõi trần này. Và tôi chợt nghĩ đến nhân quả được nói đến trong Kinh Thánh: “Hãy biết rõ điều đó, hễ ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều” (II Cô 9:6).
Phạm Duy đã tìm thấy an ủi trong siêu nhiên qua 10 bài thiền ca. Ca từ trong 10 bài này như chất chứa Cái Siêu Tôi (The Superego) mà tác giả muốn bày tỏ khi đã trải qua bao biến động. Và tôi thấy ẩn hiện một Phạm Duy quá đỗi yêu thương cuộc đời.
#phan trang hy#phantranghy#phạm duy#phê bình#tiểu luân#Phạm Duy#Phan Trang Hy#PHAN TRANG HY#Thiền ca
1 note
·
View note
Text
Bé Ca, chương khúc dành cho tuổi thơ


Bé Ca, chương khúc dành cho tuổi thơ
Bé ca là một trong những chương khúc được Phạm Duy sáng tác trong nhiều năm. Theo tác giả, việc soạn những bài hát đi từ những bài đồng dao cổ (tức bé ca của thuở xưa), đến việc soạn ra những bài hát mới cho trẻ em, dựa vào sự trong sáng của đồng dao, loại ca này được đặt tên là bé ca. Như vậy, có thể nói Bé ca là chương khúc dành cho tuổi thơ.
Nói đến tuổi thơ là nói đến lứa tuổi lứa tuổi từ khi sinh ra đến tuổi thiếu niên. Nhiều người, khi đã trưởng thành mới thấy tuổi thơ là lứa tuổi đẹp nhất của đời người. Tuổi thơ đẹp nhất vì có niềm vui ngây thơ và mơ ước trong sáng. Và niềm vui, mơ ước của tuổi thơ được Phạm Duy viết trong chương khúc Bé ca.
Trước hết ta bắt gặp niềm vui ngây thơ của lứa tuổi này.
Niềm vui gần gũi nhất, có lẽ là niềm vui gắn với những người trong gia đình, thân tộc. Một bài hát vui kể chuyện đứa bé bắt được con công. Đem biếu ông, ông cho con gà; đem biếu bà, bà cho quả thị; đem biếu chị, chị cho quả chanh; đem biếu anh, anh cho chim tu hú; đem biếu chú, chú cho buồng cau. Nhưng ai ngờ cô chú đánh nhau, chú bé hoảng sợ, nghe lời mợ trả lại buồng cau, xin mọi người hòa với nhau… Quả là, có gì vui bằng sau lúc nông nhàn, những người thân trong gia đình nghe trẻ hát. Hát vui là chính. Vui với những gì mình đang có:
Buồng cau, buồng cau trả chú
Tu hú, tu hú trả anh
Quả chanh, quả chanh trả chị
Quả thị, quả thị trả bà
Con gà, con gà trả ông
Nghe không, nghe không chú bé…
Lấy lại con công, chú bé lấy lại con công
Lấy lại con công, chú bé lấy lại con công
Giữ chặt con công, chú bé giữ chặt con công
Giữ chặt con công, chú bé giữ chặt con công.
(Chú Bé Bắt Được Con Công – Bé ca 04)
Còn đây là niềm vui giản đơn, niềm vui thực tế đối với trẻ nhỏ. Có khác chi chuyện Phú Ông muốn đổi từ ba bò chín trâu, đến ao sâu cá mè, rồi từ bè gỗ lim, đến con chim đồi mồi để lấy cái quạt mo của thằng Bờm. Nhưng Bờm chỉ lắc đầu, cho đến khi được đổi lấy nắm xôi thì Bờm cười. Chỉ cần nắm xôi, chỉ cần có cái bỏ bụng ăn chơi là vui rồi. Tức cười với bài hát được Phạm Duy phóng tác theo bài Thằng Bờm:
Thằng Bợm, thằng Bợm có cái quạt mo
(Phù phu) Phú Ông, Phú Ông muốn đổi (ý)
Ba bò chín trâu, Bợm chỉ lắc đầu.
Thằng Bợm, thằng Bợm nó chỉ lắc đầu
(Phù phu) Phú Ông, Phú Ông muốn đổi (ý)
Ao sâu cá mè, Bợm chỉ nín khe…
(Thằng Bợm – Bé ca 05)
Theo Phạm Duy, năm 1998, hãng sản xuất video Thúy Nga có nhờ tác giả soạn một tiết mục ca múa cho bài “Thằng Bờm” do hai ca sĩ Ái Vân và Kiều Hưng biểu diễn. Và tác giả lại có thêm một phiên bản khác cho bài ca dao cổ này, lấy chủ đề là sự giàu có và sự thanh nhàn. Bài này cũng là bài số 05 trong một video của chương khúc Bé ca và được nhiều người yêu thích bởi giai điệu rộn ràng, tươi vui. Đây là phần cuối của bài hát:
Hà ha ha ha ha ha
Hà ha ha ha ha ha
Thằng Bờm đổi lấy cái quạt mo
Quạt này đổi lấy nắm xôi
Phú Ông phe phẩy cái quạt này
Phú Ông vui với cái quạt này
Cả hai vui quá ha ha!
Nắm xôi vui đời Bờm ha ha!
Cả hai vui quá ha ha!
Phú Ông vui quạt này ha ha!
(Thằng Bờm)
Quả là vui cho Phú Ông và cả Bờm. Phú Ông vui vì có quạt phe phẩy. Bờm vui vì có nắm xôi chắc bụng. Chẳng ai bị thiệt. Và đối với trẻ thơ thế là vui rồi!
Với tuổi thơ, còn gì vui bằng được sống hòa mình cùng thiên nhiên, hòa mình cùng cây cỏ, đất trời, sông suối, núi đồi. Làm sao quên được những lần cắm trại, được tham gia nhiều trò chơi, được đốt lửa trại, múa quanh vòng, hát bài ca yêu thương! Qủa là tuyệt vời với tuổi thơ bởi “vui sướng và tự do, tín ngưỡng đơn giản của tuổi thơ” (William Wordsworth). Và đâu dễ gì quên những lần dã ngoại cùng bạn bè, thầy cô, ba mẹ về miền thôn dã, nghe tiếng gà le te gáy, nghe ếch ồm ộp oang oang, đi qua cầu tre, đi vô vườn dừa, nhìn bao vườn chuối...! Những gì gắn với miền thôn dã ấy hóa thành vườn đời, và lòng trẻ thơ như ươm hoa cỏ, như ươm cây kết trái:
Hầy hồ. Hây hô. Hấy hố
Ta đi trong vườn đời
Hây hô hây hô hây hô
Lòng mình ươm cây kết trái
Ươm hoa ươm cỏ dại
Hây hô hây hô hây hô
Ngọt nhạt hay chua cũng khoái
Ta yêu khu vườn này
Hây hô hây hô hây hô
(Dã Ca – Bé ca 12)
Tuổi thơ ở thôn quê, vào cái thuở chưa có điện, chưa có ti vi, chưa có công viên với những trò chơi giải trí, chưa có internet, chưa có các YouTube v.v… thì có gì ngoài những trò chơi dân gian như bịt mắt bắt dê, chơi ô quan, nhảy lò cò… Còn ban đêm tụ tập cùng nhau nghe kể chuyện, rồi ca hát. Nhất là vào những đêm trăng vui thật là vui. Nhiều khi dưới trăng, đi thì thấy trăng đi theo. Dừng lại, thấy trăng dừng lại. Chạy, thấy trăng chạy theo. Trăng gần gũi, thân tình quá đỗi. Tuổi thơ nào quên được lời ca khi trăng xuống chơi cùng trần thế:
Ông trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho mo
Ông trăng xuống chơi học trò thì học trò cho bút
Ông trăng xuống chơi ông bụt thì ông bụt cho chùa
Ông trăng xuống chơi nhà vua thì nhà vua cho lính
Ông trăng xuống chơi đền thánh thì cụ chánh cho mõ…
(Ông Trăng Xuống Chơi – Bé ca 03)
Nhiều đêm nhìn lên bầu trời, thấy vệt mờ mờ như cây cổ thụ ở trên mặt trăng, trẻ thơ tưởng tượng có Chú Cuội ngồi gốc cây đa, có Chị Hằng ở trên cung quảng cùng với những câu chuyện có tự ngàn xưa. Còn trong Bé ca, Phạm Duy kể chuyện Thằng Cuội vì yêu Chị Hằng nên lên tới mặt trăng. Từ khi Cuội đi, làng xóm thương nhớ Cuội. Và Cuội cũng nhớ quê nhà khôn nguôi. Chị Hằng biết Cuội khó thoát tình với quê nhà nên cho “trần gian một tháng đôi lần trăng chiếu tròn cao”. Những khi trăng tròn sáng khắp trời Nam, trẻ thơ nhìn lên trăng chờ xem Chú Cuội. Thấy bầy chim nhỏ bay đêm, trẻ thơ hỏi đàn chim, là cớ sao chẳng thấy Chú Cuội, Chị Hằng. Thương tình trẻ thơ ngây, đàn chim trả lời:
Từ ngày có hỏa tinh bay
Bay có ba ngày lên tới mặt trăng
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!
Cuội đành đem chị Hằng Nga
Tìm xứ xây nhà không biết ở đâu?
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!
(Một Đàn Chim Nhỏ – Bé ca 02)
Câu chuyện kể bằng lời ca tiếng hát như thế mới vui. Vui mà lý giải được khi có hỏa tinh, phi thuyền vào vũ trụ, vỡ lẽ trên mặt trăng làm gì có Chú Cuội, Hằng Nga, bởi họ tìm xứ khác xây nhà rồi, giờ biết họ ở đâu?
Đối với tuổi thơ, vui nhất và dễ gì quên được là Tết Trung Thu! Làm sao quên được tiếng trống ếch vang dồn; làm sao quên được những lần rước đèn đi khắp làng thôn, phố thị; làm sao quên được hình ảnh ông địa, ông lân múa theo nhịp trống. Và làm sao quên được tiếng cười vui, hát ca trong ngày hội trăng rằm:
Kìa trăng sáng ngời
Đêm rằm Trung, Trung (ứ ư ư) Thu.
Đời vui trống ròn
Tiếng ca lẫy (ý y y) lừng
Từ ngõ ngách làng
Đèn đuốc rước triền miên
Bao người đóng góp
Vui chung một (ư ừ ư) miền
(Em Bé Quê – Bé ca 01)
Trong Em Bé Quê, niềm vui của trẻ thơ đâu chỉ là ngày hội rước đèn Trung Thu. Niềm vui của trẻ thơ còn có trong từng ngày khi bé giúp cha mẹ, gia đình, khi bé tranh thủ học. Chỉ có thương gia đình, thương cha mẹ mới thấy việc chăn trâu không cực nhọc, là dịp vừa vui thú cùng đồng quê, đồi cỏ, là dịp cưỡi trâu bày tập trận, nghêu ngao hát cùng cây cỏ, ruộng nương, nhưng vẫn không quên học bài:
Ai bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chứ
Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao
Vui thú không quên học đâu
Nằm đồi non gió mát
Cất tiếng theo tiếng lúa đang reo
Em đánh vần thật mau…
Chương khúc Bé ca còn thể hiện mơ ước của tuổi thơ. Mơ ước ở trong chương khúc này gồm có mơ mộng và ước mong, ước muốn.
Nói đến tuổi thơ là nói đến lứa tuổi mộng mơ. Không có mơ mộng thì tuổi thơ chỉ là chuỗi những ngày sống trong vô vị. Tuổi thơ có mơ mộng mới khơi mở tâm hồn, để rồi khi lớn lên tâm hồn mới thăng hoa. Con người có mơ mộng thì mới đáng yêu. Cũng vậy, tuổi thơ có mơ mộng mới dễ thương, mới gây cho người khác cái nhìn cái nhìn thiện cảm.
Trong Bé ca, hình ảnh tuổi thơ đầy mơ mộng trong sáng là hình ảnh của em bé vào một sáng mùa Xuân, bên ngôi nhà xanh, trên đồi cỏ, ôm đàn dịu dàng ngây thơ:
Có phải bé là những giọt sương trong?
Ngủ trên bông cỏ, ở giữa cánh đồng
Có phải bé là, là nai mắt ngọc
Tay bé vụng về như tuổi bé không?
(Bé, Cây Đàn, Ngôi Nhà Xanh, Đồi Cỏ – Bé ca 09)
Còn đây là mộng mơ của một bé trên đường đi học. Bé được anh chở đến trường bằng xe đạp từ lúc bình minh mới lên. Rời xóm nhỏ, qua những con đường vòng quanh, ra tới công viên, đường đông đúc những người qua lại. Ngồi trên xe, bé nói huyên thuyên, bé kể chuyện cổ tích thần tiên cho anh nghe. Khi lên con dốc nghiêng nghiêng, người anh cố sức đạp. Thế mà, bé lại xin dừng lại để hái hoa:
Xe lăn bon bon chuông bấm kính coong
Đang đi em xin ngừng lại gốc xoan
Cho em giơ tay em hái hoa đẹp
(Đưa Bé Đến Trường – Bé ca 08)
Tuổi thơ, nhất là tuổi dậy thì, lớn chẳng ra lớn, nhỏ chẳng ra nhỏ. Chỉ có mơ mơ mộng mộng những chuyện đâu đâu. Rất nhạy cảm với những việc chung quanh. Chỉ cần một chút gió, một chút nắng cũng làm xao lòng bé. Chỉ có chút khói vương trong một lần đốt lá cũng làm bé mộng, bé mơ về những kỷ niệm xa xôi có mẹ có cha, có bóng dáng quê hương thanh bình với hình ảnh những cô gái quay tơ, với những cánh đồng ngạt ngào hương lúa, với hình ảnh bến nước, con đò cùng câu hát dân ca:
Bến nước đêm xưa, chuyến đò neo ngủ
Một bài dân ca ấm lòng quê cũ
Ngọt ngào lời ru, mối tình ngàn xưa
Đốt lá trên sân, khói mờ cay tỏa
Nước mắt rưng rưng, anh nhiều mắc cở
Ngọn lửa làm anh mắt mờ thương nhớ
Chỉ làm cho em má hồng đẹp thêm.
Khói, khói lên nhỏ nhoi
Khói lên nhẹ hơi, khói lên lả lơi
Khói, khói lên đầy vơi
Khói lên tả tơi, khói lên mù khơi
Khói, khói lên đẹp ngời
(Đốt Lá Trên Sân – Bé ca 07)
Trong chương khúc Bé ca ta còn bắt gặp ước mong, ước muốn của tuổi thơ. Ước mong, ước muốn ấy là mong trong tiếng đàn của anh không còn niềm đau, nỗi buồn thương tang tóc nơi quê nghèo; muốn tiếng đàn không còn âu sầu, nghẹn ngào bởi những cuộc chia ly. Ước mong, ước muốn ấy còn là muốn tiếng cười của em hòa với trời xanh, hòa với ánh sáng lành của vũ trụ; mong tiếng cười của em chứa bao ân tình, tái sinh Niềm Tin hòa trong tình yêu của mẹ cha, tình thương của đồng bào, giao hòa muôn lòng yêu thương không còn thù hận. Ước mong, ước muốn ấy cứ mãi theo cùng tuổi thơ vừa lớn:
(EM) Ôi tiếng đàn của anh, xin vẫn chẳng hề quên
Những oái oăm về trên non nước ta ngoan hiền
Ôi tiếng đàn của anh, xin vẫn chứa ưu phiền,
Nhưng cũng xin được vơi, vơi bớt chút oan nghiệt
(ANH) Ôi tiếng cười của em, xin vẫn cứ cười vang lên
Ôi tiếng cười của em, xin vẫn mãi mãi êm đềm
Ôi tiếng cười của em trong những tiếng anh đàn
Ôi tiếng đàn của anh trong tiếng cười của em
(HÁT CHUNG) Ôi tiếng lòng của ta, của đôi ta!
(Trong Tiếng Đàn Của Anh, Trong Tiếng Cười Của Em – Bé ca 10)
Trong bài Bé Bắt Dế – Bé ca 06, Phạm Duy hát cho bé nghe, bé biết là, nếu bắt dế về thì chỉ cho nó hát, chứ đừng cho nó đá nhau là phải tình, phải tội. Nghe bài hát này, tôi lại nghĩ đến hình ảnh chú Dế Mèn trong truyện “Dế Mèn Phiêu Lưu Ký” của Tô Hoài. Trong bước đường phiêu lưu của mình, Dế Mèn đã đi nhiều nơi, gặp nhiều loài, thấy cuộc sống muôn màu muôn vẻ; nhiều phen gặp gian nan, nguy hiểm, nhưng Dế Mèn vẫn không nãn chí. Cuối cùng, Dế Mèn ngộ ra là “ai cũng có lòng tốt, ai cũng muốn làm ăn yên ổn” nên Dế Mèn kêu gọi “muôn loài cùng nhau kết nghĩa” và nhiều loài nhiệt tình hưởng ứng.
Còn hình ảnh con dế trong bài hát Bé Bắt Dế có khác chi hình ảnh đứa trẻ vừa mới lớn, sống ở thôn quê, vì chiến tranh nên phải tản cư ra thành phố, sống cuộc sống ăn nhờ ở đậu. Hình ảnh đứa trẻ quê ấy ở nhà bé, xem ti vi thấy phi thuyền lên tận mặt trăng, nó khen con người quả là giỏi giang, nhưng chê con người còn cường bạo, thiếu tình thương. Qua lời bài hát, hình ảnh đứa trẻ quê ấy mang dáng dấp chú Dế Mèn với ước mong, ước muốn cao đẹp vì một thế giới hòa bình:
A! Này bé! Thôi nhé, dế còn phải đi
Đi hát câu vè trên nẻo đường xa
Đi tới quê mẹ nối lại tình cha
Và ca hát câu giải hòa.
Mong muốn của tuổi thơ cũng như bao người là được sống an vui trong cảnh nước nhà thái bình. Mong muốn ấy là khát vọng bao đời của người dân Việt, trong đó có tuổi thơ. Một bài Bé ca khác mượn hình ảnh con chim cất tiếng yêu thương chào đón Việt Nam hòa bình như là tiếng lòng của tuổi thơ nước Việt:
Một con chim nhỏ trên cành yêu thương
Cất tiếng ca đêm Việt Nam vô thường
Nhựa Hòa Bình loang nhành khô héo xuống
Mưa Hòa Bình gột tóc Mẹ sau gương
(Một Con Chim Nhỏ Trên Cành Yêu Thương – Bé ca 11)
Có thể nói rằng, chương khúc Bé ca đã đi vào lòng người yêu nhạc. Xin cảm ơn nhạc sĩ Phạm Duy đã cống hiến những gì đẹp nhất cho tuổi thơ. Hy vọng rằng những bài hát trong chương khúc này còn sống mãi với tuổi thơ Việt Nam.
0 notes
Text
Nữ Ca, chương khúc xưng tụng con gái


Nữ Ca, chương khúc xưng tụng con gái
Trong Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca, Phạm Duy viết: “Nữ ca được soạn ra khi tôi bị lôi cuốn bởi những tờ báo dành riêng cho tuổi ô mai. Nhưng nó cũng được soạn ra để cho con gái yêu là Thái Hiền hát…”. Có thể nói, đây là chương khúc xưng tụng con gái với lứa tuổi tuyệt vời.
Như mọi người đều biết, con người, dù bất cứ ai cũng đều tự hỏi, mình là ai, mình từ đâu đến, sao như vậy mà không thể nào khác v.v… Và con gái mới lớn cũng vậy. Con gái nào không tự hỏi về bản thân? Những câu hỏi của con gái mới lớn là vô vàn thứ. Nào là, sao mình không là hoa lá để khoe sắc màu tươi thắm, cỏ cây hòa điệu thiên nhiên, gió mây để đem mưa cho ruộng vườn thơm nồng hương đất. Nào là, sao không là suối nhỏ cho trăng vàng soi bóng ngàn năm, sao không là sóng reo vui trong lòng biển mênh mông, và sao không là cánh bướm, chân chim, hương phấn dâng hiến sắc màu, tiếng hót, hương thơm cho đời. Và sao không là thời gian vĩnh cữu để hóa giải niềm đau, cho tình yêu có chỗ náu nương. Con gái mới lớn luôn tự hỏi sao mình không là tất cả:
Sao em sao em không là tất cả?
Nay đây, nay đây mai lại về xa
Sao em sao em không là tất cả?
Chung nhau, chung nhau một cuộc tình ta
Sao em sao em vẫn còn mơ mãi?
Sao em sao em vẫn còn chơi vơi?
Tay em phân vân se làn tóc rối
Tay đêm bâng khuâng nhớ mình, nhớ người!
(Tuổi Bâng Khuâng)
Ước mơ của con gái mới lớn có nhiều thứ lắm. Khi tuổi mười hai, mười ba, con gái ước được làm tiên nữ ban phép cho hoa nói tiếng người, ban phép cho người chắp cánh bay trong trời đất. Khi tuổi mười ba, mười bốn, con gái lại ước tâm hồn lãng mạn, hát xây mộng đẹp cho người, hát cõi đời yên vui. Còn khi tuổi mười bốn, mười lăm, con gái thích được đẹp như trăng rằm, có phấn son trang điểm, có áo mới, khăn xinh làm đẹp cho đời. Và khi tuổi mười lăm, mười sáu, con gái ước mơ:
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười lăm, tuổi mười sáu?
Em ước mơ không nhiều, xin một điều yêu dấu
Không ước mơ xa xôi, ước mơ được nên người
Cô gái yêu nước Việt bước chân theo giống nòi.
Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ ngoan!
Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ ngoan!
(Tuổi Mộng Mơ)
Còn gì đẹp bằng tuổi con gái tròn trăng, tuổi của nhiều ước mơ hy vọng, tuổi của thời chớm mộng hồng tươi. Còn gì thơ ngây đáng yêu khi đôi má con gái ửng hồng dù không có nắng, dù chẳng có lửa hồng soi. Còn gì dễ thương khi con gái mắt môi rạng ngời như ánh mặt trời.
Còn hương thơm gì hơn hương thơm con gái trắng trong như hoa chưa hé, nồng thắm thơm mát hương mạ chiều hè, thơm thơm hương bông lau, thơm nồng nàn như sầu riêng, thơm ấm như miếng trầu của bà, thơm hơi ấm tình cha nghĩa mẹ.
Còn gì phơi phới tâm hồn khi con gái có ước mơ bay bổng. Tâm hồn con gái bay vào trời trong, bay vào khoảng trời khoáng đạt. Và lòng con gái hát ca như bước chân vào huyền thoại:
Không ai ca vang ngoài kia trên phố
Không ai ca hát nơi này, phòng nhà
Nhưng trong tim em nhịp vui lia lía
Trong tai em réo muôn vàn lời ca
Chưa ai cho em một câu ân ái
Chưa ai đưa lối hoa mộng đường dài
Em chưa nghe thiên tình ca êm ái
Nhưng em đã bước chân vào huyền thoại.
Tuổi Hồng ơi ý ơi! Tuổi Hồng ơi ý ơi!
Tuổi Hồng ơi ý ơi! Tuổi Hồng ơi ý ơi!
(Tuổi Hồng)
Những trẻ mới lớn, cũng như con gái mới lớn thường thích nghe kể chuyện ma. Mỗi đứa đều có con ma cho riêng mình khi nghe kể. Rõ là chúng thích nghe mà sợ. Nào là con ma hình thù quái gở, thân hình lem luốc, đen ngòm với tóc dài, áo quần tả tơi dơ dáy. Nào là con ma da trắng bệch, nhe đôi răng vàng khè. Với trẻ, có ma nào hiền đâu. Nên khi nghe kể, bọn trẻ đều ngồi sát vào nhau, lấy niềm tin để vượt qua nỗi sợ. Và với loài ma quỷ thì phải đánh thôi để chúng khỏi hại người.
Không chỉ có những con ma trong tưởng tượng mà còn có những con ma khác gắn với đời thường. Đó là những con ma men say sưa, chân nam đá chân chiêu, mắt đỏ ngầu, miệng lảm nhảm càm ràm, hoặc chửi la khắp chốn. Đó còn là ma cờ bạc, đầu râu xơ xác vì không ngủ ngày và cả thức trắng đêm sát phạt chuyện đỏ đen. Đó còn là những con ma túy đói thuốc xanh xao, đờ đẫn, hoặc phê thuốc mơ màng trong cõi mộng du. Với loài ma như thế thì phải đánh thôi để chúng khỏi hại người lương thiện.
Đó còn là những con ma gian ác, ma cô, ma giáo, mafia, ma khủng bố, ma đầu cơ v. v… gieo tai họa cho nhân loại. Với loài ma như thế thì phải đánh thôi để chúng khỏi hại người thiện lương.
Dù sợ ma khi nghe kể chuyện, dù đánh tan tành loài ma vô hình hoặc hữu hình, nhưng con trẻ có một loại ma dịu dàng đó là maman:
Đêm qua em gặp ma, nhưng em đánh cho ma tan tành
Ma vô hình, nhưng chúng mình phải giơ tay đánh
Đêm qua em bình an, ma đánh thức em ngay bên giường
Nhưng ma này, ma dịu dàng gọi là maman!
Hỡi bé! Hãy nên ngoan! Hãy nên ngoan! Hãy nên ngoan!
Đừng cho mẹ mắng! Phải ngoan!
Maman! Hỡi Maman! Hỡi Maman! Hỡi Maman!
Mẹ yêu, mẹ mến, mẹ thương!
(Tuổi Sợ Ma)
Một thời, tôi từng nghe: “Hôm nay em đi chùa Hương/ Hoa cỏ còn mờ hơi sương/ Cùng thầy me em vấn đầu soi gương/ Khăn nhỏ, đuôi gà cao/ Em đeo dải yếm đào/ Quần lãnh, áo the mới/ Tay em cầm chiếc nón quai thao/ Chân em đi đôi guốc cao cao” (Em Đi Chùa Hương – nhạc Trung Đức, phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp). Cô con gái trong bài hát quả là điệu. Đã là con gái từ xưa đến nay đều vậy. Không điệu không là con gái. Ngoài ra con gái cũng thích nũng nịu, làm đẹp, làm duyên. Viết cho Thái Hiền hát khi cô vào tuổi dậy thì, Phạm Duy như hiểu rõ lòng con gái. Nào là con gái xin có chiếc áo dài lụa đẹp như mây hồng, trong nắng chiều nhẹ gót trên phố đón Xuân, để cho bao người nhìn theo khen dáng tiểu thư. Nào là con gái xin có mái tóc dài mượt mà xanh, phơi ngoài hiên nắng, đượm hương nồng, chập chờn gối mộng thần tiên. Và hơn hết là mong con gái có những chuyến xe an lành trong cuộc đời, bắt đầu từ khi em đến trường, rồi đến mai kia, còn lại biết bao kỷ niệm êm đềm đáng yêu:
Xin cho em còn một xe đạp
Xe xinh xinh, để em đi học
Từng vòng, từng vòng xe
Là vòng đời nhỏ bé
Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe
Cho em leo từng con dốc dài
Cho em xuôi về con dốc này
Rồi một ngày mai đây
Từng kỷ niệm êm ái
Chở về đầy trên chiếc xe này!
Xin cho em nhiều thêm chuyến xe êm đềm!
Xin cho em nhiều thêm chuyến xe êm đềm!
(Tuổi Ngọc)
Phạm Duy viết trong Cho tuổi ô mai: “Tôi càng đi vào nữ ca, tôi càng tìm ra những nữ tính như là vu vơ, ngu ngơ, ngù ngờ…”. Nữ tính ấy quả là đáng yêu bởi con gái nào chẳng vậy. Đã là con gái thì hay tủi thân, hay khóc, hay dỗi hờn vô cớ. Con gái cũng ương ngạnh lắm lắm, có lúc thì bĩu môi, nguýt lườm, có khi vùng vằng, lúc thì ngồi thừ, lúc thì co ro nằm, lúc thì dửng dưng, lúc thì náo nức bỗng chốc thoáng buồn, lúc thì nũng nịu, khi thì cáu gắt, lúc đùa vui nhí nhảnh, lúc buồn rầu cụ non, sống nhiệt cuồng, yêu ghét liên miên. Con gái dễ thương cái tuổi ngù ngờ, ơ hờ, ngu ngơ… Con gái tuổi ô mai còn đáng yêu khi lòng mở ra theo gió đi suốt bốn mùa. Đây còn là lứa tuổi thêu dệt mộng đẹp như hoa, tôn thờ tình yêu cao đẹp; là lứa tuổi khát khao dâng hiến tuổi thanh xuân cho lý tưởng thiêng liêng; là lứa tuổi hay ngơ ngẩn, vẽ vời bao chuyện tương lai… Đây cũng là lứa tuổi dại khờ, ngây thơ, mơ mộng. Và đẹp nhất của lứa tuổi này là tuổi của tình yêu thương, nhân ái; là lứa tuổi của lòng vị tha, của lòng xót thương, thật thà, độ lượng:
Tuổi là của tình thương,
Từ con rắn đến voi, đến hùm
Kể luôn tới loài giun, dù nó dữ hay là nó hiền
Có thiên thần, thì cũng có lũ ác quỷ ở bên đó
Thế nên tuổi dành ngu ngơ ở giữa
Tuổi là của vị tha,
Tuổi thương xót biết mấy cho vừa
Tuổi một ngày một xa
Thì hãy giữ cho tuổi không nhòa
Giữa nơi lọc lừa gian trá
Vẫn mang một niềm tha thứ
Sống trong rừng già, nhún bước nai tơ.
Dễ yêu thay cái tuổi thật thà!
Tuổi nhân từ, tuổi đương tơ độ lượng bao la!
(Tuổi Ngu Ngơ)
Khi nghe đoạn cuối của bài Tuổi Ngu Ngơ, ta như thấy tấm lòng của cô gái vừa mới lớn thật đẹp. Có khác chi tấm lòng của ông Bùi Giáng: “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn” (Phụng Hiến).
Trong một bài khác, Phạm Duy xưng tụng cô bé trong tình yêu thương của gia đình, nhà trường, quê hương. Trước tiên xưng tụng cô bé trong tình yêu thương của gia đình. Nào được nép trong vòng tay thương yêu, âu yếm của mẹ, cô bé lớn lên theo dòng sữa thơm, với áo mới mẹ luôn may cho vừa tuổi lớn. Cô bé còn được lớn trong lời dạy dỗ của cha theo từng lời ca dao, câu hát. Cô bé cũng được lớn trong tình yêu thương của anh chị, ông bà cùng với biết bao niềm yêu thương bình dị qua đôi guốc xinh, đôi giày mới sắm, qua từng viên kẹo ngọt lịm tuổi thơ. Cô bé cũng được xưng tụng trong tình yêu học đường. Cô bé sống theo hoa phượng – hoa của tuổi học trò thắm tươi trên sân trường mỗi khi hè đến. Cô bé cũng được lớn lên trong tình yêu thương của thầy cô – những người tận tụy vì tương lai cho học trò. Cô bé cũng lớn lên theo từng cây bút ngọc ngà, theo từng quyển sách thơm trong câu chữ, theo từng cánh bướm ép trong vở với bao mơ ước trong lòng. Đặc biệt, cô bé được xưng tụng trong tình yêu quê hương yên bình có khói lam chiều trên đình làng, thôn xóm; có lúa thơm hương đầy gánh về nhà; có tiếng dân ca trong những đêm trăng thanh gió mát; có dòng sông dài êm trôi theo tiếng còi vào ca. Có tuổi nào đẹp như tuổi cô bé khi nước non thanh bình, quê hương đổi mới, được yên bình trong tâm hiền của Chúa, của Phật:
Tuổi thần tiên có quê hương hòa bình
Một làn khói lam bay ngang đầu đình
Tuổi thần tiên, lúa thơm tho đầy gánh
Tiếng ca dân mình, gạo trắng trăng thanh.
Tuổi thần tiên có con sông thật dài
Và nhà máy to kêu vang hồi còi
Tuổi thần tiên có quê hương đổi mới
Nước non thanh bình cho bé yên vui.
Mùa Xuân đến, lên chùa phát tâm nguyện
Nơi Phật đường, tuổi thêm thần tiên
Mùa Đông đến với đêm Chúa êm đềm
Giáng Sinh về, đẹp tuổi thần tiên.
(Tuổi Thần Tiên)
Tuổi con gái đẹp vô cùng khi lòng yêu thương đời thánh thiện. Nhìn mây trắng bay trên nền trời, ngoài khơi xa, lòng con gái bỗng dưng yêu đời quá đỗi, lòng con gái lại yêu quê hương đẹp ngời, rồi yêu bốn biển năm châu, yêu cuộc sống này từ hôm nay và mãi mãi. Rồi con gái bỗng dưng yêu người từ thôn quê im vắng, đến phố xá đông vui, yêu mến bao người, từ trẻ thơ đến cụ già, từ thầy cô đến bạn bè. Cô gái thấy lòng bỗng dưng vui nhiều vì được mẹ ba thương yêu, nuông chìu, được anh chị em yêu mến. Có gì vui hơn khi được mọi người yêu. Và cô gái như mơ màng trong tình yêu thương ngập tràn niềm vui khôn tả:
Bỗng dưng mơ màng! Bỗng dưng mơ màng!
Tình thương yêu đến ôi sao vội vàng
Tình yêu chất chứa ôi trong buồng tim
Bỗng dưng mơ màng! Bỗng dưng mơ màng!
Một con tim bé bao nhiêu là tình
Chỉ lo nó vỡ con tim đẹp xinh.
Nhưng em không sợ tim mình vỡ toang
Nhưng em không ngại tim mình vỡ toang
Em ca em hát, em vui rộn ràng
Em ca em hát, em vui rộn ràng
Là la la là la la là là…
(Tuổi Xuân)
Con gái lớn lên một chút thì con gái lại buồn vu vơ. Khi con gái buồn chỉ có trời mới biết vì sao buồn. Con gái buồn vô cớ lắm. Buồn cái kiểu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu). Đó là nỗi buồn vô cớ. Còn khi con gái biết buồn, có lẽ là khi con gái chớm yêu. Khi biết yêu mới có những nỗi buồn thành thơ, thành nhạc, thành những kỷ niệm khó quên của thời con gái. Này là con gái buồn khi một sớm mai có mưa cuốn những áng mây kỷ niệm in hình bóng của ai trong vườn hoa tình yêu vừa chớm, khi khung cửa giong mắt nhìn chờ đợi ai kia. Con gái biết buồn khi trên sông tím màu hoàng hôn nhung nhớ, khi mộng ước hồng tươi hóa vàng úa bao nỗi nhớ nhung. Và khi chớm yêu, con gái nao nao buồn tưởng tượng mình là Công Chúa ngoan xinh ngủ trong rừng già có những chú nai hiền, đợi nụ hôn ngọt ngào của chàng Hoàng Tử trong giấc mộng ngọt lành. Con gái cũng buồn nhớ ngày xưa, lúc còn bé với hoa cài trên tóc, chơi những trò chơi con trẻ, nào nấu nướng, nhảy dây, nào trò chơi dí bắt… Và con gái buồn vì tình yêu tan vỡ:
Nhớ lúc vai kề vai, dìu nhau đi giữa hàng dương
Thấy bóng soi hồ trong, ngừng chân dưới gốc đồi thong
Nụ hôn lúc ban đầu Thần Tiên dẫn ta vào,
Ai ngờ… cuộc tình tan vỡ mau…
Buồn đã biết rồi từ thuở biết thương yêu
Tình sẽ lớn dần và buồn sẽ thêm nhiều
Mang những vết thương đi trong cõi đời dài
Ôi tuổi buồn ơi! Tuổi còn mãi theo ta hoài…
(Tuổi Biết Buồn, viết chung với Ngọc Chánh)
Khi con gái qua cái tuổi trăng rằm, qua cái tuổi 17, 18 thì con gái giã từ niềm vui, giã từ mái tóc nữ sinh, giã từ tuổi thơ trong trắng, giã từ niềm vui, nỗi buồn vô cớ, giã từ tuổi mộng, tuổi mơ, tuổi sợ ma, tuổi thần tiên một thuở để thành thiếu nữ đôi mươi:
Ngày em hai mươi tuổi
Tay níu chân cuộc đời
Cho ngừng lời giăng giối
Thời gian cũng đừng trôi.
Ngày em hai mươi tuổi
Mới chớm biết yêu người
Đã buồn vì duyên mới
Rồi đây sẽ nhạt phai.
(Ngày Em Hai Mươi Tuổi…)
Viết chương khúc Nữ ca, Phạm Duy “xưng tụng cái tuổi tuyệt vời” của con gái. Hy vọng rằng, qua chương khúc này, người yêu nhạc biết được tấm lòng yêu thương, quý mến của ông đối với con gái với lứa tuổi tuyêt vời. Xin cảm ơn ông đã để lại cho đời chương khúc như vậy.
1 note
·
View note
Text
Vỉa Hè Ca, chương khúc buồn vui một thuở


Vỉa Hè Ca, chương khúc buồn vui một thuở
Chương khúc của Phạm Duy, thường có 10 bài trở lên như Bé ca, Nữ ca, Tục ca, Đạo ca, Thiền ca… Thế nhưng, chương khúc Vỉa hè ca có số bài ít nhất. Theo Hồi ký của Phạm Duy, chương khúc này chỉ có 2 bài là Sức Mấy Mà Buồn và Nghèo Mà Không Ham (dự định của tác giả có thêm 2 bài nữa là Ô kê Salem và Ô kê Nước Mắm).
Trước tiên, nghe cả 2 bài trong chương khúc này, lời ca mang sự bỡn cợt, đùa vui, bất cần đời của con người trong các đô thị của miền Nam Việt Nam giai đoạn cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ đời thường, lời ăn tiếng nói hằng ngày thành ca từ âm nhạc trong chương khúc gọi là Vỉa hè ca. Bởi như Phạm Duy từng viết trong hồi ký: “Ngôn ngữ vỉa hè Sài Gòn lúc đó là gì? Là Sức mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Ô kê Salem… Cũng chẳng cứ gì anh phụ xe, chị bán hàng rong, chú bé đánh giầy, người lính Cộng hòa – lính mà em – mới chế ra danh từ thời đại. Ngay Tổng thống, Phó Tổng thống, Tướng, Tá, nhà văn, nhà thơ… ai cũng đều nói: sức mấy, sức voi, chịu chơi, Tết Congo…”. Chính ngôn ngữ vỉa hè ấy làm cho 2 bài hát đầy bụi bặm phố thị. Tôi như thấy những con người đang chịu biết bao cảnh đời buồn khổ, bám vỉa hè mà sống, chấp nhận xô bồ, bon chen, chửi bới để mà sống. Cũng phải cười nói cùng nhau sau những lần cãi vả, cũng phải ngồi nhâm nhi ly cà phê, nói chuyện đời, cũng phải gặm ổ bánh mì cho qua bữa, cũng phải nghêu ngao cùng đời cho rõ mặt là dân chịu chơi:
Sức mấy mà buồn, buồn ơi bỏ đi Tám
…………………………………………….
Sức mấy mà buồn! Buồn Giao Chỉ không lớn,
Sức mấy mà buồn! Chịu chơi cả với buồn…
(Sức Mấy Mà Buồn)
Hoặc:
Nghèo mình nghèo mà mình không ham,
Không leo thang mình không ngã xuống,
Nghèo mình nghèo là nghèo như điên
Không ôkê mình không Salem.
(Nghèo Mà Không Ham)
Nếu con người chỉ có bỡn cợt, đùa vui, bất cần đời thì quá thường tình. Có gì đáng nói! Bởi đằng sau những tiếng cười ấy, có thể là những nỗi buồn khó nói thành lời. Bởi “Những gương mặt tươi cười không có nghĩa là nỗi buồn không tồn tại! Điều đó nghĩa là họ có thể chế ngự nó” (William Shakespeare). Vì thế, nghe Vỉa hè ca, ta còn bắt gặp những nỗi buồn chất chứa, ẩn đằng sau tiếng cười của những con người phố thị. Buồn vì coi cải lương, hát bội, xem kịch, xi nê thấy cái gian, cái ác vẫn còn, thấy người hiền lương bị mắc nạn… Buồn vì những ước mơ giản đơn nào có thực ở đời, đôi khi chỉ là mộng hão, viễn vông. Không buồn không được! Buồn như là giải tỏa tâm lý:
Tôi buồn vì tích hát, chuyện phim
Tôi buồn vì những cái hão huyền
Tôi buồn không có cớ là điên
Không buồn lại rước lấy cái phiền!
(Sức Mấy Mà Buồn)
Và nỗi buồn không thể giấu trên gương mặt của bao người Việt, trong đó có Phạm Duy. Một thời, câu thơ của Tản Đà làm day dứt bao người: “Nọ bức dư đồ thử đứng coi/ Sông sông núi núi khéo bia cười/ Biết bao lúc mới công vờn vẽ/ Sao đến bây giờ rách tả tơi?...” (Vịnh Bức Dư Đồ Rách). Và Phạm Duy không thể không buồn khi “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca); buồn vì tranh giành, đấu đá, đánh nhau; buồn vì chém giết không ghê tay.
Tôi buồn vì đấm đá mọi nơi.
Tôi buồn vì chém giết tơi bời.
Tôi buồn vì đất nước tả tơi…
(Sức Mấy Mà Buồn)
Không ai không buồn khi xã hội đảo điên, khi con nhà lành, con nhà rách chẳng có cách gì để đánh giá. Và buồn nhất có lẽ tinh thần AQ như là liều thuốc an thần cho một số người lúc bấy giờ:
Ai ai ai… Ai ai ai…
Ai ai ai… Ai ai ai…
Ai là con là con nhà lành
Ai ai ai… Ai ai ai…
Ai ai ai… Ai ai ai…
Ai là con là con nhà rách.
Không Honda ta cũng đi xa!
Đôi ta không có Đô-la, Ca-va
Ta vẫn yêu ta.
Không Syl-via, ta có Thanh Nga
Aha… Không có Frank Si-na-tra, ta có câu hò
Xê cống xê xang xư ừ.
(Nghèo Mà Không Ham)
Trong chương khúc này còn có sự chấp nhận cuộc sống như vốn dĩ nó vậy, phải vậy bởi thời cuộc, để tìm chút hạnh phúc đời thường. Giàu ai mà không ham, nhưng ham chưa chắc đã giàu. Hạnh phúc đâu chỉ nói đến giàu, nghèo. Thôi thì: “Có hai cách để hạnh phúc: Hoặc giảm mong muốn hoặc tăng sự giàu có – thế nào cũng được – kết quả đều giống nhau, và mỗi người phải tự chọn và đi theo cách mình thấy dễ dàng hơn” (Benjamin Franklin). Và hạnh phúc theo Phạm Duy, chỉ có:
Nghèo mình nghèo là nghèo cho vui
Không lên voi mình không xuống chó
Nghèo mình nghèo của mình không to
Tuy không ‘beau’ mình không xí quá
Sống cho đẹp là mình sống cho đẹp
Chết cho oai là mình chết cho oai
Nghèo mình nghèo là nghèo chơi chơi
Chưa thực ai thực ai là nghèo…
(Nghèo Mà Không Ham)
Chỉ cất tiếng ca vui, cất tiếng cười vui may ra mới hạnh phúc. Chỉ khi vượt qua nỗi sầu, chỉ khi tranh đấu với nỗi buồn thì mới có niềm vui, sự sống. Hạnh phúc nào hơn khi ta cười vui trong sống còn của kiếp nhân sinh:
Sức mấy mà buồn, cười lên để tranh đấu!
Sức mấy mà buồn, vượt ra khỏi cái sầu!
Sức mấy mà buồn niềm vui ở ta đến
Sức mấy mà buồn phải vui để sống còn!
(Sức Mấy Mà Buồn)
Chỉ có 2 bài trong Vỉa hè ca, với ca từ thông tục, nhưng chương khúc này để lại trong tôi một Phạm Duy cười cợt, hát đùa thế sự; trong tiếng đàn của ông chất chứa bao nỗi buồn, vang lên niềm ước mơ hạnh phúc đời thường. Có thể nói, chương khúc này là chương khúc buồn vui một thuở.
0 notes
Text
Tâm Phẫn Ca hay bi ca?

Tâm Phẫn Ca hay bi ca?
Tâm Phẫn ca là chương khúc gồm 10 bài: Tôi Không Là Gỗ Đá (01), Người Lính Trẻ (02), Chuyện Hai Người Lính (03), Đi Vào Quê Hương (04), Nhân Danh (05), Bi Hài Kịch (06), Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (07), Kỷ Vật Cho Em (08), Tưởng Như Còn Người Yêu (09), Bà Mẹ Phù Sa (10). Theo Phạm Duy trong Những Trang Hồi Âm: “Tâm Phẫn ca, cũng còn được gọi là ‘bài ca nổi giận’ (chanson en colère) lần lượt ra đời, phần nhiều là những bài thơ được phổ nhạc. Lý do là vì sau khi Tâm ca và một vài bài Tâm Phẫn ca của tôi được phóng ra thì nó gây một tiếng vang trong đám thi sĩ và nhạc sĩ trẻ. Nhiều bài thơ chống chiến tranh được viết ra, ví dụ thơ của Thái Luân, Tâm Hằng, Luân Hoán v.v… và nhiều bản nhạc phản chiến được soạn ra, ví dụ những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, Miên Đức Thắng v.v…”.
Nghe chương khúc này, trong từng lời ca, đâu chỉ có sự nổi giận mà còn chất chứa nỗi buồn đau của thời đại. Có thể gọi đây là khúc bi ca của một thời chiến tranh trên đất Mẹ Việt Nam.
Trước tiên, ta bắt gặp hình ảnh đau thương của người phụ nữ trong chiến tranh. Đó là hình ảnh của người mẹ, người vợ. Nhiều văn nghệ sĩ phản ánh hình ảnh họ trong các tác phẩm. Và Phạm Duy cũng vậy.
Nghe Bà Mẹ Phù Sa, tôi lại nhớ đến một nhạc phẩm khác viết về Mẹ, đó là Bà Mẹ Gio Linh cũng của Phạm Duy. Tôi đã từng run, tóc sau gáy như dựng đứng, tim như bị ai bóp khi nghe Thái Thanh hát: “Mẹ già tưới nước trồng rau/ Nghe tin xóm làng kêu gào/ Quân thù đã bắt được con/ Đem ra giữa chợ cắt đầu/ Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò! Nghẹn ngào không nói một câu/ Mang khăn gói đi lấy đầu/ Đường về thôn xóm buồn teo/ Xa xa tiếng chuông chùa gieo”. Và tôi cũng từng trăn trở khi đọc một truyện ngắn (tôi đã quên tác giả và tên truyện) kể về một bà mẹ thờ di ảnh 2 con trên một bàn thờ. Một đứa là cộng sản, một đứa là cộng hòa. Cả hai đứa đều được Mẹ thương yêu, tưởng nhớ. Mẹ chẳng bỏ đứa nào vì chúng đều là con của Mẹ! Nỗi đau như trên rõ trong từng chi tiết của từng tác phẩm. Còn trong Bà Mẹ Phù Sa lại khác. Chuyện kể về một bà mẹ ở đất Phù Sa - một xóm nhỏ, nhưng đã nhiều lần đổi thay. Mẹ sống với tấm lòng thương yêu, chưa được mấy lúc mừng, nhưng chẳng thở than. Rồi một ngày (“tháng tám năm sáu mươi hai”), có anh Ba cán bộ về tuyên truyền lập Ấp chiến lược. Mẹ gật gù nghe và xin cảm ơn. Rồi súng nổ vang. Mẹ lùa anh Ba trốn dưới gầm giường. Mẹ ra cười đón khách. “Anh xưng tên là Tư, đi giải phóng xóm làng”. Mẹ gật gù nghe và xin cảm ơn. Trông ra đường mương, thấy Quân đội Mỹ tới gần, “Mẹ lùa anh Tư cũng trốn dưới gầm giường”. Câu chuyện dở chừng:
Tới đây là xong nửa chuyện
Không biết rồi ai sẽ cứu ai?
Ai sẽ cứu ai?
Phạm Duy từng viết: “Chuyện BÀ MẸ PHÙ SA có thể là câu chuyện có thực như chuyện BÀ MẸ GIO LINH. Nhưng chuyện bà mẹ bây giờ khôi hài hơn”. Nghe xong cả bài, với giọng hát Hoàng Oanh, riêng tôi thấy, sự khôi hài trong tình huống này như của vở kịch bị bỏ ngỏ: “Ai sẽ cứu ai?”. Rõ là câu chuyện tưởng hài, nhưng lại cười ra nước mắt. Và theo tôi, chuyện như đùa, nhưng là bi kịch cho Mẹ Việt Nam!
Còn đây là hình ảnh những người phụ nữ có người yêu, có chồng đi lính. Trong Tâm Phẫn ca 08 - Kỷ Vật Cho Em (phổ thơ Linh Phương), là lời hỏi xoáy sâu vào tình cảm bao người: “Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?”; và lời hẹn chỉ là một tương lai không chắc: “Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về”. Khi nghe cả bài ca này, người lính trở về cùng người yêu, người vợ có thể bằng “chiến thắng”, hoặc trở về bằng “hòm gỗ cài hoa”, hay “trên chiếc băng ca”. Người yêu, người chồng trở về có gì ngoài viên đạn đồng đen làm kỷ vật. Viên đạn đồng đen ấy là chứng tích của chiến tranh. Có thể anh ta chết, có thể anh ta bị thương. Người phụ nữ nào không đau đớn khi có người yêu, có chồng như thế. Và còn gì đau xót hơn khi người yêu, khi chồng nói lên sự thật phũ phàng:
Anh trở về dang dở đời em
Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen
Cố quên đi một lời trăng trối, em ơi!
Và đây là nỗi đau xót của người phụ nữ như hóa điên, hóa dại trong Tâm Phẫn ca 09 – Tưởng Như Còn Người Yêu (thơ Lê Thị Ý) khi người yêu, người chồng tử trận:
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Nỗi điên dại ấy ngây ra, trơ ra như thể không còn nước mắt để khóc, để rửa nỗi buồn thương:
Em không nhìn được xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu!
Từng đọc Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm (?), tôi được biết tác phẩm là nỗi buồn thương của người vợ có chồng ra lính. Chỉ có nỗi lòng thương yêu, chờ đợi. Và đặc biệt là hy vọng một ngày chồng trở về trong khúc ca khải hoàn, trong niềm hạnh phúc đoàn viên. Còn trong Kỷ Vật Cho Em và Tưởng Như Còn Người Yêu, người phụ nữ dẫu có thương yêu, chờ đợi, nhưng đâu còn hy vọng. Tất cả đã mất hết! Chỉ có nỗi bi thương còn lại. Và người phụ nữ được gì ngoài khúc bi ca.
Trong chương khúc này, tôi còn bắt gặp nỗi đau của những người lính. Họ là những người lính trẻ chết trận. Chết bất cứ thời điểm nào (“chết trận chiều qua”, “chết trận hồi mơi”, “chết trận ngày mai”, “chết trận ngày kia”). Chết bất cứ ở đâu (“chết trận ngoài khơi”, “chết trận bờ ao”). Cái chết của họ khiến cho cả vũ trụ buồn thương: “Nhiều vị Trời ngồi ôm mặt khóc/ Nhiều vị Thần rủ nhau vụt mất”. Cái chết của họ làm cho loài người nhìn lại chính mình :“Rồi loài người đổi thay hình dáng/ Người trần truồng về thuở hồng hoang…”. Còn lại gì khi người lính trẻ chết trận?
Người lính trẻ chết trận còn đâu
Nên không lâu, nổ vỡ địa cầu
Người lính trẻ chết trận rồi nghe!
Xin nghe đây tận thế gần kề
NGƯỜI LÍNH TRẺ…
CHẾT TRẬN CÒN CHI!
CÒN CHI?
(Tâm Phẫn ca 02 – Người Lính Trẻ)
Nỗi đau của những người lính làm sao nói hết. Nghe Tâm Phẫn ca 07 – Thầm Gọi Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (phổ thơ Ngô Đình Vận), với giọng ca Khánh Ly, tôi như thấy những tiếng gọi thầm, những lời than vãn của kiếp lính, những thằng lính trên những chiến trường khốc liệt. Điệp khúc “Thầm gọi tên mày!/ Thầm gọi tên tao!/ Thầm gọi tên nó!”; “Gọi tên mày!/ Gọi tên tao!/ Gọi tên nó!” cứ lặp đi lặp lại trong ca khúc như lời kinh cầu nguyện cho nhau, và có lẽ đó cũng là lời vĩnh biệt:
Thầm gọi tên mày!
Thằng bạn của tao!
Mày vừa ngã xuống
Hỡi mày chết đi cho người đời
Còn sống yên trong nụ cười
Gọi tên mày!
Gọi tên tao!
Gọi tên nó!
Gọi tên nhau, suốt đời!
Chiến tranh rồi cũng có ngày kết thúc. Những người lính đôi bên rồi cũng phải sống cùng nhau khi tiếng súng không còn. Tôi có dịp xem được tấm hình Hai Người Lính của nhiếp ảnh gia Chu Chí Thành chụp tại Quảng Trị (tháng 04/ 1973) trên một số trang báo cũng như trên Internet. Tấm hình ấy ghi lại phút giây hòa bình sau hiệp định Paris. Hai người lính ở hai đầu giới tuyến khoác vai nhau. Một người là bộ đội Nguyễn Huy Tạo, một người là lính cộng hòa Bùi Trọng Nghĩa. Đâu dễ gì có giây phút thần tiên đó. Thật là kỳ diệu!
Còn trong Tâm Phẫn ca 03 – Chuyện Hai Người Lính (phổ thơ Tâm Hằng) thì lại khác. Chuyện kể có hai người lính chung một làng, cùng yêu ruộng đất Việt Nam, cùng yêu Tổ Quốc Việt Nam, cùng họ hàng, cùng nòi giống Việt, cùng một lòng gìn giữ Việt Nam. Tưởng là họ cùng chung chí hướng? Hóa ra là:
Có hai người lính ruổi rong đường trường
Ngày đêm ủ ấp hờn căm
Có hai người lính ruổi rong đường trường
Cùng đi lùng bắt địch quân
Có hai người lính là hai người hùng
Cùng đi diệt lũ thù chung!
Có hai người lính nằm trên ruộng đồng
Cùng ôm khẩu súng chờ mong
Có hai người lính, một sớm mai hồng
Giết nhau vì nước Việt Nam.
Lời ca như trên không những phẫn nộ, mà còn thở dài, buồn bực. Và có thể nói đó là khúc bi ca của những người lính cùng chung một Mẹ Việt Nam.
Cũng trong chương khúc Tâm Phẫn ca này, ta còn bắt gặp nỗi đau của dân tộc Việt Nam “theo mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca). Quả là xót đau khi con người lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Có nỗi đau nào hơn khi nhân danh yêu nước, thương nòi, khi nhân danh tự do, hạnh phúc, khi nhân danh lý tưởng, khi nhân danh hòa bình mà phải giết người! Nỗi đau như phát điên lên, như cuồng lên:
Vì nhân loại tôi phải giết, phải giết
Giết trọn loài người, giết trọn loài người
Xin nhân danh đường lối hòa bình
Xin nhân danh đường lối hòa bình… giết luôn tôi!!!
(Tâm Phẫn ca 05 – Nhân Danh, phổ thơ Tâm Hằng)
Nỗi đau ấy, cười không ra cười, khóc không ra khóc. Bởi tất cả, theo tác giả, chỉ là kịch. Nói đến kịch sân khấu, thì có tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, sân khấu… làm nên thành công của kịch. Vai trò đạo diễn có tầm quan trọng rất lớn trong kịch. Còn đây là kịch của cuộc đời, thời cuộc. Vở diễn đâu chỉ trên sân khấu - không gian giới hạn, mà vở diễn như có mặt trên quê hương Việt Nam khi đạo diễn đưa tay lên xuống:
Đạo diễn đưa tay lên
Đạo diễn đưa tay xuống
Bi hài kịch bỏ màn
Bi hài kịch chưa xong
Diễn viên rơi nước mắt
Đạo diễn khóc hay cười
Khán giả thì bưng môi
Khán giả thì im hơi
Ôi bi kịch còn dài
Trong hay ngoài sân khấu
Bên trên hay là bên dưới
Ai cũng buồn như nhau.
(Tâm Phẫn ca 06 – Bi Hài Kịch, phổ thơ Thái Luân)
“Ai cũng buồn như nhau” sao gọi là hài kịch. Có chăng cái hài ấy chỉ là trò hề chính trị. Tất cả đều buồn! Và đó là bi ca một thuở.
Bi ca một thuở ấy trong Tâm Phẫn ca làm rõ phần nào Cái Tôi đa cảm của Phạm Duy. Xin đừng gọi đây là Cái Tôi ba phải, được chăng hay chớ! Chính Cái Tôi đa cảm khiến cho con người nhìn đâu cũng thấy có chút gì đó đáng thương, tội nghiệp. Tội nghiệp cho người, tội nghiệp cho mình. Bởi cuộc đời này có biết bao nhiêu thứ giằng xé con người. Quả là bi kịch của cá nhân:
Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai
Đồng cỏ cha tôi, tôi trói gô hình hài
Tôi đào thông hào, trồng cây chông nhọn hoắt
Tôi giơ tay cao, tôi cấu tôi cào
………………………………………………….
Tôi vào quê hương quà tặng nhớ đem theo
Một khẩu Thompson hay chiếc súng cộng đồng
Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát
Mỗi đứa một thằng, dành một phát cho nhau
(Tâm Phẫn ca 04 – Đi Vào Quê Hương, phổ thơ Hoa Đất Nắng)
Chính Cái Tôi đa cảm ấy đã khiến Phạm Duy phải trăn trở và viết Tâm Phẫn Ca 01 – Tôi Không Là Gỗ Đá, tặng Lê Tất Điều. Dù cái chết, như ông viết, là luôn nhìn thấy tận mắt, sờ tận tay, nhưng con người vẫn thản nhiên lạ thường trước những xác người. Đằng sau sự thản nhiên lạ thường ấy là tiếng khóc cho nhau. Khóc vì một Việt Nam đau thương, điêu tàn, vì người dân chết oan, vì binh đao không ngớt:
Tôi không phải là cỏ cây
Tôi không phải là gỗ đá
Nên tôi khóc Việt Nam tôi
Ròng rã ba đời không biết vui
Vì không phải là gỗ đá, cỏ cây, nên Cái Tôi đa cảm không thể im tiếng mà cất lên tiếng nói của lương tâm, tiếng lòng lương thiện. Cất tiếng lên bởi mong cuộc đời này mãi được bình yên:
Tôi không thể nào thản nhiên
Tôi không thể nào im tiếng
Nên tôi thét vào thinh không
Lời nói hãi hùng hơn tiếng bom
Tôi không thể nào miệng câm
Tôi không thể nào tai điếc
Nên tôi khóc và tôi điên
Cho bao giờ đến đời bình yên!
Một thời bi thương của dân tộc qua đi. Một thời đất Mẹ Việt Nam mất những đứa con trong những trận chiến chỉ còn là ký ức. Tâm Phẫn ca – chương khúc bi ca của Phạm Duy - chỉ còn là quá khứ. Biết là thế, biết để mà tin tương lai đất nước quê hương Việt Nam không thể lặp lại nỗi buồn đau ấy, bởi: “Từ trải nghiệm của quá khứ chúng ta rút ra bài học dẫn đường cho tương lai” (John Quincy Adams).
0 notes
Text
Tâm Ca, cái tôi nhận diện của Phạm Duy

Tâm Ca, cái tôi nhận diện của Phạm Duy
Trong Những Trang Hồi Âm, Phạm Duy đã viết: “… Biến cố 11/63 (đánh đổ chế độ Ngô Đình Diệm) kéo theo nhiều xáo trộn trong miền Nam nước Việt. Về mặt chính trị, thường xuyên có những vụ đảo chính, chỉnh lý, xuống đường. Về mặt quân sự, sự có mặt của Quân đội ngoại quốc trên đất nước khiến cho chiến tranh khởi sự leo thang dữ dội. Về mặt xã hội là cả một sự đỗ vỡ về luân lý, sự mất niềm tin. Tôi gọi thời kỳ này là thời kỳ sợ hãi, hoài nghi và khinh thị (le temps de la peur, du soupcon et du mespris). Thời kỳ thần đồng gẫy cánh, cõi tiên lạc lõng, nhạc trời đứt đoạn. Và tâm ca bắt buộc phải ra đời”. Như vậy sự ra đời của Tâm ca là điều tác giả không thể không viết. Chính vì thế, các bài hát trong Tâm ca đều ra đời năm 1965 như là bày tỏ cái tôi của tác giả trước thực trạng quê hương.
Tâm ca 01 - Tôi Ước Mơ (phổ thơ Nhất Hạnh), như Phạm Duy bày tỏ là “nhận diện cái bi đát của xã hội trong giai đoạn ấy”. Cái bi đát của xã hội lúc ấy nhiều thứ lắm. Nào là đạn bom, nào là giết nhau, nào là chết chóc, nào là nhân danh chính nghĩa, dân chủ, tự do… Đủ thứ bi đát. Bi đát nhất, ấy là cái chết hiện hữu trong cả niềm mơ ước. Bi đát nhất, đó là không biết bao giờ được nói mơ ước. Còn gì đớn đau, bi thảm khi con người vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở như mọi sinh vật có trên địa cầu này từ sát na này đến sát na nọ, từ kiếp này qua kiếp nọ mà không được ước mơ! Quả là khủng khiếp khi cái tôi đớn đau nhận diện chính mình:
Tôi, tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở
Tôi, tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở
Nhưng biết bao giờ, biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ.
Trước bi đát đó, t��c giả tỏ thái độ trong Tâm ca 02 - Tiếng Hát To. Tên bài ca quả là đặc biệt. Thái độ của tác giả là cất tiếng hát to. Hát to không phải để cho người nghe chú ý mà là để át tiếng súng nổ trên đồng ruộng Việt Nam, để người nông phu vững tay cày cấy, để cây lúa yên bình lớn dậy, để lời ca xua tan ác mộng, đem giấc ngủ say, cho vơi nỗi buồn đau, thống khổ, để từ quá khứ đến tương lai, lời ca nối lại tình thương yêu, xóa bỏ chia rẽ, hận thù của bao đứa con trên đất Mẹ Việt Nam:
Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già
Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
Lời tôi xây cho vững tay cầy
Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy
Lời ca êm ru giấc ngủ say
Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa
Một miền quê, một miền quê tim héo và khô
Lời tôi ca khâu vá tình thương
Lời hôm qua chắp nối Con Đường
Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn
Lời mai đây cao ngút Trường Sơn.
Tiếng hát to hơn cả mọi thứ âm thanh của sự chết chóc, hủy diệt, to hơn cả hận thù. Tiếng hát to ấy, có khác chi tiếng khóc cảm thông cho bao số phận con người (đứa nhỏ mồ côi ngồi vỉa hè, trẻ bơ vơ giữa vườn hoa, em gái nhỏ đêm đêm son phấn nhạt mờ, …). Và thái độ khóc ở đây như là khóc cho dân tộc mình, cho chính mình:
Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang ngồi vỉa hè
Trẻ bơ vơ, trẻ bơ vơ đi giữa vườn hoa…
Tôi sẽ khóc cho em gái nhỏ theo mụ chủ nhà
Một chiều mưa, một chiều mưa đi trong ngõ bùn nhơ…
Tiếng hát to ấy chẳng là gì so với lời ca vui, yêu đời của toàn dân trên đất Việt khi đất nước thanh bình, khi dân chúng thảnh thơi, hạnh phúc. Và điều tác giả nhận ra rằng, tiếng hát to ấy cũng chỉ là quá nhỏ so với lời nguyện cầu, lời thương yêu nhau, lời của muôn trùng, của thiên nhiên, lời của tình yêu muôn thuở:
Tôi sẽ hát to nhưng hát nhỏ như lời nguyện cầu
Lời yêu nhau, lời thương nhau cho đến dài lâu
Lời tôi ngoan như tiếng trùng kêu
Lời tôi vang như tiếng chuông chiều
Lời tôi cao như tiếng ngọn diều
Lời tôi sâu như tiếng tình yêu
Lời tôi sâu như tiếng tình yêu…
Còn trong Tâm ca 03 - Ngồi Gần Nhau, Cái Tôi nhận diện có ngồi bên nhau, có nắm tay nhau, nói nhau nghe mới thấy người từ bi - lũ giết người, giun dế - hùm beo, người hùng - lũ cướp, sự sống - cái chết, niềm vui – nỗi buồn, yêu thương – thù hận cũng chỉ là hai mặt của cuộc đời. Chỉ có yêu thương, kết đoàn mới xóa tan bạo tàn, mới nghe tiếng lòng của nhau được. Có thế Cái Tôi mới là Cái Ta:
Ngồi gần ngồi gần nhau, đây đó chung quanh địa cầu
Ngồi gần ngồi gần nhau, trong kiếp xưa, trong đời sau
Ngồi gần ngồi thật lâu, cho đến hai ngọn đầu
Thành một người trong nhau nguyện cầu
Ngồi vào một thế giới, không xấu tốt buồn vui
Ngồi vào niềm chơi vơi, không có sắc mầu phai
Ngồi vào đời không mới, không rách nát tả tơi
Một mình ngồi trong cái TA
Một mình ngồi trong cái TA
Một mình ngồi trong cái TA.
Tâm ca 04 - Giọt Mưa Trên Lá là sự nhận diện về tình yêu. Cho nên mỗi lần nghe nó, tôi như cảm từng giọt, từng giọt mưa mang bao hình ảnh yêu thương của mọi vật ở thế gian. Trong từng giọt mưa ấy, tôi thấy hình ảnh người mẹ vật vã khóc, nước mắt đầm đìa trên xác con lạnh giá; tôi cũng thấy hình ảnh người vợ mừng rơi nước mắt khi chồng trở về sau chiến tranh; tôi còn thấy nước mắt mừng vui của bao người khi đứa bé khóc tiếng chào đời; tôi được thấy hình ảnh của bao người thầm thì yêu nhau từ thuở thanh xuân đến khi tóc trắng. Và trong từng giọt mưa rơi trên lá, tôi như nghe tiếng nói thầm thì, tiếng nói tinh khôi của Phật, của Chúa vì trần gian, vì con người đầy tội lỗi này:
Giọt mưa trên lá tiếng nói thầm thì
Bóng dáng Phật về xoa vết thương trần thế
Giọt mưa trên lá tiếng nói tinh khôi
Lúc Chúa vào đời xin đóng đanh vì người.
Và đặc biệt, giọt mưa trên lá ấy, tôi như thấy đôi lứa bỡ ngỡ khi gặp nhau lần đầu, như thấy đôi lứa xôn xao tiếng lòng khi cất tiếng yêu, như thấy dáng điệu cuống quít vụng về nhưng đầy say đắm như khi mới yêu nhau. Tôi cũng thấy dáng điệu bối rối của kẻ đang yêu, tôi như nghe được hơi thở bổi hổi, bồi hồi khi hòa nhịp yêu thương:
Giọt mưa trên lá bối rối, bồi hồi,
Ráo riết, miệt mài, em (anh) biết yêu lần cuối.
Giọt mưa trên lá bỡ ngỡ, xôn xao,
Cuống quít, dạt dào, anh (em) biết yêu lần đầu.
Tâm ca 05 - Để Lại Cho Em (lời Nguyễn Đắc Xuân) là sự nhận diện về quê hương, đất Mẹ Việt Nam. Thời cuộc biết bao biến đổi, biết bao đớn đau mà quê hương gánh chịu. Đất Mẹ Việt Nam còn lại gì ngoài “gia tài của Mẹ là nước Việt buồn” (Trịnh Công Sơn). Thế nhưng, với tình thương yêu hy vọng quê hương sẽ đẹp xinh, oai hùng, hiển hách trong sự chung sức chung lòng tranh đấu của người dân Việt:
Nhưng em thương anh, thương anh em đón nhận gia tài
Nhưng em thương anh, thương anh ta cùng gom sức mới
Nhưng em thương anh, thương anh xin nhận lời tranh đấu
Nhưng em thương anh, thương anh đi tìm lối thoát cho nhau.
Tâm ca 06 - Một Cành Củi Khô là sự nhận diện giá trị của mọi vật quanh ta. Từ “một cành củi khô”, đến “một tờ lá úa”, từ “một hòn cuội to” đến “một làn bụi mờ”, từ “một ngọn cỏ may” đến “một vài miếng giấy”, từ “một hạt mưa bay” đến “một giọt sương mai” và còn biết bao thứ nhỏ nhoi của sinh trùng, biết bao thứ huyền diệu của đất trời đến hình hài tuyệt mỹ của giai nhân đều có quan hệ tương tác, đều có ý nghĩa đem đến sự an lạc, hoan hỉ với tác giả:
Một mảng vai non. Một vòm tóc sáng.
Một vành tai ngon. Một cổ tròn tròn.
Một làn mi cong. Một vùng má nóng.
Một hàm răng trong. Một bàn tay thuôn.
Cuộc đời quanh đây mừng là biết mấy.
Tình đầy trong tay và tình ở ngoài.
Ở gần bên tôi hàng nghìn thế giới.
Cùng nhờ nhau thôi, để buồn hay vui.
Cuộc đời quanh đây mừng là biết mấy.
Tâm ca 07 - Kẻ Thù Ta, theo Phạm Duy, đây là sự nhận diện kẻ thù. Nghe cả bài ca, ta nhận diện kẻ thù ấy là “gian ác”, “vô lương”, “hận thù”, “lũ ma”. Kẻ thù ấy còn là kẻ nhân danh chủ nghĩa, tự do. Nó là “vu khống”,”vô minh”, “lòng tham”, “tị hiềm”, “ghét ghen”… Kẻ thù ấy cũng chính là ta. Sự nhận diện kẻ thù nằm trong ta chính là sự nhận diện cái tà, cái ác, cái xấu của chính mình để tự răn mình, hướng về cái chính, cái thiện, cái đẹp:
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai.
Tâm ca 08 - Ru Người Hấp Hối, theo Phạm Duy, là sự nhận diện cái chết. Còn riêng tôi thì nghĩ, đó là lời cầu nguyện giúp con người bình an trước cái chết. Cái chết rồi sẽ đến bất cứ ai, đủ cả kiếp người, đủ cả loại người. Qua lời ru, người hấp hối, có lẽ sẽ nhận diện được kiếp người có chi đâu ngoài bộn bề, bon chen, xô bồ lọc lừa, mới thấm thía giữa mê và tỉnh, mong được an bình, thanh thản đón nhận cái chết như một sự hẹn hò:
Ôi cái chết tuyệt vời, đến với đời người
Giữ vững một lời, cái chết nghìn đời chẳng hề phai
Ôi cái chết thật thà, cái chết mặn mà
Đến đúng ngày giờ, cái chết hẹn hò tự ngàn xưa!
Cái chết hẹn hò từ nghìn xưa…
Tâm ca 09 - Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe là sự tự đánh giá cái tôi của Phạm Duy. Cái tôi ấy quá tự do, thật thà, đáng yêu, không so đo, vụ lợi (“Cứ muốn đi về nẻo đường mình thường mong ước”; “Cứ cố tin rằng lòng người còn trong, còn trắng”; “Nhất quyết yêu người, cả người thực thà, gian dối”; “Cứ cố yêu người dù rằng người đang lừa người”). Cái tôi ấy cũng mê lụy tình yêu, thương yêu bè bạn, người thân (“Mới chớm yêu đời lại buồn vì đời mau hết”; “Mới biết ái tình là ngờ mình yêu còn ít”; “Quyến luyến bạn bè để rồi về nhà mong nhớ”; “Cứ thích la cà để rồi chợt thương người nhà”). Cái tôi ấy lại chương chướng, gàn gàn, cứng đầu, cứng cổ (“Cứ nói những lời mọi người hằng ngày không nói”; “Cứ chối không làm đàn cừu làm con vẹt nữa”; “Cứ hát những lời buồn rầu mà người ta giấu”; “Cứ hát vui đùa chọc cười người quên nụ cười”). Cái tôi ấy còn là cái tôi trung dung, bao dung, nhân ái (“Đứng giữa hận thù chỉ ngờ mình là Horace”; “Chiến đấu quân thù mà tìm chưa ra thù ghét”; “Thấy máu quân thù chỉ buồn và thề không uống”; “Thấy xác lăn quay không say không thích phanh thây”). Thời cuộc bấy giờ, dễ mấy ai chấp nhận như thế! Dẫu không ai chấp nhận, nhưng Phạm Duy vẫn sống hết mình:
Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!
Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!
Thương tôi thương tôi cho sống say mê
Không thương không thương xin giết tôi đi!
Bởi sống hết mình, nên đối với Phạm Duy chỉ có đem lời hát đến với mọi người, thông qua đó kêu gọi mọi người cùng mình cất lên tiếng hát trong Tâm ca 10 - Hát Với Tôi. Lời kêu gọi mọi người cùng hát cùng tác giả trong mọi thời khắc, tình huống. Có thể đó là điệu hát âm vang trong niềm vui, nỗi buồn, khi đời tròn hay méo. Hoặc đó là tiếng hát vang vang khắp chốn từ vỉa hè đến nơi ở, từ biển vàng đến ruộng đồng xanh ngát, hát trong niềm tin yêu còn mãi. Đó còn là tiếng hát từ khi thoát thai làm người, hoặc đến lúc sắp từ giã cõi trần. Hát hết mình vì tình yêu đôi lứa, hát không phân biệt trẻ già, hát cho vươn tiếng lòng khắp chốn, mọi nơi:
Hát với tôi trong cõi tim sâu xa tuyệt vời
Hát với tôi vươn mãi ra đến tận mù khơi
Đừng thèm nhờ máy hát lạ tai
Đừng thèm nhờ ai hát hộ ai
Để lòng mình dâng lên miệng hát đầy vơi.
Nghe bài này ta như thấy một Phạm Duy vừa đàn vừa vỗ tay, vừa khích lệ mọi người cùng ông cất lên tiếng hát, tiếng hát của người Việt Nam:
Hát với tôi nào! Hát với tôi nào!
Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát
Hát với tôi nào! Hát với tôi nào!
Hát với nhau những lời của người Việt Nam.
Viết những điều như trên về 10 bài Tâm ca của Phạm Duy như là một phần nhỏ nhận diện “cái tôi” của Phạm Duy. Dù ra đời trên 55 năm, nhưng ca từ trong Tâm ca vẫn ám ảnh người nghe, vẫn thấy như Phạm Duy hát về chính cuộc đời của ông, của dân tộc này, đất nước này.
0 notes
Text
Bình Ca, chương khúc khát vọng hòa bình

Bình Ca, chương khúc khát vọng hòa bình
Trên trang phamduy.com, Phạm Duy viết: “… sau Bé ca và Nữ ca, tôi soạn Bình ca”. Cũng theo Phạm Duy, Bình ca là chương khúc ‘hoan ca’ (song of joy). Qua những lời ca vui tươi, theo tôi, chương khúc này thể hiện khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Trước hết, khát vọng hòa bình thể hiện qua giấc mơ về hòa bình. Giấc mơ ấy có tiếng cười nói thay cho sự im lặng đáng sợ, thay cho những gương mặt giấu che. Giấc mơ ấy làm cho lòng người bao dung, thánh thiện: yêu ông láng giềng, nhìn ai cũng thấy quen, yêu cả người oán ghét. Giấc mơ ấy là giấc mơ tiên – giấc mơ quá đẹp:
Dường như nghe đâu đây tiếng người
Ngày hôm qua im tiếng im hơi
Người xưa nay thường che mặt lại,
Bỗng hôm nay không ai là không cười
Dường như tôi yêu ông láng giềng
Người xa xôi ai cũng như quen
Còn yêu thêm cả người oán ghét
Giấc chiêm bao là giấc mơ tiên
Là giấc mơ tiên! Là giấc mơ tiên!
(Dường Như Là Hòa Bình – Bình ca 03)
“Là giấc mơ tiên”! Giấc mơ của bao người mơ sống yên bình. Giấc mơ ấy còn là giấc mơ hiền của mùa Xuân, của đất trời trong lòng người. Hòa bình qua mùa Xuân bắt đầu từ chuyện trăm năm của truyền thuyết năm mươi con xuống biển, năm mươi con lên non, cùng chung chuyện sống chết:
Xuân huy chan hòa trên khắp quê hương
Nắng chói gia đình huyền bí trăm con
Năm mươi người xuống
Năm mươi người lên
Đến lúc gặp chỗ hàn huyên
Xuân phong đem về tin tức vui chung
Gió mát cho lòng rộng rãi thong dong
Chung nhau cuộc sống
Chung nhau cuộc chết
Và quyết định cưới Xuân liền!
À ạ ơi! À ạ ơi!…
(Xuân Hiền – Bình ca 05)
Giấc mơ về hòa bình, ai không muốn. Giấc mơ ấy vĩ đại biết chừng nào! Hòa bình quá thiêng liêng! Hòa bình cũng bình dị, có nghĩa là tiếng súng không còn, chiến tranh không còn, khi ấy vợ chồng mừng vui trong nước mắt, cha mẹ gặp con trong nỗi chờ mong, anh em, đồng bào không còn là kẻ thù của nhau, và mọi người nắm tay đồng lòng xây đắp tương lai:
Ngày chấm dứt chiến tranh, vợ gặp chồng
Ngừng tiếng súng khiến cha mẹ gặp con
Anh em ta không coi nhau là thù
Tay trong tay tương lai ta trùng tu
Này hỡi, hỡi Hòa Bình!
Này hỡi, hỡi Hòa Bình!
(Ngày Sẽ Tới – Bình ca 10)
Giấc mơ hòa bình mãi là giấc mộng đẹp của bao người. Người yêu nhạc một thời mơ hòa bình, yêu câu hát: “Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quắt/ Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình/ Lệ nhạt nhòa đôi mắt long lanh/ Nghe tin con vẫn còn ngày xanh” (Hoa Cài Mái Tóc, Thông Đạt). Vui biết chừng nào khi Mẹ nghe tin con còn sống để cùng chờ đón hòa bình. Còn Phạm Duy có cách nhìn riêng là con sẽ ru Mẹ trong ước mơ, mộng đẹp hòa bình. Bởi Mẹ nào ngủ được bởi đạn bom. Giấc ngủ Mẹ muộn màng bởi lúc nào Mẹ cũng cầu nguyện cho con yên bình, bởi mắt Mẹ luôn ngóng chờ con về trong vòng tay của Mẹ. Còn khi hòa bình đến, con ru Mẹ trong giấc ngủ thanh bình để bù lại những gì Mẹ đã dành cho con. Con ru Mẹ, chia giấc mộng ngày xanh của con thành mộng lành, mộng ngoan cho Mẹ:
Mẹ năm mươi tu���i thiếu mơ
Con hai mươi tuổi nằm chờ mộng xanh
Từ nay giấc ngủ thanh bình
Con chia cho mẹ mộng lành, mộng ngoan
……………………………………………
Mẹ ơi! Giấc ngủ muộn màng
Con xin ru mẹ một ngàn lời ru.
Ù ơ tiếng hát Nguyễn Du
Vần thơ sáu tám hát cho hòa bình
(Ru Mẹ – Bình ca 06)
Chiến tranh rồi sẽ qua. Những ác mộng sẽ qua để chỉ còn địa đàng nơi chốn yên bình. Những đau thương, tức tối, giận hờn, oán ghét trở thành quá khứ. Bỏ lại bên đời buồn phiền, hối tiếc, ăn năn. Chỉ còn người yêu người qua da thơm ngọt, qua môi ngon lành giấc mộng tình yêu:
Nào người yêu giã từ ác mộng
Ta đưa nhau tới cõi địa đàng
Một vườn thiêng thơm mùi da ngọt
Môi ngon hơn những trái đào tiên
Nào người yêu giã từ dĩ vãng
Thôi đau thương, tức tối, giận hờn
Nào người yêu giã từ oán ghét
Thôi ăn năn, hối tiếc, buồn phiền
(Giã Từ Ác Mộng/ Địa Đàng Tìm Thấy – Bình ca 08)
Mộng dữ không còn. Địa đàng hiện hữu. Và chỉ thấy người hân hoan trong cảnh hòa bình, cất tiếng ca ngợi hòa bình, có khác chi con chim gầy, ốm yếu bao sáng mai vắng tiếng cười vui, bỗng cất tiếng líu lo, líu lo vì hòa bình về trên quê hương:
Này em con chim lười
Nhiều năm chim đau phổi
Buổi sáng vắng tiếng chim cười vui
Này em con chim gầy
Chiều bay chim đứng dậy
Và nó hát líu lo thật dài
Cũng vì hòa bình đã về đây
Cũng vì hòa bình đã về đây.
(Bình ca 01)
Khát vọng hòa bình còn đặt vào niềm tin. Niềm tin ấy là Đức Tin. Đức Tin chỉ có được khi mỗi con người tin tưởng nhau, thương yêu nhau, phải thật sự là con người của hòa bình. Tâm có bình, thì vật mới bình bởi “Chúng ta không bao giờ đạt được hòa bình trên thế giới, ngoại trừ chúng ta phải thực sự có hòa bình trong chính mình” (Dalai Lama). Chỉ có thái hòa khi có lời chào bình yên:
Tôi chào đất nước tôi nay thái bình
Tôi cúi lưng xin chào anh
Tôi đứng lên, tôi chào em
Tôi vói lên cao, chào Đức Tin
Tôi chào sáng sớm, ban trưa, xế chiều
Đêm về vẫn cứ chưa thôi cúi chào
Tôi thấy trong tôi mừng reo
Tôi thấy chung quanh chào nhau
Tôi cũng không quên chào đứa tôi đâu
Lời… lời chào bình yên!
Lời… lời chào bình yên!
(Lời Chào Bình Yên – Bình ca 07)
Đức Tin ấy còn là Chúa, là Phật. Không như Trịnh Công Sơn thở dài, hờn dỗi vào Chúa, vào Phật khi chiến tranh liên miên trên đất nước Việt: “Chúa đã bỏ loài người/ Phật đã bỏ loài người…” (Này Em Có Nhớ), Phạm Duy lại tin lòng nhân ái của Chúa sẽ đem hòa hiếu đến cứu thế gian:
Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!
Nhân ái ban xuống đời
Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!
Cho hiếu hòa khắp nơi
(Chúa Hòa Bình – Bình ca 09)
Và khi hòa hiếu khắp nơi, con người mới an bình. Đón hòa bình, người còn lại sau cuộc chiến sẽ an nhiên, tự tại trong tình yêu thương của Chúa, của Phật:
Sống sót trở về, linh mục dựng gác chuông
Chúa giáng ơn lành cho bổn đạo bốn phương
Sống sót trở về, nơi Phật đài ngát hương
Tiếng mõ chen vào lời thượng tọa sót thương.
(Sống Sót Trở Về – Bình ca 02)
Khát vọng hòa bình còn thể hiện niềm tin vào một nước Việt Nam thống nhất. Niềm tin ấy đã từng được Phạm Duy đem vào trường ca Con Đường Cái Quan. Và giờ, trong chương khúc này, ông nói bằng tình cảm của người từng trải qua bao thăng trầm của thời cuộc:
Dường như nay quê hương có một
Từ bao lâu sống chết chia đôi
Dù con tim này rộng phơi phới
Cũng xin mang một nước non thôi
Một nước non thôi
Một nước non thôi.
(Dường Như Là Hòa Bình – Bình ca 03)
Còn gì vui bằng nước non là một, Bắc Nam là một nhà Việt Nam. Tình yêu trong hòa bình trọn vẹn. Đôi ta ra nghe Thu Hà Nội mộng mơ, đưa nhau vô Nam coi mặt trời tỏa nắng hiền hòa:
Ngày sẽ tới nước non thôi là hai
Ngày thống nhất, Bắc – Nam đi lại rồi
Anh đưa em ra nghe Thu Hà Nội
Em đưa anh vô Nam coi mặt trời
(Ngày Sẽ Tới – Bình ca 10)
Hòa bình có được khi tình yêu thương rưới nhuần khắp trên quê hương cằn cỗi, đau thương, trên địa cầu tăm tối, dối gian, trong lòng người đớn đau, tội lỗi. Chỉ có tình yêu mới đem yên bình đến với thế gian. Hòa bình là nhờ tình yêu thương của nhân loại:
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần hoa nở
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần ngực thở
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần cửa mở
Xin tình yêu giáng sinh
Tình yêu của chúng mình.
(Xin Tình Yêu Giáng Sinh – Bình ca 04)
Nghe xong chương khúc Bình ca mới thấy khát vọng hòa bình mãi là khát vọng muôn đời của người dân Việt Nam. Và tôi tin chắc rằng: Ngày sẽ tới, mỗi khi nghe Việt Nam/ Toàn thế giới sẽ ăn ngon ngủ ngoan/ không nghe thêm, nghe thêm câu chuyện buồn/ Nhưng nghe lên, nghe lên chuyện thần tiên/ Này hỡi, hỡi Hòa Bình! Này hỡi, hỡi Hòa Bình! (Ngày Sẽ Tới –Bình ca 10).
0 notes
Text
Rong Ca, chương khúc người tình trăm năm

Rong Ca, chương khúc người tình trăm năm
Trong Hồi ký của mình, Phạm Duy bày tỏ: “Nếu tôi còn muốn tiếp tục làm người hát rong thì tôi phải làm cái gì khác”. Làm cái gì khác ở đây, chính là sự ra đời của chương khúc Rong ca gồm 10 bài mang tên chung là Người Tình Già Trên Đầu Non hay là Hát Cho Năm 2000. Đây là chương khúc mang tâm sự của Phạm Duy. Cả chương khúc đọng lại cái tình của người hát rong trong cõi nhân sinh.
Kiếp người có bao lâu? Đời người buồn vui ấy chốc? Trải qua dâu bể cuộc đời, ngoái nhìn lại còn gì, được gì trong kiếp nhân sinh. Cuộc đời của con người nào thoát được sống, chết. Trong vòng sinh, tử của kiếp người, có kẻ buồn, có người vui, có kẻ đớn đau, có người hạnh phúc. Trăm năm có là bao, có chăng là bóng câu qua cửa, là giấc mộng Nam Kha, giấc mộng đầu non, cuối bãi, giấc mộng của cuộc lãng du, rong chơi, phiêu bồng…
Trăm năm có là bao với nụ hôn vội vàng, với hẹn non thề biển. Có là bao với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông chạy vòng theo tuổi tháng năm, theo sợi tóc mềm ngày xanh đến bàn tay rẩy run đếm từng sợi tóc trắng. Có là bao khi đợi khi chờ hò hẹn trăm năm, chờ đợi kẻ tình si muôn thuở.
Dẫu trăm năm chẳng là bao, nhưng tình yêu ta dành cho nhau là thật. Tình của đôi lứa yêu nhau là thật. Thật như lời ca dao cũ ngày nào: “Muối ba năm muối đang còn mặn/ Gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta nghĩa nặng tình dày/ Có xa đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Thôi thì cứ hẹn cùng nhau dầu thời gian nặng cả kiếp người theo kiếp hóa sinh:
Người tình già trên đầu non
Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn
Giữa đám mây xanh xao chập chờn
Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn
Người tình già trên đỉnh khơi
Muốn lãng quên trăm năm một đời
Nhưng dưới thế gian mênh mông vời vợi
Người chợt nghe tiếng em chờ đợi…
…………………………………………
Rồi hẹn rằng sẽ về thăm
Lúc đã trăm… năm
Và người tình sẽ từ khơi
Xuống núi vui… chơi
Rồi lại từng thế kỷ sau
Cứ hóa sinh… theo
(Người Tình Già Trên Đầu Non – Rong ca 01)
Trong bài hát Trăm Năm Bến Cũ, Phạm Duy phổ thơ Lưu Trọng Văn có đoạn: Nào đâu có trăm năm, đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi? Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ? Biết là vậy, nên hẹn được thì cứ hẹn. Yêu được thì cứ yêu. Xin bỏ lại qua những nhỏ nhen, bộn bề, vật vã, hận thù để đón nhận yêu thương. Bởi yêu thương nhau, hẹn cùng nhau cho trọn trăm năm cũng chỉ là lời mong cầu hạnh phúc, dẫu biết tình yêu cũng vô thường như bao chuyện xưa nay, như sao Hôm, sao Mai, như trăng tròn rồi lại khuyết. Trăm năm chỉ là thoáng chốc có chăng những gì đọng lại là tình thiên thu:
Còn gì đâu cho một tình yêu
Còn gì nhau cho một đời sau
Hẹn nhau sẽ nâng niu ngày tới
Năm 2000 với trăm năm thật dài
Được gọi tên thế kỷ nào đây?
Trăm năm tình ái hay trăm năm ngậm ngùi?
(Hẹn Em Năm 2000 – Rong ca 02)
Trong tôi lại thấy một Phạm Duy, vác cây đàn ghita trên Con Đường Cái Quan đi khắp đất nước hát những bài hát về tình yêu quê hương, về lứa đôi, về con người Việt Nam của mọi thời đại. Một thời ông hát Bà Mẹ Quê, Bà Mẹ Gio Linh, Bà Mẹ Phù Sa. Một thời ông cùng mọi người hát về Mẹ xưa, tích cũ trong trường ca Mẹ Việt Nam. Và những năm 2000, ông vẫn hát về Mẹ. Hát để mà chờ đợi tương lai. Hát để tin yêu tương lai một nước Việt Nam rạng rỡ trong tình người hiến dâng:
Cùng nhau tha thiết đưa Mẹ tiếp nối
Dĩ vãng huy hoàng Mẹ đã vun trồng
Mẹ đang đi vào cuộc đời đang tới
Mẹ đang đi vào thế kỷ ngày mai
Duyên may phận đẹp tình người dâng hiến
Sinh trai Việt hùng và gái Nam hiền…!
(Mẹ Năm 2000 – Rong ca 03)
Đi qua những tháng năm phiền muộn, đi qua những phút giây hạnh phúc, hát lên khúc hát về cuộc đời, rồi chỉ một sát na ngộ ra: “Trăm năm còn có gì đâu/ Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” (Nguyễn Gia Thiều). Cuộc đời ai rồi cũng một lần chết. Có chăng chết như thế nào. Chết vì già, vì bệnh là thường tình. Chết vì chiến tranh, vì đói, vì chủ thuyết mới là bất thường. Những nấm mồ tập thể, những nấm mộ buồn hiu hắt ở nghĩa trang ghi dấu thời gian qua từng phần mộ. Này đây, là mộ những người chết Thế chiến I, Thế chiến II. Này đây là mộ phần những đứa con cùng mẹ lấy chém giết thay giải hòa. Này là mộ phần của những bạo vương, ác chúa… Mộ phần nào cũng chỉ là thây ma theo thời gian. Tất cả về với đất, thành phân bón hoa màu, cho đời nở hoa đời mang tên Tình Yêu:
Người đi trong mùa Đông
Đội khăn tang, mang theo tình thương
Theo người phu đi vùi hết mộ phần
Rồi tan trong mộ sâu
Một thây ma mang buồn đau
Thế kỷ sau, sẽ dùng bón hoa màu
Đi qua nấm mồ sẽ thấy ngọn cỏ mềm
Cho êm cõi đời, cho tình nhân ngã lên
Khi trên nấm mồ còn nở rộ bông hoa mới
– Hoa ơi, tên gì?
– Hoa Tình yêu đó em!
(Mộ Phần Thế Kỷ – Rong ca 04)
Ôm đàn hát khắp mọi nơi, từ thời hát rong cùng gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều, đến thời kỳ hát trong kháng chiến chống Pháp, từ những lần hát cùng James Durt, Pete Seeger, hay các chương trình Phong trào Du ca, và sau này đi hát tại các quán cà phê, câu lạc bộ, trường đại học ở Hoa Kỳ, Phạm Duy đích thực là kẻ hát rong. Ông hát những điều không thể nói cũng như những điều không thể lặng im như Victor Hugo từng viết: “Âm nhạc thể hiện những điều không thể nói nhưng cũng không thể lặng câm”. Ông hát bằng tiếng lòng của mình. Ông hát mà như kể chuyện ngụ ngôn. Mọi người nghe rồi nghĩ sao thì nghĩ. Thử nghe ông kể ngụ ngôn bằng lời của âm nhạc. Chuyện kể có hai thằng mù đánh nhau đến sứt trán, sứt tai; có hai thằng câm cãi nhau rát lưỡi, bỏng môi; rồi có cả hai thằng mù đã câm lại điếc nghe nhạc Tầu, nhạc Tây, nhạc Mỹ, nhạc Nga. Chuyện còn kể tiếp có hai thằng mập, nếu đánh nhau thì chết, nên bắt hai thằng gầy yếu đánh nhau hộ nó, rồi bắt giải hòa. Chuyện bi hài là điếc nọ, mù này, câm kia tự dương tự đắc, không nghe được tiếng khóc than, không nhìn thấy cô nhi, quả phụ, không nói được lời yêu thương. Thế rồi Người Tình đến, quá khứ buồn đau trôi đi theo câu hát:
Bỗng đâu Người Tình ghé chơi một chuyến
Vào khi tàn rồi, cái cũ bách niên
Bỗng đâu nửa đêm ánh dương chói rạng
Làm cho người mù mắt sáng bừng lên
Bỗng đâu Người Tình ghé tai người điếc
Nói chi chẳng biết, mà nghe dịu dàng
Đời hai nghìn đã vừa sang.
Đã trông được thời bách niên đổi mới
Đã nghe được lời sáng suốt bên tai
Đã không còn câm và im tiếng gọi
Đã nói được lời vói tới tương lai
Đã ra được ngoài cõi tim tù tối
Đã trông được những đường đi, nẻo về
Đường đưa người tới nghìn thu.
(Ngụ Ngôn Mùa Xuân – Rong ca 05)
Một Phạm Duy rong ruổi, một Phạm Duy đến cuối đời vẫn muốn đem hết sức lực của mình cống hiến cho âm nhạc. Dù tuổi xế chiều, con tim Phạm Duy vẫn còn sức nóng, đam mê như nắng rực rỡ, dù là ánh nắng chiều. Nghĩ về nắng chiều, tôi lại nhớ đến bài thơ của Phan Khôi: “Nắng chiều đẹp có đẹp/ Tiếc tài gần chạng vạng/ Mặc dù gần chạng vạng/ Nắng được thì cứ nắng” (Nắng Chiều, 1956). “Nắng được thì cứ nắng” của Phan Khôi cũng là nắng trong lòng của Phạm Duy. Nhưng ở Phạm Duy, cái nắng lại đa tình, lụy tình. Cái nắng đem lại bao ước nguyện, nuôi nguồn ân ái. Cái nắng rực rỡ đẹp đợi chờ đêm đến yêu đương:
Em có thấy không nắng chiều rực rỡ
Em có thấy không nắng đẹp còn đó
Nắng còn nắng lê thê thì đêm ơi vội gì
Nắng còn nắng bao la thì xin đêm đợi chờ
…………………………………………..
Thế kỷ này tan trong nắng ban chiều
Cho lòng người bâng khuâng nhớ nắng
Trước cửa vào trăm năm rất xa vời
Cho chiều đời yêu nhau rất lâu.
(Nắng Chiều Rực Rỡ – Rong ca 06)
Khi viết chương khúc Rong ca, Phạm Duy bày tỏ lòng mình: “Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu”. Cái vĩnh cửu ấy, ở con người Phạm Duy là sự hòa điệu giữa anh và em. Nghìn thu nay, anh là suối, là sông, là biển còn em là sóng trong anh. Nghìn thu nay em là gió, còn anh là mây đi khắp vô cùng trong vòng sinh tử. Để rồi anh và em cất lên tiếng hát tình yêu chan chứa:
Nghìn thu em lặng lẽ ươm mầm
Cành mai không ai biết em âm thầm nở hoa
Nghìn thu trăng chợt sáng hay mờ
Lặng im anh lên xuống không ai ngờ hiển nhiên
Tình ta biến hóa trong từng sát na
Tình luôn lai vãng đi về cõi chung
Tình vô hư đó nên gần với xa
Tình ra ánh sáng, tình về tối đen
Nghìn thu anh là đã em rồi
Và em trong muôn kiếp, em đã ngồi, em đã ngồi ở anh
Nghìn thu ta bù đắp không ngừng
Tình âm dương chan chứa xoay trong vòng tử sinh.
(Bài Hát Nghìn Thu – Rong ca 07)
Trong vòng sinh hóa của vũ trụ, của kiếp nhân sinh, Phạm Duy vẫn ôm đàn cất tiếng hát về mối tình Trương Chi thuở nào, cất tiếng đàn phổ nhạc những bài thơ của Hoàng Cầm, Huy Cận, Bích Khê, Hữu Loan, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên v.v…, và hát cho chính mình.
Phạm Duy còn là “người tình già trên đầu non” cất tiếng hát cùng trăng. Nhìn trăng một mình trên cao, cất tiếng hỏi trăng, rồi nghĩ phận mình cũng già như trăng, cũng cô đơn, quạnh quẽ như trăng. Tiếng hát ông vọng vào núi đá. Ông lại hỏi đá bao tuổi mà sao đá cũng buồn có khác chi ông đượm nỗi lòng khắc khoải, buồn đau cho kiếp người giữa chốn ta bà. Hỏi đá, hỏi trăng, hỏi chỉ để mà hỏi. Trên đỉnh buồn của núi, ông một mình, da diết hát tình trong cõi trăm năm:
Trăng ơi, im lặng à a ới a suốt đời,
Mà sao ta cứ ý a ới a đứng ngồi, đứng ngồi không yên
Suốt đời lăn quanh, suốt đời lang thang
Hát ca êm đềm hay hát vang vang.
Trăng ơi, sống cả a a sống cả muôn đời
Còn ta sống chết y a ới a không ngoài, chẳng ngoài trăm năm
Không ngoài trăm năm, nên phải lênh đênh
Hát ca một mình thay tiếng đá, trăng
Kiếp xưa cây ở ờ ơ ới a dưới rừng
Hỏa Sơn đi xuống y a ới a đốt từng núi non cây rừng
Cây còn tươi xanh hay già trăm năm
Hóa sinh ra thành tảng đá im lìm
Đá, trăng không tuổi y ý đá, trăng ít lời
Dù ta sống chết ý a ới a cũng gợi tiếng ca cho đời
Đá nằm nghe ta hát vọng trăng cao
Hát trong kiếp này hay hát trong kiếp sau.
(Trăng Già – Rong Ca 08)
Trên con đường của thời gian dẫn đến tương lai, có lúc Phạm Duy chợt nghĩ lại mình. Cuộc đời ông biết bao thăng trầm “theo mệnh nước nổi trôi”. Và khi tuổi đã cao, sức khỏe không còn như thuở thanh xuân thì chuyện ông ngẫm lại sự đời là lẽ đương nhiên. Ông có khác chi con Ngựa Hồng xưa kia, một thời bách chiến nơi sa trường, nay thì trói buộc vào yên cương, còng lưng kéo xe quanh đường đời chật chội. Ngựa Hồng long đong, trụi bờm, se lông, miệng bị khóa bởi hàm thiếc, chịu bao ngọn roi tàn bạo và là kẻ vong thân khiêng voi, cõng rắn trên lưng. Dù được đeo yên gấm vóc, kiệu vàng trên lưng đưa kéo xe loan thì cũng là phận kiếp nô. Rồi một buổi chiều trăm năm, hoàng hôn của đời người, Ngựa Hồng bỗng thấy Ngựa Rừng – như là Ngựa Thần không cần yên, như là Ngựa Hùng không cần cương – phi qua cuộc đời mời gọi phá tung xiềng xích để thênh thang khắp chốn. Ngựa Hồng cất vó thong dong trong tiếng hát khát vọng tự do:
Ngựa Hồng quay lưng đưa chân đá vỡ yên cương
Thong dong lên đường thoát thân
Cỏ nội xanh tươi thơm tho đón gió
Sương rơi trên muôn hoa ngàn ngát hương
Ngựa Hồng, không ai che đôi mắt nữa
Trông ra hai bên con đường rất xa
Ngựa Hồng vươn lên phi qua lỗ bé trôn kim
Thong dong đi vào cõi không!
(Ngựa Hồng – Rong Ca 09)
Trong Hồi Ký, Phạm Duy sau khi an táng người vợ thân yêu của ông – danh ca Thái Hằng - đã viết lời cảm ơn: … “Bây giờ thì nhà tôi đã nhẹ nhàng ra đi, tảng đá kia đã cũng nặng nề đổ xuống, lo xong việc chôn cất cho vợ là tôi có thể thành một người tự do hơn trước, vì đã làm xong bổn phận người chồng. Các con tôi cũng đã quá khôn lớn, bây giờ tôi sắp sửa được trở về cái cõi cô đơn truyền kiếp của người nghệ sĩ muôn đời. Tôi lại được tự do thênh thang vác đàn ngao du như trong một thuở xa xưa nào, hoa cười trên phím, tiếng cười trong dây…Xin được cám ơn mọi người bằng nụ cười cô đơn đó”.
Trong nụ cười cô đơn mà tự do, Phạm Duy vẫn lên đường cất tiếng hát từ cõi xa xa xăm, từ muôn ngàn thế giới, về cõi người, cõi phiêu bồng, cõi rong chơi, phiêu lãng khắp miền hoang dã, qua bốn bể gần xa, từ nơi tuyết rơi đến sa mạc hoang vu, từ núi rừng ấm lửa hoàng hôn đến đường tình ngập nắng bình minh. Tiếng đàn của ông cất lên từ đỉnh tình yêu đi ngao du cùng trời đất:
Anh dắt tay em đi vào ngàn mai
Anh khoác vai em bước về ngàn xưa
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có ta nơi này
Và lộ trình ta… miệt mài
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Nhưng nếu mai sau, ai gọi người tình
Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
(Rong Khúc - Rong Ca 10)
Chương khúc Rong ca, là tình thong dong, là cái tình đọng lại trên thời gian cho cả kiếp người cõi mộng trăm năm. Dù chỉ là lời tâm sự của Phạm Duy, nhưng người yêu nhạc vẫn thấy bóng dáng của mình trong cuộc lãng du, phiêu bồng, vẫn tin và thấy được tình yêu mãi vĩnh hằng, như là sự cứu rỗi linh hồn đau khổ ở chốn nhân gian.
1 note
·
View note
Text
Hoàng Cầm Ca, chương khúc của tâm giao

Hoàng Cầm Ca, chương khúc của tâm giao
Hoàng Cầm ca, một chương khúc gồm có 6 bài: Tình Cầm, Lá Diêu Bông, Qua Vườn Ổi, Cỗ Bài Tam Cúc, Đạp Lùi Tinh Tú và Trăm Năm Như Một Chiều như một sự tâm giao giữa nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Hoàng Cầm.
Trước tiên, khi nghe chương khúc Hoàng Cầm ca, ta thấy giữa Phạm Duy và Hoàng Cầm có sự tâm giao giữa những người từng là bạn của nhau trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, giữa những người có lúc từng bị những người cộng sản coi là thành phần “phản cách mạng”, giữa hai trái tim yêu cuồng nhiệt cuộc sống này. Và đặc biệt, Phạm Duy xem Hoàng Cầm là nhà thơ lớn, do đó không thể không phổ nhạc những bài thơ hay của Hoàng Cầm được nhiều người hâm mộ. Điều đó được Phạm Duy chia sẻ trong bài viết Hoàng Cầm Trong Tôi: “… Tôi không có tham vọng đóng vai trò một nhà khảo cứu phê bình có đủ phương tiện, thời gian và không gian để viết về một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Việt Nam hiện đại. Tôi chỉ muốn hóa giải một nỗi buồn thương có trong tôi mỗi khi nhớ tới Hoàng Cầm. Người bạn thi sĩ cùng tuổi với tôi, vừa bước vào đời là được cùng tôi thỏa chí tang bồng khi cùng đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Rồi vì phận nước long đong, với cảnh đất nước và lòng dân bị phân chia bởi chủ nghĩa, chiến tranh và hận thù, chúng tôi mỗi người mỗi ngả. (……). Thời gian trôi đi, bỗng có lúc tôi khám phá ra một số bài thơ của Hoàng Cầm rồi thấy mình nên viết ra những gì còn nhớ được nơi người bạn vãn niên này để, thêm một lần nữa (sau Nguyễn Chí Thiện), lôi ra từ bóng tối một nhà thơ sáng láng nhất của chúng ta”.
Trong bài ca Cỗ Bài Tam Cúc, khi nghe lời ca, tôi không phân biệt được đâu là cái tôi của Phạm Duy, đâu là cái tôi của Hoàng Cầm. Chỉ có lời ca theo tiếng nhạc đưa người nghe đến chỗ chiêm nghiệm về cuộc đỏ đen của trường đời. Đời người có khác chi canh bạc. Kẻ thắng người thua, kể cả trong tình trường, và cả trong chiến trường. Ẩn trong lời ca của Cỗ Bài Tam Cúc là tiếng lòng của Hoàng Cầm và Phạm Duy buồn day dứt:
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Em đi đêm Tướng điều, Sĩ đỏ
Đổi Xe hồng, đưa chị tới quê em
Pháo, Mã ra bài, năm sau giặc giã
Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ
Xua Tốt điều đè lũ Tốt đen
Thả Tịnh vàng đưa chị võng mây trôi.
Em đứng nhìn theo
Em gọi: Đôi!
Và tiếng lòng buồn ấy cứ ám ảnh người yêu thơ, yêu nhạc. Bởi cả hai ông, một người làm thơ, một người viết nhạc nêu lên cõi lòng của con người một thuở - “Cái thuở ban đầu” ngây thơ vụng dại khi nghe lời mê hoặc của “người đẹp”. Cứ ngỡ lời hứa của “người đẹp” là thực, ai dè, cái thực ấy cũng chỉ là cái cảnh viễn vông như cái lá diêu bông tưởng tượng. Lá diêu bông nào có thực bao giờ. Chỉ có nỗi buồn và sự tiếc nuối dặt dìu trong câu hát:
Đứa nào tìm được lá diêu bông
Thì từ nay tao sẽ gọi là chồng
Tao sẽ gọi là chồng
Đứa nào tìm được lá diêu bông…
………………………………..
Từ thuở đó, em cầm chiếc lá
Nơi đầu non cuối bể, em đi
Lời vi vút gió quê lắng gọi
Diêu bông hời hỡi diêu bông
Em đi trăm núi nghìn sông
Nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ…
(Lá Diêu Bông)
Câu hỏi day dứt khôn nguôi về thân phận làm người. Người sao cho ra người, mấy ai có hiểu? Dẫu trăm năm, người cũng chẳng là gì với thời gian của vũ trụ. Có chăng, người tồn tại là nhờ suy nghĩ, tư duy như René Descartes từng phát biểu. Và bất ngờ cho người nghe như thấy hình ảnh của em và anh như hòa chung là một. Không phân biệt đâu là anh, đâu là em. Không phân biệt một chiều với trăm năm. Có chăng chỉ cần một chiều hiểu nhau cũng trở thành trăm năm trong cõi thế gian này:
Em đứng đây từ bao
Từ bao, em đứng đây từ bao?
Em từ trong lối hẹn
Hé cửa về mai sau a á
Em đứng đây từ lâu
Từ lâu em đứng đây từ lâu
Em đứng đây từ lâu
Từ lâu em đứng đây từ lâu
Anh tới nơi ước hẹn
Chiều nay như thuở nào
Anh nhìn em trong nắng
Trăm năm như một chiều
Anh đứng đây là em
Và em, em đứng đây là anh…
(Trăm Năm Như Một Chiều)
Cũng trong Hoàng Cầm Trong Tôi, Phạm Duy viết: “Bài Qua vườn ổi thì nói tới chuyện bất công và tham nhũng” và hình ảnh “hai chị em - đại diện cho người dân nghèo, thấp cổ bé miệng – phải lẽo đẽo đi trên đường đời, không bao giờ được ăn một quả ổi nào ở trên cây, bởi vì những quả ổi ngon lành đó, hoặc để dành riêng cho người trên hưởng thụ, hoặc bị trộm cướp đục khoét hết cả rồi! Nếu thèm ăn ổi, hai chị em chỉ còn biết cúi nhặt những quả ổi thối, rụng rơi trên những con đường chiều, có mưa rơi rả rích”:
Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông
Này chị ơi! Xin chị một quả non
Ổi non, em ơi còn xanh chát a à
Ổi non xanh chát lè.
Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông
Này chị ơi! Xin chị một quả ương
Ổi ương, em ơi bị chim khoét a à
Ổi ương chim khoét rồi.
Này chị ơi! Xin cho một quả chín
Ổi chín, em ơi tít ngọn cây a à
Ổi chín quá tầm tay.
………………………………
Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông
……………………………….
Lẽo đẽo em đi đường mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng…
Hình ảnh “vườn ổi” với “quả xanh”, “quả ương”, “quả chín”, “quả rụng” khó mà giải thích. Hiểu nghĩa sao cũng được tùy cách cảm nhận của từng người. Đây là bài ca đa tầng nghĩa, mang tính ẩn dụ, như một câu chuyện ngụ ngôn. Đó là cái tài hoa của Hoàng Cầm buộc lòng Phạm Duy phải phổ nhạc.
Vẫn tính đa nghĩa, mang hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng được Hoàng Cầm đem vào thơ và được Phạm Duy biến hóa thành điệu nhạc trong Đạp Lùi Tinh Tú. Nào là hình ảnh “ta” được so sánh như “con bê vàng lạc dáng chiều xanh…”, “con chim cu về gù rặng tre…”, “con chào mào khát nước…”, “cây ổi giơ xương…”. Nào là “ta” được so sánh với “con phù du ao trời lận đận…”, “con chim vành khuyên nhớ nhà nhớ tổ…”. Và đặc biệt khi ta là chính ta, nhìn rõ mặt mình, như sự tỉnh thức trong cơn say ngủ của đôi cá đòng đong:
Ta là con phù du ao trời lận đận
Trên cánh bèo đong gió
Lặn dưới nước tìm sao
Hứng nước mắt con chim vành khuyên nhớ nhà nhớ tổ
Vừa rụng chiều nay, làm dềnh mặt nước gương sen
Ta soi hình vào tận đáy ao đêm
Chỉ thấy mình đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong.
Riêng bài Tình Cầm khi phổ nhạc, Phạm Duy như thể thấu hiểu được tấm lòng của mình với bạn. Trong bài ca này, Phạm Duy đã có thay đổi vài từ trong bài thơ Nếu Anh Còn Trẻ (chỉ có 3 khổ) của Hoàng Cầm và thêm một khổ (khổ thứ 2 trong bài hát). Nghe cả bài ca, tôi nghĩ sao có sự hòa hợp nhịp nhàng giữa Phạm Duy và Hoàng Cầm đến vậy:
Nếu anh còn trẻ như năm cũ
Quyết đón em về sống với anh
Những khi chiều vàng phơ phất đến
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại so phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.
Nhưng thuyền em buộc trên sông Hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.
Nếu có ngày nào em quay gót
Lui về thăm lại bến Thu xa
Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa
Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha.
Cả chương khúc Hoàng Cầm ca được cất lên như ngợi ca sự tâm giao của Hoàng Cầm và Phạm Duy. Sự tâm giao ấy là sự hiểu về nhau của cả hai, như Phạm Duy vào năm 1984 đã viết: “Chúng tôi đã trao đổi thư từ, trong đó, hai ông già ngoài 70 tuổi vẫn cứ xưng hô mày tao như trong tuổi 20. Chúng tôi đều cho rằng cả hai thằng bạn, vào lúc gần đất xa trời, rốt cuộc đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi! Cuộc chơi đã đưa hai đứa lên rất cao, rồi cũng đã dìm hai thằng xuống rất sâu, nhưng cả hai kẻ đãng tử này đều được cứu rỗi bởi một sợi dây bí ẩn. Đó là sợi dây cảm nhận, rung động và sáng tạo nghệ thuật làm cho chúng tôi, sau nhiều cơn vật vã, vẫn có thể gạn đục khơi trong rồi làm ra những vần thơ điệu nhạc lung linh sức sống kỳ diệu của con người. Vâng! Nghệ thuật đã rửa hồn chúng tôi, như Hoàng Cầm nói: ton art purifie ton âme và sẽ còn giúp chúng tôi đi nốt con đường đã chọn: CON ĐƯỜNG TÌNH, tình nước, tình người”.
#phan trang hy#phantranghy#phạm duy#phê bình#tiểu luân#Hoàng Cầm#Phạm Duy#Phan Trang Hy#Hoàng Cầm ca
0 notes
Text
Đôi điều cảm nhận về Dị Khúc Bích Khê

Đôi điều cảm nhận về Dị Khúc Bích Khê
Giữa rừng thơ Việt, Phạm Duy đã chọn và phổ nhạc, dựa vào lời thơ của thi sĩ Bích Khê được mang tên là Dị Khúc Bích Khê, gồm có 10 bài. Đó là Bích Khê Nghê Thường, Huế Đa Tình, Tranh Lõa Thể, Mơ Tiên, Hoàng Hoa, Thi Vị, Tôi Chết Rồi Tiếng Nói Như Châu, Sầu Lãng Tử, Tỳ Bà và Một Cõi Trời.
Trước hết, Phạm Duy chọn cái lạ thường của Bích Khê để phổ nhạc. Đối với bài Tỳ Bà, Phạm Duy đã chọn phổ nhạc vì ông cho rằng bài này rất khác thường (lời thơ không dùng âm trắc mà dùng toàn âm bằng), và cũng vì như Hàn Mặc Tử nhận xét: “Ở địa hạt huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, vần điệu rung động cả không gian… và nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi run rẩy hay âm thầm nức nở lanh lảnh như giọng cười mơn man như ân tình đòi hỏi... Đây là cả một trời yêu thương da diết một trời tương tư, trời âm hưởng buồn não, buồn nề…”:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê…
Một bài thơ khác của Bích Khê cũng toàn âm bằng được Phạm Duy phổ nhạc với ca từ mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng:
Đây mùa Hoàng Hoa, mùa Hoàng Hoa
Đông nam mây đùn nơi thành xa…
………………………………………..
Ai xây bờ xanh trên xương người?
Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?
(Hoàng Hoa)
Cái lạ thường ấy trong một bài khác là lưu ly, mã não, xà cừ, san hô, hổ phách, trân châu…, những thứ tôn quý được nói trong Kinh Thánh, Sách Phật. Và, giờ được ngợi ca trong Bích Khê Nghê Thường:
Thủy tinh ai để trong hồn gương đó
Không gian xà cừ hay là san hô?
…………………………………………
Ôi ngọc thạch đây hay trân châu đó
Là mã não hay là hổ phách đây…
Chọn thơ của Bích Khê để phổ nhạc, Phạm Duy đồng cảm, hiệp thông với Bích Khê. Sự đồng cảm, hiệp thông ấy có cả “cái nó”, “cái siêu tôi” và “cái tôi” của cả hai người. Nghe Dị Khúc Bích Khê, “cái nó” (The Id), “cái siêu tôi” (The Superego), và “cái tôi” (The Ego) như hòa quyện cùng nhau, được ngợi ca bởi lòng cuồng si, đắm đuối:
Hai vú nàng! Ôi, hai vú nàng! Chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng…
Ôi, lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả
Cho tôi nàng. Ôi, cho tôi nàng! Cho tôi nàng, tất cả…
(Tranh Lõa Thể)
Còn đây là lời ngợi ca sự hòa điệu ái tình giữa cõi hư - cõi thực, hòa điệu giữa âm - dương, hòa điệu cõi người - cõi tiên. Ái tình như thăng hoa trong lời ca tiếng nhạc, hồn mê luyến đắm tình trong cõi chiêm bao:
Hồn tôi mất cả đồng trinh, a ha mê luyến
A ha mê luyến những hình tiên nga, những hình tiên nga
Bao, bao giờ cho mộng nở hoa, cho mộng nở hoa
Bao giờ xuân chin, nõn nà trên môi
Để tôi đi cướp mây trời,
Vén ra cho thấy một vài nường tiên
Ô hay hồn đã say nghiền
Đã nư khoái lạc, trong miền chiêm bao
Trong miền chiêm bao…
(Mơ Tiên)
Miền chiêm bao ấy là cõi mơ, là cõi siêu thực, là cõi hòa điệu giữa anh và em, giữa sự sống và cái chết. Chẳng là gì cả khi cuộc đời phi lý, khi thiên tài như giấc mộng, khi “không bất động sản nào vĩnh viễn đáng giá bằng nấm mộ” (Mark Twain), khi cái chết thăng hoa:
Tôi chết rồi, tiếng nói như trân châu
Ánh sắc nào phương phi rất nhiệm màu
Quyện tình tôi trong mắt ước đê mê
Tôi mơ màng kết hiệp ở chiêm bao
(Tôi Chết Rồi Tiếng Nói Như Châu)
Nói tới tình yêu đôi lứa là nói đến sự hòa điệu của hai tâm hồn. Tình yêu có thể thăng hoa nơi thiên đường, nhưng cũng có thể đớn đau chốn địa ngục, dằn vặt nơi trần gian. Ai đã từng yêu, chắc hẳn thấy tình yêu ở cả trần gian, địa ngục và thiên đường. Có khác chi tình yêu hòa điệu giữa “cái tôi” (The Ego) với “cái nó” (The Id) và “cái siêu tôi” (The Superego):
Đừng có ngớp, tôi mời anh cứ bước
Qua nơi này là trần gian cách xa
Đừng có khiếp, địa ngục với thiên đường
Lùa hết trọi vào trong khung cửa ngọc
Trời tôi rộng mịn màng hơn suối tóc
Ngả ngớn trong hương xạ ngợp hương thần…
(Một Cõi Trời)
“Sinh thời, Phạm Duy chưa từng gặp Bích Khê. Vậy mà, nhạc sĩ tài hoa này cứ khăng khăng xem thi sĩ bạc mệnh ấy là tâm giao. Thế mới thấy, tri kỷ đôi khi không hẳn cần đến một tiếng đàn” (Nguyễn Khắc Ngân Vi). Quả vậy, không cần đến một tiếng đàn mà Phạm Duy vẫn rung cảm tiếng nhạc trong thơ của Bích Khê:
Đàn rụng tiếng, rụng tiếng
Người yêu, người yêu đi rồi, người yêu đi rồi!
………………………………………
Đàn im tiếng, không tiếng, không tiếng
Đêm vàng rơi, đêm vàng rơi, đêm vàng rơi
Đàn bẻ phím, bẻ phím, người yêu… chết rồi!!!!
(Thi Vị)
Rõ là Phạm Duy và Bích Khê, dù hai người chưa gặp nhau, nhưng đã là tâm giao của nhau. Tới cái buồn cũng hiểu nhau, và hiểu cả cái chết của nhau. Đọc thơ của người thơ hóa ra là lời hát của người soạn nhạc.Và nghe nhạc tưởng như nghe thơ:
Đời du lãng buồn như cổ độ
Khóc lóc ngây thơ tóc bạc chẳng hay
Lòng người du lãng buồn hơn cổ độ
Chết đi rồi máu vẫn cuồng say…
(Sầu Lãng Tử)
Trong Dị Khúc này, có một bài giữa thơ và nhạc hòa quyện, nương vào nhau với lời thơ mượt mà, với giai điệu lắng sâu, đi vào lòng người. Viết về xứ Huế như thế dễ có mấy ai?
Thu về lạnh sắc tà dương
Hoàng cung chừng đã mùi hương bay dồn
Thuận An khuất bóng hoàng hôn
Gió bao giờ thổi lại hồn trường giang, hồn trường giang
Hò ơ ơ ớ ơ ơ ơ hò - Hò ơ ơ ớ ơ ơ ơ hò
Nơi đây rung đổ lá vàng
Lăng vua xa lắm dặm đàng nhạt xanh
Nơi đây rung đổ lá vàng
Lăng vua xa lắm dặm đàng nhạt xanh
Dòng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn
Vỹ Dạ thôn! Ôi Vỹ Dạ thôn! Ôi Vỹ Dạ thôn!
Biếc che cành trúc, không buồn mà say
Non xa trăng đã tròn đầy
Em ơi để mặc lòng ngây lên mùa.
(Huế Đa Tình)
Ở tuổi 90, Phạm Duy mới hoàn thành Dị Khúc Bích Khê, dù trước đó – năm 1949 – ông đã phổ nhạc bài thơ Tỳ Bà của thi sĩ Bích Khê. Xin mượn lời của Phạm Duy nói về Dị Khúc này: “Nửa thế kỷ qua đi, vào năm 2010, tôi được gặp người cháu của thi sĩ (là ông Lê Quốc Ân) và tôi được dẫn đi vào cõi thơ Bích Khê. Trong một năm trời, từ năm 2010 đến 2011, tôi đọc hầu hết những gì người ta viết về thi sĩ tài ba mệnh yểu này và cuối cùng, tôi hoàn tất 10 bài mà tôi gọi là Hợp Khúc Bích Khê hay là Dị Khúc Bích Khê (Tôi cho rằng thơ Bích Khê rất bình dị nhưng so với thời gian nó được sinh ra, nó không giống ai cả nên người ta phải dùng những danh từ thần thánh để chỉ định nó)… Đây là một thứ suy nghĩ về thơ Bích Khê (Meditations On Bích Khê Poetry) của tôi bằng âm nhạc”.
Hy vọng rằng Dị Khúc Bích Khê mãi được cất lên giai điệu: Ồ ô ô Bích Khê - Ồ ô ô Bích Khê/ Ồ ô ô Bích Khê - Ồ ô ô Bích Khê… (Bích Khê Nghê Thường).
0 notes
Text
Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà
Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà
Xa quê, ai không nhớ? Nỗi nhớ quê ấy là nhớ nơi chôn nhau, cắt rốn của mình, nhớ nơi chốn một thời in sâu những kỷ niệm vui buồn, khôn dại, nơi chứng giám tình yêu của tuổi học trò, tình yêu mộng mơ của thời trai trẻ, là nơi nuôi ta nên người,… Như nhiều người từng biết, Phạm Duy quê ở Hà Nội, có thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi về thành, vô Nam, rồi sống ở hải ngoại, rồi về lại Việt Nam. Cuộc đời theo “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca) đã ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của ông, trong đó có chương khúc Hương ca. Đây là tập hợp 10 bài ca viết về quê hương Việt Nam sau năm 2000. Qua chương khúc này, ta bắt gặp nỗi niềm thương nhớ quê nhà của tác giả.
Trước hết, một Phạm Duy vội vàng thương nhớ quê nhà. Vội vàng có lẽ tuổi ông đã cao, không biết khi nào về được quê hương, không biết bao giờ gặp lại những người mà ông thương mến. Thời gian như không chờ đợi một ai. Ông như thấy không kịp nữa rồi! Cũng không thể hẹn kiếp sau về lại quê nhà! Do vậy, khi bắt gặp bài thơ Về Thôi của Lưu Trọng Văn, ông tự nhủ là phổ nhạc ngay, và giúp ông quyết định sáng tác 10 bài Hương ca. Bài thơ của Lưu Trọng Văn như là sự khởi đầu của Hương ca:
Nào đâu có trăm năm, đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?
Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?
Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông
Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông
Trăm năm bến cũ, có còn đó không? Còn đó không?
Cây da bến cũ còn lưa, bến cũ còn lưa
O đò năm trước đi mô không về…
(Trăm Năm Bến Cũ – Hương ca 01, phổ thơ Lưu Trọng Văn)
Nhớ quê hương là nhớ cụ thể những kỷ niệm gắn bó thân thiết với quê hương. Đó có thể là những lần thả diều trên bờ đê lộng gió, có thể là những lần đá bóng bên cồn. Đó cũng có thể là những lần hái sim trên đồi, dạo chơi trong vườn bách thú. Đó còn là những lần tắm sông, tắm biển vào những ngày hè. Nhà thơ Tế Hanh cũng từng nhớ quê hương qua nỗi nhớ thương về con sông gắn với kỷ niệm thời trẻ: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống lòng sông thấp thoáng/ Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng/ Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi/ Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi…” (Nhớ Con Sông Quê Hương). Một thời Lý Bạch nhớ quê trong Tĩnh Dạ Tứ đến độ: “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương” (‘Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương’, Nam Trân dịch). Và, giờ Phạm Duy nhớ quê là nhớ về những lần tắm truồng trong sông vào đêm trăng huyền ảo:
Lột áo ngang đầu, buông quần chùng xuống đất
Nhào xuống dòng sông, ý y a sông sâu
Ngâm mình trong nước gột hết, hết u sầu
Giang hai chân rộng bơi vào, vào mộng mơ
Trời xuống thật gần, mây êm trôi lặng lẽ
Ngân hà tung tóe long lánh, ới long lánh
Mặt trăng đâu đó về tắm mát cùng anh
Vô vàn sao sáng múa hát trong trời thanh
(Tắm Truồng Sông Trăng – Hương ca 03)
Trong cõi lòng Phạm Duy, nỗi nhớ quê còn là nhớ miền Nam nước Việt thân yêu. Ông từng viết những lời ca xao động lòng người về miền đất trù phú, mỡ màu, vùng đất của những con người phương Nam trong trường ca Con Đường Cái Quan: “Về miền Nam ta theo cơn gió đưa/ Về miền quê ta theo cơn gió về/ Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa/ Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta/ Về miền Nam… Về miền Nam/ Người về đây trong gió bình an”… Và giờ nỗi niềm thương nhớ quê hương lại ùa về trong ký ức:
Trong sương khói mong manh
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu.
Mang theo chiếc độc huyền
Và điệu thơ Lục Vân Tiên
Tới Cà Mau, Rạch Giá
Cất chòi giữa rừng thiêng.
(Hương Rừng – Hương ca 06, phổ thơ Sơn Nam)
Ai xa quê lại không nhớ quê? Đôi khi tôi được gặp những bạn học hồi học trung học về thăm quê. Các bạn đều nhắc lại những kỷ niệm thời đi học. Các bạn kể lại nhiều thứ lắm. Tôi nghe qua lời kể đó là nỗi nhớ thương quê. Và tôi tin một điều, Phạm Duy cũng vậy. Một con người từng viết những bản nhạc đượm tình quê hương như Quê Nghèo, Về Miền Trung, Tình Ca… chắc hẳn nỗi niềm nhớ thương quê là điều hiển nhiên trong lòng ông. Một Hà Nội, nơi ông sinh ra và lớn lên luôn hiện hữu trong trái tim ông. Vì thế, dù ở xứ người, ông vẫn nhớ về Hà Nội. Nhớ để rồi tự an ủi mình. Dù đó là giấc mơ:
Ngày Xuân phơn phớt gió
Nhè nhẹ mưa bay bay
Ửng hồng trên nhánh cây
Cành hoa đào đo đỏ
Đầy trời chim én nhỏ
Gọi mùa Xuân về đây
Lá đào rớt trên tay
Tưởng chiều Xuân Hà Nội
(Mơ Dạo Xuân Hà Nội – Hương ca 07, phổ thơ Thảo Chi)
Nhớ quê là nhớ kỷ niệm một thời trai trẻ. Một thời Phạm Duy tham gia Cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp. Và Hà Nội cũng vẫn trong giấc mơ thơm mùi tình ái thuở nào:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.
(Tây Tiến – Hương ca 10, phổ thơ Quang Dũng)
Nhớ thương quê nhà, Phạm Duy tìm đường về lại quê hương. Ông về lại Việt Nam sau thời gian lưu lạc xứ người. Ông từng viết: “Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được thế nào là u sầu chỉ vì đọc một bài thơ mà có lẽ bây giờ nhiều người đã quên. Bài thơ nhỏ bé xa xưa (tôi không còn nhớ tên!) của thi sĩ Huyền Kiêu – cũng như bài Em Lễ Chùa Này sau này của Phạm Thiên Thư – là những bài thơ tình giản dị mà tôi rất yêu quý vì nó là những lời thơ, những chuyện rất ngây thơ, rất trong trẻo nhưng vì nước ta loạn lạc cho nên đã phần nào bị trôi vào quên lãng. Trở về quê hương khi tuổi đã quá 80, tôi tìm về những gì nhẹ nhàng nhất, trong trắng nhất”. Chính những gì nhẹ nhàng, trong trắng nhất ấy đã khơi dậy trong ông nguồn cảm hứng sáng tác. Một câu chuyện tình u sầu nhưng mà đẹp cũng làm ông yêu quý. Chuyện kể rằng: Ngày xưa khi “tôi” còn nhỏ, mùa Xuân có chàng đến hỏi chị đẹp của tôi đâu. Tôi trả lời là chị tôi hoa thắm cài đầu đang đuổi bướm vàng bên đồng nội. Rồi mùa hạ đến, cũng có chàng đến hỏi chị đẹp ở đâu. Tôi trả lời chị tôi khăn thắm quàng đầu đi giặt tơ vàng bên suối. Dù biết có người đến hỏi, tôi trả lời chị tôi xõa tóc ngang đầu đi hái tình sầu trong núi. Rồi:
Đông xám, có chàng đến hỏi
Đông xám, có chàng đến hỏi:
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị đẹp của em đâu?
Chị đẹp của em đâu?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
Đã ngủ trong lòng mộ sâu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
Đã ngủ trong lòng mộ sâu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
Đã ngủ trong lòng mộ sâu
(Ngày Xưa, Một Chuyện Tình Sầu – Hương ca 04, phổ thơ Huyền Kiêu)
Rõ là nhớ về câu chuyện tình sầu là nhớ về ngày tháng cũ của quê nhà trong ký ức. Và trong ký ức đâu chỉ có những chuyện tình sầu mà còn có những lời Mẹ dặn dò thời thơ ấu. Ai không một lần trót nói dối Mẹ, làm Mẹ buồn phiền? Và với lời Mẹ dạy, Mẹ khuyên răn, Mẹ dặn dò con nào quên được:
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười là cười, thấy buồn muốn khóc cứ khóc
Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ kêu là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chìu, cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu
(Lời Mẹ Dặn – Hương ca 09, phổ thơ Phùng Quán)
Còn đây, nỗi niềm thương nhớ quê nhà qua hình ảnh “em”. Em không còn “mặc áo the, đi guốc mộc” (Về Đây Nghe Em, nhạc Trần Quang Lộc, thơ A Khuê). Em cũng không còn là “em gái vườn quê, cuộc đời trong trắng, dầm mưa dãi nắng/ Mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm…” (Duyên Quê, Hoàng Thi Thơ). Mà giờ, em áo trắng, áo vàng, áo đỏ hợp thời; em giờ tô môi, dưỡng da, tắm nắng… Giờ, em là những gì hiện đại, tân kỳ:
Em là con ngựa non thon vú
Giữa rừng người hoang vu
Anh và em lạc vô thành phố
Vó ngựa buồn quanh co
Em khắc khoải toàn thân ư nhẩy múa
Em êm êm tỉnh nhỏ (o) mắt buồn
Em cuồn cuộn còi ca nắng biển
Em thèm yêu ngực gầy (y) mi thâm…
(Ngựa Biển – Hương ca 05, phổ thơ Hoàng Hưng)
Nhớ thương quê, ông lại tìm đường về quê. Không như Hạ Tri Chương trong Hồi Hương Ngẫu Thư: “Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi/ Hương âm vô cải, mấn mao tồi/ Nhi đồng tương kiến, bất tương thức/ Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?” (‘Khi đi trẻ, lúc về già/ Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao/ trẻ con nhìn lạ không chào/ Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’, Phạm Sĩ Vĩ dịch). Phạm Duy lại may mắn hơn. Quê hương chào đón ông như người thân thiết. Ông kể lại là sau những tháng năm dâu bể, lưu lạc xứ người, sau những tháng ngày lận đận, ông hồi hương như là tìm lại chính mình. Một hôm, về Hậu Giang, qua phà sông lớn, đang nhìn cảnh mây nước, nhìn những cánh bèo trôi mà nghĩ phận mình. Bỗng có tiếng em bé chào mời ông mua vé số. Nhìn em bé xinh với guốc mộc, áo lành, với đôi mắt to và trong sáng, với má đượm nắng, môi hồng, tóc dày thơm với chiếc kẹp tóc đơn sơ, đáng yêu. Ông móc túi ra tặng em bé món tiền không nhỏ. Em bé lắc đầu không nhận, em chỉ mong bán được vé số thôi. Thế rồi, ông cũng phải mua dù chẳng tin xổ số, mà ông mua những 20 tờ. Và rồi:
Em cười đôi má đỏ hoe
Em cười đôi má đỏ hoe.
Thế rồi phà tới bến quê
Thế rồi tôi bước lên xe
Bé thơ chạy tuốt lên bờ
Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra
Con tặng cho ông đó.
Thế rồi tôi vẫn còn đi
Trên đường giang hồ đây đó
Mang theo hương vị quê mùa
Hương nồng từ đất quê ta
Đến từ kẹp tóc em thơ
Chiếc kẹp tóc thơm tho.
(Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho – Hương ca 08)
Câu chuyện giản đơn mà thấm tình người, tình quê quá đỗi. Món quà của em bé tặng cho ông rất đỗi bình thường, nhưng đặc biệt. Bình thường vì bé gái nào chẳng có kẹp tóc, mà ở đây là chiếc kẹp tóc chẳng mấy giá trị. Nhưng đặc biệt vì đây là vật mà bé gái nào cũng cần có nó để mái tóc gọn gàng, và để làm đẹp. Đã là con gái, dù còn bé, đều muốn làm đẹp. Khi bé gái tặng cho tác giả chiếc kẹp tóc, thì mái tóc của bé sẽ ra sao? Rõ là chỉ có tấm lòng, tình cảm làm cho món quà trở nên quý bởi “giá trị món quà không nằm trong món quà, mà nằm trong chính tấm lòng người trao tặng” (Seneca). Hình ảnh em bé ở đây là một phần tình cảm của quê hương đối với tác giả. Và còn gì đẹp bằng hình ảnh quê hương từ hương tóc, hương vị quê nhà từ chiếc kẹp tóc mãi là ấn tượng khó phai trong lòng tác giả.
Làm sao tác giả quên được quê nhà một thời thương đau, một thời loạn ly làm miền quê xơ xác. Làm sao ông quên được nắng quái chiều hôm, mưa giông bão tố trên quê nghèo, xóm vắng. Nhớ để mà biết rằng có buồn đau cũng chẳng ích gì. Đau thương rồi cũng sẽ qua. Buồn thương rồi cũng xong. Có khác chi trăng tròn rồi lại khuyết; khuyết rồi lại tròn. Có khác chi hoa tàn, khô rụng rơi về cội để rồi nuôi mầm, rồi cây lại ra hoa. Dù thế nào đi nữa, quê hương vẫn mãi đẹp trong lòng:
Quê hương một đổi dài lá non
Em mơ màng lả lướt bước chân mềm
Vai kề vai nắng êm đưa người trên lối quen
Không buồn dĩ vãng không màng cõi tiên
Quê hương một chiều ngồi mé sông
Ta ca thầm một khúc hát mơ màng
Trong trời quang đãng ôi, nghe tình ca lứa đôi
Đôi tình nhân đó nên đời vẫn vui
(Quê Hương Vô Thường – Hương ca 02)
Nghe chương khúc Hương ca mới thấy quê hương luôn trong trái tim Phạm Duy. Và tôi như thấy ông ôm cây ghi ta, đàn và cất lên lời ca thương nhớ quê nhà: “… Tình ngàn phương!/ Biết yêu nhau như lòng đại dương/ Người phiêu lãng!/ Nước mắt xuôi về miền quê lai láng/ Xa quê hương… Yêu quê hương…” (Tình Hoài Hương).
1 note
·
View note
Text
Cái tôi của Phạm Duy trong Tình Ca

Cái tôi của Phạm Duy trong Tình Ca
Viết Tục ca, Đạo ca, Thiền ca hay những bản nhạc theo từng đề tài, chủ đề, Phạm Duy đều muốn thể hiện Cái Tôi. Trong bản Tình Ca (Sài Gòn, 1953), Cái Tôi của ông như thăng hoa theo ca từ đầy tình yêu nước, thương nòi.
Ca từ trong bài hát đẹp biết chừng nào! Đẹp bởi Cái Tôi cất lên tiếng lòng yêu tiếng nói của dân tộc mình. Tiếng nói ấy là khởi đầu của một con người, bởi như trong Kinh Thánh phần cựu ước cho rằng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”. Như vậy, lời là cái đầu tiên để con người chính là người. Con người có Cái Tôi là nhờ có ngôn ngữ, có lời, có tiếng nói. Chính tiếng nói mới giúp con người dựa vào Cái Siêu Tôi (Siêu Ngã - The Superego), tự nói với lòng mình rời Cái Nó (Bản Năng - The Id), để có Cái Tôi (Bản Ngã – The Ego) đúng nghĩa. Tiếng nói ấy trong Tình Ca là lời ru à ơi của mẹ. Lời ru của mẹ có cả buồn, vui của bốn ngàn năm lịch sử dân tộc, có cả tiếng khóc tiếng cười “theo mệnh nước nổi trôi”, có cả lời ca giận hờn, nhung nhớ, có cả lời hứa hẹn, tin yêu vào tương lai:
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi! Nước ơi!
Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn không nguôi!
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai.
Trong bài diễn thuyết về Truyện Kiều, Phạm Quỳnh khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Và tôi nghĩ Phạm Duy cũng có cùng chính kiến như Phạm Quỳnh tiên sinh nên mới viết lời ca mượt như ca dao:
Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều (ư) làng ta…
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà (ừ) mà có duyên...
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng W. Humboldt nói: “ Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc và linh hồn của dân tộc chính là ngôn ngữ”. Ngôn ngữ chính là tiếng nói và chữ viết. Vì vậy, tiếng nói của một dân tộc chính là linh hồn của dân tộc ấy. Thật là tự hào dân tộc Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử vẫn giữ được tiếng nói của mình!
Trong Tình Ca, ta còn bắt gặp Cái Tôi của Phạm Duy thể hiện ở tình yêu đất nước. Đó là đất nước mà mỗi lứa tuổi học trò đều biết trong những giờ học địa lý. Cái Tôi của Phạm Duy ở đây như hòa vào Cái Tôi chung của mọi người dân Việt. Trong mỗi chúng ta, ai cũng thấy lòng yêu đất nước mình với ruộng đồng được người vun xới, cấy trồng, phía Đông là Thái Bình Dương quanh năm sóng vỗ, phía Tây là Trường Sơn hùng vĩ, miền Bắc trùng điệp núi rừng, miền Nam no ấm lúa đầy, ba miền có những dòng sông nổi tiếng: sông Hồng “đỏ cuộn phù sa”, sông Hương đa tình mơ mộng, sông Cửu Long “chở nặng phù sa”. Nhà văn Ylia Erenbua đã từng viết: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông,... Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Riêng với Phạm Duy, tình yêu đất nước Việt Nam được ông bày tỏ theo cách của mình:
Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình
Nhìn trùng dương hát câu no lành…
Đất nước tôi! Dãy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn!
Đất miền Tây chờ sức người vươn! Đất ơi!
Đất nước tôi! Núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng
Lúa miền Nam chờ gió mùa lên! Lúa ơi!
Tôi yêu những sông trường!
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong.
Hồi thời niên thiếu, tôi thường thấy một số tranh vẽ ba cô gái đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh trong tôi về sự kết đoàn, thống nhất, yêu thương nhau của người Việt trên khắp đất nước. Và giờ hình ảnh Bắc, Trung, Nam ấy, được tiếng lòng Phạm Duy cất lên:
Người yêu thế giới mịt mùng
Cùng tôi ôm ấp ruộng đồng (ư) đồng Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim bằng
Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng (ừ) hàng mến nhau.
Tình Ca còn là tiếng lòng yêu nòi giống Lạc Hồng, yêu biết bao người dân trên đất Việt với hình ảnh áo nâu như nông phu một nắng hai sương trên đồng ruộng Việt Nam, ước mong được mùa, áo cơm no đủ cho gia đình; như những mẹ quê quanh năm, suốt tháng chỉ biết làm ăn, vun vén cho cuộc sống gia đình; như những trẻ quê hồn nhiên học i tờ bên những chú trâu bình thản gặm cỏ:
Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu!
Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo
Mình đồng da sắt không phai mầu
Tấm áo nâu! Những mẹ quê chỉ biết cần lao
Những trẻ quê bạn với đàn trâu! Bé ơi!
Tấm áo nâu! Rướn mình đi từ cõi rừng cao
Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau! Áo ơi!.
Tiếng lòng yêu nòi giống còn được Phạm Duy khái quát thành tình yêu biết bao người anh hùng hữu danh, vô danh của những triều đại vẻ vang trong lịch sử dân tộc, để rồi tin chắc vào tương lai cũng có những anh hùng:
Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần… và còn ai nữa!
Những anh hùng của thời xa xưa!
Những anh hùng của một ngày mai…
Còn gì đẹp bằng Cái Tôi yêu nước, thương nòi của Phạm Duy như là hoa tỏa hương sắc mùa Xuân làm nên bài Tình Ca bất hủ:
Vì yêu, yêu nước, yêu nòi!
Ngày Xuân tôi hát nên bài (ư) bài Tình Ca…
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
Lòng tôi đã nở như là (ừ) là đóa hoa…
Nghe cả bài Tình Ca, hầu như mọi người đều có chung cảm xúc tự hào về đất Mẹ Việt Nam. Cái Tôi yêu nước, thương nòi trong bài hát này đâu còn riêng của Phạm Duy, mà nó trở thành Cái Tôi chung của mọi người. Mỗi khi nghe lại bài này, tôi thấy yêu vô cùng tiếng nói Việt Nam. Xin mượn lời bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ để nói hộ lòng mình:
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình…
0 notes
Text
Cái tôi của Phạm Duy trong Xuân Ca

Cái tôi của Phạm Duy trong Xuân Ca
Nhạc sĩ Phạm Duy có nhiều bài hát về mùa Xuân như Nụ Tầm Xuân, Hoa Xuân, Xuân Thì, Xuân Hiền... Trong số đó có Xuân Ca (Saigon – 1961). Bài hát như toát lên “cái tôi” của Phạm Duy.
Trước tiên là tình trong “cái tôi” của Phạm Duy có bóng dáng của cha, của mẹ. Tình yêu thương của cha mẹ tạo thành hình hài cho con trẻ. Tình ở đây từ một “đêm vui”, “một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về”. Thật là diệu kỳ khi người con được khơi nguồn sống bởi ân tình nồng thắm của mẹ, của cha. Chính tình yêu của mẹ, của cha đã xóa tan sự âm u, lắt leo trong nguồn suối mơ để rồi bừng reo lời ân ái từ cha như nắng chói chan lòng mẹ:
Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về
Xuân âm u, lắt leo trong nguồn suối mơ
Bừng reo rồi theo nắng lên từ cha chói chan lòng mẹ.
Tiếp đến, Xuân Ca là tình hòa chung của “cái tôi” cùng nhân thế. Đã là người, mấy ai không mang phận số, mấy ai không đớn đau, kêu gào cho kiếp nhân sinh. Dù thế nào đi nữa, con người vẫn phải đón nhận và vui sống. Và Phạm Duy cũng vậy:
Xuân tôi ra, góp chung câu gào thiết tha
Là xinh, là tươi có Xuân thuở xưa ước mơ hiền hoà.
Xuân xanh lơ, hắt hiu trong trời nắng mưa
Vườn Xuân là Xuân có hoa ngày mai hát Xuân thật dài.
Mỗi khi nghe đoạn này, tôi như thấy một Phạm Duy yêu cuộc sống mãnh liệt biết chừng nào! Được là người, ông mong “góp chung câu gào thiết tha” trong cõi “Xuân xanh lơ, hắt hiu”; ẩn chứa trong đó “là xinh, là tươi có Xuân thuở xưa ước mơ hiền hòa” và lấp lánh “vườn Xuân là Xuân có hoa hát Xuân thật dài”.
Xuân Ca còn là tình yêu lứa đôi. Muôn đời nay, tình yêu ấy vẫn là nỗi khát khao, nồng ấm, cháy bỏng. Dẫu có lúc tưởng chừng cách biệt, nhung nhớ, buồn thương, để rồi được gặp nhau tràn căng nhựa tình, cuồng quay tình Xuân tràn ngập bến đỗ tình yêu:
Xuân tôi sang bến yêu tôi tìm gió trăng
Tình Xuân là Xuân có khi mừng vơi, có khi sầu đầy
Xuân yêu đương, muốn căng lên nhựa sống ngon
Tìm em, gặp em đón Xuân nghìn năm bão Xuân ngập lòng.
Nghe Xuân Ca, ta còn bắt gặp một Phạm Duy như thể bay lên, hòa cùng đất trời để nghe tình Xuân nở giữa cõi nhân gian, mặc cho thế nhân còn buồn thương, hờn giận:
Xuân lên cao, chóp Xuân buông nhìn xuống sâu
Hồn Xuân, hồn thiêng ngút lên từ lâu cõi Xuân còn dài
Xuân trong ta đã muôn ngàn lần đã qua
Mặc cho, mặc bao những cơn buồn thương những cơn giận hờn.
Xuân Ca còn là “cái tôi” đúng nghĩa của một người khát khao tình yêu, dẫu biết rằng rồi mai đây, cũng như mọi người, con người chỉ là cát bụi và trở về với cát bụi. Dù trở về cùng đất, nhưng Xuân vẫn trường tồn. Xuân vẫn mãi đem tình yêu đến cho những kẻ yêu nhau:
Xuân tôi ơi! Sức Xuân tôi còn khát khao
Dù nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu
Xuân muôn năm, có ta Xuân còn hỡi Xuân
Thì xin, thì Xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần.
Nghe hết cả bài Xuân Ca, điệp khúc Xuân ơi Xuân! Xuân ới Xuân ơi! Xuân ơi Xuân! Xuân ới Xuân ơi! như là tiếng gọi mời Xuân đến, như lời yêu thương được cất lên, như tiếng kêu hạnh phúc ngập tràn. Đây là tiếng lòng của Phạm Duy, cũng như mọi người. Và tôi chợt nhớ thủ bút của nhạc sĩ Phạm Duy trong dịp Xuân Giáp Thân, 2004: Sinh ra vào mùa Thu, nhưng tôi yêu mùa Xuân. Quanh năm tôi gọi ‘Xuân ới Xuân ơi’! Xuân không bao giờ bỏ tôi đâu.
Nghe đi rồi nghe lại Xuân Ca, tôi cảm được rằng, qua ca từ từng đoạn, “cái tôi” Phạm Duy như là hiện hữu từ đêm đầu tiên khi cha mẹ ông hợp hôn đến khi ông cảm nhận hết dư vị của cuộc đời.
Tôi cũng như thấy “cái tôi” của ông biến chuyển theo thời gian để cả cuộc đời chỉ là Xuân Ca. Tôi thấy thấp thoáng đâu đó “cái nó” (Id) đầy dục tính (libido) được “cái siêu tôi” (Superego) chuyển hóa thành “cái tôi” (Ego) đầy chất người (theo Sigmund Freud). Là người mới có sự thăng hoa từ “đêm gối chăn phòng the”, “nắng lên từ cha chói chan lòng mẹ”, “căng lên nhựa sống ngon”, “nghìn năm bão Xuân ngập lòng” đến “hồn Xuân, hồn thiêng ngút lên từ lâu cõi Xuân còn dài” để “tôi tìm gió trăng”, “góp chung câu gào thiết tha”, với “sức Xuân tôi còn khát khao”, “Thì xin, thì Xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần”.
Nghe Xuân Ca mỗi khi Tết đến, Xuân về, dẫu biết Phạm Duy rời cõi hồng trần, nhưng tôi như thấy ông đang gãy đàn hát vang: “Xuân tôi ơi! Sức Xuân tôi còn khát khao/ Dù nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu…”
0 notes