phatgiaoninhbinh
phatgiaoninhbinh
PGNB
3 posts
Tin tức Phật giáo Ninh Bình, Phật sự online, học Phật pháp sống từ bi, sống yêu thương, nhân quả luân hồi, và dứt ác làm lành. phatgiaoninhbinh.com
Don't wanna be here? Send us removal request.
phatgiaoninhbinh · 3 years ago
Link
Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát rất gần gũi với tất cả mọi người Phật tử Việt Nam. Ngài là hình tượng biểu trưng cho lòng từ bi, thương yêu, bảo bọc và che chở cho tất cả mọi loài. Hình tượng cùng với những hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm đã in sâu vào lòng người dân Việt, nhất là những người Phật tử.
0 notes
phatgiaoninhbinh · 3 years ago
Text
Duy biểu học – Hiểu sự vận hành của tâm
Thiền sư Thường Chiếu (thế kỷ thứ 12) đã nói “Khi ta hiểu rõ cách vận hành của Tâm thì sự tu tập trở nên dễ dàng”. Năm Mươi  Bài Tụng Duy Biểu là cuốn sách về tâm lý và siêu hình học của Phật giáo, giúp cho chúng ta hiểu được sự hoạt động của Tâm (Citta), bằng cách hiểu được bản chất của các Thức (Vijñāna). Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu có thể được coi như một thứ bản đồ trên con đường tu tập.
Tumblr media
Trong thiền quán, Bụt Thích Ca soi chiếu, hiểu rõ tâm Ngài một cách sâu xa. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm nay, các đệ tử của Ngài học hỏi để biết cách chăm sóc tâm và thân họ, hầu có thể chuyển hóa những khổ đau để đạt tới an lạc.
Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu hình thành từ những dòng suối tuệ giác của đạo Bụt Ấn Độ, gồm các luận giảng A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma – Thắng Nghĩa Pháp) trong tạng kinh Pali (1), tới giáo pháp Đại Thừa như Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra). A-tỳ-đạt-ma là các luận giảng của đạo Bụt bộ phái, được hệ thống hóa từ giáo lý nguyên thủy.
Sự phát triển của triết lý Phật giáo thường được chia ra ba thời kỳ: Nguyên thủy, Bộ phái và Đại thừa (2). Năm mươi bài tụng Duy Biểu chứa đựng giáo pháp của cả ba thời kỳ đó.
Trong thời Bụt còn tại thế, Phật pháp là giáo pháp sinh động, nhưng sau khi Ngài nhập diệt, các đệ tử của Ngài có bổn phận hệ thống hóa những lời giảng của Ngài để có thể học hỏi cho thấu đáo hơn. A-tỳ-đạt-ma là một trong các tập hợp đầu tiên những bài giảng về tâm lý và triết lý, được nhiều đệ tử xuất sắc của Bụt khai triển trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Nguồn gốc 50 bài tụng Duy Biểu
Khi còn là chú tiểu, tôi được học thuộc lòng Nhị Thập Tụng và Tam Thập Tụng của Ngài Thế Thân, bằng tiếng Hán, do thầy Huyền Trang dịch. Khi sang Tây phương, tôi nhận ra rằng giáo pháp quan trọng về tâm lý của đạo Bụt có thể mở được cánh cửa hiểu biết cho người Âu Mỹ. Vậy nên năm 1990, tôi làm ra 50 bài tụng Duy Biểu để làm cho viên ngọc quý được sáng thêm. Đó là gia tài của Bụt, của Ngài Thế Thân, An Huệ, Huyền Trang, Pháp Tạng và nhiều vị khác nữa. Sau khi học 50 bài tụng, bạn sẽ hiểu được những bài cổ văn của các vị thầy lớn, và bạn sẽ hiểu được nền tảng của 50 bài tụng. Cuốn sách Duy Biểu Học cống hiến các bạn những phương pháp Nhìn sâu cách vận hành của tâm để có thể tự chuyển hoá được tâm thức của mình để sống an lạc, hạnh phúc hơn; và tiến tới trên con đường học đạo.
Năm mươi bài tụng để học Duy Biểu có vẻ mới, nhưng chỉ mới trên hình thức thôi. Về phương diện nội dung, chúng được làm bằng những yếu tố của Duy Biểu Học, bắt nguồn từ giáo lý Bụt dạy. Trong Kinh Pháp Cú, Bụt có nói Tâm là căn bản, Tâm là chủ các pháp. Trong Kinh Hoa Nghiêm Bụt dạy Tâm là họa sư có thể vẽ ra tất cả các hình ảnh. Cũng trong Kinh Hoa Nghiêm có một bài kệ mà các sư c�� sư chú ở Việt Nam đọc mỗi ngày trong nghi thức cúng cô hồn: “Nhược nhân dục liễu tri tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tính, nhất thiết duy tâm tạo.” (Ai muốn hiểu được chư Bụt trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, phải quán chiếu bản tính của pháp giới và thấy rằng tất cả đều do tâm mình tạo ra). Hai chữ tâm tạo này phải được hiểu là tâm biểu hiện. Đó là căn bản của giáo lý Duy Thức mà ngày nay chúng ta gọi là Duy Biểu.
Tác phẩm “Duy biểu học – Nhìn sâu cách vận hành của tâm” này tuy được trình bày một cách mới mẻ nhưng trong nội dung thì dùng toàn những chất liệu cũ. Những chất liệu ấy được tìm thấy trong các tài liệu sau đây:
1/ Duy Thức Tam Thập Tụng của Thầy Thế Thân (Vasubandhu; 320 – 400)
2/ Tam Thập Tụng Chú Giải của Thầy An Huệ(Sthiramati 470-550)
3/ Thành Duy Thức Luận của Thầy Huyền Trang (Xuan Zhang; 600- 664)
4/ Nhiếp Đại Thừa Luận của Thầy Vô Trước (Asanga 321 – 390)
5/ Bát Thức Quy Củ Tụng của Thầy Huyền Trang
6/ Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa của Thầy Pháp Tạng (494- 579).
Duy Thức Tam Thập Tụng của Thầy Thế Thân, được căn cứ trên bản tiếng Hán, tiếng Phạn và trên những lời bình giải của một nhà Duy Thức học nổi tiếng là thầy An Huệ.
Tam Thập Tụng Chú Giải của Thầy An Huệ  bằng tiếng Phạn, được giáo sư Sylvain Lévi tìm ra ở Népal năm 1922 và đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Quan Thoại (xuất bản năm 1925 – Đó là cuốn Materiaux pour l’etude du systeme Vijnaptimātra).
Thành Duy Thức Luận của Thầy Huyền Trang là bản dịch và chú giải Duy Thức Tam Thập Tụng của thầy Thế Thân. Tuy nhiên, lối dịch và chú giải của Thầy Huyền Trang rất đặc biệt. Thầy đã sử dụng tất cả tài liệu mà thầy học được từ đại học Nalanda (một đại học nổi tiếng của Phật giáo, phía Bắc Ấn Độ, nay là thị trấn Rajgir, tiểu bang Bihar), từ thế kỷ thứ 7 Tây lịch. Nơi đây Thầy Huyền Trang đã học với Thầy Giới Hiền và Thầy Hộ Pháp, là hai trong 10 vị luận sư  nổi tiếng của Ấn Độ thời đó. Thầy Huyền Trang thu thập và đem về Trung Hoa những kiến thức của 10 vị luận sư này và thầy cho hết vào bản chú giải Thành Duy Thức Luận. Chúng tôi sử dụng bản Thành Duy Thức Luận bằng chữ Hán và bản tiếng Anh do một học giả người Hương Cảng dịch.
Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayana- samgrahashastra) của Thầy Vô Trước là một tác phẩm rất nổi tiếng. Nhiếp Đại Thừa Luận chứa đựng tất cả kinh nghĩa Đại thừa. Tư tưởng trong đó rất căn bản.
Khi học tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng của Ngài Thế Thân, ta cứ nghĩ Ngài là tổ của Duy thức. Nhưng ta không biết rằng Ngài Vô Trước đã cô đọng tư tưởng Duy thức rất công phu trong Nhiếp Đại Thừa Luận.
Bát Thức Quy Củ Tụng của thầy Huyền Trang có thể xem là tác phẩm Duy thức mới, vì khi qua Ấn Độ, thầy Huyền Trang cũng được tiếp xúc với giáo lý của thầy Trần Na (Dignāna 400- 480), là người rất giỏi về luận lý học (logic) và nhận thức luận (epistemology). Vì vậy Bát Thức Quy Củ Tụng có màu sắc luận lý và nhận thức luận.
Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa do Thầy Pháp Tạng sáng tác. Thầy chuyên về hệ thống Hoa Nghiêm. Thấy giáo lý Duy thức quan trọng và thầy muốn tuyệt đối đại thừa hóa Duy thức, đem giáo lý Hoa Nghiêm bổ túc cho Duy thức. Vậy nên trong Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa, thầy Pháp Tạng đã đề nghị đưa tư tưởng “một là tất cả, tất cả là một” vào trong Duy thức. Nhưng tiếng gọi của Thầy Pháp Tạng không đem lại nhiều kết quả vì cả ngàn năm sau người ta vẫn tiếp tục học Duy thức của các thầy Thế Thân, Huyền Trang và Khuy Cơ như cũ.
Ước mong của tác giả
Sáng tác 50 Bài Tụng Duy Biểu, tác giả mong sẽ nối tiếp sự nghiệp của Thầy Pháp Tạng: đưa giáo lý Hoa Nghiêm vào Duy Biểu để cho Duy Biểu trở thành viên giáo.
Tác giả cố gắng trình bày tác phẩm này như một giáo lý Đại thừa.
Nếu trong khi đọc sách, bạn không hiểu một câu hay chữ nào đó, thì đừng cố gắng quá. Hãy để cho giáo pháp thấm dần vào bạn như khi bạn nghe nhạc, như mặt đất thấm những giọt nước mưa. Nếu chỉ dùng lý trí để học những bài tụng này, thì cũng giống như phủ lên mặt đất một tấm vải nhựa vậy. Nhưng khi bạn cho phép mưa pháp thấm sâu vào tâm thức, thì 50 bài tụng này sẽ cống hiến bạn tất cả giáo nghĩa của Thắng Pháp A-tỳ-đạt-ma.
Giáo pháp Duy Biểu là một môn học hết sức phức tạp và vi tế, chúng ta cần cả cuộc đời để tìm hiểu cho thấu đáo. Xin đừng nản lòng vì sự phức tạp đó. Hãy cứ học một cách từ tốn. Đừng đọc nhiều trang mỗi lần, mà chỉ đọc từng câu, cùng lời bình giải đầy đủ trước khi sang câu khác. Với chánh niệm và từ bi, bạn sẽ hiểu những bài học này một cách tự nhiên và dễ dàng.
Trong khi sáng tác Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu, tác giả nhắm đến tính cách thực dụng của giáo lý Duy Biểu. Tác giả mong rằng hành giả có thể sử dụng năm mươi bài tụng này vào sự tu tập hàng ngày. Trong quá khứ có nhiều người học Duy thức nhưng kiến thức về Duy thức của họ có tính cách lý thuyết và khó đem ra thực hành.
Tác giả đã từng gặp nhiều vị học Duy thức rất kỹ, nói về Duy thức rất lưu loát, nhưng khi được hỏi cái kiến thức đó có liên hệ gì tới đời sống hàng ngày hay không thì những vị đó chỉ mỉm cười không đáp. Trong khi đó, 50 Bài Tụng Duy Biểu trong sách này rất thực tế, có thể đem ra áp dụng trong mọi sinh hoạt của đời sống, hướng dẫn sự tu học, xây dựng tăng thân, chuyển hóa nội tâm và trị liệu khổ đau cũng như chữa trị những chứng bệnh tâm thần. Và như thế, có thể dùng làm căn bản trong các khóa tu dành cho các nhà tâm lý trị liệu Tây phương. Tác giả rất mong cuốn Duy Biểu Học – Nhìn sâu cách vận hành của tâm sẽ đóng được một vai trò trong lịch sử hành trì và chuyển hóa.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
______________________________
Ghi chú
Kinh tạng: Các kinh điển và giới luật gồm thâu những lời Bụt Thích Ca giảng dạy và do các đệ tử học thuộc lòng rồi truyền lại cho nhau bằng cách tụng đọc hàng ngày. Kinh tạng cũng gọi là Tam Tạng Kinh điển (Tipitaka) gồm có :
Kinh (Sutta Pitaka): Kể lại các buổi thuyết giảng của Bụt.
Luật (Vinaya Pitaka): các giới luật Bụt chế tác cho các vị khất sĩ
Luận (Abhidhamma Pitaka): các bài giảng hệ thống hoá triết lý và tâm lý học Phật giáo
Kinh tạng Pali: được ghi trên lá kè (lá bối, thuộc loài Palm – Cọ) tại xứ Tích Lan (đảo Sri Lanka) khoảng 100 năm trước Tây lịch (hơn 300 năm sau khi Bụt nhập diệt).
Kinh tạng Hán văn: Cùng thời với tạng Pali (Nam truyền), tam tạng kinh điển cũng được ghi lại ở miền Bắc Ấn bằng tiếng Sanskrit, mà rất nhiều cuốn đã được dịch sang tiếng Hán (Hán tạng) và tiếng Tây Tạng – còn tồn tại tới ngày nay.
Các nước Phật giáo Á Đông đều có Tam tạng kinh điển bằng chữ Hán với phần trước tác của các thiền sư địa phương. Riêng nước Việt Nam, sau khi bị nhà Minh (Trung quốc) đô hộ, họ đã tiêu hủy hoặc tịch thu hầu hết các tác phẩm của thiền sư Việt Nam, kể cả Đại tạng kinh mà thời Lý – Trần đã để lại.
Ba thời kỳ của đạo Bụt:
Đạo Bụt Nguyên Thủy (Source, Original or Primitive Buddhism): do chính Bụt Thích Ca giảng dạy khi Ngài còn tại thế (từ giữa thế kỷ thứ 6 tới giữa thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch).
Đạo Bụt Bộ Phái (Schools of Buddhist Sects) bắt đầu từ khoảng năm 340 trước Tây Lịch. Có chừng 20 bộ phái. Therevada nhận là phái nguyên thủy, thật ra đó là tiếp nối của phái Đồng Diệp Bộ (Tamrasatiya) thuộc Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavāda)
Đạo Bụt Đại Thừa (Mahayana Buddhism): được hình thành rất sớm (thế kỷ thứ hai trước Tây lịch), có gốc rễ từ đạo Bụt nguyên thủy và thừa hưởng rất nhiều từ đạo Bụt bộ phái. Đạo Bụt Đại Thừa phát sinh do nhu cầu muốn đem giáo pháp thâm diệu của Bụt truyền bá cho đại chúng dưới một hình thức mới để họ có thể hiểu và hành trì được. Đạo Bụt Đại Thừa được phát triển từ khoảng 100 năm trước Tây lịch, nêu lên mẫu người lý tưởng là các vị Bồ tát, tu hành để giúp tất cả chúng sinh được giải thoát. Lý tưởng Bồ tát khác với lý tưởng A-La-Hán trong Tiểu Thừa, cho việc giải thoát cá nhân mới là quan trọng.
1 note · View note
phatgiaoninhbinh · 4 years ago
Text
Quả báo của nghiệp
Quả báo của nghiệp. Con người có phải thọ lãnh nghiệp quả của tất cả nghiệp nhân trong quá khứ? Có phải gieo bao nhiêu hạt giống thì quả sẽ trổ bấy nhiêu?
Tumblr media
Thật sai lầm khi cho rằng con người phải nhận chịu tất cả nghiệp quả của những nghiệp nhân đã gieo trong quá khứ (thường gọi là thọ báo, dân gian gọi là trả nghiệp) thì mới thọ hưởng được quả phúc của những nghiệp nhân thiện lành đã tạo trong đời sống hiện tại. Nếu như thế thì không có sự kiện giác ngộ giải thoát hoàn toàn khỏi phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử, không có cơ hội chuyển phàm thành Thánh, không có cơ hội thay đổi từ người xấu thành người tốt, từ người dở thành người hay, từ kẻ ác gian thành người hiền lương thánh thiện.
Chính vì không phải nhận chịu tất cả nghiệp quả của những hành động trong quá khứ (nghiệp nhân) mà con người có cơ hội tu tập, rèn luyện, chuyển hóa để trở nên tốt hơn, đồng thời thọ hưởng được những niềm vui, hạnh phúc được tạo ra từ những nghiệp nhân trong hiện tại.
Tất cả những gì xảy ra với con người trong hiện tại không phải hoàn toàn do nghiệp nhân của các đời quá khứ. Một số là quả báo của những nghiệp nhân do con người mới tạo ra ngay trong đời này, khi hội đủ nhân duyên thì những nghiệp nhân đó hình thành nên nghiệp quả. Con người chỉ nhận chịu nghiệp quả của một số hành động nào đó trong quá khứ chứ không phải là tất cả. Vì phải có đủ nhân duyên thì nghiệp quả mới hình thành.
Nếu con người tiếp tục tạo những nghiệp nhân mới mang tính chất giống những nghiệp nhân quá khứ, làm duyên hỗ trợ cho nghiệp nhân quá khứ thì nghiệp quả của những nghiệp nhân quá khứ hình thành. Bằng ngược lại, nếu tạo nghiệp nhân mang tính chất đối nghịch gây trở ngại cho những nghiệp nhân quá khứ thì nghiệp quả của những nghiệp nhân quá khứ không có điều kiện (không đủ duyên) hình thành.
Cụ thể là, trong hiện tại tạo nghiệp ác thì quả báo khổ sẽ hình thành, tạo nghiệp thiện lành thì quả báo hạnh phúc, an vui sẽ hình thành, quả báo sẽ hình thành từ những điều kiện, nhân duyên (nghiệp nhân) trong hiện tại và quá khứ kết hợp với nhau hoặc từ những nghiệp nhân cực mạnh, có đặc tính nổi trội. Nghiệp quả có hình thành hay không, hình thành mau hay chậm và sự nhận chịu nghiệp quả nhiều hay ít tùy thuộc vào công đức và phước báo, tùy thuộc vào trí tuệ và sự tu tập chuyển hóa, tùy thuộc vào việc tạo những nghiệp nhân mới trong hiện tại.
Trong kinh Tăng chi bộ (chương III, phẩm Hạt muối), Đức Phật có nêu trường hợp hai người cùng tạo nghiệp nhân giống nhau nhưng nghiệp quả lại khác nhau. Đối với người có đạo đức, có tu tập, có trí tuệ thì nghiệp quả mà họ phải nhận chịu nhỏ hơn, nhẹ hơn, ít hơn (về mức độ và thời gian) người không có đạo đức, không có tu tập, không có trí tuệ. Điều này cũng giống như khi b�� một nắm muối vào chén nước, nước trong chén bị mặn và không uống được. Nhưng cũng bỏ nắm muối tương tự như thế xuống một dòng sông, nước của dòng sông nhiều không vì nắm muối đó mà trở nên mặn và không uống được. Đức Phật dạy như sau:
“Này các Tỳ-kheo, có người thân không tu tập, giới (đạo đức) không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, tâm hạn hẹp, kém trí đức, người như vậy dù làm nghiệp ác nhỏ cũng đủ tạo quả báo đưa vào cảnh khổ.
Này các Tỳ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, là người có trí đức lớn, tâm quảng đại, cao thượng, người như vậy dù có lầm lạc hoặc sơ suất, lỡ làm việc ác nhỏ tương tự, nghiệp ác ấy đưa họ đến cảm thọ ngay trong hiện tại và không tạo quả báo trong đời sau”.
Tại đây, Đức Phật đã cho biết rõ về quả báo của nghiệp, xóa bỏ quan niệm sai lầm mà không ít người mắc phải:
“Này các Tỳ-kheo, ai nói như sau: ‘Người này tạo nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ (quả) như vậy, như vậy’. Nếu sự thật là thế thì không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội thoát khổ. Và này các Tỳ-kheo, ai nói như sau: ‘Người này tạo nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy’. Này các Tỳ-kheo, nếu sự thật là thế, thì có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội thoát khổ.
Ở đây, này các Tỳ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ và nghiệp ác ấy đưa người đó vào khổ cảnh. Nhưng có người làm nghiệp ác nhỏ tương tự và nghiệp ác ấy đưa người đó đến cảm thọ ngay trong hiện tại, không thọ quả báo trong đời sau dù nhỏ”.
Đoạn kinh trên có đề cập đến “quả dị thục” của nghiệp. Quả dị thục là quả đã chín muồi và đổi khác so với nhân ban đầu, chính là nghiệp quả hay quả báo của nghiệp. Đức Phật từng cho biết, kẻ phàm phu không thể nào tư duy về quả dị thục trong tương lai của một nghiệp nhân là như thế nào. Kinh Tăng chi bộ (phẩm Bốn pháp) có nói: “Có bốn phạm trù không thể tư duy: Phật giới, thế giới tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thục của nghiệp”. Bởi vì trong quá trình từ nghiệp nhân đi đến nghiệp quả có sự can thiệp của các duyên. Các duyên thuận hoặc nghịch sẽ tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nghiệp quả. Cụ thể là:
– Một người có đạo đức, có trí tuệ, có tu tập, có từ tâm vô lượng, lỡ tạo nghiệp thì nghiệp quả không đáng kể đối với họ, thậm chí nghiệp quả không đến với họ. Bởi vì nghiệp quả không đủ duyên để hình thành, bởi vì họ có đủ khả năng chuyển hóa nghiệp, hóa giải nghiệp. Trường hợp này cũng tương tự trường hợp Đức Phật hoặc các vị Thánh A-la-hán phải chịu nghiệp quả (dư báo-quả báo còn sót lại) của những nghiệp nhân trong quá khứ nhiều đời. Khi nghiệp quả đến, các vị ấy vẫn an nhiên, tự tại như không có việc gì xảy ra. Tâm các vị ấy vẫn bình an, không lo lắng, sợ hãi, không khổ não. Đó là quả báo của những nghiệp nhân trọng đại, chứ các nghiệp nhân bất thiện nhỏ cũng không đủ duyên để hình thành quả báo, cho nên nghiệp quả của những nghiệp nhân bất thiện nhỏ này cũng không thể có để đến với các vị ấy.
– Đối với người đã lỡ tạo nghiệp nhưng biết ăn năn sám hối, biết ứng dụng Phật pháp để tu tập chuyển hóa thì nghiệp quả đến với họ cũng không đáng kể, họ nhận lãnh ngay trong đời này và không nhận lãnh trong đời sau. Bởi vì trong thời gian đi đến nghiệp quả, các nghiệp mới (sám hối, làm phước, tu tập chuyển hóa) có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quả báo của các nghiệp cũ. Việc sám hối và tu tập chuyển hóa chính là những duyên trở ngại làm cho nghiệp quả xấu không hình thành hoặc hình thành nhưng không đáng kể.
– Cường độ mạnh yếu của sự dụng tâm, cố ý khi hành động tạo nghiệp cũng sẽ quyết định nghiệp quả nặng hay nhẹ, lớn hay nhỏ. Vì thế nếu ỷ lại mình là người đã có công phu tu hành lâu ngày, đã tạo được nhiều công đức, phước báo nên tạo nghiệp bừa bãi, tùy tiện, cố ý làm việc xấu ác thì những nghiệp nhân bất thiện này sẽ là các duyên phá hoại, làm tiêu hao công đức, phước báo. Mức độ dụng tâm, cố ý càng nhiều, càng mạnh thì nghiệp quả càng lớn, càng nặng. Mức độ dụng tâm, cố ý và tác hại của nghiệp nhân sẽ quyết định nghiệp quả lớn hay nhỏ và thời gian thọ báo mau hay lâu.
Tuy quả dị thục của nghiệp hay nghiệp quả không giống với nhân ban đầu, nhưng có một điều chắc chắn là bản chất không khác. Điều đó có nghĩa là nhân xấu sẽ cho quả xấu, nhân tốt sẽ cho quả tốt; nghiệp nhân thiện sẽ cho nghiệp quả lành, an vui hạnh phúc, nghiệp nhân ác bất thiện sẽ cho nghiệp quả dữ, bất hạnh, khổ đau.
Vấn đề sau khi tạo nghiệp biết ăn năn sám hối và hồi đầu hướng thiện, tu tập chuyển hóa nên chỉ nhận lãnh quả báo nhỏ không đáng kể ngay trong đời sống hiện tại mà không rơi vào khổ cảnh, đọa xứ, địa ngục sau khi chết, cũng không nhận lãnh quả báo to lớn trong đời sau.
Đức Phật cho biết, nếu như có một người tạo nghiệp sát sinh nhưng biết việc mình làm là ác, bất thiện, người ấy ăn năn hối cải, từ đó về sau không tái phạm nữa, đồng thời tu tập chánh kiến, phòng hộ các căn, tinh tấn thiền định, thiền quán, phát triển bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả, nhờ sự tu tập đó mà người ấy thoát khỏi quả báo ác nghiệp.
https://phatgiaoninhbinh.com/qua-bao-cua-nghiep-525.html
1 note · View note