Tumgik
#máy hàn Hồng Ký yên bái
tintinhaiminh · 4 years
Link
1 note · View note
phamthituong · 4 years
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Tumblr media
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
 Kính bút
 Nāga Mahā Thera – Tỳ Khưu Bửu Chơn
 Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
 Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
 Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
 Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
 Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
         Nhựt kí của phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy
Khởi hành ngày 14-5-1954: Phái đoàn PGNT (Chùa Kỳ Viên) gồm có: Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn, Đ.Đ. Buddhapala (Hộ Giác), Ô. Nguyễn Văn Hiểu thơ ký, Nguyễn Văn Mẫn, B. Huỳnh Thị Kỷ, Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Có, Kiều Thị Giàu, và Ni cô Trần Thị Thọ đã đáp phi cơ hãng Thái-Airway lúc 13 giờ 45, ngày 14-5-1954, trực chỉ Miến Điện, để dự Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu tại Rangoon.
Có nhiều người đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tiễn đưa rất đông đầy: Đ.Đ. Tối Thắng dẫn đầu Bổn đạo chùa Kỳ Viên, Đ.Đ. Trụ trì, chư Tăng và Bổn đạo chùa Chantaransey, Đ.Đ. Trụ trì và Bổn đạo chùa Huê Lâm, ông Jethmal và nhiều thân bằng quyến thuộc của các nhân viên trong phái đoàn.
Đúng 14 giờ 40, khi máy bay đáp xuống phi trường Nam-Vian, đã có chư Tăng Miến, Việt và toàn thể thiện tín việt kiều trực tiếp rước vào nhà hàng thết đãi nước cam và ân cần cầu chúc cho cuộc hành trình của phái đoàn V.N. sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho nền Phật giáo nước nhà.
Sau khi rước thêm hành khách, máy bay từ giã phi trường Ponchentong, lúc 15 giờ 30, qua hai giờ sau đã đến phi trường Donmuong, cách xa kinh đô Bangkok 28 cây số ngàn.
Nơi đây có hai vị đại diện Sứ quán Việt Nam là quí ông Nguyễn Duy Liển, Cố vấn tòa Đại sứ, và Nguyễn Khoa Phòn vừa là thơ ký và con của cụ Sứ Thần chực đón phái đoàn với hai cỗ xe Sứ quán.
Quê người xứ lạ, nếu không có hai vị kiều bào này lo giùm giấy tờ và rước về an nghỉ tại Sứ quán V.N., thì mặc dầu có Đ.Đ. Bửu Chơn thông thạo tiếng Anh, tiếng Thái cũng phải mất thì giờ chờ đợi và bối rối về chỗ tạm nghỉ.
Khi đến Sứ quán mới hay rằng cụ Nguyễn Khoa Toàn, Sứ thần V.N. tại Bangkok, và phu nhân đã đáp phi cơ về Saigon sớm mai. Nhưng ở nhà có bà Phòn dâu thứ năm của cụ, lo bữa ăn và chỗ ngủ chu đáo. Bà là người quê quán ở Saigon, khi gặp đồng bào từ quê nhà đến, bà tuy tuổi độ chừng 20 xuân, mà rất lịch duyệt, niềm nở tiếp đãi, chuyện trò mật thiết, nhất là đối với năm bà tín nữ.
Ngày 15-5-1954, sáng sớm bà đã lo sẵn đồ điểm tâm mời hai Đại đức và thiện nam, tín nữ xuống phòng ăn, lót lòng. Còn cậu Phòn thì lo sắp đặt đồ hành lý lên xe, chực sẵn đưa phái đoàn ra phi trường. Rồi cũng lo giấy tờ xong xuôi hết, mới kiếu từ trở về Sứ quán vận động cho Đ.Đ. Hộ Giác và ba bà tín nữ đi cho kịp chuyến máy bay sau, bởi tại Bangkok có rất nhiều phái đoàn, như phái đoàn Thái Lan và Cao Miên đã ghi tên trước chỉ còn có 5 chỗ dành cho phái đoàn V.N., trong 9 chỗ của hãng Air-Vietnam đã đánh điện xin.
Tại phi trường Don Muang, Phật tử Thái Lan tiễn đưa phái đoàn của họ rất long trọng, nào là diễn văn, tràng hoa, nhiếp ảnh và tiệc điểm tâm dâng cho chư Tăng.
Máy bay 4 động cơ, 60 chỗ ngồi, không còn một chỗ trống. Vì hành lý nhiều, phải chờ sắp đặt, nên phi cơ cất cánh đã trễ hết một giờ trong chương trình định trước.
Khởi bay từ 10 giờ 30 đến 12 giờ 30, đã tới phi trường Rangoon, cách châu thành 15 cây số ngàn.
Tại đây có Đ.Đ. Kelasa, Giám đốc Đại học đường Rangoon, đại diện cho Giáo hội Tăng già Miến Điện, quan Chưởng lý U Chan Htoon, Tổng Thơ ký Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đón rước chư Tăng được đưa về Tăng đường tại chỗ Kết Tập Tam Tạng cách xa Rangoon 12 cây số ngàn, còn thiện tín về tạm trú trong nhiều biệt thự tại trung tâm châu thành.
Tới nơi, sau khi tắm rửa, mạnh ai nấy ngủ lấy sức, tới 4 giờ chiều bị đánh thức mời đi ăn bánh và uống trà sữa. Trong khi ấy, ông Trưởng ban ‘Tiếp tân’ cho hay vị nào cần dùng tiền xài trước khi đi lãnh ngân phiếu, muốn bao nhiêu ông sẵn lòng cho mượn và cho biết từ khi đến tới ngày về, các khách ngoại quốc được nuôi ăn ở khỏi phải tốn tiền.
Ngày 16-5-1964, người Việt Nam đi ra khỏi xứ, nếu không biết tiếng Anh thật là vô phước. Muốn cái chi không biết nói làm sao cho người ta hiểu, thành ra mình là người câm. Rồi nhớ lại, khi ở bên nhà có người bạn rầy sao cho con học Anh văn và Pháp văn. Ông bạn ấy biểu phải cho con học toàn chữ Việt, mới là người công dân trung thành với Tổ quốc. Phải lúc này, tại Rangoon; có ông bạn ấy ở đây để ổng bảo coi phải làm cách nào đặng hỏi thăm đường đi nước bước, và tìm hiểu những điều nghe thấy giùm cho nhóm người Việt, giữa các phái đoàn Mã Lai, Tích Lan, Thái Lan, Ấn Độ, Népal, Tàu, Nhựt, Anh, Đức, Pakistan, Sikkim, Ryukyu, Yougoslaves, v.v… đương giao thiệp mật thiết với người Miến Điện.
Tại đây, người trí thức đến thường dân đều dùng Anh ngữ để nói chuyện với khách tứ phương.
May ra phái đoàn V.N. gặp được bà thân mẫu của ông Mac Phsu, vị thương gia bán dầu cù là đường Lê Lợi, gần chợ Saigon, ra tận phi trường đón rước tình nguyện làm hướng đạo và thông ngôn. Nhờ bà quen biết nhiều, có thân thế, nên ai ai cũng sẵn lòng làm vừa ý muốn. Bà có người chị ruột, trước kia có ở Saigon, nên khi gặp phái đoàn V.N., hai ông bà và 7 cháu (4 gái, 3 trai) đều xem chúng tôi như thân quyến, cách biệt lâu ngày bây giờ gặp nhau, thôi mừng là mừng. Bà thuộc về Hoàng phái, ông cũng là dòng sang trọng, quí danh là U Soe Gywe, đương giúp một cách đắc lực cho Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng. Ông bà biểu chúng tôi phải lại ở tại biệt thự riêng của ông bà, mấy cháu kéo níu không cho đi. Đó là duyên lành của kẻ đi tìm làm việc lành ở tận phương xa.
Cho đến những người Miến Điện, khi gặp người Việt, cúi chào với một nụ cười đầy thiện cảm. Vợ chồng, con cái, dắt nhau đi xem các gian phòng của chư Tăng, vừa thấy chúng tôi đương hầu chuyện với hai Sư V.N., họ dòm không khỏi mắt nhứt là xem các bà tín nữ, dường như đã có gặp nhau trong dĩ vãng; hơn nữa cách búi tóc của phụ nữ V.N. mường tượng như của đàn bà Miến. Rồi họ hỏi thăm ở đâu lại, khi biết là người V.N., vợ chồng, con cái xin vào đảnh lễ chư Sư V.N., ngồi hỏi thăm đủ chuyện. Chẳng phải tọc mạch, bởi họ là người chất phác ở thôn quê đến; có lẽ vì mối cảm tình thiên nhiên của người đồng đạo, một cảm tình thân mật giữa đám con chung của một đấng Cha Lành.
Nói về ngày thứ hai của Phái đoàn V.N. tại thành Rangoon. Nhờ tạm trú trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi: đất rộng, gió mát, đèn điện, quạt máy, nên sau một đêm dưỡng sức, ai ai cũng hân hoan vui vẻ. Sáng sớm, dùng điểm tâm rồi, chúng tôi rảo bước xem lại tường tận các biệt thự vừa mới cất xong để rước các phái đoàn ngoại quốc. Cả thảy 25 biệt thự in nhau một kiểu mẫu, cất trên một vuông đất độ 12 mẫu. Mỗi biệt thự 2 từng lầu, chứa 60 giường, mùng mền, nệm, gối toàn đồ mới. Tổng cộng được 1.500 chỗ nghỉ. Nhà nào cũng đầy khách ngoại quốc, mỗi phái đoàn đều có bảng đề chữ lớn trước cửa. Tối lại đèn thắp sáng trưng, ở xa xem như một hội chợ. Ban tiếp tân gồm có một vị Trưởng Ban, 16 nhân viên và 75 bồi phòng, có chỗ làm việc, có điện thoại và 6, 7 cổ xe Jeep để đưa khách đi nơi này chỗ nọ, tùy theo ý muốn. Có máy thâu thanh tại phòng khách và phòng ăn, cho khách mua vui. Mỗi khi đi đâu trên mỗi xe có một nhân viên đi theo dẫn đường, và khi trở về, họ phải xem xét coi có đủ số không; nếu thiếu họ chạy đôn đáo kiếm người vắng mặt, sợ lạc đường không biết nẻo về, vì thành phố Rangoon rộng lớn bằng ba thành Saigon. Tối ngủ, họ cũng cho đủ số người; khách vừa ngủ họ lo đóng cửa. Khi khách ra khỏi phòng, họ đặt người trông nom đồ hành lý, mặc dầu dưới từng dưới có cảnh sát gìn giữ an ninh.
Tóm lại, các phái đoàn đều được săn sóc châu đáo, cẩn thận. Cách tổ chức của Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, về phương diện tiếp khách, thật đáng kính phục.
Mỗi tối lại còn biếu nào là sách vở về Phật giáo, về xứ Miến Điện, nào là tin tức tiếp rước các phái đoàn sắp đến.
Lúc rảnh chúng tôi xin xe đi viếng chư Sư V.N. và dạo châu thành, có bà thân mẫu của ông Cù Là Mac-Phsu ngồi kế cận thông ngôn. Thành Rangoon có nhiều công sở, nhà hàng, rạp chớp bóng, nhà ngân hàng to tát đồ sộ. Xe cộ nơm nớp xe Autobus, xe Taxis, xe nhà toàn hiệu Anh Mỹ. Xe lửa chạy dưới sâu, nên không có một cái cổng làm trở ngại sự giao thông. Dưới bến có nhiều tàu ngoại quốc và tàu Miến ăn hàng rất náo nhiệt.
Đến một công trường thấy hình đồng của một nhà Sư, chúng tôi hỏi tại sao Ông Sư này được dựng hình? Người hướng đạo trả lời rằng ấy là Đại đức U Wisaya, trong thời kì xứ Miến bị đô hộ, Ngài thấy đồng bào Ngài bị thực dân hà hiếp quá lẽ, Ngài đứng ra binh vực, bị bắt cầm tù. Khi vào khám Ngài tuyệt thực đến chết. Dân chúng cảm mến ơn đức từ bi vô lượng của Ngài, chung đậu tiền dựng hình Ngài để kẻ qua người lại chiêm bái hàng ngày.
Giữa châu thành có một cái chùa tháp, như Namvian, nhưng rất lớn và cao hơn bội phần, gọi là chùa Shwedagon; bể tròn 300 thước; cao 50 thước; phía ngoài phết toàn bằng vàng lá. Chùa này cất trên 2.000 năm, trong ấy thờ Xá Lợi Phật Tổ (8 sợi tóc thỉnh từ Ấn Độ). Chúng tôi chưa có dịp vào chiêm bái và xem cho tường tận. Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng có cho mỗi người khách một quyển sách 100 trương nói về sự tích của ngôi chùa ấy.
Ngoài ra chẳng biết bao nhiêu biệt thự cất trên những khoảnh đất rộng rãi, vườn tược cây cối sum suê.
Đất tại Rangoon mường tượng như ở Dalat, nhà cửa cất trên đồi nhỏ, khoảng khoát, mát mẻ. Người Miến thích nhà nhiều nóc như nóc chùa, mái nhà không dốc đổ như ở Saigon, mặc dầu lợp bằng ngói móc.
Xe chạy xớt qua, chưa có dịp bước chân xuống đất, chờ dự lễ khai mạc 3 ngày, rồi sau khi đi viếng Mandalay, trở về có thì giờ, sẽ cuốc bộ từ phố này qua phố nọ, mới biết được tường tận.
Sau khi đi một vòng cùng khắp châu thành Rangoon, chúng tôi trở về tắm rửa, rồi rủ nhau đến viếng chư Sư V.N. để hỏi thăm về lễ Sima (kết giới) chỗ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đã cử hành buổi sáng. Công việc này thuộc về Tăng sự, nên thiện tín, dầu muốn dự kiến, cũng chỉ đứng ngoài xa dòm vô. Chỗ Kết Tập Tam Tạng chỉ có sáu cửa vào, mà người đi xem có cả đôi trăm ngàn, dầu có đến đó, cũng khó vào gần cửa được. Vả lại, chúng tôi cũng đã biết cách làm lễ Sima ra sao rồi, nên thừa lúc ấy chúng tôi đi xem phong cảnh kinh đô Rangoon. Sau lại vì tánh tọc mạch, muốn biết coi cách thức kết giới ở Miến Điện có khác ở V.N. không, để khi về xứ, nói lại cho bà con biết những điều mới lạ của xứ người.
Nên sau khi vắng mặt, nghĩ lại ăn năn, liền dắt nhau lên tận Tăng Đường, yêu cầu chư Sư V.N. cho biết cách hành lễ buổi sáng có chỗ chi lạ thường không.
Hai Sư nói: Trong các giới Phật giáo Nguyên Thủy, xứ nào cũng đồng tuân theo lời của Phật Tổ Như Lai di truyền trong Tam Tạng Pháp Bảo, nên cuộc lễ Kết Giới đã cử hành y theo một nguyên tắc. Có khác là khác về tánh cách long trọng, bởi lễ này do 2.000 vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu hiệp lại làm, lại thêm có 3 vị Pháp Chủ, lớn tuổi và cao hạ nhứt, làm Chủ Tọa là: Đ.Đ. Pakantaik Sayadaw, Đ.Đ. Thit Seintgyitaik Sayadaw (cả hai đều được 82 tuổi và 63 hạ) và Đ.Đ. Sangharaja Chuon Nath (vua Sãi Cao Miên) được 71 tuổi và 52 hạ. Cả ba đều xuất gia từ lúc 19 tuổi.
Sau khi chư Tăng tụng tuyên ngôn phân ranh giới rồi thì chỗ Kết Tập Tam Tạng trở thành Thánh Địa. Từ nay về sau, dầu các bậc Đế Vương, hay Tổng Thống cũng chẳng được phép mang giày đi vào đó. Người ngoại quốc dầu cao sang đến đâu cũng phải tuân theo luật ấy, bằng chẳng vậy, không được mời vào.
Ba ngày khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng (17, 18 và 19 tháng 5 năm 1954).
Ngày đầu nhằm ngày trăng tròn tháng Wesak Via Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Gotama, năm thứ 2498 sau khi Đức Thế Tôn viên tịch.
Chỗ Hội nghị. Một vùng đất cao ráo, diện tích 100 mẫu, cách xa kinh đô Rangoon 12 cây số ngàn, trước kia là một gò nổi hoang vu, vì đất pha trộn nhiều đá đỏ, nay trở thành một Thánh địa phồn thạnh, nguy nga, do toàn thể dân chúng Miến Điện sáng lập. Chương trình kiến trúc chỉ mới thực hiện được nửa phần: một thạch động, bốn tăng đường, một trai đường, nhiều nhà tạm, đường sá, cầu cống và đèn điện, khởi làm từ 14 tháng trước.
Chùa Kaba Aye. Trong vòng Hội nghị có một Chùa Tháp, tên là Chùa Kaba Aye, cất năm 1952, để biểu dương nguyện vọng hòa bình Thế giới của Phật tử Miến Điện, và luôn luôn làm trung tâm cho H.N Kết Tập Tam Tạng kỳ thứ VI. Chùa này kiểu tròn, 2 lớp vách cách nhau 4 thước, trên nóc là một cái tháp giống như tháp Shwedagon tại Rangoon, châu vi 35 thước, bề cao cũng 35 thước. Ngay 4 cửa vô, có thờ 4 tượng Phật phết vàng, lớn bằng 2 con người. Trên tường, cận nóc trần, thờ nhiều tượng Phật nhỏ hơn, để trên chơn qui, đúc cốt sắt ve ra khỏi vách. Nơi vòng trong, còn thờ một tượng Phật lớn bằng 4 lần tượng thờ ngay cửa vào. Chung quanh bàn thờ ấy, vòng theo vách có tủ chứa đầy bửu vật, đã tìm ra nơi các cổ tháp hư đổ và nhiều Xá Lợi để trong hộp vàng. Cách mặt đất 6 thước trở lên, bên ngoài Chùa Tháp đều phết vàng, vàng lá thứ thiệt, như nóc Tháp Shwedagon.
Thạch động Maha Pasana Guha. Cách Chùa Kaba Aye vài trăm thước về phái tây, là chỗ Kết Tập Tam Tạng. Hang này tạo ra để nhắc lại hang Sattapanni, là nơi Đại đức Kassapa (Ca-Diếp) triệu tập Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá). Đứng xa xem như một hòn núi nhỏ, lại gần tưởng như một thành lũy kiên cố, xây bằng đá xanh, chỗ cao, chỗ thấp, dường như công việc chưa rồi. Đứng xa dòm kỹ theo khoảng trống các vồ đá trên chót núi, thấy có nóc nhà lợp thiếc. Hang này bề dày độ 150 thước, bề ngang 120 thước và bề cao 25 thước. Hướng đông và tây, mỗi hướng có 2 cửa vô, hướng bắc và nam mỗi hướng chỉ có 1 cửa. Cả thảy 6 đại môn, cao 10 thước, rộng 4 thước. Từ chơn núi đến cửa 30 thước, sau các cửa ấy là chỗ K.T.T.T., bốn phía có một vách tường kiên cố bằng bit-ton cốt sắt 1th20 bề dày, 90 thước bề dài, 40 thước bề ngang, 14 thước bề cao, có 6 cây cột tròn, trực kính 1 thước, cao 14 thước. Trên đầu không thấy nóc vì bị trần che án. Trên đầu cửa vô phía bắc, có một cái đài vinh dự, ve ra khỏi tường 6 thước, bề ngang 10 thước. Tiếp theo 2 bên đài dọc theo 2 vách phía đông, tây có kệ ngồi 6 cấp, bề ngang 1 thước, bằng sạn đúc, như giảng đường trong các trường đại học. Trên đài danh dự và kệ ngồi là nơi an tọa của chư Tăng. Khoảng giữa hai hàng cột, đất lót gạch bông, là chỗ cư hội của thiện nam, tín nữ. Sau vách phía bắc còn một tòa lầu ba từng, dài 35 thước, rộng 12 thước, cao 17 thước, nóc bằng, nối liền với hành lang, rộng 2 thước, chạy chung quanh nóc nhà lợp thiếc (chỗ K.T.T.T.). Dọc theo hành lang có nhiều động đá nhỏ, để làm chỗ tham thiền cho Chư Tăng. Mỗi từng lầu đều có phòng tắm, phòng tiêu kiêm thời. Nơi góc hướng tây có một cầu thang đúc sạn và một cầu thang điển.
Trong chỗ Hội nghị, vách tường sơn màu xanh da trời, xa xa có lỗ hơi, nhìn như cái bông tròn 24 cánh, tượng trương Bánh Xe Pháp. Giữa lỗ hơi có quạt điển hút gió mát vô, trên có khoảng trống cho gió nóng bay ra. Dọc theo các khoảng trống ấy có gắn đền ống (néon) nối liền nhau, như chạy chỉ xanh trên trần. Ban đêm, đèn rọi từ dưới chơn lên ngọn núi, làm cho thạch động được thấy rõ như ban ngày.
Thật là một kiến trúc vĩ đại, khác thường và kiên cố sáu đại môn, sáu cột nhà, sáu cấp cho chư Tăng ngồi và nhiều bội số khác (multiple de 6) của con số 6 như Xa Pháp 24 cánh, 108 cái đồng la v.v… mà ít ai để ý, đều ám chỉ kỳ thứ sáu của H.N.K.T.T.T.
Có sáu cây Đại Kỳ Phật giáo và nhiều cờ nhỏ phất phơ trên chót đảnh. Chung quanh chơn núi có 108 cái đồng la, trực kính 8 tấc, trên mặt có đúc hình Bánh Xe Pháp, tượng trưng cho 12 nhân duyên (kể xuôi từ Vô Minh… tới Lão, Tử, là Luân Hồi; kể ngược là bẻ gãy từ cây căm, cho đến diệt tận Vô Minh, là Niết-Bàn). Khách thập phương tự do muốn đánh đồng la, cứ đánh. 108 cái chuông này tiêu biểu cho 108 loại phiền não ái dục, mà người đến đây đều mong nếm được hương vị Phật giáo, để rửa sạch bợn trần nhơ, cầu mau giải thoát khỏi nẻo luân hồi thống khổ.
Tăng đường. Cách thạch động 150 thước, nơi phía nam, là 4 gian nhà, 2 từng lầu, bề dài 64 thước, bề ngang 12 thước. Hai gian cách nhau một đường lộ trải đá rộng 20 thước, hai nhà lầu cất xa nhau, hai tòa khác cất dính theo hình thước nách (En équerre) vựa ngã ba đường. Mỗi gian nhà có họa đồ chỉ sáu chỗ Kết Tập Tam Tạng. 120 phòng đâu lưng, hai hành lang 2 thước giáp vòng chung, chặng giữa có 2 thanh đúc, mỗi đầu cũng có 2 thanh đúc và phòng tiêu, phòng tắm. Trong mỗi phòng có 2 giường, có đèn điện, quạt máy. Bốn gian nhà chứa được 2.500 vị Tỳ Khưu, ngoài ra còn có phòng văn, phòng nhóm của ban Tổ chức cho hai phái xuất gia và tại gia, phòng xuất bản tạp chí, máy in và phòng nhiếp ảnh, chớp bóng.
Trai đường. Sau bốn gian này còn một ngôi nhà khác, cũng 2 từng lầu 30×20 và một gian nhà trệt 60×12 để làm nơi trai tăng. Trong nhà trệt gần cửa cái có thờ 80 tượng sơn son phết vàng, tượng trưng cho 80 vị đại A-la-hán, đệ tử kế cận của Đức Thế Tôn khi xưa. Từ các Tăng đường đến Trai đường có nhà cầu lợp thiếc, để cho chư Tăng qua lại khỏi mưa nắng.
Chỗ làm việc. Hai bên cửa đông, có hai gian nhà một từng, để làm văn phòng cho trường đại học, sắp mở sau khi H.N.K.T.T.T. bế mạc (Tăng đường hiện giờ sẽ làm nội trú cho sinh viên, là các vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu, đến học Pāli và Tam Tạng). Chung quang Tăng đường còn 30 gian nhà tạm 30×18 cao cẳng, lợp thiếc, để làm trụ sở tạm cho Hồng Thập Tự, sở Chữa lửa, sở Kiến thiết, bộ Thông tin, bộ Ngoại giao, sở Tân đáo, sở Cảnh sát, sở Hiến binh, chỗ đãi khách, kho thực phẩm, nhà bếp và nhà đục mưa nắng cho tín đồ. Nhơn viên của các bộ, các sở nói trên có phận sự cho tin tức, lo giấy tờ thông hành cho các phái đoàn, gìn giữ trật tự an ninh và săn sóc bịnh nhân.
Nơi cửa vào trai đường có sở Giao thông quản xuất 20 xe Cars mới tinh hảo và nhiều xe mui kiến của các quan cho mượn, túc trực ngày đêm để đưa rước chư Tăng và khách của các Ngài lên xuống từ chỗ K.T.T.T. đến Rangoon. Ông tổng thơ ký có lòng trong sạch cấp cho Đại đức Bửu Chơn một cỗ xe riêng để Ngài tùy sử dụng. Toàn thể nhơn viên đều hết lòng lo tròn phận sự. Công việc bề bộn phải ăn, nghỉ tại chỗ. Coi bộ họ rất mệt nhọc, nhưng vẫn vui vẻ niềm nở, ân cần tiếp rước và làm vừa lòng các phái đoàn.
Công việc đương làm. Trước Chùa Kaba Aye, hai bên đại môn có hai ngôi nhà một từng vừa cất xong nhưng chưa sử dụng. Đương cất một tháp để tham thiền, giữa một ao hồ rộng lớn, một gian nhà lầu làm hợp tác xã, nhiều nền móng đương đổ bích-ton…, đặt ống cống, trồng cây, trồng cỏ, tráng đường. Tuy là ngày lễ, nhưng sở Kiến trúc vẫn tiếp tục làm các công việc, không cho gián đoạn. Đại học đường chưa chánh thức mở cửa, nhưng đã tạm dạy trong một gian nhà cao cẳng, bằng cây, lợp ngói. Nghe như công việc kiến trúc đã làm rồi, chỉ mới được nửa phần của chương trình, và đã xài hết 200 triệu roupies (1.500 triệu bạc V.N).
Đây nói về ba ngày lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. từ 17 tới 19 tháng 5 năm 1954 nhằm ngày vía Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Thích Ca, đúng năm 2.498 của Phật lịch Nguyên Thủy.
Ngày 17-5-1954. Sớm mai 9 giờ, quan Thủ tướng U-Nu mời các phái đoàn dự lễ trai tăng cho 2.500 vị Tỳ Khưu tại Chùa Tháp Shwedagong. Nơi trai tăng là một cái nhà tạm lợp lá, lót ván, cất trên một khoảng đất trống, gần chưn tháp. Vì nổng cao, đất hẹp, nên nhà tạm chỉ vừa đủ chứa 2.500 nhà sư và các phái đoàn, còn người bổn xứ phải nhường chỗ đứng và quì phía ngoài. Vật thực để trong những hộp bằng aluminium, được khiêng lên trước, quan Thủ tướng lên sau với một sĩ quan hầu cận. Xe đến tận nấc thang, từ đường lộ ngài lột giày leo thang như các tín đồ, đến nơi ngài và vị sĩ quan vào quì lạy chư Tăng ba lạy, trở ra trước nhà trai tăng làm lễ chào cờ, có binh lính dàn hầu và trổi quốc thiều. Xong rồi, ngài đi vào lạy ba lạy nữa và xin thọ giới. Xin giới xong có một ông quan đứng lại tại micro đọc bài dâng vật thực. Chư Tăng thọ rồi đọc kinh cầu chúc cho thí chủ, dứt câu kinh toàn thể người dự lễ đồng thanh hô to ba tiếng “lành thay” (không có đọc kinh hồi hướng). Cuộc lễ đã chấm dứt.
Các phái đoàn trở về lo cơm nước, chờ đúng 11 giờ xe rước đi dự lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. Đúng 12 giờ chư Tăng và quan khách đều có mặt trong hang Maha Pusana Guha. Trên 10.000 vị Tỳ Khưu có mặt tại Kapa Aye, nhưng chỉ có 2.500 vị được thỉnh vào dự lễ, trong ấy có hai nhà Sư V.N. là Đ.Đ. Bửu Chơn và Hộ Giác. Trên 200.000 người đến Kapa Aye, phần đông là người bổn xứ, chỉ có các sứ thần, quan khách và phái đoàn độ 2.000 người vào dự lễ, trong ấy có 7 đại diện phái Bảo Thủ V.N. (2 thiện nam: Nguyễn Văn Mẫn, Nguyễn Văn Hiếu; 5 tín nữ: Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Kỳ, Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu và cô diệu Trần Thị Thọ).
Đúng 12 giờ 12 phút, (là một giờ có ý nghĩa thế nào mà tôi không có dịp hỏi nơi các vị cao Tăng) trong hang Maha Pusana Guha, sáu tiếng chuông khởi ngân vang dội, phá tan không khí lặng lẽ của 4.500 Tăng và tục, đương nghiêm trang chờ đợi cái giờ cu hội chánh thức của bao nhiêu tâm hồn ngưỡng mộ Phật Pháp, từ bốn phương trời tìm gặp nhau nơi đây, để biểu dương tinh thần đoàn kết trong một giáo lý duy nhứt của Đấng Cha Chung. Cũng trong giờ phút ấy, bên ngoài có đại bác bắn bổng lên hư không sáu lá cờ Phật giáo, nhờ sáu cây dù nâng đỡ giữa lừng, để mặc tình gió lôi cuốn trong bao la Thế giới của hàng Chư Thiên trong các cõi Trời. Báo hiệu vừa dứt, một vị Thượng Tọa đứng trên đài hướng bắc tuyên bố bằng tiếng Pāli và tiếng Miến Điện: “Giờ này là giờ khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu, nhằm bữa trăng tròn tháng Wesak, năm thứ 2.498 từ khi Đức Từ Phụ Giáo Chủ Gotama nhập Niết-Bàn”. Một vị Thượng Tọa thứ nhì, cao hạ nhứt trong 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị, đứng lên đề cử Đại đức Giáo Tông (vua Sãi) Miến Điện là Ngài Abhidhaja Maharathaguru Bhaddanta Revata làm Chủ Tọa Hội nghị. Toàn thể chư Tăng chấp thuận bằng cách nín thinh, Đại đức Chủ Tọa được thỉnh lên Pháp tọa, giữa trung đài hướng bắc. Trên hai hang ghế thấp, hai bên Pháp tọa có 9 vị Trưởng Lão ngồi hầu, nơi cấp ba có 10 vị Tăng Trưởng, toàn là bậc đại thiện hữu trí thức trong Tăng già. Đèn rọi từ phía nam (của sở chớp bóng) phựt chiếu ngay đài hướng bắc, giờ phút uy nghiêm, cảm động, Đại đức Chủ Tọa ngồi trên ngai vàng và chư Tăng trong Ban Chấp Sự từ cao dòm xuống với vẻ hiền lành, hoan hỷ, dường như đương ban bố phước huệ của các Ngài đã vun bồi trong cả đời tu học, cho toàn thể đại diện Phật tử hoàn cầu, từ dưới đất mọp lạy lên, để rước lấy nguồn hạnh phúc tươi nhuận hầu đem về chia sớt lại cho các bạn đồng đạo trong xứ mình. Đại đức Bhaddanta Pandita, một vị Trưởng Lão trong Ban Chấp Sự, đứng lên ca tụng Hội nghị bằng tiếng Pāli, và nhấn mạnh rằng tánh cách Hội nghị này khác hơn năm kỳ Hội nghị trước, là bởi do nơi nguyện vọng tha thiết và sự ủng hộ nhiệt thành, chẳng những của dân chúng Miến Điện, mà lại là của toàn thể Phật tử các xứ yêu chuộng Đạo Giáo tối cổ của Đức Từ Phụ Gotama. Kế đó một đại diện phái Tại gia ông U Saing Kyaw, bước ra đảnh lễ ba lạy, đọc bài ca tụng ân đức Tăng Bảo, rồi cùng thiện nam, tín nữ bái chào thêm ba lạy nữa. Tiếp theo, ông Tổng Trưởng bộ Lễ U Win đứng ra đảnh lễ, rồi đọc một bài diễn văn về lịch sử của các kỳ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng thứ nhất đến thứ năm, ca tụng ân đức của chư vị Thánh Tăng, nhứt là Đại đức Kassapa (Ca-Diếp), có công sắp Phật ngôn ra ba Tạng, mỗi Tạng có mấy pháp môn, mỗi pháp môn có mấy tiếng, khiến cho các nhà Sư trụy lạc phá giới hậu lai không thể canh cải sửa đổi lời di huấn của Đức Thế Tôn được. Và nhờ niêm luật đó, trong thời đại sau, mỗi khi có bọn ký sanh dắt dẫn tín đồ sai đường lạc nẻo, chư Tăng có thể Kết Tập Tam Tạng lại để sùng hưng Phật giáo. Sau rốt ông Tổng Trưởng bộ Lễ ca tụng công đức chư Tăng đã hết lòng phụng sự Phật Pháp, nên kỳ Hội nghị thứ Sáu này được thành tựu mỹ mãn. Ông lạy chư Tăng để tỏ lòng biết ơn các Ngài. Cũng từ trong nhóm Cư Sĩ, ông Tổng Thống Ba U bước ra đảnh lễ chư Tăng, và nhân danh của các tín đồ nhiệt thành vì đạo của các xứ chịu ảnh hưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đã triệu thỉnh chư Tăng hoan lâm gia nhập Hội nghị hôm nay, tỏ lòng cung kính bái tạ các Ngài. Rồi ông sơ lược nhắc lại lịch sử tín ngưỡng của nhơn loại từ thời thượng cổ. Xưa kia, vì sợ tai ách do hiện tượng thiên nhiên đem lại, người ta đặt ra đủ loại thần thánh, để thờ cúng mong được giải thoát những nguy biến của vũ trụ. Cho đến khi Phật Tổ ra đời giáo hóa, người ta mới thức tỉnh, biết rằng không thể mong cầu nơi các vị thần linh ấy, mà được giải thoát những thống khổ ở đời. Trái lại, phải nương nhờ nơi Tam bảo, mới được hạnh phúc yên vui vĩnh viễn. Chúng ta có phận sự hộ trì Tam bảo cho được trường tồn hưng thịnh, bằng chẳng vậy Phật Pháp sẽ bị suy vong, nếu để Phật Pháp lu lờ, chúng ta chớ mong giải thoát khỏi vòng đau khổ. Muốn cho nền đạo giáo cao quí của Đức Thế Tôn được thạnh đạt, toàn thể tín đồ phải hết lòng phụng sự ngôi Tam bảo. Trong thời kỳ nước Miến Điện bị ngoại quốc đô hộ, Phật giáo suýt chinh nghiêng hư đổ, vì dân chúng khi ấy không đủ khả năng chống chỏi. Đến khi xứ Miến Điện được hoàn toàn độc lập, Chánh phủ liền bắt tay vào công việc trùng tu Chùa Tháp và phấn khởi dân chúng lập ra các hội Phật học để nâng đỡ chư Tăng, lần lần tới ngày nay mới hiệp tác cùng Phật tử tứ phương tổ chức được Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng này. Sự hy sinh của chúng ta, hôm nay đã đem lại kết quả vô cùng tốt đẹp, chẳng những có lợi ích riêng cho chúng ta, mà còn có ảnh hưởng lớn lao cho nền hòa bình Thế giới. Sau khi dứt lời, ông Tổng Thống đảnh lễ bước lui, nhường chỗ cho ông Tổng Trưởng Tư Pháp U Thwin quì lạy, rồi nhơn danh Phó Chủ tịch Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đọc bài tán dương Tam bảo và xin thay mặt cho Chánh phủ Miến Điện, hứa lãnh trách nhiệm đối với chỗ ở, vật thực, y phục và thuốc men, cũng như về các vật cần thiết khác trong thời hạn hai năm kết tập đến ngày chư Tăng trở về quê quán. Ông còn yêu cầu chư Tăng để ý xem xét các phần tử trụy lạc đương ẩn núp theo Tăng già, làm thương tổn Phật Pháp và đề nghị phương pháp diệt trừ bọn ký sanh ấy. Ông hứa sẽ dùng uy quyền của Chánh phủ ban cho ông để trừng trị thẳng tay bọn phá hoại Phật Pháp, để bảo tồn ngôi Tam bảo, hầu hoằng khai Chánh Pháp cùng khắp năm châu bốn biển, cho nhơn loại hưởng nhờ. Kế tiếp, đại diện của các vị Giáo Tông (vua Sãi), các bậc Đế Vương, các Chánh phủ của những xứ được mời dự Hội nghị, đứng ra đảnh lễ, đọc thông điệp tán dương và cầu chúc cho lễ Kết Tập Tam Tạng được thành tựu như ý nguyện của Phật tử trên hoàn cầu và đem lại hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại. Cuộc chúc từ kéo dài lối một giờ, rồi tạm ngưng để nối tiếp trong hai ngày sau, y theo chương trình đã định. Đại đức Agga Maha Pandita Bhaddanta Tridasabha đứng trên đài, nhơn danh H.N.K.T.T.T., đọc một bài đáp lại những lời chúc từ của các thông điệp nói trên. Đại đức Chủ Tọa cũng tỏ lời cám ơn các vị giáo tông bằng tiếng Pāli và các Chánh phủ bằng tiếng Miến Điện.
Cuộc lễ chấm dứt hồi 2 giờ 30 phút. Chư Tăng được thỉnh ra hai từng lầu phía sau chỗ Hội nghị giải lao, còn quan khách được mời ra nhà hàng nơi cửa Đông dùng cơm trưa.
Đúng 3 giờ 30, chư Tăng tái họp lại, khai diễn chánh thức công việc Kết Tập Tam Tạng. Cũng 6 tiếng chuông và 6 tiếng đại bác mở đầu như lúc khai mạc. Đây là phần việc của chư Tăng, thiện nam, tín nữ được phép vào dự thính, nhưng vào nơi trong phải nghiêm trang yên lặng và phải ngồi cho mãn giờ mới được ra. Tiếng báo hiệu vừa dứt, Đại đức Chủ Tọa từ trên ngai vàng tuyên bố rằng: Y theo cách thức Kết Tập Tam Tạng của Đại đức Ca-Diếp lần đầu tiên, Hội nghị kỳ thứ Sáu này phải chọn hai vị Trưởng Lão vấn đáp phân minh, cho biết do nơi đâu và tại xứ nào, Đức Thế Tôn đã ban hành các điều luật răn cấm trong Tạng Luật. Vậy xin đề nghị Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Javana làm người vấn (Pucchaka) và Đại đức Tipika Kadhara Dhammabandagarika Bhaddanta Viccittasera là người đáp (Vissajjaka). Chư Tăng ưng thuận bằng cách nín thinh, hai Đại đức này liền lên ngồi hai Pháp tọa sơn son phết vàng, hai bên ngài Chủ Tọa. Rồi ông Pucchaka bắt đầu hỏi: “Vì nguyên do nào và tại nơi đâu Đức Thế Tôn ban hành điều luật Parajika (I) thứ nhứt, trong tạng Vinaya Pitaka nói về phạm hạnh của các thầy tỳ khưu?” Ông đáp, tay cầm quạt màu ngà, tượng trưng tợ như cây quạt của Đại đức Shin Maha Kathapa trong kỳ kết tập thứ nhứt, trả lời rằng: “Đức Thế Tôn chế ngự điều luật thứ nhứt ấy tại thành Vesali, vì bởi thầy tỳ khưu Ashin Thurein, con của một nhà triệu phú đã thổ lộ hạnh kiểm xấu xa”. Mười vị Tăng trưởng ngồi cấp dưới đồng rập nhau lập lại câu trả lời nói trên cho chư Tăng nghe. 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị đồng đọc lại một lượt điều luật thứ nhứt Parajika sikkha (là điều học về Bất cộng trụ). Xong rồi, toàn thể chư Tăng đọc ba lần Sādhu (lành thay). Tiếp theo, chuông và còi rộ lên thổi vang rần, hưởng ứng ba tiếng lành thay của chư Tăng.
Một vị Trưởng Lão tuyên bố: Buổi kết tập đầu tiên đã kết thúc. Liền đó các thính giả đi ra để chỗ cho toàn thể chư Tăng có mặt tại Kaba Aye vào hiệp với 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị làm lễ Uposatha (Phát lồ), vì ngày hôm nay nhằm ngày tụng giới bổn của Tăng chúng.
Về bên phái đoàn cư sĩ, ngày lễ đầu tiên này chấm dứt, sau buổi tiệc long trọng của ông Đô Trưởng Ragoon, thết đãi tại thị sảnh, có ngũ âm và múa rầm giúp vui tới đêm mới mãn.
Ngày 18-5-1954. Trong Phật giáo có một việc lạ, mà ai ai cũng để ý nhưng không thể hiểu được: Mỗi khi có lễ lớn thì trời chuyển mưa, nhằm mùa mưa thì mưa tầm tã, nhằm mùa nắng thì trời vần vũ, mưa to. Các kỳ rước Xá Lợi ở Saigon và cung nghinh Xá Lợi đến các Chùa đều có vậy; dường như mưa để rửa trược khi nơi vùng có đại lễ, hoặc cho quang cảnh mát mẻ, giúp cho người mộ đạo vui thích trong phước lành.
Hôm qua, trước giờ H.N.K.T.T.T. trời mưa xối xả, cho đến giờ khai mạc chỉ còn mưa tro rỉ rả. Cây cỏ, chùa chiền, đền đài, trong ngoài chỗ Hội nghị đều được thợ trời rửa sạch bụi cát do cả ngàn xe hơi tới lui tấp nập trong mấy ngày trước. Bao nhiêu dơ uế trên mặt đất được nước cuốn ra khỏi vùng Thánh địa. Nếu cho đó là một sự tình cờ do hiện tượng vũ trụ đem lại, sự tình cờ này có lẽ cũng tùy thuộc nơi tâm lành của khối người trong sạch với đạo lành của đấng Trọn Lành duy nhất trong thế gian vậy.
Hôm nay, ngày thứ nhì, trời quang mây tạnh, và nhờ bên trong có nhiều chỗ rộng, ban Tổ chức cho thính giả vào thêm 1.500 người nữa, thành ra trong hang kết tập có cả 6.000 người: 2.500 vị Tỳ Khưu và 3.500 tín đồ. Còn lại gần 200.000 người ở ngoài, lớp đi chung quanh đua nhau đánh 108 cái đồng la, cầu cho phiền não mau tận diệt do duyên lành cấu tạo hôm nay; lớp vào chiêm bái trong Chùa Hòa Bình Kaba Aye, lớp thì lóng nghe trước các ống loa các lời tuyên bố của chư Tăng, cùng những bài chúc từ của đại diện các xứ bên trong. Phái đoàn V.N. hôm nay đến trễ 10 phút vì bận lo đi lãnh bạc nơi ngân hàng. Tuy đến trễ, nhưng được vô thong thả, nhờ mỗi người có treo trước ngực một thẻ ngà, biểu hiệu của khách ngoại quốc, một biểu hiệu đơn giản, nhưng rất linh nghiệm đi tới đâu cũng được nhường chỗ, cho đến giữa thành phố cũng được người ta niềm nở chỉ chọc đường đi nước bước. Vì đến trễ mà có một bà tín nữ không quen vừa đi vừa chạy, cũng không quen đi chân không trên lộ trải đá, bá cẳng vào vật chi mà phải trầy chân đổ máu, lại bị trật gân sưng cẳng, tối về nóng lạnh.
Hôm nay, buổi lễ khởi hành đúng 12 giờ. Cũng như bữa đầu, dứt tiếng chuông còi, một vị Đại đức đứng ra tuyên bố Hội nghị khai mạc ngày thứ nhì. Ông Thủ tướng U Nu bước ra đảnh lễ chư Tăng và đọc một bài diễn văn ca tụng các Hội Nghị K.T.T.T. đầu tiên, giải thích nguyện vọng và mục đích của cuộc Hội nghị kỳ sáu này, Phật tử đều muốn cho Phật Pháp được gìn giữ nguyên vẹn theo Phật ngôn lưu truyền. Công trình vĩ đại này thành tựu được chỉ nhờ sự cố gắng của Tăng già và tín đồ. Ông Thủ tướng nhân danh dân tộc Miến Điện cầu chư Tăng làm tròn nhiệm vụ cao cả này, y theo tinh thần và thủ tục của chư vị A-la-hán xưa kia. Kế tiếp, các vị Đại đức, trưởng phái đoàn mỗi xứ và đại diện các Chánh phủ luân phiên đọc bài chúc từ. Khi đọc chúc từ các nhà Sư đứng trên bảo đài, còn bên cư sĩ thì đứng dưới đất. Cũng như hôm qua, mỗi lần có đọc diễn văn, mỗi chớp đèn chụp ảnh quay phim.
Đúng 2 giờ 30, tạm ngưng, Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Indasabha đứng lên đáp lời cùng diễn giả. Dứt lời chuông và còi reo lên chấm dứt buổi lễ.
Đến 3 giờ 30, chư Tăng họp lại Kết Tập Tam Tạng. Hôm nay ông vấn (Puccaka) hỏi ông đáp (Vissajjaka) về điều học thứ nhì và thứ ba của giới Bất cộng trụ (Parajika). Mười vị Trưởng Lão đọc lại hai câu đáp, 2.500 vị Tỳ Khưu đọc trọn điều học thứ nhì và thứ ba dứt lời, toàn thể Hội nghị hoan hô bằng ba tiếng “Lành thay”.
Buổi kết tập thứ nhì của Hội nghị thứ sáu chấm dứt đúng 5 giờ 30.
Khi ra khỏi Hội nghị lúc 2 giờ 30, các phái đoàn được mời ra nhà hàng dự tiệc xế chiều. Ra đến nơi gặp 3 bà tín nữ Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu, và cô diệu Trần Thị Thọ đứng trước bộ Ngoại giao với vẻ mặt buồn xo và bí xị. Ba bà từ Bangkok đến từ 12 giờ trưa với Đại đức Hộ Giác, được ban tiếp tân rước ngay về chỗ Hội nghị, chờ các phái đoàn dự lễ rồi về nơi cư trú tại Rangoon một lượt, bởi giờ đó khách ngoại quốc đều ở trong hang Kết Tập Tam Tạng. Riêng mình Sư Hộ Giác được đưa thẳng đến Tăng đường, nơi phòng của Đại đức Bửu Chơn đã ký chú sẵn cho Ngài. Sư Thông Kham cũng từ Bangkok đến một lượt với Sư Hộ Giác, Ngài cũng được đưa đến Tăng đường, theo phái đoàn Lào bởi Ngài từ Vientiane đến, nhưng cũng ở chung một gian nhà với phái đoàn V.N.
Chiều lại được đưa đến một nhà hàng lớn nhứt, dự tiệc của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thết đãi các phái đoàn. Buổi tiệc này có tánh cách lạ lạ: đồ ăn để một nơi, khách ngồi một nơi, khi ráp lại ăn, mạnh ai nấy đi lấy đĩa, muỗng, dao, khăn rồi tự tiện thích món nào gắp món nấy vào dĩa, rồi đem lại bàn ngồi ăn. Boy chỉ có phận sự đi rót nước cam, nước suối thôi. Xứ Phật giáo không có dùng một nhỏ rượu. Ngoài nước cam, xá xị, người ta uống nước lạnh trong lu, cũng không dùng nước trà. Các nhà Sư cũng không có nước trà hoặc nước nóng. Ăn rồi cũng không có diễn văn. Từ bàn này sang qua bàn khác, kiếm người quen nói chuyện đã rồi kéo nhau ra về, cũng không cần biết tới ông chủ nhà. Ông cũng bình dân chen lộn trong đám khách để kiếm ăn và nói chuyện với bạn bè của ông.
Ngày 19-5-1954. Ngày hôm nay là ngày thứ ba, ngày chót của lễ khai mạc.
Phái đoàn V.N. tính lên Kaba Aye ở trọn bữa, trước để thăm hai Sư Hộ Giác và Thông Kham mới đến, sau để leo lên các từng lầu và chót núi đá bao phủ chỗ Hội nghị. Sáng sớm, lót lòng rồi, quí bà dự bị trầu cau, mua sắm vật thực dâng cho ba Sư V.N. Quí bà giàu lòng tín ngưỡng, hay dòm ngó coi chư Sư thiếu thốn món chi, mua sắm không sót, nào là bàn chải chà răng, phấn đánh răng, xà phòng, bình thủy, khăn lau mặt v.v… Phận cư sĩ thì lêu lổng, vô tình, không làm được những việc cao quí ấy. Bề trong thì khen thầm cử chỉ của quí bà, bề ngoài lại thắc mắc, bắt bẻ đủ điều, để che đậy cái tệ của mình: “Đi chung một phái đoàn muốn làm một việc phước nào, dầu lớn, dầu nhỏ cũng phải toan tính với nhau, quí bà ỷ có tiền, muốn làm gì không cho chúng tôi hay biết”. Đây là ăn hiếp gió: mấy bà lật đật sám hối, có biết đâu cái thâm tâm của bọn râu mày.
Gặp Đ.Đ. Thông Kham vui mừng trò chuyện, thì mới hay Ngài nhờ ông Tổng Trưởng Tư Pháp Lào, là ông Phya Kham Mau gởi Ngài qua Miến Điện, theo phái đoàn học sinh. Ngài tới Bangkok ở chờ Chánh phủ Lào gởi thêm ngân phiếu qua đặng mua giấy máy bay sang Rangoon, vì đi thình lình không kịp lấy đủ giấy tờ. Chờ hoài không được, Ngài cậy sứ thần Lào Bangkok, mua giùm giấy máy bay, mới qua sớm một lượt với Đ.Đ. Hộ Giác.
Sư Hộ Giác nhờ ở mấy ngày ở tại Sứ quán V.N., Bangkok, có đi tìm học được hai Sư Tịnh Sự (Sư giáo Vĩnh Long) và Thiện Tâm, đương từng học tại Chùa Rakhang. Vừa đến nơi, Sư Hộ Giác liền bắt tay vào công việc Kết Tập Tam Tạng. Mặc dầu còn mệt nhọc nhưng Ngài vẫn vui lòng tham dự, nhơn danh Phật giáo xứ V.N., cũng như Đ.Đ. Bửu Chơn, Đ.Đ. Bửu Chơn cũng lo cho Đ.Đ. Thông Kham sang qua phái đoàn V.N. để thay thế cho Ngài trở về dưỡng bịnh.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần III Tại Rangoon – Miến Điện (Ngày 3 Tháng Chạp D.L 1954 -2498)
Hôm ngày 12 tháng 11 dl.1954, tôi vừa được một bức điện văn của Hội Phật giáo Thế giới Miến Điện gửi sang để thỉnh hai đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N., đến dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ ba tại Rangoon Miến Điện vào ngày 3 tháng chạp D.L. 1954.
Lẽ cố nhiên tôi phải lãnh một trách nhiệm về phần hướng đạo và một vị đạo hữu đã có yêu cầu trước, là ông Vĩnh Cơ có thiện chí muốn sang Miến Điện để quan sát về nền Phật giáo và chiêm bái các nơi Phật tích, tôi liền đánh điện văn cho ông hay, nhưng rất tiếc vì trường hợp xảy ra bất ngờ làm cho ông không thể nào đi được, nên một bức điện văn từ Đà Nẵng đánh vào để cáo lỗi và yêu cầu xin ông Nguyễn Văn Hiểu đi thế, lẽ dĩ nhiên ông Hiểu phải ráng lãnh trách nhiệm nhưng có hơi dụ dự là vì ông đã có đi một lần rồi vả lại cũng bị bận nhiều công việc sau khi xin giấy tờ vừa xong, thì rất rủi thay công việc nhà ông lại xảy ra bất ngờ mà ông không thể nào bỏ đi được. Thế thì tôi phải một mình một bóng lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 7 giờ 30 ngày 30 tháng 11dl. 1954 để sang Miến Điện cho kịp kỳ khai mạc.
Phi cơ từ từ cất cánh trực chỉ về hướng tây gần một tiếng đồng hồ lại hạ cánh xuống phi trường Pochentong Phnompenh để cho hành khách lên xuống và trình giấy thông hành độ nửa tiếng đồng hồ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Vọng Các (Bangkok), mãi hơn 11 giờ trưa mới tới phi trường Daungmaung cách thủ đô Bangkok lối 28 cây số ngàn.
Vừa tới nơi thì thấy có cậu Phồn Anh con của cụ Nguyễn Khoa Toàn, Đại sứ V.N. ở Vọng Các ra đón rước và cùng luôn dịp đưa 2 bà tín nữ V.N., ở Kiêm Biên đi dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì mới về, sau khi trình giấy châu lưu xong lại được cậu Phồn Anh đưa về Sứ quán để tạm nghỉ đặng xin chiếu khán của Tổng Lãnh Sự Miến Điện và ghi chỗ với hãng hàng không, công việc rất lộn xộn nhưng mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo xong cả, sáng hôm sau lối 6 giờ sáng lại trở ra phi trường để sang Rangoon; hôm ấy hành khách rất đông nên mãi hơn 8 giờ 30 phi cơ mới cất cánh, gần 1 giờ trưa mới tới phi trường Rangoon. Vừa tới nơi thì ông U. Chaw-Seng, nhân viên của Hội Phật giáo Miến Điện đến tiếp rước và lo giấy thông hành cho tất cả phái đoàn tới Hội nghị, xong lại đưa ra về Kaba Aye là chỗ để cho Hội Phật giáo Thế giới yên nghỉ và Hội nghị. Sau khi tới yên nghỉ một lúc thì có Sư Hộ Tông, Sư Thông Kham, Sư Hộ Giác, Sa di Thiện Hạnh và các bà tín nữ đã đến Rangoon trước để dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì, đến thăm và trách móc sao không cho hay tin trước để ra đón rước, mãi mấy hôm sau cô Diệu Phước (Chùa Huệ Lâm) đang tùng học nơi ni đường Miến Điện mới đến thăm tôi.
Buổi khai mạc sáng hôm 3-12-1954, đúng 8 giờ sáng thì tất cả 30 nước trên thế giới đều có đại diện tới tham dự đủ mặt nơi Đại Thạch Động, tôi nhận thấy như là: Tàu, Nhựt Bản, Phi Luật Tân, V.N., Tân-gia-ba, Pénang, Nam Dương quần đảo, Úc châu, Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Cao Miên, Xiêm, Lào, Anh, Mỹ, Pháp, Ý đại lợi, Finland, Đức, Áo, Hawaii v.v…
Đúng 8 giờ 30, Tổng Thống Miến Điện vừa tới thì trống còi và đại bác nổi lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho buổi khai mạc được thêm phần long trọng, khi tiếng trống còi im lặng thì Đại đức Reveta Chủ tịch ban Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu bắt đầu cho tam qui và ngũ giới cho tất cả phái đoàn trên thế giới (trừ Tăng già ra mà thôi), kế đó bác sĩ U.Ba Tổng Thống xứ Miến Điện từ từ đứng dậy tới trước máy truyền thanh đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ khai mạc và cầu chúc cho cuộc Hội nghị Phật giáo Thế giới sẽ đem lại nhiều sự kết quả tốt đẹp cho nhân loại. Kế tiếp, ông U. Chan Htoon, Tổng Chưởng Lý và Chánh Hội Trưởng Phật giáo Thế giới địa phương Miến Điện, đọc một bài diễn văn để chào mừng tất cả phái đoàn trên thế giới vì đã tốn công hao của và phải trải qua nhiều sự khó khăn từ phương xa ngàn dặm tới dự rất đông đủ và ông khiêm tốn xin thứ lỗi cho, nếu trong khi lưu trú có điều chi không vừa lòng đẹp ý. Rồi lần lượt đọc những lời chúc mừng của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng của các nước trên thế giới gởi đến, sau cùng ông G.P Malala Sekera Hội Trưởng Hội Phật giáo Thế giới đọc một bài diễn văn đại ý, kể sơ qua lịch sử của Hội Phật giáo Thế giới thành lập đầu tiên năm 1950 tại Colombo, Tích Lan, năm 1952 Hội nghị tại Nhựt Bản, tới năm nay là năm 1954 lại Hội nghị tại xứ Miến Điện, với mục đích đem lại sự sáng tỏ nền Phật giáo chánh truyền còn nguyên vẹn theo Tam Tạng Pāli và gây tình cảm bác ái đối với tất cả người tu Phật không phân biệt tôn, phái, màu sắc chi cả, chỉ biết chúng ta là một khối người tu Phật, như con một cha. Vì Đức Phật cũng như đấng Cha Lành chung cho tất cả người tu Phật. Bác sĩ lại nhấn mạnh thêm rằng còn hai năm nữa là 1956, là đúng thời kỳ phân nửa Phật Pháp 2500 kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn đúng ngày Rằm tháng Tư. Hiện nay có hơn 550 triệu người tu Phật trên khắp cả Thế giới đều chuẩn bị để làm lễ Phật nhập Niết-Bàn. Tôi cũng hiểu biết rằng có nhiều nơi ý kiến bất đồng về ngày đản sanh và ngày nhập diệt của Đức Phật. Nhưng dầu sao chúng tôi cũng tự tin rằng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni giáng sanh, đắc đạo và nhập diệt cũng tại trung Ấn Độ, mà Ấn Độ và các nước trực tiếp về nền Phật giáo theo Ấn Độ cũng đều tin rằng hiện nay Phật Pháp đã qua 2498 năm, dầu đúng hay không chúng ta cũng nên đồng hòa hiệp nhau thống nhứt lại tạo cuộc lễ cho hòa hợp nhau thì càng làm cho được phần long trọng và chúng ta nên tin rằng Đức Phật là một bậc vĩ nhân, ngày sanh và diệt Ngài cũng lựa một ngày cho các hàng môn đệ dễ nhớ, nhứt là ngày rằm thì ít ai quên vậy; không như đạo Gia-tô hiện nay họ vẫn còn mơ hồ, phân vân ngày sinh nhựt của đấng Chúa Trời. Khi dứt bài diễn văn của bác sĩ thì vừa đúng giờ cho chư Tăng độ ngọ nên cuộc khai mạc tạm giải tán.
Đúng 1 giờ thì Hội nghị lại bắt đầu tái họp vào làm việc để xem xét những đề nghị của các nước Phật giáo đưa tới, kỳ họp lần này không phải trong Đại Thạch Động nữa mà ở tại từng thứ nhì, trong một văn phòng rộng rãi lối (10mx30) là một Tăng đường tên Amaragoyāna phía sau Đại Thạch Động, kỳ họp lần này có cả thảy gần 300 đại diện của thế giới và hơn 300 người quan sát viên (observateurs). Phần P.G.N.T.V.N. theo thứ tự mẫu âm Đ.Đ. Bửu Chơn được sắp vào ngày thứ nhì để đọc diễn văn phúc trình sự hoạt động. Đại ý bài diễn văn nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị áp lực của tham, sân, si đè nén nặng nề, muốn chữa trị những chứng bịnh ấy cần phải có một phương thuốc thật hay mới mạnh được, không chi hơn là tất cả nhân loại nên quay về Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách không thù oán, hãm hại, tàn sát lẫn nhau và nên tu tập theo hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để dứt bỏ lần lòng thù oán, vì nếu mỗi người đều giữ giới thì còn ai mà chém giết tàn sát nhau, mà nếu không có chém giết sát hại thì đâu có sanh ra giặc giã chiến tranh. Hơn nữa, cần phải ráng tham thiền để trừ bớt lòng si mê và cho được minh tâm kiến tánh thấy rõ chơn lý của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tự nhiên các bịnh tham, sân, si ấy sẽ lành mạnh, chừng ấy không cần nói cả Thế giới đều được hoàn toàn hạnh phúc và thái bình thạnh vượng.
Trong 3 ngày Hội nghị, hội chia ra làm 4 Ủy ban để bàn luận về 4 vấn đề:
Ủy ban thứ nhứt: Bàn luận về vấn đề “Giáo hóa”, Ủy ban này yêu cầu nên tạo thêm những trường học cho nhi đồng Phật tử, nên lập ra những lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể nên lập ra trường đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới địa phương.
Ủy ban thứ nhì: Bàn luận về vấn đề “trực tiếp với xã hội”, Ủy ban này dẫn dụ rằng: nên giúp đỡ cho xã hội về sự thành lập dưỡng đường, cô nhi viện, nhà riêng cho những người có bịnh hủi và các nơi tiếp độ sức khỏe cho loại thú, nên tiếp độ cho người bị tai hại về nạn chiến tranh hoặc bị tai hại trong lúc thừa hành phận sự trong các cơ xưởng trong các ngành kỹ nghệ.
Ủy ban thứ ba: Bàn luận về vấn đề “truyền bá giáo lý Phật Đà”, Ủy ban này bàn luận rất lâu và sôi nổi, đại khái về sự thành lập trụ sở trung ương và trụ sở địa phương của hội để làm việc về sự truyền bá Phật giáo Thế giới và kế hoạch của sự truyền bá là:
Khởi xướng về sự hành đạo trong xứ đã có Phật giáo.
Trong xứ không có Phật Pháp thì nên tiếp giúp công chuyện từ thiện như Ủy ban thứ nhì, thuyết pháp, nói đạo và tự mình phải thực hành cho đúng đắn theo chánh giáo để làm gương mẫu.
Nên lập những tư thục để huấn luyện cho phái Tăng già và thiện tín về phương pháp và tư cách của các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Bàn luận về vấn đề “hoạt động của Phật giáo Thế giới”, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập sự đoàn kết để làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất cứ là nơi nào, nên thay đổi nhau qua lại về các nhà sư đi truyền giáo và gởi các học sinh Phật giáo đi các nơi, nên thành lập một hội thanh niên nam, nữ Phật giáo Quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ nào có tánh cách về Phật giáo.
Và thông dụng Phật lịch là kể từ Đức Phật nhập Niết-Bàn đến nay đã được 2498=1954, nên bày ra một biểu hiệu chung cho tất cả Phật tử. Về căn bản hoạt động của sự truyền bá của Phật giáo thì nên căn cứ vào Kinh-Luật của Đức Phật, nhứt là mỗi người Phật tử đều giữ ngũ giới cho trong sạch, vấn đề này có 2 nhà sư Bắc tôn ở Lastonie cãi rằng như rượu bia hoặc rượu chát người tu Phật uống cũng được vì nó làm cho sự tiêu hóa dễ dàng, sau một lúc bàn luận, hội bác hẳn lời của 2 nhà sư này, nên trao đổi nhau để ấn tống những tin tức của Phật giáo khắp nơi và lập 1 quyển sách cho biết chung tất cả những ngày lễ của Phật giáo luôn có cả tam qui và ngũ giới theo Pāli. Hơn nữa, nhân danh H.P.G.T.G., xin kêu gọi tất cả các Chánh phủ nên ra lịnh cấm sự chế tạo và dùng đến bom nguyên tử, bom khinh khí và tất cả những khí giới có tánh cách sát hại một lần thật nhiều người, vì muốn đem lại sự an ninh cho nhân loại. Các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những món đồ có tánh cách sát hại như gươm, súng giả v.v…vì nó ám ảnh và khêu gợi tánh nết hung dữ của trẻ con. Sau khi 4 Ủy ban trên đây đề nghị và bàn luận xong lại đưa lên Tổng Ủy ban để biểu quyết chung một lần nữa khi đã đồng chấp thuận mới được đem ra thi hành.
Qua ngày thứ tư thì tất cả phái đoàn trên thế giới được đưa vào Đại Thạch Động để dự kiến 500 chư Tăng Thế giới đang Kết Tập Tam Tạng phần nhì (2ème Session) kế đó đưa đi viếng các nơi Phật tích trong thủ đô Rangoon.
Bắt đầu từ ngày thứ năm sắp lên thì Chánh phủ Miến Điện có sắp đặt cả thảy 52 toa xe lửa thượng hạng để đưa tất cả phái đoàn đi chiêm bái các nơi Phật tích và các bảo tháp thờ Xá Lợi trên xứ Miến Điện như là tỉnh Mandalay là cựu Thủ Đô của xứ Miến và là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm, nơi này có 729 tấm bia đá cẩm thạch chạm đủ Tam Tạng Pāli, mỗi bia đá ấy lại được bảo tồn bằng một bảo tháp vuông vức 2 thước tây bề cao lối 3 thước. Những bia đá này đã tạo ra lối 1 thế kỷ, nên những tấm bia ấy chữ vẫn còn rành rạnh, kế đến viếng xứ Pagan cũng là 1 cựu Thủ Đô của xứ Miến, xứ này có một danh từ đặc biệt gọi là rừng tháp, vì tại xứ này có cả thảy trên 55.000 bảo tháp. Kế viếng xứ Mingun là nơi mà một vị Thánh Tăng đã nhập diệt hơn 3 năm, hiện nay xác Ngài còn quàn mà vẫn không hôi thối. Lúc trở về có viếng một vị Thánh Tăng đương còn hiện tại, nơi xứ Kyaw-sê…
Phương tiện phái đoàn đi chiêm bái, khi hết tàu hỏa sang tàu thủy, xe hơi v.v… Công việc do Chánh phủ sắp đặt hết sức châu đáo, mỗi nhà ga hoặc mỗi thỉnh lỵ để tạm dừng khi thọ thực hoặc giải khát thì Chánh phủ địa phương đều có sửa soạn trang hoàng để tiếp rước rất long trọng. Nếu khi tạm trú trong một đêm, thì có tổ chức các cuộc múa hát bổn xứ để giúp vui cho phái đoàn, công việc đi chiêm bái ấy mất hết cả 9 ngày mới xong, lại đưa phái đoàn trở về Rangoon và sáng hôm sau là đúng ngày 18-12-1954, thì tất cả phái đoàn lần lượt lên đàng về xứ hoặc ai muốn sang Ấn Độ để chiêm bái bốn chỗ động tâm thì đi, nhưng sự tổn phí thì tự mình chịu lấy.
Riêng phần phái đoàn P.G.N.T.V.N. còn nhiều công việc phải thu xếp nên tới ngày 22-12-1954 mới lên đàng về xứ…
Nhưng trước ngày lên đường về xứ, ông Tổng Thống bộ Lễ Ngài U.Win tiếp P.Đ.P.G.N.T.V.N.
Ngày 20-12-1954, P.Đ.P.G.N.T.V.N. được ông U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ tiếp rước nơi biệt thự Ngài rất ân cần và vui vẻ hỏi thăm về công việc tiến hành của P.G.N.T.V.N. Sau khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật lại về công việc Phật giáo ở V.N. và vụ mất trộm Ngọc Xá Lợi độ nọ, Ngài Tổng Trưởng bèn cho biết rằng mới rồi ở sở Khảo cổ có tìm được một bảo tháp sụp đổ tại xứ Sandaw giáp ranh xứ Miến Điện và Ấn Độ do Đức Vua Arakan sáng tạo cách đây hơn 900 năm, trong tháp ấy có nhiều Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán, hiện giờ Chánh phủ đang giao cho ông gìn giữ. Khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật xong Ngài rất cảm động và xin đề nghị với Chánh phủ để hiến cho Phật giáo Việt Nam những Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán ấy.
Lời đề nghị của Ngài rất kết quả, qua ngày 21-12-1954 chính tay Ngài Tổng Trưởng viết một bức thơ và trao những Ngọc Xá Lợi đã kể trên cho Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn), thỉnh về xứ hôm ngày 4-1-1955 và cuộc cung nghinh Xá Lợi đã có tường thuật trong số báo Tín Điển ngày 6-1-1955.
Nguyên văn bức thơ như vầy: Buddhas’Rilics and Arahat Rilics presented by the Hon’ble U.Win, Minister for Religionus Affairs to the Ven’ble Nāga There, Hear of Viet Nam Delegation on the 21stDecember, 1954, was discovered in the ruins of Sandaw Padoga built about 900 years ago by an Arakann king in Sandoway.
Dịch: Tôi U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ của xứ Miến Điện, kính tặng những viên Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán đến Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn Phật giáo V.N. hôm ngày 21-12-1954. Những Ngọc Xá Lợi này đã tìm ra được nơi một bảo tháp sụp đổ, bảo tháp này đã tạo ra trước đây lối 900 năm do Đức Vua Arakann nơi xứ Sandoway.
 Ký tên: U.Win
 Tổng Trưởng bộ Lễ
 (Ngưỡng Quang) Miến Điện.
           Lúc về có bảy bà tín nữ đã qua Rangoon trước để chiêm bái và chờ kỳ hội nghị nên luôn dịp các bà cũng tháp tùng về theo. Khi về đến Thailand trễ luôn mấy chuyến phi cơ vì không có chỗ. Có nhiều hành khách đã ghi tên trước nên phải ở lại Bangkok hơn 10 ngày vì vậy mà phái đoàn được nhiều thì giờ rảnh rang đi chiêm bái các nơi Phật tích trong Thủ Đô Bangkok nhứt là viếng chùa Phật Ngọc, chùa Cẩm Thạch, tháp thờ Xá Lợi đầu tiên trên xứ Thái tại Nakol Pathom, chùa Preak Bat có dấu chân Đức Phật Tổ cách châu thành Vọng Các hơn 100 cây số. Trong khi lưu trú tại Vọng Các mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo liệu nhứt là cụ Nguyễn Khoa Toàn rất ân cần tiếp đãi.
Đến ngày 4-1-1955, phái đoàn mới ghi được chỗ của hãng Hàng không V.N., và đáp phi cơ về đến phi trường T.S.N vào 18g30 ngày 4-1-1955. Có rất đông chư Tăng và tín đồ đã chực sẵn để đón rước và cung nghênh Xá Lợi về chùa Kỳ Viên.
Lễ Bế Mạc Kết Tập Tam Tạng Lần VI Và Lễ Kỷ Niệm 2500 Phật Lịch Tại Rangoon – Miến ĐiệnTừ 22 Đến 27-5-1956
Lối 1 giờ trưa ngày 18 tháng 4 dl, một số đông chư Tăng, thiện nam, tín nữ Chùa Kỳ Viên đã tập hợp tại chùa để đưa chúng tôi ra phi trường T.S.N. Đi theo tôi có Ô. Nghiêm Xuân Thiện chủ nhiệm tờ báo Thời Luận, gần 14 giờ phi cơ mới cất cánh, hơn nửa giờ thì lại đáp xuống phi trường P.P, chư thiện tín Nam Vang đã chờ sẵn để đón chào chúng tôi; sau khi hành khách lên xuống xong thì con chim sắt lại cất cánh bay thẳng về thủ đô Vọng Các, gần 5 giờ mới đến phi trường Daung Maung (Thái). Khi vừa xuống phi cơ thì đã có các nhân viên của tòa Sứ quán Việt Nam ở Bangkok ra đón rước chúng tôi và rước về nghỉ tạm tại Thủ Đô Vọng Các trong một hôm.
Sáng hôm sau khi độ ngọ trai tại Sứ quán xong lại phải trở ra phi trường Daung Maung để sang Rangoon cho kịp chuyến tàu của hãng hàng không U.B.A. sẽ cất cánh 1 giờ rưỡi trưa. Sau gần 4 giờ mới đến phi trường Rangoon, khi trình giấy thông hành xong chúng tôi cùng về trụ sở của Hội Phật giáo tại Kaba Aye (chỗ Hội nghị).
Nghỉ được vài hôm cho có sức khỏe, đúng ngày 22-4-1956 thì bắt đầu khai mạc cuộc lễ Kết Tập Tam Tạng phần chót, mỗi ngày 500 vị chư Tăng của thế giới phải đến để cộng sự đều vào Đại Thạch Động sớm mai từ 8 giờ cho đến 10 giờ rưỡi, chiều từ 1 giờ cho đến 4g30 mới nghỉ. Làm luôn như vậy cho đến ngày 22 tháng 5 dl là đúng ngày khởi hành cuộc lễ bế mạc, nhưng sự kết tập vẫn tiếp tục làm luôn cho đến đúng ngày 24-5-1956 là ngày rằm mới mãn.
Cuộc lễ này khởi hành từ ngày 22 cho đến 27-5-1956, dưới quyền Chủ Tọa của Tổng Thống và Thủ Tướng Miến Điện, về chư Tăng thì 2.500 vị trên khắp Thế giới được thỉnh đến để dự lễ, ngoài ra còn những người đi xem trên 2 triệu, có tất cả các sứ thần của các nước đến dự, tất cả các xe cộ đều phải đi có một chiều nhưng vậy mà trong ngày 23, 24 trong một khoảng đường độ 5 cây số có tới 4.500 chiếc xe phải bò từ từ đến 3 tiếng đồng hồ mới đến chỗ dự lễ, còn người vì chờ lâu nên xuống đi bộ có hơn 90.000 người trong khoảng đường ấy.
Về chương trình rất dài không thể kể hết được chỉ kể sơ những điểm quan trọng vậy thôi. Chánh phủ cho lập 4 dưỡng đường và 4 nhà thí cơm nước để săn sóc và trợ giúp cho những người tứ phương đến xem lễ. Trong mỗi ngày có 10.000 người đến ăn uống khỏi phải tốn kém chi, có tất cả 6 nhà múa hát để giúp vui trong cuộc lễ và có lập tạm các sở như: Bưu Điện, Thông Tin, Cảnh Sát, Y Tế, Sở Tân Đảo và 1 đại đội quân lính để lo hầu hạ và dâng cúng vật thực đến chư Tăng, Chánh phủ cũng cho triển lãm các vật cổ tích về Phật giáo và các kỹ nghệ, thổ sản trong xứ cho công chúng xem.
Trong khi hành lễ các đại diện trên thế giới đều có đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ, phái đoàn V.N. cũng có đọc một bài chúc mừng bằng Anh ngữ do Đ.Đ. Bửu Chơn đại diện cho V.N. đọc trước máy phóng thanh xong, nhà báo The Burman có xin để đăng tải. Chánh phủ ra lệnh ân xá cho tất cả tội nhân trên toàn xứ Miến như người bị án tử hình thì được hạ xuống còn chung thân khổ sai, người nào bị từ 1 tháng đến 2 năm được giảm 6 tháng, từ 2 năm tới 10 năm được giảm 2 năm, từ 10 năm sắp lên được giảm một phần ba. Như thế rất nhiều người được trả tự do vì đã mãn hạn, số tội nhân còn lại thì cho nghỉ luôn trong 3 ngày lễ…Về chư Tăng tu theo Phật giáo Nguyên Thủy đến dự lễ thì thấy có Thailand, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Nhựt, Tàu, Tích Lan, Ấn Độ, Népal, Assam, Úc Châu và Đức. Ngoài ra, cũng có mời một số chư Tăng phái Bắc Tông đến dự. Các đại diện Sứ quán của thế giới ở trên đất Miến đều có mặt tại Đại Thạch Động để dự lễ, riêng phần Chánh phủ Thái Lan do một vị Đại tá đại diện đem theo lễ vật như là: tam y, quả bát, quạt và 10 cái dèm (túi) đều có khắc chữ của Chánh phủ Thái Lan xin dâng cho các vị trưởng phái đoàn đã kể trên để làm kỷ niệm. Trong số ấy V.N. cũng được lãnh một phần danh dự do Đ.Đ. Bửu Chơn thọ lãnh đem về chùa Kỳ Viên.
Trong 3 ngày chót là từ 25 đến 27-5, chính tay Tổng Thống và tất cả quan chức cao cấp Miến đều có mặt tại Thạch Động để dâng Tam Tạng, cấp bằng trong cuộc Kết Tập Tam Tạng các món vật dụng cho tất cả 2.500 vị Tỳ Khưu đã cộng sự trong 2 năm trường.
Về chi phí trong cuộc lễ, Hội Phật giáo đã dự trù một số tiền lối 2 triệu 300 ngàn đồng rupies (gần 300 triệu đồng xứ ta) kể sơ về sở tổn trai tăng trong 1 ngày hết 10.000 rupies (gần 80 ngàn đồng xứ ta) về nước giải lao trong buổi chiều hết 1.250 rupies (hơn 100.000 ngàn đồng xứ ta) tổn phí như thế luôn trong 6 ngày đại lễ. Nhân trong dịp lễ ấy, bà Thủ tướng U.Nu có làm lễ xuất gia cho con gái bà và con gái của các vị Tổng Trưởng hết thảy trên 40 người đồng xuất gia theo cô ni trong một thời gian để gieo duyên lành tại chùa Hansāvady, cùng trong dịp ấy bà cũng hộ cho 2.500 giới tử về y, bát để làm lễ xuất gia kỷ niệm cho 2.500 Phật lịch, nhưng số ấy lại tăng thêm lên cho đến 2.618 vị đồng xuất gia một lượt tại trong Thạch Động, cuộc lễ này hết sức long trọng và vĩ đại từ xưa tới nay chưa từng có.
Ngoài ra, hội còn lo cho tất cả chư Tăng ngoại quốc đi chiêm bái các nơi Thánh tích tại xứ Mandalay là chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm và có hàng ngàn cổ tháp đã tạo ra trên ngàn năm trong lịch sử.
Tóm luận trong cuộc lễ vĩ đại tại Rangoon có hàng ngàn ngàn người đến dự nhưng rất đặc biệt là không thấy có bán một nhỏ rượu nào, cũng không ai cãi lộn, đánh lộn, giựt đồ bao giờ, mỗi người đều giữ tròn phận sự mình là lễ bái cúng dường tùy theo sức mình vậy thôi, sở dĩ được thái bình, yên ổn có phải chăng là do một phần lớn ảnh hưởng của Phật giáo đã huấn luyện và đào tạo? Hay là do sự khôn khéo sắp đặt trong guồng máy chánh trị của Chánh phủ Miến? Cho nên mỗi người dân Miến đều thích đi chùa cúng bông hoa và đọc kinh trong mỗi ngày không ngớt. Một điều đặc biệt nhất là trong cuộc lễ lớn lao như thế nhưng không thấy có một sòng cờ bạc nào cho tới bong vụ hay là quay số cũng không có. Nhưng người Miến hình như ưa “xâm mình” nên trong cuộc lễ thấy có rất nhiều chỗ bày ra xâm mình đủ thứ hình các loại, thú, phi cầm họ xâm rất mau lẹ độ trong 10 phút là xong hình một con thú nơi cánh tay hoặc ngực.
Cô Diệu Đáng con Đ.Đ. Hộ Tông đang tùng học tại ni đường Rangoon luôn luôn tới lui hỏi thăm tin tức các bà V.N. có ai qua không? Sau khi cuộc lễ bế mạc xong các phái đoàn trên thế giới đã lần lượt về xứ, phần tôi cũng sửa soạn xin chiếu khán đặng trở về xứ.
Ngày 30 tháng 5 dl, thình lình lại nghe tiếng nói người V.N., từ trên lầu trông xuống thấy Sư Giới Nghiêm và các bà tín nữ đang ngơ ngẩn tìm hỏi phái đoàn V.N. vì điện văn đến trễ nên tôi không biết trước để ra đón tiếp và lo giùm giấy tờ, các bà ấy là: Bà Ngô Thị Lợi, Lê Thị Hương, Trần Thuận Anh, Hà Thúc Hòa, cô Hương và cô Xuân, nhứt là cô Trần Thuận Anh khi đến phi trường mà không thấy tôi ra đón đã phụng phịu muốn rơi nước mắt, nhưng về tới Kaba Aye gặp được tôi thì các bà mới hết lo buồn, sau rốt lại may các bà cũng được chiêm bái răng nhọn Đức Phật, tháp thờ 8 sợi tóc của Đức Phật và nơi Thánh tích khác trong xứ Rangoon và Pegu, rất tiếc là các bà muốn đi Mandalay nhưng hỏi xe lửa cũng không có chỗ, máy bay cũng không, cho đến 8 ngày sau mà cũng chưa có chỗ vì chư Tăng và thiện tín họ tới hàng ngàn ngàn nên sự chuyên chở hành khách rất chậm trễ thành ra các bà phải buộc lòng ghi giấy để trở về Bangkok ngày 6-6-56. Phần Sư Giới Nghiêm có lòng muốn ở lại để học tham thiền trong một hạ, nên các bà từ giã Sư Giới Nghiêm và Sư Thiện Hạnh để lên tàu về xứ.
Khi về tới phi trường Daung Maung vì điện văn đến trễ nên không có Sứ quán V.N. ra rước, nhưng sở hàng không Thái rất tử tế đưa phái đoàn cho đến tận Sứ quán V.N. Trong khi lưu trú tạm tại Bangkok mọi việc đều nhờ Sứ quán lo cho, nhất là ông Mai Văn Hàm Đại sứ toàn quyền V.N. tại Vọng Các rất nhã nhặn, vui vẻ, bình dân đối đãi chúng tôi một cách hết sức thân mật. Trong khi ở Thái được xứ quán đưa cho xem những Thánh tích như là: Chùa Phật Ngọc, Chùa Cẩm Thạch, Chùa Phật nằm, bề dài hơn 46 thước tây, chùa Arūn, chùa Phật bằng vàng nặng lối 1.500 k, tháp vàng chùa Sakêt và tháp Nakon Pathom là một bảo tháp sáng tạo đầu tiên trên xứ Thái Lan.
Con đường hàng không từ Vọng Các tới Saigon rất bất tiện, phái đoàn phải chờ 6 hôm mới có chỗ của chuyến tàu hãng hàng không V.N. về Saigon ngày 12-6-1956 vào lối 12 giờ trưa phi cơ cất cánh mãi gần 7 giờ tối mới đến phi cảng T.S.N. thì đã có bà con chờ đón rước rất đông, sau khi trình giấy tờ xong toàn thể phái đoàn đều về Kỳ Viên Tự.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần IV Tại Kathmandu Népal (15-11-1956) Và Hội Nghị Triết Học Tại Newdelhi Ấn Độ (24-11-1956 Đến 30-11-1956) PL.2500
Được giấy mời của Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương tại Kathmandu Népal gửi đến thỉnh tôi và giấy mời của Chánh phủ Ấn Độ do Thủ tướng Nehru gửi đến thỉnh tôi đến Hội nghị Triết học tại Newdelhi vào ngày đã kể bên trên.
Tôi liền đệ đơn lên xin Tổng Thống V.N.C.H. cho phép tôi sang Hội nghị, đến ngày 5-11-1956 tôi liền được lịnh của Tổng Thống ưng thuận cho phép tôi và ông Nguyễn Văn Nẩm, bà Huỳnh Thị Kỳ để sang Népal và Ấn Độ Hội nghị.
Vì bận rộn lo giấy tờ cần thiết để xuất dương mãi cho đến ngày 13-11-1956 mới có chuyến phi cơ của hãng hàng không Air France sang Calcutta vào 8 giờ đêm, nhân dịp ấy cũng có bà Phũ Như ở Phnompenh và bà Diệp Xung, bà Kao Kim Liêng ở Cần Ché cũng đồng tháp tùng theo một chuyến tàu để sang Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích, thành ra phái đoàn được cả thảy 6 người.
Đúng 20 giờ phi cơ cất cánh, trên tàu các cô bồi hầu toàn là người Pháp cách tiếp đãi với hành khách rất lễ độ, nào là tiếp thắt dây đai chỗ ngồi cho mấy bà già và cắt nghĩa cho hành khách biết dùng áo cứu nguy, khi có sự tai nạn. Ban đêm trên hư không tiết trời lạnh lắm, nên hãng Hàng không phải phát mền len cho hành khách đắp cho đỡ lạnh, vì mệt mỏi suốt ngày, nên khi vừa mơ màng giấc điệp thì có còi báo hiệu cho biết, phi cơ sắp đỗ xuống phi trường Calcutta lối 3 giờ rưỡi sáng, sau khi trình giấy tờ xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về trụ sở của Hội Đại Bồ Đề tạm nghỉ, chờ sáng ra ghi chỗ để lên phi cơ qua xứ Népal, ngày hôm ấy không còn một chỗ nào, phải chờ qua ngày 15-11-1956 mới có chỗ, phi cơ cất cánh lối 7 giờ sáng mãi đến 9 giờ hơn mới đáp xuống phi trường Patna để trình giấy thông hành.
Vì phi cảng nằm giáp ranh với Ấn Độ và Népal nên phải sang phi cơ khác đặng vô xứ Népal, hơn 10 giờ phi cơ mới cất cánh bay sang Kathmandu lối 12 giờ hơn mới đến phi trường Kathmandu, ở đây đã có ban tiếp tân chực sẵn để tiếp rước và đưa các quan khách về chỗ trú ngụ, nhưng khi phái đoàn V.N. đến thì cũng gần đến giờ khai mạc, nên toàn thể phái đoàn đều được đưa ngay lại chỗ Hội nghị. Đúng 1 giờ thì cuộc lễ bắt đầu khai mạc, có Quốc Vương Mahindra và các quan chức cao cấp xứ Népal đến dự, các đại diện trên thế giới đều ngồi trên khán đài, tôi nhìn qua thấy cả thảy 32 nước đến dự như là: Ấn Độ, Lào, Xiêm, Miến Điện, Tích Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Mãn Châu, Tàu, Nhựt, Pháp, Anh, Mỹ, Ý, Đức, Nga, Tiệp Khắc, Hạ huy và Việt Nam v.v… Cuộc khai mạc này trên một bãi cỏ vuông vức lối 5.000 thước vuông, dân chúng tụ họp có trên 200.000 người, cuộc lễ kéo dài đến 5 giờ chiều mới giải tán, tất cả phái đoàn đều được đưa về nhà trọ, còn các nhà Sư thì được đưa đi an nghỉ nơi Ananda Kutti trên núi Swayambhu cách tỉnh thành độ 10 cây số.
Xứ Népal ở gần chơn núi Hy mã lạp sơn nên tuyết trời lạnh lắm, mới tháng 10 mà hàng thử biểu xuống đến 15, 16 độ, sáng ra thấy toàn một góc trời đều tuyết phủ trắng phau. Tỉnh thành đóng đô tại nơi một thung lũng chung quanh đều là núi non bao bọc, sự giao thông rất hiểm trở, trừ phi cơ ra thì muốn vào xứ ấy phải đi đường rừng và leo qua nhiều dãy núi mới vào xứ ấy được, dân số lối 13 triệu, người coi có vẻ mộc mạc, chơn thật và quê mùa nhưng trông có vẻ cảm tình, ưa thờ những thần thánh, có nhiều cổ giáo lạ lùng như Hồi giáo, Hỏa giáo, Bà-la-môn giáo v.v…, về Phật giáo thì xu hướng theo phái Bắc Tông, nên chùa chiền thì hay thờ các vị Bồ Tát, nhứt là Quan Thế Âm, phần nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tây Tạng truyền sang. Đường sá thì rất chật hẹp, nhà cửa kiến trúc theo lối cổ nên rất thấp, nhưng nhiều từng và nghệ thuật chạm trổ có lẽ là xưa nhất và rất tinh xảo, chỗ nào cũng có đền vua cũ thuở xưa cho nên có một danh hiệu đặc biệt gọi là xứ đền đài vua chúa (pays des Palaces). Vì mỗi vị vua lên ngôi đều dời đền đi nơi khác.
Chương trình hội nghị
Trong ngày đầu để cho các phái đoàn trên thế giới đọc diễn văn chúc mừng buổi khai mạc và những thông điệp của các Quốc Trưởng gởi đến. Phái đoàn Nguyên Thủy V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn hướng đạo, cũng có đọc một bài diễn văn đại ý nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị bịnh tham, sân, si đè nén nặng nề và lo sợ vì nạn chiến tranh đe dọa, muốn trị các chứng bịnh khổ sở ấy cần phải có một phương thuốc hiệu nghiệm. Vậy không chi hơn là tất cả nhân loại nên thực hành theo Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách bình đẳng từ bi bác ái và không có lòng hãm hại tàn sát lẫn nhau, nên bắt đầu tu tập hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để bớt lần lòng hãm hại, thù oán, nếu mỗi người mà giữ giới thì còn ai đâu mà chém giết, tàn sát lẫn nhau, mà nếu không có chém giết tàn sát thì đâu còn có giặc giã chiến tranh mà lo sợ. Không những thế ta còn phải cần tham thiền cho thân tâm được thanh tịnh mới phân biệt đâu là chơn thật giả tà và thấy rõ chơn tánh của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tất nhiên các bịnh tham, sân, si khổ não ấy sẽ tự tiêu diệt. Lẽ dĩ nhiên, chừng ấy cả Thế giới đều được thái bình và nhân loại đều được an cư lạc nghiệp.
Cách thức làm việc trong Hội nghị được chia ra làm 4 Ủy ban như sau:
Ủy ban thứ nhứt: Nghiên cứu về vấn đề giáo hóa, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tạo những trường học cho nhi đồng Phật tử, lập các lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể lập ra các trường trung học hoặc đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới Địa Phương.
Ủy ban thứ nhì: Nghiên cứu về vấn đề trực tiếp với xã hội, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tham gia các công cuộc cứu tế xã hội bằng cách thiết lập dưỡng đường, cô nhi viện, trợ giúp các cơ quan cứu tế cho những người bị tai nạn và bảo vệ sức khỏe cho các loại cầm thú.
Ủy ban thứ ba: Nghiên cứu về vấn đề truyền bá Phật giáo trên thế giới, Ủy ban này thảo luận rất lâu, sau cùng đề nghị nên thành lập các trụ sở địa phương để truyền bá Phật giáo theo 3 kế hoạch như sau đây:
Ráng hành động cho cao thượng lên thêm trong những xứ đã có Phật Pháp.
Xứ nào chưa có Phật Pháp thì nên tham gia công cuộc cứu tế xã hội theo đề nghị của Ủy ban thứ nhì, rồi tùy phương tiện thuyết pháp, nói đạo cho công chúng nghe và tự mình phải thực hành cho đúng theo chánh giáo để làm gương mẫu cho người.
Nên lập các giáo đường để huấn luyện Tăng già và thiện tín về phương thế và tư cách cho các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Nghiên cứu về sự hoạt động của Phật giáo Thế giới, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập tình đoàn kết và làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất kỳ là nơi nào, nên trao đổi các nhà sư để đi truyền giáo và gửi các học Tăng đi học thêm Phật giáo ở các xứ, nên thành lập một hội thanh niên nam nữ Phật giáo quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ của Phật giáo và thông dụng Phật lịch (là kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn tới nay là được 2.500 năm, dl 1956), về căn bản của sự truyền bá Phật giáo thì phải căn cứ vào Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Pāli, mỗi Phật tử phải gìn giữ giới luật cho trong sạch, nên viết ra một quyển sách để tất cả ngày lễ của Phật giáo cho được thống nhứt và cách thọ tam qui, ngũ giới cho đúng theo Phạn ngữ. Hội Phật giáo Thế giới còn kêu gọi các nước, nên cấm chế tạo dùng bom nguyên tử và khinh khí cùng tất cả các món khí giới có tánh cách sát hại cả khối người, với mỹ ý mong cầu đem lại sự an ninh cho nhân loại, các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những các món đồ có tánh cách khêu khích tánh tình hung dữ của trẻ con.
Bốn Ủy ban này thảo luận xong lại đưa lên cho Tổng Ủy ban để bàn luận chung lại một lần nữa và khi đã được toàn thể Hội nghị chuẩn y thì mới đem ra ban hành và áp dụng.
Trong kỳ Hội nghị này cũng như mấy kỳ trước, nhưng chỉ khác ba điểm quan trọng là:
Trước kia những người nào muốn là hội viên của Hội Phật giáo Thế giới phải đóng 1.000 rupies trong mỗi năm, nhưng bây giờ chỉ sụt lại còn 100 rupies mà thôi.
Những kinh sách bằng tiếng Pāli được phiên dịch ra bằng các thứ tiếng quan trọng trên thế giới, nhứt là Anh, khi mỗi hội viên mua thì được trừ cho 20%.
Trụ sở Trung Ương của Hội Phật giáo Thế giới không được nhứt định để trên một nước nào, nghĩa là tùy nước nào có đủ khả năng thì được luân phiên đem về xứ ấy.
Sau khi 3 ngày Hội nghị xong thì tất cả đại diện và quan sát viên lối 300 vị đều được Chánh phủ Népal đưa cho đi chiêm bái các nơi cổ tích và Phật tích trong xứ, đến ngày chót chính bà Hoàng Hậu xứ Népal đứng ra thết một tiệc trà tại Hoàng cung của Tiên vương để tiễn biệt tất cả các đại diện trên thế giới và luôn dịp bà nhân danh cho Chánh phủ Népal tặng cho mỗi vị trưởng phái đoàn 1 pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng để kỷ niệm.
Đến ngày chót Chánh phủ cấp cho mấy chuyến phi cơ đưa các phái đoàn sang chiên bái vườn Lumbini là nơi Đức Bồ Tát Sĩ Đạt Ta giáng sanh gần giáp ranh với xứ Ấn Độ và làm lễ bế mạc luôn cuộc Hội nghị ấy lối 5 giờ chiều ngày 21-11-1956. Sau khi làm lễ bế mạc xong thì toàn thể phái đoàn đều được đưa đi qua nhà ga Nawgarh để lên tàu hỏa sang Newdelhi dự Hội nghị Triết học vào ngày 24-11-1956. Tại nhà ga đã có Chánh phủ Ấn Độ sửa soạn sẵn sàng để tiếp rước tất cả các đại diện nào đã được Chánh phủ Ấn Độ gửi thông điệp thỉnh đến.
Lối 9 giờ đêm thì tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh ầm ầm xì xịt, mãi cho đến 2 đêm 1 ngày là sáng ngày 23-11-1956 mới đến Newdelhi, ở đây đã có Ủy ban tiếp tân chực sẵn để rước về chỗ yên nghỉ tại Ashoka hotel, khách sạn này của Chánh phủ Ấn Độ đã cất hơn năm nay, mới vừa xong nhưng còn sắp đặt kiến thiết nội dung, cao đến 8 từng, có cả thảy lối 700 cái phòng, trong mỗi phòng bề ngang lối 3 thước rưỡi, bề dài lối 6 thước, bên ngoài có hành lang, mỗi phòng đều có trải khảm bằng lông trừu, có máy làm cho điều hòa, có tủ bàn, tủ lạnh, giường, bàn ghế, phòng tắm có cả nước lạnh, nước nóng, và điện thoại mỗi mỗi đều mới tinh xảo.
Các đại diện chánh thức do Chánh phủ thỉnh đến mỗi nước chỉ được có bốn người, hết thảy gần lối 100 vị mà thôi, nhưng sự tiếp đãi hết sức châu đáo mỗi phái đoàn đều có cho một chiếc xe hơi để túc trực từ sáng cho đến 12 giờ đêm, để đưa rước các đại diện đến chỗ Hội nghị và tới lui trong đô thị, hoặc là đi xem các ban văn nghệ trong buổi tối, luôn như thế cho đến 10 ngày tại Tân-đề-li, riêng nước Cộng Hòa Việt Nam chỉ có tôi và ông Mai Thọ Truyền được Chánh phủ Ấn Độ mời chánh thức nên mỗi việc đều được dễ dàng, còn phần mấy ông và quí bà kia vì không phải Chánh phủ mời đến, nên không được phép ở chung với các đại diện, nhưng cũng được trú ngụ tại chùa Birla Mindia, ăn và ở đều khỏi phải tốn phí chi cả.
Đến ngày 24-11 bắt đầu Hội nghị, các đại diện được đưa đến một nơi biệt thự thật to lớn cũng vừa mới cất xong, kiến trúc theo nhà hát tây, chứa đựng lối 1.000 người, rộng rãi, mỗi chỗ ngồi đều có bàn viết và ống nghe các thứ tiếng, do thông ngôn dịch lại. Đúng giờ khai mạc cuộc lễ rất long trọng, chính Tổng Thống Prasad và Thủ tướng Nehru đến dự lễ khai mạc, trong khi ấy cũng có Thủ tướng U.Nu Miến Điện, và hai vị lãnh đạo tinh thần của xứ Tây Tạng là Penchen Lama và Dalai Lama đến dự. Cuộc Hội nghị trong bảy hôm để thảo luận và bàn luận về bốn vấn đề:
Để bàn luận và trưng bày những nghệ thuật (art of Buddhism) của Phật giáo trong mỗi xứ, nhất là các kiểu mẫu tháp, chùa và hình tượng của mỗi xứ Phật giáo.
Bàn luận về văn hóa, có liên quan đến Phật giáo như các thi thơ hoặc học đường v.v… được do ảnh hưởng và hấp thụ theo Phật giáo.
Bàn luận về Kinh Luật của Phật giáo, áp dụng trong mỗi xứ, như cách nào còn chánh truyền và cách nào không còn phải là chánh truyền.
Bàn luận về sự thực (hành đạo) theo Phật giáo trong mỗi nước, như có nước cũng mang tiếng là theo Phật giáo, nhưng sự thờ cúng rất phức tạp, như thờ nhiều vị thần linh, hoặc ông này bà nọ đầy trong chùa, hoặc các nhà sư cũng có khi cũng có vợ con, và cũng ăn cơm chiều cũng như người thế v.v…
Sau khi bàn luận bảy hôm mới xong, Thế giới đều công nhận hễ là tu theo Phật giáo thì cần phải thực hành cho đúng theo Kinh, Luật, Luận Pāli y theo đường lối của Đức Phật đã giáo truyền trong 45 năm, sau khi Hội nghị xong, Thủ tướng Nehru có thết một ngọ trai tại tư dinh của ngài, để cúng dường đến chư Tăng Thế giới đã thỉnh đến Hội nghị, luôn cả thân quyến của ngài cũng đều đến dâng cúng vật thực cho chư Tăng.
Trước một hôm khi tất cả phái đoàn sẽ từ giã Tân-Đề-Li để lên tàu hỏa đi chiêm bái các nơi Phật tích, thì Tổng Thống Prasad có tạo một tiệc trà tại dinh ngài để tiễn biệt các vị đại diện, ngài thân hành ra khách đường để chào mừng quan khách một cách thân mật, luôn hôm ấy cũng vừa được tin một vị hòa thượng V.N. pháp danh Huệ Quang đi Hội nghị Phật giáo tại Népal luôn tiện Ngài qua Ấn Độ để chiêm bái, chẳng may vì tuổi già, đến 76 tuổi nên chịu không nổi với sự vất vả và lạnh lẽo, nên ngài tịch vào lối 6 giờ chiều ngày 2-12-1956, tại dưỡng đường Newdelhi, vì mỗi người đều có phận sự riêng, và giấy tờ ghi xong nên rất tiếc phái đoàn không có ai ở lại được để đưa đám táng của ngài.
Sáng hôm sau, nhằm ngày 3-12-1956, lối 9 giờ thì tất cả phái đoàn trên thế giới lên tàu hỏa để đi Sanchi viếng một cổ tháp thờ Xá Lị Đức Phật, kiến trúc đẹp nhứt đã tạo từ thời vua A-Dục rồi đi xứ Agra để viếng Taj Mahal là một kỳ quan thứ 7 của thế giới làm toàn bằng đá cẩm thạch, đi viếng xứ Savathi nơi chùa Bố Kim Tự là chỗ mà Đức Phật thường hay ngự trong khi còn tại thế, đi Kusinara để viếng chỗ mà Đức Phật nhập đại Niết-Bàn, đi xứ Balanai (Benares) để viếng vườn Lộc Giả, chỗ Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu cho năm thầy Kiều Trần Như, kế đi viếng xứ Patna cựu thủ đô của vua A-Dục, và nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, xong lại quay qua xứ Vương Xá Thành (Rajagaha) để viếng trường Malanda một cựu đại học đường Phật giáo rất có danh tiếng hồi thế kỷ thứ XII và XIII và viếng chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất tại thạch động Sattapparani, chùa Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvana Vihara) suối ôn tuyền, thạch động chỗ ĐĐ. Ca-Diếp thường cư ngụ, chỗ núi Kicchayutta Kỳ Xà Quật chỗ Đức Phật thường ngự, và nơi có nhiều ngạ quỉ nhất, và chỗ Đề-Bà-Đạt-Đa lăn đá xuống để giết Phật v.v… Xong lại trở qua Bồ Đề Tràng (Bodhi gayā) để chiêm bái chỗ Đức Phật thành đạo, chỗ rắn bảy đầu đến che cho Ngài trong khi mưa to gió lớn, chỗ Ngài đi kinh hành, xóm cô Sojatā dâng cơm trộn sữa dê cho Ngài, con sông Ni-liên chỗ Ngài tắm xong mới thành đạo v.v… cũng tại Bồ Đề Tràng, tất cả các đại diện đều làm lễ bế mạc, cuộc đi chiêm bái và giải tán tại đây, nhưng Chánh phủ cũng đưa phái đoàn nào về ngả Calcutta cách đây độ 500 cây số mới giải tán, cuộc chiêm bái này kéo dài gần 2 tuần mới chấm dứt, tổn phí đều do Chánh phủ đài thọ. Riêng phần tôi không được cái hân hạnh đi chiêm bái với phái đoàn Chánh Phủ, vì còn mấy bà con đi theo, không được Chánh phủ cho phép đi chung với các vị đại diện, quan khách của Chánh Phủ, nên tôi phải tách ra để hướng dẫn phái đoàn V.N. đi chiêm bái riêng, nhưng cũng được đi các nơi như Chánh phủ hướng dẫn, chỉ phải trả có phân nửa tiền tàu hỏa mà thôi. Nhưng rất may là đi đến đâu nhờ có tôi là khách của Chánh Phủ, nên họ cũng tiếp đãi tử tế, và được ở ngay nhà trọ (Rest house) của Chánh phủ luôn cả phái đoàn cũng được ở khỏi phải tốn kém chi (nên biết rằng lúc này các nhà trọ, các nhà nghỉ mát, khách sạn đều có người giữ chỗ trước hết, vì những người đi chiêm bái đến hàng ngàn người, nên không có chỗ ở, phải ngủ đỡ nơi hành lang mấy nhà trọ, hoặc ngoài đường ngoài sá chẳng hạn, rất cực khổ vất vả lắm…)
Vì phái đoàn tách riêng ra nên đi đến chỗ nào muốn ở bao lâu cũng được, thành ra mãi đến 17-12-1956 mới về đến Calcutta ở tại hội Bồ Đề trong 3 hôm nhằm 20-12-1956, mới có chuyến phi cơ đi xuống xứ Madras, tỉnh thành này cũng to lớn, dân số có đến hơn 6 triệu, phần nhiều là dân Tamil, có nhiều phong tục kỳ dị là hay ăn trong lá, đàn ông thì phần nhiều thì đeo bông, còn đàn bà thì xỏ mũi để đeo bông, đeo kiềng và hay xâm mình cho đẹp, mấy ngón cẳng hay đeo cà rá, phái đoàn phải chờ 5 ngày mới có chuyến phi cơ để đi Tích-Lan, còn rộng ngày giờ nên được đi viếng các nơi trong đô thị, nhứt là viếng trụ sở Trung Ương của hội Thông thiên học tại vườn Adya cách tỉnh thành Madras độ 20 cây số ở dọc theo mé biển, nên khí hậu mát mẻ và phong cảnh rất kì quan, ở đây phái đoàn được ông Hội Trưởng và Tổng Thơ Ký tiếp rước rất nồng hậu.
Đúng ngày 25-12-56, phái đoàn đều lên phi cơ để bay qua Tích Lan, phi cơ cất cánh lối 12 giờ trưa, mãi gần đến 4 giờ chiều mới đến phi trường Colombo, vì có đánh điện văn cho hay trước, nên Đ.Đ. Narada có cho hai người đem hai chiếc xe hơi ra tận phi trường để đón rước phái đoàn về chùa Vajirārāma cư ngụ, tôi và ông Công Minh thì được ở lại chùa, còn mấy bà thì được đưa đi ở nơi nhà của bà Salgado thiện tín của chùa ở gần đấy, tới đây ai nấy cũng đều mỏi mệt, nhưng cũng ráng đi chiêm bái các Phật tích trên xứ Tích Lan, rất may nhờ Đ.Đ. Narada cho hay, nên có Sư Hộ Giác đến chờ, vì Sư ở xa Colombo hơn 100 cây số ngàn, phái đoàn có mướn được một chiếc xe để đi chiêm bái trong 6 hôm các nơi Phật tích như là: Xứ Anuradhapura, chỗ con Vua A Dục đem cây bồ đề qua trồng đầu tiên hơn 2200 năm nay mà vẫn còn sống, kế viếng xứ Mahintale chỗ Đại đức Mahinda bay qua đầu tiên, đứng trên một trái núi hóa hào quang ra để độ Đức Vua Devanampatissa đặng truyền bá Phật Pháp trong toàn xứ Tích Lan, núi Sigiriya, chỗ một đền vua cất trên chót núi, xứ Polonaruwa cựu thủ đô của một vị vua hộ trì Phật Pháp, xứ Badula để viếng một ngôi chùa làm trong hang núi rất cực kỳ mỹ thuật, viếng Aloka Vihara chỗ Chư Thánh Tăng cu hội lại để Kết Tập Tam Tạng lần thứ tư, và chép kinh hữu tự ra trước hết trong lịch sử. Viếng xứ Kandy chỗ thờ răng nhọn của Đức Phật, viếng xứ Mahiyangamma chỗ Đức Phật bay qua lần đầu tiên, viếng xứ Haton để chiêm bái dấu chân Đức Phật đạp để trên chót núi Siripāda khi Ngài bay qua xứ Tích Lan lần thứ ba, còn rất nhiều chỗ Phật tích khác nữa, nhưng không có đủ thì giờ, vì còn phải ghi giấy để về Singapore nên phải trờ về Colombo, trong kỳ đi chiêm bái này rất vui vẻ và thú vị lắm, vì có Sư Hộ Giác và một nhà Sư Nhật cùng đi theo, riêng phần ông Công Minh không được hưởng chung hạnh phước này, vì ông than mỏi mệt và đau chân, phần thì gần hết tiền, lại than van ăn ka-ri hoài đứt ruột không chịu nổỉ, nên ông ở lại chùa để ăn cơm Tàu cho tiện.
Qua đến ngày 7-1-1957 mới có chuyến phi cơ bay qua Singapore của hãng hàng không B.O.A.C, riêng phần bà Diệp Xung người Tàu nên giấy tờ rất khó khăn lắm, không thể đi về bằng phi cơ được, nên bà phải về bằng tàu thủy đến Saigon một mình, mấy ngày sau thành ra phái đoàn buộc lòng phải từ giã bà để lên phi cơ về trước với tấm lòng ngùi ngùi vì bỏ bà ở lại đi tàu một mình.
Sáng ngày 7-1-1957 thì phái đoàn phải ra phi trường Talamana để lên phi cơ của hãng hàng không B.O.A.C của Anh, đúng 7 giờ 30 thì phi cơ cất cánh bay qua Ấn Độ Dương, mãi cho đến chiều 6 giờ 30 mới đến phi trường Singapore nhờ có gởi thơ cho hay trước nên có nhân viên Sứ quán V.N. tại Tân-Gia-Ba ra đón rước và lo giấy tờ giùm, xong lại được đưa về nhà khách sạn của hãng hàng không an nghỉ. Còn phần tôi thì được đưa về chùa Sirilanka do một nhà sư Tích Lan cai quản, nhà sư này cũng là bạn thân đã quen biết với tôi từ lâu nên khi gặp nhau thì hết sức vui mừng, vì đi qua Singapore chỉ lưu trú tạm nên không được ở lâu, nhưng rất may nhờ có Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương hay tôi đến nên sáng ra đã đến thăm và sắp đặt một chiếc xe sẵn sàng để đưa phái đoàn đi viếng tỉnh thành Singapore và các chùa chiền trong xứ, châu thành này dân số lối 1 triệu rưỡi, phần đông toàn là người Huê kiều, chiếm hầu hết các phần thương mãi trong đô thị. Tại đây đồ hàng hóa rất rẻ vì không có đánh thuế nhập cảng, châu thành thì đóng theo dọc bờ biển nên rất mát mẻ, sạch sẽ và thẩm mỹ.
Sau khi đi chiêm bái khắp châu thành thì tôi được thỉnh về thọ trai tại chùa Sirilanka, thọ trai xong lại phải đưa ra phi trường liền cho kịp giờ lên phi cơ, đúng 12 giờ 30 thì phi cơ cất cánh, theo đường cũng không có chi lạ, khi phi cơ bay qua vừa khỏi biển đến đất liền thì còi báo hiệu phải thắt dây đai, vì phi cơ sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất lối 3 giờ 30 chiều ngày 8-1-1957, khi lo giấy tờ xong đã có ông Nguyễn Văn Hiểu và bà ra trước đón rước, nên được đưa về chùa Kỳ Viên trong lúc 4 giờ. Tại chùa đã có chư thiện nam tín nữ chực sẵn đầy chùa để chào mừng phái đoàn trở về được bình an.
Tóm luận, kỳ Hội nghị này hết sức long trọng vì Chánh phủ Ấn xuất ra một số tiền rất nhiều, lối 75 triệu đồng rupies (600 triệu đồng bạc xứ ta) để sửa sang đường sá cầu kỳ, cất nhà trọ, đem đèn nước đến tận nơi, các xứ có Phật tích cho người đến chiêm bái dễ dàng, thuận tiện, và có mỹ ý để phục hưng lại nền Phật giáo trên đất Ấn. Tất cả phái đoàn lại được Chánh phủ Ấn Độ tặng cho mỗi vị một biểu hiệu bằng bạc của cuộc lễ, một cuốn album, một khuôn tháp bằng đồng đen kiến trúc nhái theo kiểu tháp Sanchi và rất nhiều sách để làm kỉ niệm.
Bài Phúc Trình Của Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn Trưởng Phái Đoàn Phật giáo VN
Dự Lễ 2500 Năm Kỷ Nguyên Phật giáo Tại Phnompenh – Cao MiênTừ Ngày 11-5-1957 Đến 18-5-1957
Ngày 9-5-1957 có lệnh của phủ Tổng Thống phái tôi làm trưởng phái đoàn Phật giáo và Thượng Tọa Thích Trí Thủ phái viên cùng ông Trần Thành Hiệp làm thơ ký để dự lễ 2.500 kỷ nguyên Phật giáo tại Phnompenh Cao Miên.
Vì ông thầy tế độ tôi tịch nên tôi đã về Phnompenh trước mấy hôm. Tôi phải đến tòa đại diện Chánh phủ V.N.C.H. tại Phnompenh lãnh nhiệm vụ lệnh ngày 11-5-1957, còn Thượng Tọa Thích Trí Thủ vì lý do sức khỏe nên không đến dự được. Chánh phủ phái Đ.Đ. Hộ Giác thay thế, còn ông Trần Thành Hiệp thì cũng vắng mặt luôn thành ra phái đoàn V.N. chỉ có tôi và Sư Hộ Giác mà thôi.
Lúc 4 giờ chiều hôm ấy lại được thiệp của Đức Vua Cao Miên mời tất cả phái đoàn trên thế giới vào triều đình để Ngài chào mừng và yết kiến Ngài. Phái đoàn V.N. được sắp ngồi nơi hàng ghế danh dự trước mặt Đức Vua và Hoàng Hậu, Đức Vua bắt đầu chúc mừng cho tất cả các phái đoàn, đại khái Ngài nói rằng: Với danh nghĩa của Quốc Vương và luôn cho cả dân tộc Cao Miên, xin cầu chúc cho tất cả phái đoàn đều được dễ dàng trong mọi tiện nghi và yên vui trong khi lưu trú trên lãnh thổ của Ngài. Ngài nói bằng tiếng Cao Miên do thái tử Sihanouk thông dịch lại bằng tiếng Anh và Pháp, kế đó các phái đoàn đều được phép đáp lời lại để phúc chúc Ngài tùy theo phái đoàn nào muốn nói. Trước hết phái đoàn Úc châu chúc mừng cho Ngài xong thì phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn liên tiếp chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu bằng tiếng Anh, đại khái nói rằng: Xin thay mặt cho Phật giáo V.N. và toàn thể Phật tử cầu cho Đức Vua và Hoàng Hậu và luôn cả dân tộc Cao Miên đều được yên vui khỏe mạnh để hộ trì Phật Pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi thái tử Sihanouk thông dịch xong thì Đức Vua đáp từ lại bằng tiếng Cao Miên, tôi liền trả lời lại bằng tiếng Cao Miên Sadhu, Đức Vua và Hoàng Hậu hết sức ngạc nhiên hỏi tôi biết tiếng Cao Miên sao? Tôi trả lời rằng tôi biết tiếng Cao Miên rành vì trước kia tôi có tùng sự với Chánh phủ bảo hộ Pháp hơn 10 năm tại Kim Biên. Đức Vua và Hoàng Hậu rất mừng rỡ và nói rằng chúng tôi không dè nước V.N. cũng có Phật giáo Nguyên Thủy như chúng tôi. Rồi Đức Vua xin thành tâm cầu chúc cho quí Ngài được khỏe mạnh vẹn toàn để truyền bá chánh giáo của Đức Thế Tôn trên lãnh thổ V.N. Kể từ đó về sau mỗi khi trò chuyện thì dùng tiếng Cao Miên theo Hoàng phái, khi các phái đoàn chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu xong rồi giải tán.
Tất cả phái đoàn đều được đưa về một biệt thự mới cất tinh xảo để trú ngụ, riêng phần phái đoàn V.N. đều là các nhà Sư nên ở nơi ấy bất tiện vì phải chung chạ cả nam lẫn nữ, nên chúng tôi xin về ở chùa Mohamontrey cho thanh tịnh. Chánh phủ Cao Miên cũng ưng thuận và có cấp cho chúng tôi một chiếc xe hơi để tùy nghi sử dụng, cho một ông thiếu úy để hầu cận, một người hạ sĩ quan và một chiếc xe moto có còi để hộ tống chúng tôi trong khi đi dự lễ.
Sáng ngày 12-5-1957 là ngày khai mạc cuộc lễ phải cung nghinh Ngọc Xá Lỵ Đức Phật Tổ từ đền Vua đến an vị nơi chỗ hành lễ (trước nhà gare xe lửa). Trước hết Đức Vua Cao Miên lên diễn đàn đọc diễn văn khai mạc xong, thì kế Đức Vua Sãi cũng đọc một bài diễn từ ý nghĩa nói về cuộc lễ kỷ niệm 2500 kỷ nguyên Phật giáo vừa xong thì hết buổi sáng. Đến chiều thì có cuộc lễ xuất gia cho 2.500 vị Tỳ Khưu và những người thọ trì thập giới được lịnh mời đến nơi hành lễ để Đức Vua Sãi ban huấn từ dạy dỗ theo phận sự trong Phật giáo, xong thì tất cả những vị ấy được dâng những lễ vật của tín thí đem đến cúng dường. Đến tối thì có thuyết pháp, dưng cộ về sự tích của Đức Phật, đốt pháo bông và tiếp tục luôn những cuộc diễn hành khác để giúp vui trong cuộc lễ.
Sáng ngày thứ hai 13-5-1957 nhằm ngày rằm tháng Vesakha (tháng tư âm lịch) chính ngày lễ Tam hợp là Phật Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn, nên cuộc lễ cử hành suốt ngày và đêm càng thêm long trọng hơn hôm trước vì người đến xem lễ có trên 400.000, nào những lá cờ bay phất phới trên các dinh thự phố xá, những tiếng còi xe lẫn với tiếng người và tiếng truyền thanh kêu la inh ỏi làm cho một quang cảnh hết sức tưng bừng náo nhiệt luôn như thế trong cả 7 ngày lễ.
Mỗi buổi sáng lối 9 giờ đều có cuộc lễ để bát cho 2.500 vị Tỳ Khưu do tín đồ các nơi đem đến cúng dường. Sáng hôm rằm có cuộc lễ truyền giới “bát quan trai” cho tất cả thiện nam tín nữ trên khắp lãnh thổ Cao Miên bằng đài phát thanh, xong đúng 8 giờ tất cả các phái đoàn trên thế giới có Đức Vua Cao Miên và Hoàng Hậu cùng tất cả những quần thần trong triều đình và nhân vật quan trọng trong Chánh phủ Cao Miên đều có mặt tại khán đài. Khán đài này chia làm hai bên, bên tả là người thế, bên hữu chư Tăng, ở chính giữa thì một cái đài thật cao tạm tôn trí Ngọc Xá Lỵ trong khi hành lễ.
Hôm ấy, thái tử Sihanouk kiêm Thủ tướng lên đọc diễn văn để khai lễ, xong thì lần lượt tất cả 15 phái đoàn đến dự đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, vì sắp theo thứ tự của mẫu âm nên phái đoàn Australie Úc châu được lên phát biểu ý kiến trước nhứt, kế Miến Điện, Tích Lan, Tàu, Nhựt, Anh, Ấn Độ, Pháp, Lào, Mã Lai, Việt Nam miền Bắc, Việt Nam miền Nam, Thái Lan, Nga và Hoa Kỳ. Đại ý trong các bài diễn văn cũng không chi lạ hơn là cầu chúc cho cuộc lễ được thành tựu mỹ mãn và sẽ đem lại nhiều điều hạnh phúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu luôn cả dân tộc Cao Miên cũng như tất cả nhân loại trên thế giới. Các phái đoàn thì phát biểu ý kiến bằng tiếng Anh, Pháp, hoặc tiếng bổn quốc của mình, duy có phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) lãnh đạo lên đọc ba thứ tiếng là Việt, Cao Miên và Anh làm cho các phái đoàn hết sức hoan nghinh và chú ý, riêng về dân tộc Cao Miên thì lấy làm thỏa thích lắm, vì tôi nói tiếng họ một cách lưu loát và rõ rệt.
Chiều lại lối 4 giờ thì tất cả các đại diện của các Hội Phật giáo đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, tôi liền phái Sư Hộ Giác thay mặt cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N. lên phát biểu ý kiến bằng hai thứ tiếng Miên và Việt, sau cùng bài diễn văn có tuyên bố cúng vào cuộc lễ 25.000$ do tín đồ chùa Kỳ Viên Saigon, tín đồ việt kiều Phnompenh góp sức, nên rất được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Tối hôm ấy, cuộc lễ tiến hành luôn cho đến sáng, nào tụng kinh đọc kệ thuyết Pháp đúng 5 giờ sáng thì đốt pháo bông tượng trưng hình ảnh Đức Phật hóa hào quang ra sáu màu ở trên hư không để làm tiêu biểu khi Đức Phật thành đạo trong lúc rạng đông.
Sáng ngày 14-5-1957 sau khi điểm tâm xong thì tất cả các phái đoàn trên 40 người được Chánh phủ Cao Miên sắp đặt đưa đi viếng Đế Thiên Đế Thích ở Siêm-Réap bằng hai chiếc phi cơ, lối 10 giờ thì phi cơ đến phi trường Siêm-Réap, tại nơi đây đã có ban Tổ chức địa phương chực hờ sẵn để rước phái đoàn về cư trú nơi Grand Hotel, còn các nhà Sư thì được đưa đi cư ngụ riêng nơi một biệt thự, trong hai ngày ban Tổ chức đưa đi xem các kỳ quan thắng cảnh. Các phái đoàn chưa từng đến Angkor Wat thì đều tấm tắc khen ngợi cho là một kỳ quan vĩ đại, còn riêng phần tôi thì đền Angkor không lấy gì làm lạ vì tôi đã có viếng nhiều lần…
Sau hai ngày đi du lịch nơi đền Angkor đến sáng ngày 16-5-1957, lối 9 giờ thì tất cả các phái đoàn được đưa lên phi cơ để trở về Phnompenh. Tối hôm ấy có lịnh của Đức Vua cho mời các vị trưởng phái đoàn vào cung để dự yến, theo lẽ thì tôi không nên đi vì buổi chiều không có ăn uống chi được, nhưng vì nhân danh cho một phái đoàn, buộc lòng tôi phải vào cung cho có mặt vì không có ai thay thế, nên tôi phải thân hành đến nơi để cầu chúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu được quý thể an khương và để hộ trì Phật pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi tôi vào đến nơi thì Đức Vua và Hoàng Hậu đều đứng dậy chấp tay vái chào rất cung kính và mời ngồi nơi ghế của Thủ Tướng bên cạnh Ngài để hàn huyên chuyện vãn. Ngài hỏi thăm việc truyền bá Phật giáo trên đất nước V.N., sau cùng Ngài nhân danh Chánh phủ Cao Miên và cho tất cả dân tộc Ngài để cầu chúc cho tôi và cả dân tộc V.N. đều được luôn luôn khỏe mạnh để thực hành theo giáo pháp của Đức Thế Tôn cho được mau đến nơi giải thoát. Sau khi dùng nước giải lao xong thì tôi đứng dậy kiếu từ Ngài và Hoàng Hậu để trở về chùa.
Hôm sau, 17-5-1957 lối 8 giờ sáng thì các phái đoàn đều được mời đến dự lễ Vua cày ruộng, khi cuộc lễ khởi hành thì có một vị quan và một cung phi thay thế cho Đức Vua và Hoàng Hậu ra cầm cày đi ba vòng. Cuộc lễ này có ba cặp bò trang sức rất uy nghiêm. Vua cầm cày đi trước, theo sau là Hoàng Hậu hốt lúa rải theo trong ba vòng mới thả bò ra cho ăn đồ để trong bảy cái mâm là: cỏ, lúa, bắp, đậu, mè, nước và rượu. Chỉ có hai con bò được thả cho ăn, nhưng con nào ăn trước món nào, thì tùy theo đó mà bàn theo cổ truyền của Bà-la-môn, nếu con bò ăn cỏ thì trong năm ấy súc vật có nhiều bịnh dịch, như ăn lúa thì lúa trúng mùa, ăn bắp, đậu mè thì các món ấy được dồi dào, còn như uống nước thì sẽ có mưa nhiều và bị nước lụt, còn như uống rượu thì trong nước sẽ có nổi loạn, hoặc bị trộm cướp. Nhưng năm thì bò ăn đậu và bắp mà thôi, nên ai nấy cũng bàn năm nay hai thứ ấy sẽ trúng mùa nhiều hơn hết. Khi đúng 11 giờ là xong cuộc lễ “Cày Ruộng”. Chiều lại thì dự lễ phóng xả tội nhân, đến tối lúc 8 giờ lại phải vào dinh Thủ Tướng để dự bữa tiệc của Ngài thết đãi để tiễn hành các phái đoàn. Tôi không ăn uống chi nhưng cũng phải vào dinh Ngài. Khi tôi và Sư Hộ Giác đến thì Thủ tướng Sihanouk đứng dậy chấp tay vái chào chúng tôi và thỉnh chúng tôi ngồi vào chỗ Ngài ngự, còn Ngài thì ngồi ghế gần bên cạnh để hầu chuyện. Vì Ngài đã có xuất gia nên rất cung kính chư Tăng, Ngài rất vui vẻ ân cần hỏi thăm điều nọ lẽ kia, vì chúng tôi nói toàn là tiếng Cao Miên (theo tiếng cả nhà vua) nên Ngài thích lắm. Sau khi chúng tôi độ nước giải lao xong, đứng dậy nhân danh cho V.N. cầu cho Ngài và cho nước Cao Miên được thái bình thạnh trị. Ngài nhân danh cho Chánh phủ và dân tộc Cao Miên ngỏ lời cám ơn Chánh phủ V.N. đã phái quí Ngài đến dự lễ và cũng cầu chúc cho chúng tôi được đầy đủ sức khỏe để truyền bá chánh giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sáng ngày 18-5-1957, lối 8 giờ thì phải đến dự lễ Đức Vua an vị Ngọc Xá Lị vĩnh viễn trên một bảo tháp đã cất xong gần trước nhà gare Phnompenh. Chiều lại dự lễ thuyết pháp Kết Tập Tam Tạng, xong thì Thái Tử Sihanouk lên đài phát thanh đọc diễn văn để bế mạc cuộc lễ vào lối 5 giờ. Đồng thời có còi báo hiệu và bắn luôn 25 tiếng súng đồng để công bố lên cho quần chúng biết cuộc lễ đã bế mạc.
Tóm luận, trong cuộc lễ kỉ niệm 2.500 năm Phật giáo tại Cao Miên hết sức long trọng không thể nào mô tả cho hết được. Những chi tiết về phái đoàn V.N. đã thâu thập được nhiều kết quả vẻ vang, như hôm ngày khai mạc, được Đức Vua Sãi tuyển lựa bốn vị cao Tăng để biếu lễ vật là một pho tượng Phật đá cẩm thạch và một bộ tam y, trong ấy nước V.N. cũng được lãnh một phần danh dự và hôm ngày bế mạc cũng được tặng cho một pho tượng bằng bạc, hơn nữa rất được Đức Vua và các quan triều thần kính nể, nhứt là gây nhiều cảm tình thân mật giữa hai quốc gia Miên-Việt.
Sau khi bế mạc còn có ít phận sự phải lo xong cho nên mãi đến ngày 21-5-1957, mới đáp phi cơ của hãng hàng không Việt Nam về xứ.
Dự Hội Nghị Quốc Tế Về Lịch Sử Tôn Giáo Lần Thứ IX Tại Tokyo Ngày 27-8-1958 Đến 9-9-1958
Ngày 19-7-1958, chúng tôi được lịnh bộ Ngoại Giao Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép sang Đông Kinh (Nhựt Bổn) để dự Hội nghị Quốc Tế về lịch sử Tôn Giáo lần thứ IX, cùng đi theo có ông Ngô Ngọc Cửu làm thơ ký.
Sau khi lo những giấy tờ thường lệ xong, đến ngày 9-8-1958 chúng tôi xuống tàu Cambodge của hãng hàng hải Messageries Maritimes Saigon lối 4 giờ chiều, có chư Đại đức trong ban Chưởng Quản GHTGNTVN và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiễn đưa chúng tôi xuống tàu. Nhưng mãi 8 giờ sáng hôm sau tàu mới nhổ neo, đúng giờ tàu từ từ rời bến, tôi đứng trên boong tàu trông xuống không thấy một người quen nào, cảnh bến tàu cũng không náo nhiệt như buổi chiều hôm qua, ngoài những nhân viên của hãng hàng hải Messageries Maritimes và các công chức của sở Thương Khẩu thì bến tàu vắng hoe. Tôi vẫn đứng xem phong cảnh nước nhà dọc theo những khúc quanh quẹo con sông Saigon, lối 11 giờ trưa thì tàu ra đến Vũng Tàu, chiếc tàu Cambodge vẫn vô tình lướt sóng trực chỉ thẳng Hải Cảng Manila (Phi-Luật-Tân), bây giờ tàu lần lần ra bể khơi và không còn thấy tâm dạng chi của bờ bến cả, giữa một vùng nước xanh rì mịt mù khơi trong cõi xa xăm, dưới một bầu trời quang đãng.
Ngoài tôi và ông Cửu ra, không có một hành khách Việt Nam nào, toàn là những du khách ngoại bang, chuyến này tàu chở lối 600 hành khách, mãi đang ngắm cảnh thình lình có còi báo hiệu cho biết đã đến giờ ăn (11 giờ 15) tôi và ông Cửu xuống phòng ăn, xong về phòng an nghỉ, trong phòng có đủ các tiện nghi nào điện thoại, máy lạnh, máy nóng, phòng tắm, phòng rửa mặt v.v… Theo lệ, 4 giờ chiều thì hãng tàu cho hành khách uống trà, đồng thời hôm ấy còi báo hiệu cho biết tất cả hành khách đều phải mang “phao hộ thân” theo (Sauvetàge) lên trên boong tàu của mỗi hạng để cho vị thuyền trưởng tập dượt và điều khiển vì hôm ấy có hơi sóng gió. Trong lúc tàu chạy, ngoài ra trời, nước, sóng, gió và tiếng ì ầm của động cơ thì cũng không có chi lạ, tôi nhân dịp ấy ráng làm xong hai bài diễn từ để đọc trong khi Hội nghị, xong việc trong lúc nhàn rỗi, tôi vì tánh xã giao mới làm quen với ông Saddier đại úy làm bác sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes, vì ông hay đi tới đi lui trên boong để xem hành khách có bịnh hoạn chi, nhân tiện để hỏi thăm về sự hoạt động của chiếc tàu Cambodge.
Ông thuật lại với tôi tàu này có đến 188 người làm công từ quan tàu cho đến thủy thủ, tổn phí lối một triệu đồng quan mỗi ngày, bề dài 168 thước, bề ngang 18 thước, bề sâu từ mặt nước lên đến chót cột buồm 32 thước, từ mặt nước trở xuống 7 thước 25, cả thảy lối 40 thước, có 7 từng từ A đến G, ở dưới đáy chở hàng hóa, từng ba A thì chở hành khách, hạng tư và hạng ba, từng B phòng ăn hạng nhứt và hạng nhì, phòng nấu ăn và phòng giải trí, giải lao cho hạng di lịch từng C thuộc về hạng du lịch, hạng nhì, phòng nhân viên cao cấp như cò tàu, bác sĩ v.v… và cũng có ít phòng cho hạng nhứt. Từng D toàn là phòng hạng nhứt, từng E phòng đọc sách, khiêu vũ, phòng viết thư, phòng giải khát, sân đánh Ping-pong, thảy banh tròn và hồ tắm của hạng nhứt, từng F có phòng vô tuyến điện, phòng nhân viên coi lái tàu và phòng giải trí trẻ con, từng G những máy móc để chỉ huy tàu chạy hoặc khi cập bến, máy Radas để coi chừng đá ngầm dưới nước, hoặc tàu bè phía trước trong lúc sa mù, ống viễn thị và những hiệu lệnh của hoa tiêu, tốc độ trung bình khoảng 40 cây số 1 giờ.
Ngoài ra, khi ông rảnh còn hỏi thăm về giáo lý của Bắc Tông và Nam Tông, vì ngoài giờ nghỉ trưa ra tôi lên phòng đọc sách cho khỏi chóng mặt và tiêu khiển thì giờ nên ông thường hay đến bàn luận về triết lý, có khi ông thỉnh tôi về phòng ông để giải lao, ngoài ra còn có hai ông bà René Sutra, bác sĩ khoa học và vật lý học ở tại Paris cùng đi một chuyến tàu, hai ông bà không theo đạo nào cả, nhiều khi thấy tôi ngồi yên lặng trên boong tàu nhìn ra biển khơi, ông bà lại gần xin lỗi hỏi thăm, sau khi được biết tôi đi dự Hội nghị Tôn Giáo Thế giới nên từ đó ông bà luôn luôn hay lại hỏi thăm về đạo lý của Phật giáo, vì ông bà đã có từng đi du lịch các nước Phật giáo Nam Tông. Ông bà nói chúng tôi không theo đạo nào, nhưng chúng tôi khảo cứu các nguồn tôn giáo, riêng chúng tôi thích nhất chủ nghĩa Phật giáo vì có tánh ôn hòa, từ bi, bác ái và rộng lượng khoan hồng hơn các tôn giáo khác. Màn đàm luận cho tiêu khiển thì giờ, mãi cho đến ngày 12-8-1958 lúc hơn 10 giờ sáng thì tàu mới cập bến Hải cảng Manila (Phi-Luật-Tân), mọi người đều được phép lên bờ giải trí, chỉ có tôi và ông Cửu không được phép lên bờ, vì trong Passe-Port không có để cho vào xứ ấy, tuy nhiên tôi cũng không chịu thua họ, tôi bèn gọi điện thoại cho Sứ quán V.N. tại Manila đến lãnh giùm, nhờ sự can thiệp của Sứ quán mà trong nửa giờ sau có xe của Sứ quán đến rước chúng tôi lên bờ đến viếng thăm Sứ quán, sau câu chuyện hàn huyên Sứ quán có đưa xe cho chúng tôi đi viếng thủ đô Manila gần 3 tiếng đồng hồ mới đưa chúng tôi xuống tàu, vì tàu sắp nhổ neo trong lúc 7 giờ tối. Nhưng còn nhiều việc trễ nãi, nên mãi đến 10 giờ đêm tàu mới nhổ neo trực chỉ thẳng đến Hông Kông, tàu chạy hơn 2 ngày 2 đêm mới đến hải cảng Hồng Kông vào lúc 9 giờ sáng ngày 14-8-1958. Hải cảng này rất dễ mỗi hành khách đi thông qua đều được phép lên bờ để viếng cảnh nên chúng tôi không có làm rộn đến Sứ quán chỉ có gọi điện thoại cho hay vậy thôi, vì tàu cập bến không lâu nên không có đến viếng Sứ quán chỉ lên bờ để viếng cảnh và xả hơi, vì mấy ngày ở dưới tàu cũng có hơi chóng mặt, ở đây phần nhiều đều nói tiếng Anh và tiếng Quảng Đông, nhà cửa rất nguy nga, đồ sộ có đến 16, 17 từng nhưng vuông dài như cái hộp quẹt, đồ hàng hóa rất rẻ vì là một hải cảng tự do không có đánh thuế thương khẩu. Nên ngành thương mãi rất phồn thịnh, trên bờ thì có nhiều loại xe chuyên chở hành khách nhứt là xe ô-tô buýt 2 từng, dưới sông thì tàu bè đậu dài theo hải cảng như xuồng đi chợ tết chen lại dày đặc, hai bên thì đều là hòn đảo nên phi trường phải làm khơi ra ngoài biển, phong cảnh trông rất ngoạn mục.
Đến 7 giờ tối hôm ấy, thì tàu rời bến trực chỉ thẳng đến xứ mặt trời, lối 5 giờ chiều ngày 15-8-1958, tàu chạy ngang đảo Đài Loan (Formose) trông thấy một hòn đảo đồ sộ xanh rì ở giữa bể khơi, chung quanh bao bọc những sương mù dường như che đậy không muốn cho ai khám phá những sự bí mật của đảo ấy, tàu Cambodge vẫn ầm ầm lướt sóng cũng không để ý gì đến đảo Đài Loan.
Mãi đến 3 giờ chiều ngày 17-8-1958, tàu mới cập bến hải cảng Kobé là một hải cảng to lớn thứ nhì xứ Nhật Bản, đến đây những hành khách du lịch phần nhiều đều lên bờ, tàu đậu ở đây hơn một ngày một đêm nên chúng tôi lên bờ viếng vài ngôi chùa, mãi đến 10 giờ đêm ngày 18-8-1958 tàu mới rời hải cảng Kobé thẳng đến hải cảng Yokohama đến 3 giờ chiều ngày 19-8-1958 tàu mới đến Yokohama. Hải cảng này to lớn nhứt trong xứ Nhật Bản, tàu bè đậu dọc theo hải cảng như xuồng đi chợ tết ở xứ ta. Hổm rày cỡi thuyền quá hải chinh đông vẫn được sóng lặng, bể êm, nhưng khi tàu gần cặp bến thì liền phát dông to gió lớn, vì vậy mà tàu phải khó khăn lắm mới cặp bến xong thì đã 4 giờ chiều. Tôi ở trên boong tàu trông xuống coi có ai quen không, nhưng không thể phân biệt là ai được toàn là một làn sóng người Nhật vô số vẫy tay, giở nón ra hiệu chào người mình muốn đón rước, tôi thấy một nhóm người có hai nhà Sư Nhật cứ vẫy tay ngay tôi, tôi phỏng đoán có lẽ họ đến rước mình chăng? Nhưng sự đoán của tôi không sai, sau tàu cập bến và trình những giấy tờ thường lệ, xong chúng tôi kêu được người khuân hành lý lên bờ thì có 2 nhà Sư và 2 người thế đến vái chào và tiếp rước chúng tôi và cho biết rằng Hội đồng ban Tổ chức Khoa học có phái ông Phó Thơ ký ra đón rước chúng tôi về nhà trọ Ymca gần chỗ Hội nghị Sankeikaikan đi bộ lối 10 phút, nhà trọ này chỉ dành riêng cho người nam mà thôi, người nữ không được phép trú ngụ, có nhà trọ khác chỉ tiếp rước riêng biệt người nữ, nhà trọ này cả thảy 8 từng, trên 6 từng và dưới đất 2 từng có đến gần 700 phòng.
Đô thị Tokyo thật to lớn, dân số gần 9 triệu, chiều dài đến 60 cây số ngàn, bề rộng lối 40 cây số ngàn, đường phần nhiều không tên, nhà không số, chỉ có tên từ khu, khóm vậy thôi, phần nhiều mỗi nhà đều có máy radio và vô tuyến truyền hình còn điện thoại thì dày đặc chỗ nào cũng có, nhưng lạ một điều là không khi nào nghe tiếng ồn ào của radio như ở xứ ta. Khi họ cần họ chỉ mở vừa cho trong nhà nghe thôi ngoài đường thật sạch sẽ không thấy ai buôn gánh bán bưng, hoặc ăn uống ngoài đường như xứ ta, hoặc cãi cọ ồn ào, cũng không thấy những người hành khất đi xin ăn hoặc trẻ con chạy giỡn chơi la ó ngoài đường, mỗi người hình như đều lo phận sự riêng của mình, vẫn yên lặng mà đi, mua bán thì có giá để sẵn khỏi cần phải trả giá. Về sự chuyên chở đi lại thì rất rẻ và dễ dàng: như xe điển, xe taxi, xe autobus, xe điển chạy trên nóc nhà, xe chạy ở dưới hầm ngầm ở dưới đất, có luôn cả nhà hàng buôn bán ở dưới hầm ấy nữa, không có xe cyclo, xe gắn máy và xe đạp rất ít, thành phố to lớn như thế nhưng ít thấy có người tàn phế đi xin ăn ngoài đường, một điều lạ là không thấy người phụ nữ nào có thai đi ngoài đường bao giờ. Bổn tánh người Nhật ưa thích chưng bông vì vậy mà có lối 300 trường dạy học cách chưng bông khắp trong các tỉnh lỵ xứ Nhật, mỗi khi ra trường thi đậu thì có thể làm Giáo sư hoặc làm việc coi về cách chưng bông cho các hãng to hay công sở. Tại Tokyo có hơn 50 đại học đường còn ở Kyoto thì có lối 40 đại học đường dạy đủ các ngành kỹ nghệ, văn hóa và chuyên nghiệp, mỗi người Nhật, nam hoặc nữ cũng phải học ít lắm tới trung học vì vậy mà xứ Nhật ít có người mù chữ.
Về tôn giáo thì có nhiều phe phái khác nhau như Khổng giáo, Lão giáo, Công giáo, Phật giáo và Võ Sĩ đạo (Shintoism), đạo này thờ những tấm kiếng tròn vo như mặt trời tượng trưng cho các vị thần phò hộ trong nước cho được thái bình, họ cho rằng các vị thần này lúc còn sống thì phò vua giúp nước, khi thác thì thành thần, vì vậy mà họ rất trọng và thường đến cúng vái các đền thờ này rất tấp nập. Mỗi khi họ đến chiêm ngưỡng họ thảy vào thùng ít đồng bạc, kéo chuông nghe rôn rổn vỗ tay hai lần xong cúi mình lui ra. Còn về Phật giáo thì chia làm nhiều phái như: phái Thiên Thai, phái Shingon (Mật Tông), phái Jodo (Di Đà), phái Nichiren (trì tụng Diệu Pháp Liên Hoa kinh sẽ thành Chánh giác), phái Thiền Tông (Zen Buddhism) phái này chuyên môn về thiền định để giải thoát, vì vậy mà phái này hiện còn đương thạnh hành lắm, có nhiều chùa chiền thật to lớn, địa thế chiếm gần bằng một châu thành nhỏ, có chỗ thanh tịnh để cho nhà Sư và thiện tín riêng biệt để tham thiền, hôm ấy có các phái đoàn Thế giới đến viếng, họ lấy cây đập thử mấy người đang tham thiền nghe chan chát cho mình xem. Trong các phái to lớn này còn có rất nhiều phái nhỏ khác nữa không thể kể hết được.
Chương trình và thể thức hội nghị
Chiều ngày 27-8-1958, tất cả các đại diện trên thế giới cả thảy 32 nước đều đến trình diện lãnh hồ sơ và chương trình nghị sự. Tôi nhận thấy các nước ấy là: Úc châu, Áo, Bỉ, Canada, Miến Điện, Tích Lan, Pháp, Đức, Anh, Ấn Độ, Ý Đại Lợi, Thái Lan, Việt Nam, Do Thái, Afghanistan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Hoà Lan, Thụy sĩ, Norway, Nam Dương quần đảo, Tân-Gia-Ba, Hồng Kông, Triều tiên và Mỹ quốc, Nhật v.v…
Sáng ngày 28-8-1958, lối 9 giờ thì Hội nghị khai mạc, bắt đầu bằng một bản âm nhạc du dương, hóa dịu của tiếng đờn tranh do các phụ nữ Nhật chuyên môn biểu diễn, sau một hồi nhạc thăng trầm, xướng ngôn viên lần lượt xướng danh từ người để lên đọc diễn văn khai mạc. Hôm ấy có ông bà hoàng Mikasa em Đức Vua Thiên Hoàng làm Chủ Tọa danh dự.
Hội nghị chia ra làm 3 phần. Phần thứ nhứt chia ra 4 nhóm: nhóm A) Bàn về sự khởi thủy các tôn giáo; nhóm B) Bàn về cổ giáo; nhóm C) Bàn về sự hoạt động các tôn giáo hiện tại; nhóm D) Bàn về các vấn đề tổng quát. Phần thứ nhì, chia ra làm 2 nhóm: A) Hội họp chung tất cả các đại diện trên thế giới để bàn luận chung trong 5 phiên; B) Chia ra làm 12 vấn đề Hội nghị bàn tròn trong 3 ngày, mỗi ngày 4 vấn đề, hội viên tùy thích vấn đề nào thì vào bàn luận với phe ấy. Phần thứ ba, đi châu du các xứ như là: Nikko, Kamakura, Ise, Tenri, Nara, Tokyo và Kyoto để khảo cứu các chùa chiền về văn hóa, kỹ thuật và cổ tích.
Kỳ Hội nghị này là lần đầu tiên ở xứ Á châu, vì các kỳ trước kia đều toàn là họp ở Âu châu cả. Tuy nhiên, cuộc Hội nghị đem lại nhiều kết quả tốt đẹp là được hiểu biết lẫn nhau về tôn chỉ và giáo lý của các tôn giáo khác nhau. Sự tổ chức hết sức chu đáo như trong lúc Hội nghị bàn luận đều có tốc ký viên ghi chép, thu thanh, quay phim, nhiếp ảnh, phát thanh và vô tuyến truyền hình, mọi việc đều sẵn sàng, êm đềm hòa thuận trật tự, do nhờ sự sắp đặt khéo léo của ban Tổ chức.
Hội nghị đề xướng rằng nên khuyến khích, học hỏi, nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo Âu châu và Á châu cho hiểu biết lẫn nhau, để đánh tan sự hiểu lầm giữa người Âu và Á cho rằng: quan niệm của sự văn minh Âu châu đối với các tôn giáo hoàn toàn là vô hiệu quả. Về mặt các tôn giáo không nên giải thích và cho rằng một giáo lý hoặc một quan niệm riêng biệt của mỗi phe mỗi phái, hoặc dùng quyền lực đàn áp sự tín ngưỡng của người khác, nhưng trái lại nên cho rằng là một việc làm cho được phát triển nền đại học văn hóa của thế giới, là một đặc tính của sự tư tưởng làm cho sinh hoạt và giá trị của mỗi cá nhân và nhân loại mà thôi.
Một giải pháp về các tôn giáo, là nên thân cận và trao đổi ý kiến tốt đẹp giữa Âu-Á không về mặt chủ nghĩa giáo lý, nhưng với mục đích là khởi xướng sự hiểu biết lẫn nhau về các tôn giáo dưới hình thức văn hóa, theo sự nhu cầu của khoa học hiện đại.
Hội IAHR (The International Association for the History of Religions) khuyên tất cả các đại diện trên thế giới nên thành lập một ban IAHR địa phương, ban này khi thành lập xong nên gửi tên ngay cho tổng hội IAHR thì sẽ được tham dự làm hội viên. Các nước sau đây đã hứa sẽ lập một ban IAHR địa phương như: Ấn Độ, Nhật Bản, Ả Rập, Miến Điện, Pakistan, Triều Tiên và có thể vào để đảm nhiệm chức vụ trong T��ng Ban Chấp Hành của IAHR, nếu được đại hội đề cử và chấp thuận. Năm 1960 hội IAHR sẽ họp tại Marburg (Đức quốc) và có lẽ năm 1963 sẽ họp tại New-Delhi (Ấn Độ) nếu xứ này thành lập xong ban quản trị địa phương.
Sau khi khai mạc đến ngày thứ nhì, tới phiên phái đoàn Việt Nam do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn hướng dẫn lên đọc diễn từ nói về lịch sử Phật giáo xứ Việt Nam và một bài nói về quan niệm của Phật giáo, sau khi thuyết trình xong vị Chủ Tọa có hỏi thính giả 3 lần ai có muốn hỏi chi không, nhưng họ vẫn yên lặng vì lí lẽ trong diễn từ rõ và hợp lý nên không ai bác bẻ chi cả.
Nguyên văn bài diễn từ bằng tiếng Anh như vầy:
THE TEACHINGS OF THE BUDDHA BY NĀGA THERA (BỦU CHƠN)
In the name of Việt Nam Theravada Sangha Order, I congratulate all Brothers and Sisters coming from any continent of the world to attend this useful Symposium.
I have the honour and opportunity to speak a few world in this solemn Symposium which is very interesting to all Nations.
Whether all Religions in the world are different forms but the aims are almost similar. The Islamism has the thought of “Peace” and they adore the St.Josaphat which name is derived from Buddhist Bodhisatta. The Hinduism has the aim of “Ahimsà-Harmlessness” then they consider Buddha as their Vishnu avatāra-incarnation of Vishnu. The Protestant has the ideal of “Neighbourliness”. Rationalism considers Buddha as a Greatest Thinker. The Confusius taught: The viser has to make like a non-intelligent one, the powerful man considers himself as a weak one, the richman does not forget when he was poor. As for Buddhism is “Mettā-loving kindness”. Therefore all Religions have the similar aims e.g. friendliness, harmlessness, neighbourliness, helpfulness and loving kindness. In Pāli, the language of Buddhist ures, Mettā is known under the name of “Brahma vihāra”, this term may be rendered by: excellent lofty or sublime state of mind, or alternatively, by Brahma-like or divine Abode.
It is said to be excellent or sudlime, because it is the right, or ideal, way of conduct towards all living beings. This attitude of mind provides in fact the answer to all situations arising from social contact. It is the great remover of tension, the great peace-maker in social conflict the great healer of wounds suffered in the struggle of existence, leveller of social barriers, builder of harmonious communities, awakener, of slumbering magnanimity long forgotten reviver of joy and hope long abandoned, promoter of human brotherhood against the forces of egotism. It is incompatible with a hateful state of mind, and in that is akin to Brahma who is conceived as the hateless one, inbeneficial contrast to many other conceptions of deities, in East and West, who by their own devolees, are said to show anger, wrath, jealousy and “righteous indignations”.
He who assiduously develops this Subline state, by conduct and meditation, is said to become an equal of Brahma and if one becomes the dominant influence in his mind, he will be reborn in congenial worlds, the Realms of Brahma. Therefore this state of mind is called God-like, Brahma-like. It is called Adobe, because it should become mind’s constact dwelling place where our mind feel “at home”, it should not remain merely place of rare and short visit, soon foggotten. In the other words, our mind should become thoroughly saturated by it. Mettā should become the inseparable companion of our days, and we should be mindful of it in all our common activities as far as it has any concern with this mental attitude. As in the Mettā sutta quotes: When standing, walking, sitting, lying down; whenever he feels free of tiredness; let him establish well mindfulness; this, it is said, is the Divine Adobe.
The Doctrine of the Lord Buddha is not noly Mettā loving-kindness but there are many other ways for practising. In the Tripitaka-Three Baskets, we have 84.000 of Dhamma. But the Buddha summarizes them in one Pāli stanza thus: Sabba pāpassa akaranaṃ. Kusallass’ upasampadā. Sacitta pariyoda panaṃ. Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ. That is to avoid all bad actions to flourish all merits, to purify one heart, that are the teachings of all Buddhas.
Moreover, the foundations of Buddhism is based on Law of Cause and Effect and the Four Noble Truths. A pure Buddhist should not believe or implore to the other Powerful Gods or any Supernatural Being or even the Buddha who might give us the happiness or painfulness, pure or impure but one has to recourse to oneself, as the Buddha said: Attāhi attāno nātho, kohi nātho paro siyā- e.g. One should have to recourse oneself, not by the other’s protection. The same way, in the Catholic Bible says: As thou sowest, so thou shalt reap.
The teachings of the Buddha calls Buddhism, it is Western term The Buddha Wasa Man, Buddhist should not regarding Him as a God, do not pray to him “Dependence on the others for Salvation is negative, dependence on oneself is positive”. To depend on another is to shelve making the effort, and to lose one’s independence.
Buddha is not a name, but an appellation, meaning Englishtened One. Former Buddhas have existed in the past ages, and other Buddhas are expected in the future, the present Buddha is Gautama or Sakyamumi. All Buddhas teach the same Doctrine. Among us whether we are Buddhist or not, we should learn and practice the “Science of Life” that is we must control ourselves the deed, speech and thought, do not let them discard the wholesome volition or the other words we should follow the “Noble Eighfold Path with embodies eight principles or rules of conducts, then one can improve the happiness in this very life as well as in the future’s. The Lord Buddha had foresighted that, in the future, His disciples would mistake Him as a Redeemer of the world or a Powerful God, then they engage only in the ritual ceremony of worshiping, and they do not set forth to practising the Dhamma, in other to escape all sufferings. So He recommended to His disciples as the following Pali stanza: Tumhehi kiccaṃ ātappaṃ – Akkhātara Tathāgatā. // Patipañño pamokkhanti – Jhāyino māra bandhnā. That is, you have to practice diligently the Dhamma, all Buddhas are only showing the way, if you follow the Path that I had shown, then you will escape the ties of the Māra or difilements, so you safety reach the stage of Salvation.
All these arguments testify that Buddhism is absolute and rationalist Doctrine which is not grasping on Atheism, Heresy or others power in order to get Deliverance. I am sure that, if the moderm world tries to understand and usefulness of Buddhism which teaches the mankind to be non-violent but compassionate, then the whole world would be peaceful. Finally, I hope that this significant Symposium will bring happiness and cordiality to all Nations.
Bản dịch:
Bài diễn từ của Đại đức Bửu Chơn – Nāga Thera trong kỳ Hội Nghị Lịch Sử Tôn giáo Thế giới lần thứ chín tại Đông Kinh.
GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT
Nhơn danh cho Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, tôi xin chúc mừng tất cả các huynh đệ nam, nữ trên khắp Thế giới đến dự Hội nghị Triết học hữu ích này.
Tôi lấy làm may mắn và danh dự được phát biểu ít lời trong kỳ Hội nghị Triết học long trọng này, nó rất hữu ích cho tất cả quốc gia.
Mặc dù tất cả Tôn giáo có hình thức khác nhau nhưng tôn chỉ gần giống nhau như: Hồi giáo có quan niệm “hòa bình” và họ tôn sùng vị thánh Josephat mà danh từ này tương đồng từ nguồn gốc “Bồ đề tát đỏa” của Phật giáo, Ấn giáo có tôn chỉ là “vô hại” họ cho Đức Phật như là một hiện thân của vị thần Vishnu của họ. Tin lành giáo có quan niệm là “tương thân” hay tương trợ lẫn nhau. Hợp lý giáo hay Thuần lý giáo thì cho Đức Phật là một bậc “đại tư tưởng”, Khổng giáo thì dạy rằng: Người trí thức nên làm như người ngu muội, người có quyền thế nên tự cho mình như kẻ yếu hèn, người giàu sang không nên quên mình trong lúc hàn vi. Còn về Phật giáo thì có bản chất “từ bi, bác ái”, vì vậy mà tất cả các tôn giáo đều có tôn chỉ tương đồng là: tình huynh đệ, không hãm hại nhau, tương thân tương trợ và từ bi bác ái.
Pāli là thứ tiếng dùng trong Kinh nhà Phật, thì tiếng Metta – Bác ái còn gọi là Brahma Vihāra = Phạm hạnh, danh từ này còn có nghĩa là: vô lượng cao quí hay là trạng thái cao thượng của tinh thần hay nói một cách khác là sự ưa mến của các bực phạm hạnh hay là “nơi mà tâm các vị Thần tiên cư trú”.
Sở dĩ nói là vô lượng cao quí là vì có quan niệm hành động chân chánh đối với tất cả chúng sanh, vì trạng thái của tâm bác ái để đối phó lại hay là trả lời cho tất cả trường hợp xảy ra trong sự trực tiếp với xã hội. Chính tâm ấy rất quan trọng trong sự dứt bỏ tình trạng căng thẳng giữa đôi bên. Nó làm cho xã hội xung đột nhau được hòa bình, nó làm cho lành mạnh những vết thương đau khổ trong sự tranh đấu của đời người, nó bẻ gãy hàng rào giai cấp của xã hội, nó xây dựng một xã hội nhu hòa, nó thức tỉnh cho lòng rộng lượng đã bỏ quên từ lâu đời, khiêu gợi lại sự vui vẻ và hy vọng đã hoang phế, nó khởi xướng tình huynh đệ của nhân loại và gạt bỏ sức lực mạnh mẽ của sự ích kỷ, nó không thích hợp với trạng thái ghét vơ của tâm hồn.
Và chính tâm bác ái ấy rất thân cận với trời “Phạm Thiên” là bực không có tâm thù oán và sân hận, nó trái ngược lại với những quan niệm của các Thần Giáo khác, ở Á cũng như Âu châu, do sự sùng tín của họ mà có khi tỏ ra ganh tỵ, sân hận, giận dữ, công phẫn mà họ cho là việc làm chánh đáng. Người nào siêng năng thực hành đức tánh cao cả này bằng sự tham thiền thì người ấy trở nên đồng đẳng như trời Phạm Thiên, và nếu tâm người ấy được thấm nhuần phép thiền định về bác ái thì sau khi chết sẽ được tái sanh về cõi trời ấy, như thế nên mới gọi trạng thái của tâm này là “như Chư Thiên hoặc như Phạm Thiên”.
Còn nói về sự cư ngụ là tâm luôn luôn phải khắng khít ở trong pháp bác ái ấy cũng như chỗ ở của mình, chớ không phải chỗ mà mình chỉ đến viếng cấp thời rồi quên đi mau chóng. Nói một cách khác, là tâm của chúng ta nên luôn luôn khắng khít vào đấy. Hằng ngày lòng bác ái như người bạn không rời chúng ta và trong tất cả mọi sự hành vi luôn luôn phải chủ tâm đến nó, cho đến tất cả những sự việc nào có liên quan đến trạng thái của tâm này. Cũng như trong Kinh bác ái có giải rằng: Dù khi đi, đứng, ngồi, nằm, bất luận trong lúc nào mà không mỏi mệt thì nên cố gắng niệm lòng bác ái, như vậy nên mới gọi là “chỗ cư ngụ của Chư Thiên”.
Giáo lý của Đức Phật chẳng phải có tâm bác ái mà thôi nhưng còn rất nhiều cách thực hành khác nữa. Trong Tam Tạng còn có đến tám muôn bốn nghìn pháp môn, nhưng Đức Phật tóm lại trong bài kệ Pāli như vầy: Phải tránh xa các điều ác, nên làm các điều lành. Trau tâm cho trong sạch, đó là những lời giáo huấn của chư Phật. Hơn nữa, Phật giáo căn bản trên Lý nhân quả và Tứ diệu đế.
Người Phật tử thuần thành không nên tin tưởng và van lơn khấn vái với các thần lực hoặc một nhân vật siêu phàm xuất chúng nào, dầu cho Đức Phật, để đem lại cho ta vui hay khổ, trong sạch hay nhơ bẩn, nhưng trái lại con người phải tự nương nhờ lấy mình như Đức Phật có nói: “Tự mình hãy nương nhờ lấy mình chớ không nên nương nhờ hoặc cầu cứu nơi kẻ khác”, cũng như thế ấy trong kinh Thánh của đạo Gia-tô có nói: “Người gieo giống nào, người sẽ gặt lại giống ấy”. Đức Phật là một nhân vật như chúng ta, người Phật tử không nên coi Ngài như một vị Thần linh, không nên cầu khẩn Ngài. Trong Phật giáo không có sự nhờ người khác mà giải thoát, nhưng phải tự lực mình mới giải thoát được cho mình. Sự do nhờ nơi kẻ khác tức là làm ngăn trở sự cố gắng và làm cho ta mất sự tự lập và tự chủ.
Đức Phật không phải là một cái tên, nhưng đó chỉ là một danh từ kêu gọi vậy thôi, thật ra Phật có nghĩa là “Một đấng đã giác ngộ hay sáng suốt”. Trong thời quá khứ cũng có nhiều vị Phật và cũng sẽ có những vị Phật trong thời vị lai, còn trong hiện tại là Đức Phật Gautama hay Sakyāmuni đang giáo truyền.
Tất cả chư Phật đều giảng dạy đồng một giáo lý, chúng ta ở đây dầu là Phật tử hay không cũng nên luyện tập một “cuộc đời thanh khiết”, là chúng ta nên tự kiểm điểm mọi sự hành vi của thân, khẩu, ý đừng cho nó hoạt động ngoài phạm vi của pháp thiện, hay nói một cách khác là chúng ta nên thực hành theo “Bát chánh đạo”, con đường có 8 chi để trau dồi hạnh kiểm của mình, nếu được như vậy thì con người tự mình có thể làm cho tăng trưởng nhân vị của mình và hạnh phúc trong kiếp hiện tại và trong những kiếp vị lai.
Đức Phật Ngài đã có viễn kiến thấy rằng, trong ngày vị lai các hàng môn đệ của Ngài có thể lầm tưởng Ngài là một “Bậc Cứu Thế” hoặc là một “Vị Thần Linh”, như vậy họ chỉ chuyên cần theo nghi thức lễ bái cúng dường mà thôi chớ không quan tâm thực hiện theo giáo lý của Ngài đặng thoát khỏi sự thống khổ. Nên Ngài mới căn dặn các hàng môn đệ như vầy: “Các người hãy cố gắng thực hành theo giáo pháp, tất cả chư Phật chỉ là người chỉ đường vậy thôi, nếu các người thực hành con đường Như Lai đã chỉ thì sẽ thoát khỏi sự cột trói của Ma vương (hay là phiền não), như vậy thì các người mới đến nơi giải thoát một cách an toàn”.
Tất cả những bằng chứng đã kể trên để minh định rằng Phật giáo là một giáo lý tuyệt đối hợp lý, không cố chấp vào thần linh, tà thuyết hay do nơi năng lực của kẻ khác mà được giải thoát sự thống khổ. Tôi dám quả quyết rằng, nếu Thế giới văn minh mà khoa học này mà hiểu được sự lợi ích của Phật giáo đã giáo hóa nhân loại không có tàn ác, bạo ngược nhưng trái lại có tâm bác ái, rộng lượng, khoan dung thì Thế giới sẽ chắc chắn được hưởng sự “hòa bình”. Đến đây tôi mong ước sao cho cuộc Hội nghị “Lịch sử tôn giáo” có đầy ý nghĩa này sẽ đem lại sự hạnh phúc và tình thân ái cho nhân loại và các quốc gia.
Bài này sau lại hội đồng trong ban Tổ chức được tuyển chọn và in ra sách để gởi đi khắp các nơi trong các Đại Học Đường Nhật Bản để cho sinh viên học hỏi.
Sau khi Hội nghị xong, các phái đoàn đều được đưa đi chiêm bái và khảo cứu các xứ đã kể trên, phần nhiều chùa chiền của Phật giáo và phái Võ sĩ đạo, kiến trúc rất đẹp và nguy nga đồ sộ, các đền thờ của võ sĩ đạo thì phần nhiều lợp bằng vỏ cây theo cổ truyền, thật dày trong 20 năm mới thay lợp lại một lần. Ở trước đền khi vào ngay cửa chính thì thấy một sợi dây rơm thắt lại bằng cườm tay là tiêu biểu của sự đoàn kết về võ sĩ đạo, còn các chùa Phật giáo thì thường cất nơi thanh vắng và trên núi non.
Các phái đoàn đi chiêm bái lần lần đến xứ Kyoto một cựu thủ đô xứ Nhật đúng ngày 9-9-1958, lối 11 giờ trưa, Ban Tổ chức và các phái đoàn cu hội tại Đại Học Đường Kyoto và tuyên bố bế mạc Hội nghị nơi ấy.
Trong lúc Hội nghị có sáu bữa tiệc để thết đãi các phái đoàn, ngày thứ nhứt do ông Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học và ban Tổ chức thết đãi, ngày thứ nhì do đức Hoàng Tử Mikasa, ngày thứ ba do ông Nobusuke Kishi Thủ tướng Nhật, ngày thứ tư do ông Bộ trưởng bộ Giáo dục tổ chức, ngày thứ năm do ông Vương Ngoại xứ Tenriko, ngày bế mạc do ông Giám đốc đại học đường Kyoto thết đãi để tiễn biệt các phái đoàn Thế giới và giải tán luôn cuộc Hội nghị nơi ấy.
Trong khi lưu trú tại Đông kinh được nhiều bạn Nhật đã từng gặp trước kia tại Rangoon đến thăm, ngoài ra tòa Sứ quán Việt Nam có tổ chức một buổi tiệc để thết đãi phái đoàn trước khi về xứ. Ông bà đại sứ Bùi Văn Thinh rất ân cần khoản đãi, luôn tất cả nhân viên trong xứ quán cũng rất vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong khi hữu sự.
Tối hôm ấy phái đoàn Việt Nam phải lên tàu hỏa lúc 10 giờ đêm để trở về Tokyo cách đô thị Kyoto 600 cây số ngàn, tàu hỏa chạy suốt đêm sáng hôm sau lối 9 giờ mới về tới Tokyo, suốt ngày hôm ấy phải lo sắp đặt hành lý và đến kiếu từ Sứ quán vì sáng mai lúc 6 giờ phải ra phi trường để lên đường về xứ.
Vừa hừng sáng thì đã có xe Sứ quán đến rước chúng tôi ra phi trường và đưa chúng tôi ra tận nơi phi trường để tiễn biệt. 8 giờ 15 thì phi cơ cất cánh (lối 6 giờ sáng xứ ta) mãi đến 4 giờ chiều phi cơ mới đỗ xuống phi cảng Hồng Kông cho hành khách lên xuống độ 45 phút thì lại cất cánh trực chỉ phi trường Tân Sơn Nhứt, mãi đến 19 giờ 30 mới đến nơi cả thảy lối 13 tiếng đồng hồ, khi xuống phi cơ để về chùa thì đã có các vị Đại đức trong ban chưởng quản và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiếp rước chúng tôi một cách nồng nhiệt, sau khi mừng rỡ hàn huyên phái đoàn lên xe đưa về Kỳ Viên tự.
Trong lúc tôi Hội nghị và chiêm bái các nơi Phật tích cũng được công đức đa thiểu, vậy tôi xin hồi hướng quả phúc ấy cho tất cả bà con có lòng trong sạch hộ độ tôi đa thiểu về chi phí, do năng lực phước báu ấy xin cho tất cả bà con thiện nam tín nữ được mọi điều an vui, hạnh phúc.
Hội Nghị Lịch Sử Tôn Giáo Quốc Tế Lần Thứ XTại Marburg (Tây Đức) (11-24/9/1960)
           Cuộc hành trình
Ngày 24-8-1960 tôi được giấy bộ Nội Vụ mời tôi đến để lấy giấy tờ sang Tây Đức Hội nghị Lịch Sử Tôn Giáo lần thứ X tại Marburg-Lahn.
Sau khi lo xong giấy tờ thường lệ đến ngày 8-9-60, lúc 20 giờ, có chư Tăng và thiện tín rất đông tụ hội tại chùa Kỳ Viên tụng kinh cầu an và phúc chúc cho tôi thượng lộ bình an. Xong có hai xe tiễn đưa tôi ra phi trường: một xe chư Tăng có Sư Hộ Giác làm hướng đạo, một xe của bà Vũ Thị Kiểm đưa tôi và ít người thiện tín. Vì ban đêm vào phi trường phải xin phép nên một số chư Tăng và thiện tín đành phải ở lại, chỉ tiễn chân tôi trước chùa thôi.
Đến phi trường còn phải chờ hơn 1 tiếng đồng hồ: đến 21 giờ 30 thì phi cơ mới cất cánh. Trên hư không ban đêm khí trời lạnh nên nhân viên của hãng hàng không Air France biếu cho mỗi người một chiếc mền len và một đôi vớ mang cho đỡ lạnh. Đêm đã khuya trên phi cơ đều tắt đèn hết, chỉ chừa ánh sáng hơi lu lờ cho hành khách an nghỉ. Phần tôi không thể nào ngủ được, ngồi dựa lưng vào ghế lo nghĩ vơ vẩn đâu đâu. Vì các kỳ Hội nghị khác đều có người theo giúp đỡ, chuyến này lại không có ai, chỉ có một mình một bóng tôi mà thôi. Phần cuộc hành trình rất xa xôi trên lãnh thổ Âu châu, không phải là xứ Phật giáo, nhưng tôi cũng cứ hy sanh nhẫn nại để làm tròn xứ mạng, vì phải đương đầu với bao nhiêu sự khó khăn nên tôi nguyện đành liều cho phần phước đến đâu hay đến đó. Mảng suy nghĩ vu vơ bỗng có còi báo hiệu cho hành khách phải thắt dây đai vì phi cơ sắp đổ xuống phi trường Bangkok lúc 12 giờ đêm. Khi hành khách lên xuống xong lại cất cánh trực chỉ thẳng qua Karachi. Khi đến nơi thì trời vừa sáng, hành khách được đưa đi đến một nhà hàng để điểm tâm, xong lại cất cánh thẳng qua Teheran (Perse). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn toàn là đồng cát trắng phau phau, có chỗ thì núi non gồ ghề, chớn chở, trơ trọi, không có cây cối chi. Phi cơ bay hàng mấy tiếng đồng hồ, nhưng vì đây là một bãi sa mạc thật to của xứ Ba-tư (Perse) vậy.
Từ Teheran qua Rome (Ý Đại Lợi) phi cơ phải bay thật cao vì bị sa mù và núi non hiểm trở. Gần 8 tiếng đồng hồ phi cơ mới báo hiệu cho biết gần đến phi trường Ciampino (Rome). Ở đây thì giờ khác hơn bên ta 6 tiếng đồng hồ, nên khi đến nơi thì trời vừa tối. Có xe của hãng hàng không đưa về Hotel, nghỉ tạm chờ chuyến phi cơ ngày mai mới đi qua Frankfurt (Đức). Hôm ấy cùng đi một chuyến có ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn đi dự Hội nghị giáo huấn ở Rome, cùng ở chung một Hotel, nên dùng điện thoại chuyện vãn với nhau cho đỡ buồn. Tôi cũng có gọi điện thoại cho Sứ quán Việt Nam tại Rome để báo tin cho hay. Tình cờ lại gặp ông Đỗ Văn Minh đang làm việc cho Sứ quán tại Rome. Vì trước đây 2 năm, tôi cũng đi dự Hội nghị IAHR tại Đông kinh (Tokyo) cũng gặp ông đang tùng sự nơi ấy. Ông rất mừng và yêu cầu tôi có cần chi đến ông thì ông sẵn sàng giúp đỡ. Tôi cho hay rằng ngày mai lối 17 giờ 30, tôi phải lên phi cơ nên không có cần chi. Nhưng ông cũng không chịu làm ngơ, ông mua đủ thứ trái cây, sai tài xế đem đến biếu tôi. Vì đã quá ngọ nên tôi tạm lãnh và cho luôn ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn.
Đúng 17 giờ thì có xe Sứ quán V.N. đến đưa tôi ra phi trường cách đô thị lối 15 cây số ngàn. Phi cảng này thật to rộng khi đến thì ở một nơi, khi đi thì ở một chỗ khác nữa, cách nhau độ 3 cây số, đâu mặt lại với nhau. Theo luật Chánh phủ Ý thì mỗi hành khách khi đi phải đóng một số tiền là 700 lires, lối 50$ xứ ta. Mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo cho cả. Phi cơ này của hãng hàng không Lufthansa của Đức, chở lối 100 hành khách bay trên 2 tiếng đồng hồ mới đến phi trường Frankfurt (Tây Đức). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn là tuyết trắng xóa, bao phủ những dãy núi cao chớn chở. Khí trời ở đây lạnh lắm, lối 17-18 độ, ban đêm có khi 10-11 độ hoặc 12-13 độ là cùng. Khi phi cơ báo hiệu cho biết gần đến phi trường thì hơn 8 giờ. Các phi trường Âu châu rất dễ, không cần biên giấy kê khai hoặc thẻ kiểm điểm chi cả. Khi đến nơi, họ chỉ hỏi giấy thông hành, xem xong họ đóng dấu rồi đưa lại và cám ơn mình nữa. Còn về quan thuế, thì họ hỏi mình có chi kê khai không như rượu mạnh, thuốc điếu, dầu thơm… Khi mình nói không có chi khai, thì họ đóng dấu và cho đi liền.
Trước khi đó một giờ có Sứ quán V.N. ra đón rước, nhưng khi hỏi chuyến phi cơ từ Saigon qua thẳng Frankfurt thì hãng hàng không trả lời không có người V.N. nào qua cả. Vì tôi có gởi thơ cho hay trước sẽ đi qua chuyến đó, nhưng không có chỗ nên đi vòng qua Rome thành ra cuộc tiếp rước mới sai như vậy. Nhưng cũng may có người cùng đi Hội nghị đưa tôi lên tàu hỏa tốc hành lên Marburg, chỗ Hội nghị cách đó 100 cây số ngàn. Khi tàu hỏa đến nơi thì đã có Ủy ban Tổ chức họ chực sẵn để tiếp rước các phái đoàn đưa về nhà trọ. Tôi được đưa về nhà trọ một biệt thự của Giáo sư Dr. Seidelmann cùng với hai người đại diện Thụy Điển: một ông kỹ sư khoáng vật và một ông cử nhân thần học, cùng ở chung nhau mỗi người một phòng. Lúc bấy giờ đã hơn 10 giờ đêm, phần thì đi đường mệt nhọc nên phải nghỉ sớm cho có sức khỏe để mai bắt đầu Hội nghị.
Sáng ngày 11-9-1960, khi điểm tâm xong, tôi cùng hai ông Thụy Điển đi đến chỗ Hội nghị. Chỗ này ở trên một chót đồi, có hai vật cổ truyền là một nhà thờ Thiên Chúa giáo đã xây dựng từ năm 1235-1335 do nữ hoàng Elisabeth và được tu bổ phục hưng lại năm 1470, và một trường đại học thành lập từ năm 1527 hiện giờ có luôn luôn lối 6.000 học sanh đến học đủ các ngành và các khoa đại học.
#ducphap #TyKhuuBuuChon #thienphatgiao #thiensu #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
from Theravada https://theravadavn.tumblr.com/post/622863159261347840
0 notes
theravadavn · 4 years
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Tumblr media
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
 Kính bút
 Nāga Mahā Thera – Tỳ Khưu Bửu Chơn
 Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
 Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
 Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
 Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
 Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
         Nhựt kí của phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy
Khởi hành ngày 14-5-1954: Phái đoàn PGNT (Chùa Kỳ Viên) gồm có: Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn, Đ.Đ. Buddhapala (Hộ Giác), Ô. Nguyễn Văn Hiểu thơ ký, Nguyễn Văn Mẫn, B. Huỳnh Thị Kỷ, Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Có, Kiều Thị Giàu, và Ni cô Trần Thị Thọ đã đáp phi cơ hãng Thái-Airway lúc 13 giờ 45, ngày 14-5-1954, trực chỉ Miến Điện, để dự Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu tại Rangoon.
Có nhiều người đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tiễn đưa rất đông đầy: Đ.Đ. Tối Thắng dẫn đầu Bổn đạo chùa Kỳ Viên, Đ.Đ. Trụ trì, chư Tăng và Bổn đạo chùa Chantaransey, Đ.Đ. Trụ trì và Bổn đạo chùa Huê Lâm, ông Jethmal và nhiều thân bằng quyến thuộc của các nhân viên trong phái đoàn.
Đúng 14 giờ 40, khi máy bay đáp xuống phi trường Nam-Vian, đã có chư Tăng Miến, Việt và toàn thể thiện tín việt kiều trực tiếp rước vào nhà hàng thết đãi nước cam và ân cần cầu chúc cho cuộc hành trình của phái đoàn V.N. sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho nền Phật giáo nước nhà.
Sau khi rước thêm hành khách, máy bay từ giã phi trường Ponchentong, lúc 15 giờ 30, qua hai giờ sau đã đến phi trường Donmuong, cách xa kinh đô Bangkok 28 cây số ngàn.
Nơi đây có hai vị đại diện Sứ quán Việt Nam là quí ông Nguyễn Duy Liển, Cố vấn tòa Đại sứ, và Nguyễn Khoa Phòn vừa là thơ ký và con của cụ Sứ Thần chực đón phái đoàn với hai cỗ xe Sứ quán.
Quê người xứ lạ, nếu không có hai vị kiều bào này lo giùm giấy tờ và rước về an nghỉ tại Sứ quán V.N., thì mặc dầu có Đ.Đ. Bửu Chơn thông thạo tiếng Anh, tiếng Thái cũng phải mất thì giờ chờ đợi và bối rối về chỗ tạm nghỉ.
Khi đến Sứ quán mới hay rằng cụ Nguyễn Khoa Toàn, Sứ thần V.N. tại Bangkok, và phu nhân đã đáp phi cơ về Saigon sớm mai. Nhưng ở nhà có bà Phòn dâu thứ năm của cụ, lo bữa ăn và chỗ ngủ chu đáo. Bà là người quê quán ở Saigon, khi gặp đồng bào từ quê nhà đến, bà tuy tuổi độ chừng 20 xuân, mà rất lịch duyệt, niềm nở tiếp đãi, chuyện trò mật thiết, nhất là đối với năm bà tín nữ.
Ngày 15-5-1954, sáng sớm bà đã lo sẵn đồ điểm tâm mời hai Đại đức và thiện nam, tín nữ xuống phòng ăn, lót lòng. Còn cậu Phòn thì lo sắp đặt đồ hành lý lên xe, chực sẵn đưa phái đoàn ra phi trường. Rồi cũng lo giấy tờ xong xuôi hết, mới kiếu từ trở về Sứ quán vận động cho Đ.Đ. Hộ Giác và ba bà tín nữ đi cho kịp chuyến máy bay sau, bởi tại Bangkok có rất nhiều phái đoàn, như phái đoàn Thái Lan và Cao Miên đã ghi tên trước chỉ còn có 5 chỗ dành cho phái đoàn V.N., trong 9 chỗ của hãng Air-Vietnam đã đánh điện xin.
Tại phi trường Don Muang, Phật tử Thái Lan tiễn đưa phái đoàn của họ rất long trọng, nào là diễn văn, tràng hoa, nhiếp ảnh và tiệc điểm tâm dâng cho chư Tăng.
Máy bay 4 động cơ, 60 chỗ ngồi, không còn một chỗ trống. Vì hành lý nhiều, phải chờ sắp đặt, nên phi cơ cất cánh đã trễ hết một giờ trong chương trình định trước.
Khởi bay từ 10 giờ 30 đến 12 giờ 30, đã tới phi trường Rangoon, cách châu thành 15 cây số ngàn.
Tại đây có Đ.Đ. Kelasa, Giám đốc Đại học đường Rangoon, đại diện cho Giáo hội Tăng già Miến Điện, quan Chưởng lý U Chan Htoon, Tổng Thơ ký Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đón rước chư Tăng được đưa về Tăng đường tại chỗ Kết Tập Tam Tạng cách xa Rangoon 12 cây số ngàn, còn thiện tín về tạm trú trong nhiều biệt thự tại trung tâm châu thành.
Tới nơi, sau khi tắm rửa, mạnh ai nấy ngủ lấy sức, tới 4 giờ chiều bị đánh thức mời đi ăn bánh và uống trà sữa. Trong khi ấy, ông Trưởng ban ‘Tiếp tân’ cho hay vị nào cần dùng tiền xài trước khi đi lãnh ngân phiếu, muốn bao nhiêu ông sẵn lòng cho mượn và cho biết từ khi đến tới ngày về, các khách ngoại quốc được nuôi ăn ở khỏi phải tốn tiền.
Ngày 16-5-1964, người Việt Nam đi ra khỏi xứ, nếu không biết tiếng Anh thật là vô phước. Muốn cái chi không biết nói làm sao cho người ta hiểu, thành ra mình là người câm. Rồi nhớ lại, khi ở bên nhà có người bạn rầy sao cho con học Anh văn và Pháp văn. Ông bạn ấy biểu phải cho con học toàn chữ Việt, mới là người công dân trung thành với Tổ quốc. Phải lúc này, tại Rangoon; có ông bạn ấy ở đây để ổng bảo coi phải làm cách nào đặng hỏi thăm đường đi nước bước, và tìm hiểu những điều nghe thấy giùm cho nhóm người Việt, giữa các phái đoàn Mã Lai, Tích Lan, Thái Lan, Ấn Độ, Népal, Tàu, Nhựt, Anh, Đức, Pakistan, Sikkim, Ryukyu, Yougoslaves, v.v… đương giao thiệp mật thiết với người Miến Điện.
Tại đây, người trí thức đến thường dân đều dùng Anh ngữ để nói chuyện với khách tứ phương.
May ra phái đoàn V.N. gặp được bà thân mẫu của ông Mac Phsu, vị thương gia bán dầu cù là đường Lê Lợi, gần chợ Saigon, ra tận phi trường đón rước tình nguyện làm hướng đạo và thông ngôn. Nhờ bà quen biết nhiều, có thân thế, nên ai ai cũng sẵn lòng làm vừa ý muốn. Bà có người chị ruột, trước kia có ở Saigon, nên khi gặp phái đoàn V.N., hai ông bà và 7 cháu (4 gái, 3 trai) đều xem chúng tôi như thân quyến, cách biệt lâu ngày bây giờ gặp nhau, thôi mừng là mừng. Bà thuộc về Hoàng phái, ông cũng là dòng sang trọng, quí danh là U Soe Gywe, đương giúp một cách đắc lực cho Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng. Ông bà biểu chúng tôi phải lại ở tại biệt thự riêng của ông bà, mấy cháu kéo níu không cho đi. Đó là duyên lành của kẻ đi tìm làm việc lành ở tận phương xa.
Cho đến những người Miến Điện, khi gặp người Việt, cúi chào với một nụ cười đầy thiện cảm. Vợ chồng, con cái, dắt nhau đi xem các gian phòng của chư Tăng, vừa thấy chúng tôi đương hầu chuyện với hai Sư V.N., họ dòm không khỏi mắt nhứt là xem các bà tín nữ, dường như đã có gặp nhau trong dĩ vãng; hơn nữa cách búi tóc của phụ nữ V.N. mường tượng như của đàn bà Miến. Rồi họ hỏi thăm ở đâu lại, khi biết là người V.N., vợ chồng, con cái xin vào đảnh lễ chư Sư V.N., ngồi hỏi thăm đủ chuyện. Chẳng phải tọc mạch, bởi họ là người chất phác ở thôn quê đến; có lẽ vì mối cảm tình thiên nhiên của người đồng đạo, một cảm tình thân mật giữa đám con chung của một đấng Cha Lành.
Nói về ngày thứ hai của Phái đoàn V.N. tại thành Rangoon. Nhờ tạm trú trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi: đất rộng, gió mát, đèn điện, quạt máy, nên sau một đêm dưỡng sức, ai ai cũng hân hoan vui vẻ. Sáng sớm, dùng điểm tâm rồi, chúng tôi rảo bước xem lại tường tận các biệt thự vừa mới cất xong để rước các phái đoàn ngoại quốc. Cả thảy 25 biệt thự in nhau một kiểu mẫu, cất trên một vuông đất độ 12 mẫu. Mỗi biệt thự 2 từng lầu, chứa 60 giường, mùng mền, nệm, gối toàn đồ mới. Tổng cộng được 1.500 chỗ nghỉ. Nhà nào cũng đầy khách ngoại quốc, mỗi phái đoàn đều có bảng đề chữ lớn trước cửa. Tối lại đèn thắp sáng trưng, ở xa xem như một hội chợ. Ban tiếp tân gồm có một vị Trưởng Ban, 16 nhân viên và 75 bồi phòng, có chỗ làm việc, có điện thoại và 6, 7 cổ xe Jeep để đưa khách đi nơi này chỗ nọ, tùy theo ý muốn. Có máy thâu thanh tại phòng khách và phòng ăn, cho khách mua vui. Mỗi khi đi đâu trên mỗi xe có một nhân viên đi theo dẫn đường, và khi trở về, họ phải xem xét coi có đủ số không; nếu thiếu họ chạy đôn đáo kiếm người vắng mặt, sợ lạc đường không biết nẻo về, vì thành phố Rangoon rộng lớn bằng ba thành Saigon. Tối ngủ, họ cũng cho đủ số người; khách vừa ngủ họ lo đóng cửa. Khi khách ra khỏi phòng, họ đặt người trông nom đồ hành lý, mặc dầu dưới từng dưới có cảnh sát gìn giữ an ninh.
Tóm lại, các phái đoàn đều được săn sóc châu đáo, cẩn thận. Cách tổ chức của Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, về phương diện tiếp khách, thật đáng kính phục.
Mỗi tối lại còn biếu nào là sách vở về Phật giáo, về xứ Miến Điện, nào là tin tức tiếp rước các phái đoàn sắp đến.
Lúc rảnh chúng tôi xin xe đi viếng chư Sư V.N. và dạo châu thành, có bà thân mẫu của ông Cù Là Mac-Phsu ngồi kế cận thông ngôn. Thành Rangoon có nhiều công sở, nhà hàng, rạp chớp bóng, nhà ngân hàng to tát đồ sộ. Xe cộ nơm nớp xe Autobus, xe Taxis, xe nhà toàn hiệu Anh Mỹ. Xe lửa chạy dưới sâu, nên không có một cái cổng làm trở ngại sự giao thông. Dưới bến có nhiều tàu ngoại quốc và tàu Miến ăn hàng rất náo nhiệt.
Đến một công trường thấy hình đồng của một nhà Sư, chúng tôi hỏi tại sao Ông Sư này được dựng hình? Người hướng đạo trả lời rằng ấy là Đại đức U Wisaya, trong thời kì xứ Miến bị đô hộ, Ngài thấy đồng bào Ngài bị thực dân hà hiếp quá lẽ, Ngài đứng ra binh vực, bị bắt cầm tù. Khi vào khám Ngài tuyệt thực đến chết. Dân chúng cảm mến ơn đức từ bi vô lượng của Ngài, chung đậu tiền dựng hình Ngài để kẻ qua người lại chiêm bái hàng ngày.
Giữa châu thành có một cái chùa tháp, như Namvian, nhưng rất lớn và cao hơn bội phần, gọi là chùa Shwedagon; bể tròn 300 thước; cao 50 thước; phía ngoài phết toàn bằng vàng lá. Chùa này cất trên 2.000 năm, trong ấy thờ Xá Lợi Phật Tổ (8 sợi tóc thỉnh từ Ấn Độ). Chúng tôi chưa có dịp vào chiêm bái và xem cho tường tận. Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng có cho mỗi người khách một quyển sách 100 trương nói về sự tích của ngôi chùa ấy.
Ngoài ra chẳng biết bao nhiêu biệt thự cất trên những khoảnh đất rộng rãi, vườn tược cây cối sum suê.
Đất tại Rangoon mường tượng như ở Dalat, nhà cửa cất trên đồi nhỏ, khoảng khoát, mát mẻ. Người Miến thích nhà nhiều nóc như nóc chùa, mái nhà không dốc đổ như ở Saigon, mặc dầu lợp bằng ngói móc.
Xe chạy xớt qua, chưa có dịp bước chân xuống đ���t, chờ dự lễ khai mạc 3 ngày, rồi sau khi đi viếng Mandalay, trở về có thì giờ, sẽ cuốc bộ từ phố này qua phố nọ, mới biết được tường tận.
Sau khi đi một vòng cùng khắp châu thành Rangoon, chúng tôi trở về tắm rửa, rồi rủ nhau đến viếng chư Sư V.N. để hỏi thăm về lễ Sima (kết giới) chỗ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đã cử hành buổi sáng. Công việc này thuộc về Tăng sự, nên thiện tín, dầu muốn dự kiến, cũng chỉ đứng ngoài xa dòm vô. Chỗ Kết Tập Tam Tạng chỉ có sáu cửa vào, mà người đi xem có cả đôi trăm ngàn, dầu có đến đó, cũng khó vào gần cửa được. Vả lại, chúng tôi cũng đã biết cách làm lễ Sima ra sao rồi, nên thừa lúc ấy chúng tôi đi xem phong cảnh kinh đô Rangoon. Sau lại vì tánh tọc mạch, muốn biết coi cách thức kết giới ở Miến Điện có khác ở V.N. không, để khi về xứ, nói lại cho bà con biết những điều mới lạ của xứ người.
Nên sau khi vắng mặt, nghĩ lại ăn năn, liền dắt nhau lên tận Tăng Đường, yêu cầu chư Sư V.N. cho biết cách hành lễ buổi sáng có chỗ chi lạ thường không.
Hai Sư nói: Trong các giới Phật giáo Nguyên Thủy, xứ nào cũng đồng tuân theo lời của Phật Tổ Như Lai di truyền trong Tam Tạng Pháp Bảo, nên cuộc lễ Kết Giới đã cử hành y theo một nguyên tắc. Có khác là khác về tánh cách long trọng, bởi lễ này do 2.000 vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu hiệp lại làm, lại thêm có 3 vị Pháp Chủ, lớn tuổi và cao hạ nhứt, làm Chủ Tọa là: Đ.Đ. Pakantaik Sayadaw, Đ.Đ. Thit Seintgyitaik Sayadaw (cả hai đều được 82 tuổi và 63 hạ) và Đ.Đ. Sangharaja Chuon Nath (vua Sãi Cao Miên) được 71 tuổi và 52 hạ. Cả ba đều xuất gia từ lúc 19 tuổi.
Sau khi chư Tăng tụng tuyên ngôn phân ranh giới rồi thì chỗ Kết Tập Tam Tạng trở thành Thánh Địa. Từ nay về sau, dầu các bậc Đế Vương, hay Tổng Thống cũng chẳng được phép mang giày đi vào đó. Người ngoại quốc dầu cao sang đến đâu cũng phải tuân theo luật ấy, bằng chẳng vậy, không được mời vào.
Ba ngày khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng (17, 18 và 19 tháng 5 năm 1954).
Ngày đầu nhằm ngày trăng tròn tháng Wesak Via Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Gotama, năm thứ 2498 sau khi Đức Thế Tôn viên tịch.
Chỗ Hội nghị. Một vùng đất cao ráo, diện tích 100 mẫu, cách xa kinh đô Rangoon 12 cây số ngàn, trước kia là một gò nổi hoang vu, vì đất pha trộn nhiều đá đỏ, nay trở thành một Thánh địa phồn thạnh, nguy nga, do toàn thể dân chúng Miến Điện sáng lập. Chương trình kiến trúc chỉ mới thực hiện được nửa phần: một thạch động, bốn tăng đường, một trai đường, nhiều nhà tạm, đường sá, cầu cống và đèn điện, khởi làm từ 14 tháng trước.
Chùa Kaba Aye. Trong vòng Hội nghị có một Chùa Tháp, tên là Chùa Kaba Aye, cất năm 1952, để biểu dương nguyện vọng hòa bình Thế giới của Phật tử Miến Điện, và luôn luôn làm trung tâm cho H.N Kết Tập Tam Tạng kỳ thứ VI. Chùa này kiểu tròn, 2 lớp vách cách nhau 4 thước, trên nóc là một cái tháp giống như tháp Shwedagon tại Rangoon, châu vi 35 thước, bề cao cũng 35 thước. Ngay 4 cửa vô, có thờ 4 tượng Phật phết vàng, lớn bằng 2 con người. Trên tường, cận nóc trần, thờ nhiều tượng Phật nhỏ hơn, để trên chơn qui, đúc cốt sắt ve ra khỏi vách. Nơi vòng trong, còn thờ một tượng Phật lớn bằng 4 lần tượng thờ ngay cửa vào. Chung quanh bàn thờ ấy, vòng theo vách có tủ chứa đầy bửu vật, đã tìm ra nơi các cổ tháp hư đổ và nhiều Xá Lợi để trong hộp vàng. Cách mặt đất 6 thước trở lên, bên ngoài Chùa Tháp đều phết vàng, vàng lá thứ thiệt, như nóc Tháp Shwedagon.
Thạch động Maha Pasana Guha. Cách Chùa Kaba Aye vài trăm thước về phái tây, là chỗ Kết Tập Tam Tạng. Hang này tạo ra để nhắc lại hang Sattapanni, là nơi Đại đức Kassapa (Ca-Diếp) triệu tập Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá). Đứng xa xem như một hòn núi nhỏ, lại gần tưởng như một thành lũy kiên cố, xây bằng đá xanh, chỗ cao, chỗ thấp, dường như công việc chưa rồi. Đứng xa dòm kỹ theo khoảng trống các vồ đá trên chót núi, thấy có nóc nhà lợp thiếc. Hang này bề dày độ 150 thước, bề ngang 120 thước và bề cao 25 thước. Hướng đông và tây, mỗi hướng có 2 cửa vô, hướng bắc và nam mỗi hướng chỉ có 1 cửa. Cả thảy 6 đại môn, cao 10 thước, rộng 4 thước. Từ chơn núi đến cửa 30 thước, sau các cửa ấy là chỗ K.T.T.T., bốn phía có một vách tường kiên cố bằng bit-ton cốt sắt 1th20 bề dày, 90 thước bề dài, 40 thước bề ngang, 14 thước bề cao, có 6 cây cột tròn, trực kính 1 thước, cao 14 thước. Trên đầu không thấy nóc vì bị trần che án. Trên đầu cửa vô phía bắc, có một cái đài vinh dự, ve ra khỏi tường 6 thước, bề ngang 10 thước. Tiếp theo 2 bên đài dọc theo 2 vách phía đông, tây có kệ ngồi 6 cấp, bề ngang 1 thước, bằng sạn đúc, như giảng đường trong các trường đại học. Trên đài danh dự và kệ ngồi là nơi an tọa của chư Tăng. Khoảng giữa hai hàng cột, đất lót gạch bông, là chỗ cư hội của thiện nam, tín nữ. Sau vách phía bắc còn một tòa lầu ba từng, dài 35 thước, rộng 12 thước, cao 17 thước, nóc bằng, nối liền với hành lang, rộng 2 thước, chạy chung quanh nóc nhà lợp thiếc (chỗ K.T.T.T.). Dọc theo hành lang có nhiều động đá nhỏ, để làm chỗ tham thiền cho Chư Tăng. Mỗi từng lầu đều có phòng tắm, phòng tiêu kiêm thời. Nơi góc hướng tây có một cầu thang đúc sạn và một cầu thang điển.
Trong chỗ Hội nghị, vách tường sơn màu xanh da trời, xa xa có lỗ hơi, nhìn như cái bông tròn 24 cánh, tượng trương Bánh Xe Pháp. Giữa lỗ hơi có quạt điển hút gió mát vô, trên có khoảng trống cho gió nóng bay ra. Dọc theo các khoảng trống ấy có gắn đền ống (néon) nối liền nhau, như chạy chỉ xanh trên trần. Ban đêm, đèn rọi từ dưới chơn lên ngọn núi, làm cho thạch động được thấy rõ như ban ngày.
Thật là một kiến trúc vĩ đại, khác thường và kiên cố sáu đại môn, sáu cột nhà, sáu cấp cho chư Tăng ngồi và nhiều bội số khác (multiple de 6) của con số 6 như Xa Pháp 24 cánh, 108 cái đồng la v.v… mà ít ai để ý, đều ám chỉ kỳ thứ sáu của H.N.K.T.T.T.
Có sáu cây Đại Kỳ Phật giáo và nhiều cờ nhỏ phất phơ trên chót đảnh. Chung quanh chơn núi có 108 cái đồng la, trực kính 8 tấc, trên mặt có đúc hình Bánh Xe Pháp, tượng trưng cho 12 nhân duyên (kể xuôi từ Vô Minh… tới Lão, Tử, là Luân Hồi; kể ngược là bẻ gãy từ cây căm, cho đến diệt tận Vô Minh, là Niết-Bàn). Khách thập phương tự do muốn đánh đồng la, cứ đánh. 108 cái chuông này tiêu biểu cho 108 loại phiền não ái dục, mà người đến đây đều mong nếm được hương vị Phật giáo, để rửa sạch bợn trần nhơ, cầu mau giải thoát khỏi nẻo luân hồi thống khổ.
Tăng đường. Cách thạch động 150 thước, nơi phía nam, là 4 gian nhà, 2 từng lầu, bề dài 64 thước, bề ngang 12 thước. Hai gian cách nhau một đường lộ trải đá rộng 20 thước, hai nhà lầu cất xa nhau, hai tòa khác cất dính theo hình thước nách (En équerre) vựa ngã ba đường. Mỗi gian nhà có họa đồ chỉ sáu chỗ Kết Tập Tam Tạng. 120 phòng đâu lưng, hai hành lang 2 thước giáp vòng chung, chặng giữa có 2 thanh đúc, mỗi đầu cũng có 2 thanh đúc và phòng tiêu, phòng tắm. Trong mỗi phòng có 2 giường, có đèn điện, quạt máy. Bốn gian nhà chứa được 2.500 vị Tỳ Khưu, ngoài ra còn có phòng văn, phòng nhóm của ban Tổ chức cho hai phái xuất gia và tại gia, phòng xuất bản tạp chí, máy in và phòng nhiếp ảnh, chớp bóng.
Trai đường. Sau bốn gian này còn một ngôi nhà khác, cũng 2 từng lầu 30×20 và một gian nhà trệt 60×12 để làm nơi trai tăng. Trong nhà trệt gần cửa cái có thờ 80 tượng sơn son phết vàng, tượng trưng cho 80 vị đại A-la-hán, đệ tử kế cận của Đức Thế Tôn khi xưa. Từ các Tăng đường đến Trai đường có nhà cầu lợp thiếc, để cho chư Tăng qua lại khỏi mưa nắng.
Chỗ làm việc. Hai bên cửa đông, có hai gian nhà một từng, để làm văn phòng cho trường đại học, sắp mở sau khi H.N.K.T.T.T. bế mạc (Tăng đường hiện giờ sẽ làm nội trú cho sinh viên, là các vị Tỳ Khưu trong hoàn cầu, đến học Pāli và Tam Tạng). Chung quang Tăng đường còn 30 gian nhà tạm 30×18 cao cẳng, lợp thiếc, để làm trụ sở tạm cho Hồng Thập Tự, sở Chữa lửa, sở Kiến thiết, bộ Thông tin, bộ Ngoại giao, sở Tân đáo, sở Cảnh sát, sở Hiến binh, chỗ đãi khách, kho thực phẩm, nhà bếp và nhà đục mưa nắng cho tín đồ. Nhơn viên của các bộ, các sở nói trên có phận sự cho tin tức, lo giấy tờ thông hành cho các phái đoàn, gìn giữ trật tự an ninh và săn sóc bịnh nhân.
Nơi cửa vào trai đường có sở Giao thông quản xuất 20 xe Cars mới tinh hảo và nhiều xe mui kiến của các quan cho mượn, túc trực ngày đêm để đưa rước chư Tăng và khách của các Ngài lên xuống từ chỗ K.T.T.T. đến Rangoon. Ông tổng thơ ký có lòng trong sạch cấp cho Đại đức Bửu Chơn một cỗ xe riêng để Ngài tùy sử dụng. Toàn thể nhơn viên đều hết lòng lo tròn phận sự. Công việc bề bộn phải ăn, nghỉ tại chỗ. Coi bộ họ rất mệt nhọc, nhưng vẫn vui vẻ niềm nở, ân cần tiếp rước và làm vừa lòng các phái đoàn.
Công việc đương làm. Trước Chùa Kaba Aye, hai bên đại môn có hai ngôi nhà một từng vừa cất xong nhưng chưa sử dụng. Đương cất một tháp để tham thiền, giữa một ao hồ rộng lớn, một gian nhà lầu làm hợp tác xã, nhiều nền móng đương đổ bích-ton…, đặt ống cống, trồng cây, trồng cỏ, tráng đường. Tuy là ngày lễ, nhưng sở Kiến trúc vẫn tiếp tục làm các công việc, không cho gián đoạn. Đại học đường chưa chánh thức mở cửa, nhưng đã tạm dạy trong một gian nhà cao cẳng, bằng cây, lợp ngói. Nghe như công việc kiến trúc đã làm rồi, chỉ mới được nửa phần của chương trình, và đã xài hết 200 triệu roupies (1.500 triệu bạc V.N).
Đây nói về ba ngày lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. từ 17 tới 19 tháng 5 năm 1954 nhằm ngày vía Giáng Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn của Phật Tổ Thích Ca, đúng năm 2.498 của Phật lịch Nguyên Thủy.
Ngày 17-5-1954. Sớm mai 9 giờ, quan Thủ tướng U-Nu mời các phái đoàn dự lễ trai tăng cho 2.500 vị Tỳ Khưu tại Chùa Tháp Shwedagong. Nơi trai tăng là một cái nhà tạm lợp lá, lót ván, cất trên một khoảng đất trống, gần chưn tháp. Vì nổng cao, đất hẹp, nên nhà tạm chỉ vừa đủ chứa 2.500 nhà sư và các phái đoàn, còn người bổn xứ phải nhường chỗ đứng và quì phía ngoài. Vật thực để trong những hộp bằng aluminium, được khiêng lên trước, quan Thủ tướng lên sau với một sĩ quan hầu cận. Xe đến tận nấc thang, từ đường lộ ngài lột giày leo thang như các tín đồ, đến nơi ngài và vị sĩ quan vào quì lạy chư Tăng ba lạy, trở ra trước nhà trai tăng làm lễ chào cờ, có binh lính dàn hầu và trổi quốc thiều. Xong rồi, ngài đi vào lạy ba lạy nữa và xin thọ giới. Xin giới xong có một ông quan đứng lại tại micro đọc bài dâng vật thực. Chư Tăng thọ rồi đọc kinh cầu chúc cho thí chủ, dứt câu kinh toàn thể người dự lễ đồng thanh hô to ba tiếng “lành thay” (không có đọc kinh hồi hướng). Cuộc lễ đã chấm dứt.
Các phái đoàn trở về lo cơm nước, chờ đúng 11 giờ xe rước đi dự lễ khai mạc H.N.K.T.T.T. Đúng 12 giờ chư Tăng và quan khách đều có mặt trong hang Maha Pusana Guha. Trên 10.000 vị Tỳ Khưu có mặt tại Kapa Aye, nhưng chỉ có 2.500 vị được thỉnh vào dự lễ, trong ấy có hai nhà Sư V.N. là Đ.Đ. Bửu Chơn và Hộ Giác. Trên 200.000 người đến Kapa Aye, phần đông là người bổn xứ, chỉ có các sứ thần, quan khách và phái đoàn độ 2.000 người vào dự lễ, trong ấy có 7 đại diện phái Bảo Thủ V.N. (2 thiện nam: Nguyễn Văn Mẫn, Nguyễn Văn Hiếu; 5 tín nữ: Đoàn Thị Liên, Huỳnh Thị Kỳ, Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu và cô diệu Trần Thị Thọ).
Đúng 12 giờ 12 phút, (là một giờ có ý nghĩa thế nào mà tôi không có dịp hỏi nơi các vị cao Tăng) trong hang Maha Pusana Guha, sáu tiếng chuông khởi ngân vang dội, phá tan không khí lặng lẽ của 4.500 Tăng và tục, đương nghiêm trang chờ đợi cái giờ cu hội chánh thức của bao nhiêu tâm hồn ngưỡng mộ Phật Pháp, từ bốn phương trời tìm gặp nhau nơi đây, để biểu dương tinh thần đoàn kết trong một giáo lý duy nhứt của Đấng Cha Chung. Cũng trong giờ phút ấy, bên ngoài có đại bác bắn bổng lên hư không sáu lá cờ Phật giáo, nhờ sáu cây dù nâng đỡ giữa lừng, để mặc tình gió lôi cuốn trong bao la Thế giới của hàng Chư Thiên trong các cõi Trời. Báo hiệu vừa dứt, một vị Thượng Tọa đứng trên đài hướng bắc tuyên bố bằng tiếng Pāli và tiếng Miến Điện: “Giờ này là giờ khai mạc Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu, nhằm bữa trăng tròn tháng Wesak, năm thứ 2.498 từ khi Đức Từ Phụ Giáo Chủ Gotama nhập Niết-Bàn”. Một vị Thượng Tọa thứ nhì, cao hạ nhứt trong 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị, đứng lên đề cử Đại đức Giáo Tông (vua Sãi) Miến Điện là Ngài Abhidhaja Maharathaguru Bhaddanta Revata làm Chủ Tọa Hội nghị. Toàn thể chư Tăng chấp thuận bằng cách nín thinh, Đại đức Chủ Tọa được thỉnh lên Pháp tọa, giữa trung đài hướng bắc. Trên hai hang ghế thấp, hai bên Pháp tọa có 9 vị Trưởng Lão ngồi hầu, nơi cấp ba có 10 vị Tăng Trưởng, toàn là bậc đại thiện hữu trí thức trong Tăng già. Đèn rọi từ phía nam (của sở chớp bóng) phựt chiếu ngay đài hướng bắc, giờ phút uy nghiêm, cảm động, Đại đức Chủ Tọa ngồi trên ngai vàng và chư Tăng trong Ban Chấp Sự từ cao dòm xuống với vẻ hiền lành, hoan hỷ, dường như đương ban bố phước huệ của các Ngài đã vun bồi trong cả đời tu học, cho toàn thể đại diện Phật tử hoàn cầu, từ dưới đất mọp lạy lên, để rước lấy nguồn hạnh phúc tươi nhuận hầu đem về chia sớt lại cho các bạn đồng đạo trong xứ mình. Đại đức Bhaddanta Pandita, một vị Trưởng Lão trong Ban Chấp Sự, đứng lên ca tụng Hội nghị bằng tiếng Pāli, và nhấn mạnh rằng tánh cách Hội nghị này khác hơn năm kỳ Hội nghị trước, là bởi do nơi nguyện vọng tha thiết và sự ủng hộ nhiệt thành, chẳng những của dân chúng Miến Điện, mà lại là của toàn thể Phật tử các xứ yêu chuộng Đạo Giáo tối cổ của Đức Từ Phụ Gotama. Kế đó một đại diện phái Tại gia ông U Saing Kyaw, bước ra đảnh lễ ba lạy, đọc bài ca tụng ân đức Tăng Bảo, rồi cùng thiện nam, tín nữ bái chào thêm ba lạy nữa. Tiếp theo, ông Tổng Trưởng bộ Lễ U Win đứng ra đảnh lễ, rồi đọc một bài diễn văn về lịch sử của các kỳ Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng thứ nhất đến thứ năm, ca tụng ân đức của chư vị Thánh Tăng, nhứt là Đại đức Kassapa (Ca-Diếp), có công sắp Phật ngôn ra ba Tạng, mỗi Tạng có mấy pháp môn, mỗi pháp môn có mấy tiếng, khiến cho các nhà Sư trụy lạc phá giới hậu lai không thể canh cải sửa đổi lời di huấn của Đức Thế Tôn được. Và nhờ niêm luật đó, trong thời đại sau, mỗi khi có bọn ký sanh dắt dẫn tín đồ sai đường lạc nẻo, chư Tăng có thể Kết Tập Tam Tạng lại để sùng hưng Phật giáo. Sau rốt ông Tổng Trưởng bộ Lễ ca tụng công đức chư Tăng đã hết lòng phụng sự Phật Pháp, nên kỳ Hội nghị thứ Sáu này được thành tựu mỹ mãn. Ông lạy chư Tăng để tỏ lòng biết ơn các Ngài. Cũng từ trong nhóm Cư Sĩ, ông Tổng Thống Ba U bước ra đảnh lễ chư Tăng, và nhân danh của các tín đồ nhiệt thành vì đạo của các xứ chịu ảnh hưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đã triệu thỉnh chư Tăng hoan lâm gia nhập Hội nghị hôm nay, tỏ lòng cung kính bái tạ các Ngài. Rồi ông sơ lược nhắc lại lịch sử tín ngưỡng của nhơn loại từ thời thượng cổ. Xưa kia, vì sợ tai ách do hiện tượng thiên nhiên đem lại, người ta đặt ra đủ loại thần thánh, để thờ cúng mong được giải thoát những nguy biến của vũ trụ. Cho đến khi Phật Tổ ra đời giáo hóa, người ta mới thức tỉnh, biết rằng không thể mong cầu nơi các vị thần linh ấy, mà được giải thoát những thống khổ ở đời. Trái lại, phải nương nhờ nơi Tam bảo, mới được hạnh phúc yên vui vĩnh viễn. Chúng ta có phận sự hộ trì Tam bảo cho được trường tồn hưng thịnh, bằng chẳng vậy Phật Pháp sẽ bị suy vong, nếu để Phật Pháp lu lờ, chúng ta chớ mong giải thoát khỏi vòng đau khổ. Muốn cho nền đạo giáo cao quí của Đức Thế Tôn được thạnh đạt, toàn thể tín đồ phải hết lòng phụng sự ngôi Tam bảo. Trong thời kỳ nước Miến Điện bị ngoại quốc đô hộ, Phật giáo suýt chinh nghiêng hư đổ, vì dân chúng khi ấy không đủ khả năng chống chỏi. Đến khi xứ Miến Điện được hoàn toàn độc lập, Chánh phủ liền bắt tay vào công việc trùng tu Chùa Tháp và phấn khởi dân chúng lập ra các hội Phật học để nâng đỡ chư Tăng, lần lần tới ngày nay mới hiệp tác cùng Phật tử tứ phương tổ chức được Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng này. Sự hy sinh của chúng ta, hôm nay đã đem lại kết quả vô cùng tốt đẹp, chẳng những có lợi ích riêng cho chúng ta, mà còn có ảnh hưởng lớn lao cho nền hòa bình Thế giới. Sau khi dứt lời, ông Tổng Thống đảnh lễ bước lui, nhường chỗ cho ông Tổng Trưởng Tư Pháp U Thwin quì lạy, rồi nhơn danh Phó Chủ tịch Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng, đọc bài tán dương Tam bảo và xin thay mặt cho Chánh phủ Miến Điện, hứa lãnh trách nhiệm đối với chỗ ở, vật thực, y phục và thuốc men, cũng như về các vật cần thiết khác trong thời hạn hai năm kết tập đến ngày chư Tăng trở về quê quán. Ông còn yêu cầu chư Tăng để ý xem xét các phần tử trụy lạc đương ẩn núp theo Tăng già, làm thương tổn Phật Pháp và đề nghị phương pháp diệt trừ bọn ký sanh ấy. Ông hứa sẽ dùng uy quyền của Chánh phủ ban cho ông để trừng trị thẳng tay bọn phá hoại Phật Pháp, để bảo tồn ngôi Tam bảo, hầu hoằng khai Chánh Pháp cùng khắp năm châu bốn biển, cho nhơn loại hưởng nhờ. Kế tiếp, đại diện của các vị Giáo Tông (vua Sãi), các bậc Đế Vương, các Chánh phủ của những xứ được mời dự Hội nghị, đứng ra đảnh lễ, đọc thông điệp tán dương và cầu chúc cho lễ Kết Tập Tam Tạng được thành tựu như ý nguyện của Phật tử trên hoàn cầu và đem lại hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại. Cuộc chúc từ kéo dài lối một giờ, rồi tạm ngưng để nối tiếp trong hai ngày sau, y theo chương trình đã định. Đại đức Agga Maha Pandita Bhaddanta Tridasabha đứng trên đài, nhơn danh H.N.K.T.T.T., đọc một bài đáp lại những lời chúc từ của các thông điệp nói trên. Đại đức Chủ Tọa cũng tỏ lời cám ơn các vị giáo tông bằng tiếng Pāli và các Chánh phủ bằng tiếng Miến Điện.
Cuộc lễ chấm dứt hồi 2 giờ 30 phút. Chư Tăng được thỉnh ra hai từng lầu phía sau chỗ Hội nghị giải lao, còn quan khách được mời ra nhà hàng nơi cửa Đông dùng cơm trưa.
Đúng 3 giờ 30, chư Tăng tái họp lại, khai diễn chánh thức công việc Kết Tập Tam Tạng. Cũng 6 tiếng chuông và 6 tiếng đại bác mở đầu như lúc khai mạc. Đây là phần việc của chư Tăng, thiện nam, tín nữ được phép vào dự thính, nhưng vào nơi trong phải nghiêm trang yên lặng và phải ngồi cho mãn giờ mới được ra. Tiếng báo hiệu vừa dứt, Đại đức Chủ Tọa từ trên ngai vàng tuyên bố rằng: Y theo cách thức Kết Tập Tam Tạng của Đại đức Ca-Diếp lần đầu tiên, Hội nghị kỳ thứ Sáu này phải chọn hai vị Trưởng Lão vấn đáp phân minh, cho biết do nơi đâu và tại xứ nào, Đức Thế Tôn đã ban hành các điều luật răn cấm trong Tạng Luật. Vậy xin đề nghị Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Javana làm người vấn (Pucchaka) và Đại đức Tipika Kadhara Dhammabandagarika Bhaddanta Viccittasera là người đáp (Vissajjaka). Chư Tăng ưng thuận bằng cách nín thinh, hai Đại đức này liền lên ngồi hai Pháp tọa sơn son phết vàng, hai bên ngài Chủ Tọa. Rồi ông Pucchaka bắt đầu hỏi: “Vì nguyên do nào và tại nơi đâu Đức Thế Tôn ban hành điều luật Parajika (I) thứ nhứt, trong tạng Vinaya Pitaka nói về phạm hạnh của các thầy tỳ khưu?” Ông đáp, tay cầm quạt màu ngà, tượng trưng tợ như cây quạt của Đại đức Shin Maha Kathapa trong kỳ kết tập thứ nhứt, trả lời rằng: “Đức Thế Tôn chế ngự điều luật thứ nhứt ấy tại thành Vesali, vì bởi thầy tỳ khưu Ashin Thurein, con của một nhà triệu phú đã thổ lộ hạnh kiểm xấu xa”. Mười vị Tăng trưởng ngồi cấp dưới đồng rập nhau lập lại câu trả lời nói trên cho chư Tăng nghe. 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị đồng đọc lại một lượt điều luật thứ nhứt Parajika sikkha (là điều học về Bất cộng trụ). Xong rồi, toàn thể chư Tăng đọc ba lần Sādhu (lành thay). Tiếp theo, chuông và còi rộ lên thổi vang rần, hưởng ứng ba tiếng lành thay của chư Tăng.
Một vị Trưởng Lão tuyên bố: Buổi kết tập đầu tiên đã kết thúc. Liền đó các thính giả đi ra để chỗ cho toàn thể chư Tăng có mặt tại Kaba Aye vào hiệp với 2.500 vị Tỳ Khưu trong Hội nghị làm lễ Uposatha (Phát lồ), vì ngày hôm nay nhằm ngày tụng giới bổn của Tăng chúng.
Về bên phái đoàn cư sĩ, ngày lễ đầu tiên này chấm dứt, sau buổi tiệc long trọng của ông Đô Trưởng Ragoon, thết đãi tại thị sảnh, có ngũ âm và múa rầm giúp vui tới đêm mới mãn.
Ngày 18-5-1954. Trong Phật giáo có một việc lạ, mà ai ai cũng để ý nhưng không thể hiểu được: Mỗi khi có lễ lớn thì trời chuyển mưa, nhằm mùa mưa thì mưa tầm tã, nhằm mùa nắng thì trời vần vũ, mưa to. Các kỳ rước Xá Lợi ở Saigon và cung nghinh Xá Lợi đến các Chùa đều có vậy; dường như mưa để rửa trược khi nơi vùng có đại lễ, hoặc cho quang cảnh mát mẻ, giúp cho người mộ đạo vui thích trong phước lành.
Hôm qua, trước giờ H.N.K.T.T.T. trời mưa xối xả, cho đến giờ khai mạc chỉ còn mưa tro rỉ rả. Cây cỏ, chùa chiền, đền đài, trong ngoài chỗ Hội nghị đều được thợ trời rửa sạch bụi cát do cả ngàn xe hơi tới lui tấp nập trong mấy ngày trước. Bao nhiêu dơ uế trên mặt đất được nước cuốn ra khỏi vùng Thánh địa. Nếu cho đó là một sự tình cờ do hiện tượng vũ trụ đem lại, sự tình cờ này có lẽ cũng tùy thuộc nơi tâm lành của khối người trong sạch với đạo lành của đấng Trọn Lành duy nhất trong thế gian vậy.
Hôm nay, ngày thứ nhì, trời quang mây tạnh, và nhờ bên trong có nhiều chỗ rộng, ban Tổ chức cho thính giả vào thêm 1.500 người nữa, thành ra trong hang kết tập có cả 6.000 người: 2.500 vị Tỳ Khưu và 3.500 tín đồ. Còn lại gần 200.000 người ở ngoài, lớp đi chung quanh đua nhau đánh 108 cái đồng la, cầu cho phiền não mau tận diệt do duyên lành cấu tạo hôm nay; lớp vào chiêm bái trong Chùa Hòa Bình Kaba Aye, lớp thì lóng nghe trước các ống loa các lời tuyên bố của chư Tăng, cùng những bài chúc từ của đại diện các xứ bên trong. Phái đoàn V.N. hôm nay đến trễ 10 phút vì bận lo đi lãnh bạc nơi ngân hàng. Tuy đến trễ, nhưng được vô thong thả, nhờ mỗi người có treo trước ngực một thẻ ngà, biểu hiệu của khách ngoại quốc, một biểu hiệu đơn giản, nhưng rất linh nghiệm đi tới đâu cũng được nhường chỗ, cho đến giữa thành phố cũng được người ta niềm nở chỉ chọc đường đi nước bước. Vì đến trễ mà có một bà tín nữ không quen vừa đi vừa chạy, cũng không quen đi chân không trên lộ trải đá, bá cẳng vào vật chi mà phải trầy chân đổ máu, lại bị trật gân sưng cẳng, tối về nóng lạnh.
Hôm nay, buổi lễ khởi hành đúng 12 giờ. Cũng như bữa đầu, dứt tiếng chuông còi, một vị Đại đức đứng ra tuyên bố Hội nghị khai mạc ngày thứ nhì. Ông Thủ tướng U Nu bước ra đảnh lễ chư Tăng và đọc một bài diễn văn ca tụng các Hội Nghị K.T.T.T. đầu tiên, giải thích nguyện vọng và mục đích của cuộc Hội nghị kỳ sáu này, Phật tử đều muốn cho Phật Pháp được gìn giữ nguyên vẹn theo Phật ngôn lưu truyền. Công trình vĩ đại này thành tựu được chỉ nhờ sự cố gắng của Tăng già và tín đồ. Ông Thủ tướng nhân danh dân tộc Miến Điện cầu chư Tăng làm tròn nhiệm vụ cao cả này, y theo tinh thần và thủ tục của chư vị A-la-hán xưa kia. Kế tiếp, các vị Đại đức, trưởng phái đoàn mỗi xứ và đại diện các Chánh phủ luân phiên đọc bài chúc từ. Khi đọc chúc từ các nhà Sư đứng trên bảo đài, còn bên cư sĩ thì đứng dưới đất. Cũng như hôm qua, mỗi lần có đọc diễn văn, mỗi chớp đèn chụp ảnh quay phim.
Đúng 2 giờ 30, tạm ngưng, Đại đức Agga Mahapandita Bhaddanta Indasabha đứng lên đáp lời cùng diễn giả. Dứt lời chuông và còi reo lên chấm dứt buổi lễ.
Đến 3 giờ 30, chư Tăng họp lại Kết Tập Tam Tạng. Hôm nay ông vấn (Puccaka) hỏi ông đáp (Vissajjaka) về điều học thứ nhì và thứ ba của giới Bất cộng trụ (Parajika). Mười vị Trưởng Lão đọc lại hai câu đáp, 2.500 vị Tỳ Khưu đọc trọn điều học thứ nhì và thứ ba dứt lời, toàn thể Hội nghị hoan hô bằng ba tiếng “Lành thay”.
Buổi kết tập thứ nhì của Hội nghị thứ sáu chấm dứt đúng 5 giờ 30.
Khi ra khỏi Hội nghị lúc 2 giờ 30, các phái đoàn được mời ra nhà hàng dự tiệc xế chiều. Ra đến nơi gặp 3 bà tín nữ Huỳnh Thị Có, Khấu Thị Giàu, và cô diệu Trần Thị Thọ đứng trước bộ Ngoại giao với vẻ mặt buồn xo và bí xị. Ba bà từ Bangkok đến từ 12 giờ trưa với Đại đức Hộ Giác, được ban tiếp tân rước ngay về chỗ Hội nghị, chờ các phái đoàn dự lễ rồi về nơi cư trú tại Rangoon một lượt, bởi giờ đó khách ngoại quốc đều ở trong hang Kết Tập Tam Tạng. Riêng mình Sư Hộ Giác được đưa thẳng đến Tăng đường, nơi phòng của Đại đức Bửu Chơn đã ký chú sẵn cho Ngài. Sư Thông Kham cũng từ Bangkok đến một lượt với Sư Hộ Giác, Ngài cũng được đưa đến Tăng đường, theo phái đoàn Lào bởi Ngài từ Vientiane đến, nhưng cũng ở chung một gian nhà với phái đoàn V.N.
Chiều lại được đưa đến một nhà hàng lớn nhứt, dự tiệc của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao thết đãi các phái đoàn. Buổi tiệc này có tánh cách lạ lạ: đồ ăn để một nơi, khách ngồi một nơi, khi ráp lại ăn, mạnh ai nấy đi lấy đĩa, muỗng, dao, khăn rồi tự tiện thích món nào gắp món nấy vào dĩa, rồi đem lại bàn ngồi ăn. Boy chỉ có phận sự đi rót nước cam, nước suối thôi. Xứ Phật giáo không có dùng một nhỏ rượu. Ngoài nước cam, xá xị, người ta uống nước lạnh trong lu, cũng không dùng nước trà. Các nhà Sư cũng không có nước trà hoặc nước nóng. Ăn rồi cũng không có diễn văn. Từ bàn này sang qua bàn khác, kiếm người quen nói chuyện đã rồi kéo nhau ra về, cũng không cần biết tới ông chủ nhà. Ông cũng bình dân chen lộn trong đám khách để kiếm ăn và nói chuyện với bạn bè của ông.
Ngày 19-5-1954. Ngày hôm nay là ngày thứ ba, ngày chót của lễ khai mạc.
Phái đoàn V.N. tính lên Kaba Aye ở trọn bữa, trước để thăm hai Sư Hộ Giác và Thông Kham mới đến, sau để leo lên các từng lầu và chót núi đá bao phủ chỗ Hội nghị. Sáng sớm, lót lòng rồi, quí bà dự bị trầu cau, mua sắm vật thực dâng cho ba Sư V.N. Quí bà giàu lòng tín ngưỡng, hay dòm ngó coi chư Sư thiếu thốn món chi, mua sắm không sót, nào là bàn chải chà răng, phấn đánh răng, xà phòng, bình thủy, khăn lau mặt v.v… Phận cư sĩ thì lêu lổng, vô tình, không làm được những việc cao quí ấy. Bề trong thì khen thầm cử chỉ của quí bà, bề ngoài lại thắc mắc, bắt bẻ đủ điều, để che đậy cái tệ của mình: “Đi chung một phái đoàn muốn làm một việc phước nào, dầu lớn, dầu nhỏ cũng phải toan tính với nhau, quí bà ỷ có tiền, muốn làm gì không cho chúng tôi hay biết”. Đây là ăn hiếp gió: mấy bà lật đật sám hối, có biết đâu cái thâm tâm của bọn râu mày.
Gặp Đ.Đ. Thông Kham vui mừng trò chuyện, thì mới hay Ngài nhờ ông Tổng Trưởng Tư Pháp Lào, là ông Phya Kham Mau gởi Ngài qua Miến Điện, theo phái đoàn học sinh. Ngài tới Bangkok ở chờ Chánh phủ Lào gởi thêm ngân phiếu qua đặng mua giấy máy bay sang Rangoon, vì đi thình lình không kịp lấy đủ giấy tờ. Chờ hoài không được, Ngài cậy sứ thần Lào Bangkok, mua giùm giấy máy bay, mới qua sớm một lượt với Đ.Đ. Hộ Giác.
Sư Hộ Giác nhờ ở mấy ngày ở tại Sứ quán V.N., Bangkok, có đi tìm học được hai Sư Tịnh Sự (Sư giáo Vĩnh Long) và Thiện Tâm, đương từng học tại Chùa Rakhang. Vừa đến nơi, Sư Hộ Giác liền bắt tay vào công việc Kết Tập Tam Tạng. Mặc dầu còn mệt nhọc nhưng Ngài vẫn vui lòng tham dự, nhơn danh Phật giáo xứ V.N., cũng như Đ.Đ. Bửu Chơn, Đ.Đ. Bửu Chơn cũng lo cho Đ.Đ. Thông Kham sang qua phái đoàn V.N. để thay thế cho Ngài trở về dưỡng bịnh.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần III Tại Rangoon – Miến Điện (Ngày 3 Tháng Chạp D.L 1954 -2498)
Hôm ngày 12 tháng 11 dl.1954, tôi vừa được một bức điện văn của Hội Phật giáo Thế giới Miến Điện gửi sang để thỉnh hai đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N., đến dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ ba tại Rangoon Miến Điện vào ngày 3 tháng chạp D.L. 1954.
Lẽ cố nhiên tôi phải lãnh một trách nhiệm về phần hướng đạo và một vị đạo hữu đã có yêu cầu trước, là ông Vĩnh Cơ có thiện chí muốn sang Miến Điện để quan sát về nền Phật giáo và chiêm bái các nơi Phật tích, tôi liền đánh điện văn cho ông hay, nhưng rất tiếc vì trường hợp xảy ra bất ngờ làm cho ông không thể nào đi được, nên một bức điện văn từ Đà Nẵng đánh vào để cáo lỗi và yêu cầu xin ông Nguyễn Văn Hiểu đi thế, lẽ dĩ nhiên ông Hiểu phải ráng lãnh trách nhiệm nhưng có hơi dụ dự là vì ông đã có đi một lần rồi vả lại cũng bị bận nhiều công việc sau khi xin giấy tờ vừa xong, thì rất rủi thay công việc nhà ông lại xảy ra bất ngờ mà ông không thể nào bỏ đi được. Thế thì tôi phải một mình một bóng lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 7 giờ 30 ngày 30 tháng 11dl. 1954 để sang Miến Điện cho kịp kỳ khai mạc.
Phi cơ từ từ cất cánh trực chỉ về hướng tây gần một tiếng đồng hồ lại hạ cánh xuống phi trường Pochentong Phnompenh để cho hành khách lên xuống và trình giấy thông hành độ nửa tiếng đồng hồ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Vọng Các (Bangkok), mãi hơn 11 giờ trưa mới tới phi trường Daungmaung cách thủ đô Bangkok lối 28 cây số ngàn.
Vừa tới nơi thì thấy có cậu Phồn Anh con của cụ Nguyễn Khoa Toàn, Đại sứ V.N. ở Vọng Các ra đón rước và cùng luôn dịp đưa 2 bà tín nữ V.N., ở Kiêm Biên đi dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì mới về, sau khi trình giấy châu lưu xong lại được cậu Phồn Anh đưa về Sứ quán để tạm nghỉ đặng xin chiếu khán của Tổng Lãnh Sự Miến Điện và ghi chỗ với hãng hàng không, công việc rất lộn xộn nhưng mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo xong cả, sáng hôm sau lối 6 giờ sáng lại trở ra phi trường để sang Rangoon; hôm ấy hành khách rất đông nên mãi hơn 8 giờ 30 phi cơ mới cất cánh, gần 1 giờ trưa mới tới phi trường Rangoon. Vừa tới nơi thì ông U. Chaw-Seng, nhân viên của Hội Phật giáo Miến Điện đến tiếp rước và lo giấy thông hành cho tất cả phái đoàn tới Hội nghị, xong lại đưa ra về Kaba Aye là chỗ để cho Hội Phật giáo Thế giới yên nghỉ và Hội nghị. Sau khi tới yên nghỉ một lúc thì có Sư Hộ Tông, Sư Thông Kham, Sư Hộ Giác, Sa di Thiện Hạnh và các bà tín nữ đã đến Rangoon trước để dự lễ Kết Tập Tam Tạng phần nhì, đến thăm và trách móc sao không cho hay tin trước để ra đón rước, mãi mấy hôm sau cô Diệu Phước (Chùa Huệ Lâm) đang tùng học nơi ni đường Miến Điện mới đến thăm tôi.
Buổi khai mạc sáng hôm 3-12-1954, đúng 8 giờ sáng thì tất cả 30 nước trên thế giới đều có đại diện tới tham dự đủ mặt nơi Đại Thạch Động, tôi nhận thấy như là: Tàu, Nhựt Bản, Phi Luật Tân, V.N., Tân-gia-ba, Pénang, Nam Dương quần đảo, Úc châu, Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Cao Miên, Xiêm, Lào, Anh, Mỹ, Pháp, Ý đại lợi, Finland, Đức, Áo, Hawaii v.v…
Đúng 8 giờ 30, Tổng Thống Miến Điện vừa tới thì trống còi và đại bác nổi lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho buổi khai mạc được thêm phần long trọng, khi tiếng trống còi im lặng thì Đại đức Reveta Chủ tịch ban Kết Tập Tam Tạng lần thứ Sáu bắt đầu cho tam qui và ngũ giới cho tất cả phái đoàn trên thế giới (trừ Tăng già ra mà thôi), kế đó bác sĩ U.Ba Tổng Thống xứ Miến Điện từ từ đứng dậy tới trước máy truyền thanh đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ khai mạc và cầu chúc cho cuộc Hội nghị Phật giáo Thế giới sẽ đem lại nhiều sự kết quả tốt đẹp cho nhân loại. Kế tiếp, ông U. Chan Htoon, Tổng Chưởng Lý và Chánh Hội Trưởng Phật giáo Thế giới địa phương Miến Điện, đọc một bài diễn văn để chào mừng tất cả phái đoàn trên thế giới vì đã tốn công hao của và phải trải qua nhiều sự khó khăn từ phương xa ngàn dặm tới dự rất đông đủ và ông khiêm tốn xin thứ lỗi cho, nếu trong khi lưu trú có điều chi không vừa lòng đẹp ý. Rồi lần lượt đọc những lời chúc mừng của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng của các nước trên thế giới gởi đến, sau cùng ông G.P Malala Sekera Hội Trưởng Hội Phật giáo Thế giới đọc một bài diễn văn đại ý, kể sơ qua lịch sử của Hội Phật giáo Thế giới thành lập đầu tiên năm 1950 tại Colombo, Tích Lan, năm 1952 Hội nghị tại Nhựt Bản, tới năm nay là năm 1954 lại Hội nghị tại xứ Miến Điện, với mục đích đem lại sự sáng tỏ nền Phật giáo chánh truyền còn nguyên vẹn theo Tam Tạng Pāli và gây tình cảm bác ái đối với tất cả người tu Phật không phân biệt tôn, phái, màu sắc chi cả, chỉ biết chúng ta là một khối người tu Phật, như con một cha. Vì Đức Phật cũng như đấng Cha Lành chung cho tất cả người tu Phật. Bác sĩ lại nhấn mạnh thêm rằng còn hai năm nữa là 1956, là đúng thời kỳ phân nửa Phật Pháp 2500 kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn đúng ngày Rằm tháng Tư. Hiện nay có hơn 550 triệu người tu Phật trên khắp cả Thế giới đều chuẩn bị để làm lễ Phật nhập Niết-Bàn. Tôi cũng hiểu biết rằng có nhiều nơi ý kiến bất đồng về ngày đản sanh và ngày nhập diệt của Đức Phật. Nhưng dầu sao chúng tôi cũng tự tin rằng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni giáng sanh, đắc đạo và nhập diệt cũng tại trung Ấn Độ, mà Ấn Độ và các nước trực tiếp về nền Phật giáo theo Ấn Độ cũng đều tin rằng hiện nay Phật Pháp đã qua 2498 năm, dầu đúng hay không chúng ta cũng nên đồng hòa hiệp nhau thống nhứt lại tạo cuộc lễ cho hòa hợp nhau thì càng làm cho được phần long trọng và chúng ta nên tin rằng Đức Phật là một bậc vĩ nhân, ngày sanh và diệt Ngài cũng lựa một ngày cho các hàng môn đệ dễ nhớ, nhứt là ngày rằm thì ít ai quên vậy; không như đạo Gia-tô hiện nay họ vẫn còn mơ hồ, phân vân ngày sinh nhựt của đấng Chúa Trời. Khi dứt bài diễn văn của bác sĩ thì vừa đúng giờ cho chư Tăng độ ngọ nên cuộc khai mạc tạm giải tán.
Đúng 1 giờ thì Hội nghị lại bắt đầu tái họp vào làm việc để xem xét những đề nghị của các nước Phật giáo đưa tới, kỳ họp lần này không phải trong Đại Thạch Động nữa mà ở tại từng thứ nhì, trong một văn phòng rộng rãi lối (10mx30) là một Tăng đường tên Amaragoyāna phía sau Đại Thạch Động, kỳ họp lần này có cả thảy gần 300 đại diện của thế giới và hơn 300 người quan sát viên (observateurs). Phần P.G.N.T.V.N. theo thứ tự mẫu âm Đ.Đ. Bửu Chơn được sắp vào ngày thứ nhì để đọc diễn văn phúc trình sự hoạt động. Đại ý bài diễn văn nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị áp lực của tham, sân, si đè nén nặng nề, muốn chữa trị những chứng bịnh ấy cần phải có một phương thuốc thật hay mới mạnh được, không chi hơn là tất cả nhân loại nên quay về Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách không thù oán, hãm hại, tàn sát lẫn nhau và nên tu tập theo hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để dứt bỏ lần lòng thù oán, vì nếu mỗi người đều giữ giới thì còn ai mà chém giết tàn sát nhau, mà nếu không có chém giết sát hại thì đâu có sanh ra giặc giã chiến tranh. Hơn nữa, cần phải ráng tham thiền để trừ bớt lòng si mê và cho được minh tâm kiến tánh thấy rõ chơn lý của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tự nhiên các bịnh tham, sân, si ấy sẽ lành mạnh, chừng ấy không cần nói cả Thế giới đều được hoàn toàn hạnh phúc và thái bình thạnh vượng.
Trong 3 ngày Hội nghị, hội chia ra làm 4 Ủy ban để bàn luận về 4 vấn đề:
Ủy ban thứ nhứt: Bàn luận về vấn đề “Giáo hóa”, Ủy ban này yêu cầu nên tạo thêm những trường học cho nhi đồng Phật tử, nên lập ra những lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể nên lập ra trường đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới địa phương.
Ủy ban thứ nhì: Bàn luận về vấn đề “trực tiếp với xã hội”, Ủy ban này dẫn dụ rằng: nên giúp đỡ cho xã hội về sự thành lập dưỡng đường, cô nhi viện, nhà riêng cho những người có bịnh hủi và các nơi tiếp độ sức khỏe cho loại thú, nên tiếp độ cho người bị tai hại về nạn chiến tranh hoặc bị tai hại trong lúc thừa hành phận sự trong các cơ xưởng trong các ngành kỹ nghệ.
Ủy ban thứ ba: Bàn luận về vấn đề “truyền bá giáo lý Phật Đà”, Ủy ban này bàn luận rất lâu và sôi nổi, đại khái về sự thành lập trụ sở trung ương và trụ sở địa phương của hội để làm việc về sự truyền bá Phật giáo Thế giới và kế hoạch của sự truyền bá là:
Khởi xướng về sự hành đạo trong xứ đã có Phật giáo.
Trong xứ không có Phật Pháp thì nên tiếp giúp công chuyện từ thiện như Ủy ban thứ nhì, thuyết pháp, nói đạo và tự mình phải thực hành cho đúng đắn theo chánh giáo để làm gương mẫu.
Nên lập những tư thục để huấn luyện cho phái Tăng già và thiện tín về phương pháp và tư cách của các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Bàn luận về vấn đề “hoạt động của Phật giáo Thế giới”, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập sự đoàn kết để làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất cứ là nơi nào, nên thay đổi nhau qua lại về các nhà sư đi truyền giáo và gởi các học sinh Phật giáo đi các nơi, nên thành lập một hội thanh niên nam, nữ Phật giáo Quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ nào có tánh cách về Phật giáo.
Và thông dụng Phật lịch là kể từ Đức Phật nhập Niết-Bàn đến nay đã được 2498=1954, nên bày ra một biểu hiệu chung cho tất cả Phật tử. Về căn bản hoạt động của sự truyền bá của Phật giáo thì nên căn cứ vào Kinh-Luật của Đức Phật, nhứt là mỗi người Phật tử đều giữ ngũ giới cho trong sạch, vấn đề này có 2 nhà sư Bắc tôn ở Lastonie cãi rằng như rượu bia hoặc rượu chát người tu Phật uống cũng được vì nó làm cho sự tiêu hóa dễ dàng, sau một lúc bàn luận, hội bác hẳn lời của 2 nhà sư này, nên trao đổi nhau để ấn tống những tin tức của Phật giáo khắp nơi và lập 1 quyển sách cho biết chung tất cả những ngày lễ của Phật giáo luôn có cả tam qui và ngũ giới theo Pāli. Hơn nữa, nhân danh H.P.G.T.G., xin kêu gọi tất cả các Chánh phủ nên ra lịnh cấm sự chế tạo và dùng đến bom nguyên tử, bom khinh khí và tất cả những khí giới có tánh cách sát hại một lần thật nhiều người, vì muốn đem lại sự an ninh cho nhân loại. Các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những món đồ có tánh cách sát hại như gươm, súng giả v.v…vì nó ám ảnh và khêu gợi tánh nết hung dữ của trẻ con. Sau khi 4 Ủy ban trên đây đề nghị và bàn luận xong lại đưa lên Tổng Ủy ban để biểu quyết chung một lần nữa khi đã đồng chấp thuận mới được đem ra thi hành.
Qua ngày thứ tư thì tất cả phái đoàn trên thế giới được đưa vào Đại Thạch Động để dự kiến 500 chư Tăng Thế giới đang Kết Tập Tam Tạng phần nhì (2ème Session) kế đó đưa đi viếng các nơi Phật tích trong thủ đô Rangoon.
Bắt đầu từ ngày thứ năm sắp lên thì Chánh phủ Miến Điện có sắp đặt cả thảy 52 toa xe lửa thượng hạng để đưa tất cả phái đoàn đi chiêm bái các nơi Phật tích và các bảo tháp thờ Xá Lợi trên xứ Miến Điện như là tỉnh Mandalay là cựu Thủ Đô của xứ Miến và là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm, nơi này có 729 tấm bia đá cẩm thạch chạm đủ Tam Tạng Pāli, mỗi bia đá ấy lại được bảo tồn bằng một bảo tháp vuông vức 2 thước tây bề cao lối 3 thước. Những bia đá này đã tạo ra lối 1 thế kỷ, nên những tấm bia ấy chữ vẫn còn rành rạnh, kế đến viếng xứ Pagan cũng là 1 cựu Thủ Đô của xứ Miến, xứ này có một danh từ đặc biệt gọi là rừng tháp, vì tại xứ này có cả thảy trên 55.000 bảo tháp. Kế viếng xứ Mingun là nơi mà một vị Thánh Tăng đã nhập diệt hơn 3 năm, hiện nay xác Ngài còn quàn mà vẫn không hôi thối. Lúc trở về có viếng một vị Thánh Tăng đương còn hiện tại, nơi xứ Kyaw-sê…
Phương tiện phái đoàn đi chiêm bái, khi hết tàu hỏa sang tàu thủy, xe hơi v.v… Công việc do Chánh phủ sắp đặt hết sức châu đáo, mỗi nhà ga hoặc mỗi thỉnh lỵ để tạm dừng khi thọ thực hoặc giải khát thì Chánh phủ địa phương đều có sửa soạn trang hoàng để tiếp rước rất long trọng. Nếu khi tạm trú trong một đêm, thì có tổ chức các cuộc múa hát bổn xứ để giúp vui cho phái đoàn, công việc đi chiêm bái ấy mất hết cả 9 ngày mới xong, lại đưa phái đoàn trở về Rangoon và sáng hôm sau là đúng ngày 18-12-1954, thì tất cả phái đoàn lần lượt lên đàng về xứ hoặc ai muốn sang Ấn Độ để chiêm bái bốn chỗ động tâm thì đi, nhưng sự tổn phí thì tự mình chịu lấy.
Riêng phần phái đoàn P.G.N.T.V.N. còn nhiều công việc phải thu xếp nên tới ngày 22-12-1954 mới lên đàng về xứ…
Nhưng trước ngày lên đường về xứ, ông Tổng Thống bộ Lễ Ngài U.Win tiếp P.Đ.P.G.N.T.V.N.
Ngày 20-12-1954, P.Đ.P.G.N.T.V.N. được ông U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ tiếp rước nơi biệt thự Ngài rất ân cần và vui vẻ hỏi thăm về công việc tiến hành của P.G.N.T.V.N. Sau khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật lại về công việc Phật giáo ở V.N. và vụ mất trộm Ngọc Xá Lợi độ nọ, Ngài Tổng Trưởng bèn cho biết rằng mới rồi ở sở Khảo cổ có tìm được một bảo tháp sụp đổ tại xứ Sandaw giáp ranh xứ Miến Điện và Ấn Độ do Đức Vua Arakan sáng tạo cách đây hơn 900 năm, trong tháp ấy có nhiều Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán, hiện giờ Chánh phủ đang giao cho ông gìn giữ. Khi nghe Đ.Đ. Bửu Chơn thuật xong Ngài rất cảm động và xin đề nghị với Chánh phủ để hiến cho Phật giáo Việt Nam những Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán ấy.
Lời đề nghị của Ngài rất kết quả, qua ngày 21-12-1954 chính tay Ngài Tổng Trưởng viết một bức thơ và trao những Ngọc Xá Lợi đã kể trên cho Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn), thỉnh về xứ hôm ngày 4-1-1955 và cuộc cung nghinh Xá Lợi đã có tường thuật trong số báo Tín Điển ngày 6-1-1955.
Nguyên văn bức thơ như vầy: Buddhas’Rilics and Arahat Rilics presented by the Hon’ble U.Win, Minister for Religionus Affairs to the Ven’ble Nāga There, Hear of Viet Nam Delegation on the 21stDecember, 1954, was discovered in the ruins of Sandaw Padoga built about 900 years ago by an Arakann king in Sandoway.
Dịch: Tôi U.Win Tổng Trưởng bộ Lễ của xứ Miến Điện, kính tặng những viên Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Tổ và A-la-hán đến Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) trưởng phái đoàn Phật giáo V.N. hôm ngày 21-12-1954. Những Ngọc Xá Lợi này đã tìm ra được nơi một bảo tháp sụp đổ, bảo tháp này đã tạo ra trước đây lối 900 năm do Đức Vua Arakann nơi xứ Sandoway.
 Ký tên: U.Win
 Tổng Trưởng bộ Lễ
 (Ngưỡng Quang) Miến Điện.
           Lúc về có bảy bà tín nữ đã qua Rangoon trước để chiêm bái và chờ kỳ hội nghị nên luôn dịp các bà cũng tháp tùng về theo. Khi về đến Thailand trễ luôn mấy chuyến phi cơ vì không có chỗ. Có nhiều hành khách đã ghi tên trước nên phải ở lại Bangkok hơn 10 ngày vì vậy mà phái đoàn được nhiều thì giờ rảnh rang đi chiêm bái các nơi Phật tích trong Thủ Đô Bangkok nhứt là viếng chùa Phật Ngọc, chùa Cẩm Thạch, tháp thờ Xá Lợi đầu tiên trên xứ Thái tại Nakol Pathom, chùa Preak Bat có dấu chân Đức Phật Tổ cách châu thành Vọng Các hơn 100 cây số. Trong khi lưu trú tại Vọng Các mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo liệu nhứt là cụ Nguyễn Khoa Toàn rất ân cần tiếp đãi.
Đến ngày 4-1-1955, phái đoàn mới ghi được chỗ của hãng Hàng không V.N., và đáp phi cơ về đến phi trường T.S.N vào 18g30 ngày 4-1-1955. Có rất đông chư Tăng và tín đồ đã chực sẵn để đón rước và cung nghênh Xá Lợi về chùa Kỳ Viên.
Lễ Bế Mạc Kết Tập Tam Tạng Lần VI Và Lễ Kỷ Niệm 2500 Phật Lịch Tại Rangoon – Miến ĐiệnTừ 22 Đến 27-5-1956
Lối 1 giờ trưa ngày 18 tháng 4 dl, một số đông chư Tăng, thiện nam, tín nữ Chùa Kỳ Viên đã tập hợp tại chùa để đưa chúng tôi ra phi trường T.S.N. Đi theo tôi có Ô. Nghiêm Xuân Thiện chủ nhiệm tờ báo Thời Luận, gần 14 giờ phi cơ mới cất cánh, hơn nửa giờ thì lại đáp xuống phi trường P.P, chư thiện tín Nam Vang đã chờ sẵn để đón chào chúng tôi; sau khi hành khách lên xuống xong thì con chim sắt lại cất cánh bay thẳng về thủ đô Vọng Các, gần 5 giờ mới đến phi trường Daung Maung (Thái). Khi vừa xuống phi cơ thì đã có các nhân viên của tòa Sứ quán Việt Nam ở Bangkok ra đón rước chúng tôi và rước về nghỉ tạm tại Thủ Đô Vọng Các trong một hôm.
Sáng hôm sau khi độ ngọ trai tại Sứ quán xong lại phải trở ra phi trường Daung Maung để sang Rangoon cho kịp chuyến tàu của hãng hàng không U.B.A. sẽ cất cánh 1 giờ rưỡi trưa. Sau gần 4 giờ mới đến phi trường Rangoon, khi trình giấy thông hành xong chúng tôi cùng về trụ sở của Hội Phật giáo tại Kaba Aye (chỗ Hội nghị).
Nghỉ được vài hôm cho có sức khỏe, đúng ngày 22-4-1956 thì bắt đầu khai mạc cuộc lễ Kết Tập Tam Tạng phần chót, mỗi ngày 500 vị chư Tăng của thế giới phải đến để cộng sự đều vào Đại Thạch Động sớm mai từ 8 giờ cho đến 10 giờ rưỡi, chiều từ 1 giờ cho đến 4g30 mới nghỉ. Làm luôn như vậy cho đến ngày 22 tháng 5 dl là đúng ngày khởi hành cuộc lễ bế mạc, nhưng sự kết tập vẫn tiếp tục làm luôn cho đến đúng ngày 24-5-1956 là ngày rằm mới mãn.
Cuộc lễ này khởi hành từ ngày 22 cho đến 27-5-1956, dưới quyền Chủ Tọa của Tổng Thống và Thủ Tướng Miến Điện, về chư Tăng thì 2.500 vị trên khắp Thế giới được thỉnh đến để dự lễ, ngoài ra còn những người đi xem trên 2 triệu, có tất cả các sứ thần của các nước đến dự, tất cả các xe cộ đều phải đi có một chiều nhưng vậy mà trong ngày 23, 24 trong một khoảng đường độ 5 cây số có tới 4.500 chiếc xe phải bò từ từ đến 3 tiếng đồng hồ mới đến chỗ dự lễ, còn người vì chờ lâu nên xuống đi bộ có hơn 90.000 người trong khoảng đường ấy.
Về chương trình rất dài không thể kể hết được chỉ kể sơ những điểm quan trọng vậy thôi. Chánh phủ cho lập 4 dưỡng đường và 4 nhà thí cơm nước để săn sóc và trợ giúp cho những người tứ phương đến xem lễ. Trong mỗi ngày có 10.000 người đến ăn uống khỏi phải tốn kém chi, có tất cả 6 nhà múa hát để giúp vui trong cuộc lễ và có lập tạm các sở như: Bưu Điện, Thông Tin, Cảnh Sát, Y Tế, Sở Tân Đảo và 1 đại đội quân lính để lo hầu hạ và dâng cúng vật thực đến chư Tăng, Chánh phủ cũng cho triển lãm các vật cổ tích về Phật giáo và các kỹ nghệ, thổ sản trong xứ cho công chúng xem.
Trong khi hành lễ các đại diện trên thế giới đều có đọc một bài diễn văn để chúc mừng cuộc lễ, phái đoàn V.N. cũng có đọc một bài chúc mừng bằng Anh ngữ do Đ.Đ. Bửu Chơn đại diện cho V.N. đọc trước máy phóng thanh xong, nhà báo The Burman có xin để đăng tải. Chánh phủ ra lệnh ân xá cho tất cả tội nhân trên toàn xứ Miến như người bị án tử hình thì được hạ xuống còn chung thân khổ sai, người nào bị từ 1 tháng đến 2 năm được giảm 6 tháng, từ 2 năm tới 10 năm được giảm 2 năm, từ 10 năm sắp lên được giảm một phần ba. Như thế rất nhiều người được trả tự do vì đã mãn hạn, số tội nhân còn lại thì cho nghỉ luôn trong 3 ngày lễ…Về chư Tăng tu theo Phật giáo Nguyên Thủy đến dự lễ thì thấy có Thailand, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Nhựt, Tàu, Tích Lan, Ấn Độ, Népal, Assam, Úc Châu và Đức. Ngoài ra, cũng có mời một số chư Tăng phái Bắc Tông đến dự. Các đại diện Sứ quán của thế giới ở trên đất Miến đều có mặt tại Đại Thạch Động để dự lễ, riêng phần Chánh phủ Thái Lan do một vị Đại tá đại diện đem theo lễ vật như là: tam y, quả bát, quạt và 10 cái dèm (túi) đều có khắc chữ của Chánh phủ Thái Lan xin dâng cho các vị trưởng phái đoàn đã kể trên để làm kỷ niệm. Trong số ấy V.N. cũng được lãnh một phần danh dự do Đ.Đ. Bửu Chơn thọ lãnh đem về chùa Kỳ Viên.
Trong 3 ngày chót là từ 25 đến 27-5, chính tay Tổng Thống và tất cả quan chức cao cấp Miến đều có mặt tại Thạch Động để dâng Tam Tạng, cấp bằng trong cuộc Kết Tập Tam Tạng các món vật dụng cho tất cả 2.500 vị Tỳ Khưu đã cộng sự trong 2 năm trường.
Về chi phí trong cuộc lễ, Hội Phật giáo đã dự trù một số tiền lối 2 triệu 300 ngàn đồng rupies (gần 300 triệu đồng xứ ta) kể sơ về sở tổn trai tăng trong 1 ngày hết 10.000 rupies (gần 80 ngàn đồng xứ ta) về nước giải lao trong buổi chiều hết 1.250 rupies (hơn 100.000 ngàn đồng xứ ta) tổn phí như thế luôn trong 6 ngày đại lễ. Nhân trong dịp lễ ấy, bà Thủ tướng U.Nu có làm lễ xuất gia cho con gái bà và con gái của các vị Tổng Trưởng hết thảy trên 40 người đồng xuất gia theo cô ni trong một thời gian để gieo duyên lành tại chùa Hansāvady, cùng trong dịp ấy bà cũng hộ cho 2.500 giới tử về y, bát để làm lễ xuất gia kỷ niệm cho 2.500 Phật lịch, nhưng số ấy lại tăng thêm lên cho đến 2.618 vị đồng xuất gia một lượt tại trong Thạch Động, cuộc lễ này hết sức long trọng và vĩ đại từ xưa tới nay chưa từng có.
Ngoài ra, hội còn lo cho tất cả chư Tăng ngoại quốc đi chiêm bái các nơi Thánh tích tại xứ Mandalay là chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ Năm và có hàng ngàn cổ tháp đã tạo ra trên ngàn năm trong lịch sử.
Tóm luận trong cuộc lễ vĩ đại tại Rangoon có hàng ngàn ngàn người đến dự nhưng rất đặc biệt là không thấy có bán một nhỏ rượu nào, cũng không ai cãi lộn, đánh lộn, giựt đồ bao giờ, mỗi người đều giữ tròn phận sự mình là lễ bái cúng dường tùy theo sức mình vậy thôi, sở dĩ được thái bình, yên ổn có phải chăng là do một phần lớn ảnh hưởng của Phật giáo đã huấn luyện và đào tạo? Hay là do sự khôn khéo sắp đặt trong guồng máy chánh trị của Chánh phủ Miến? Cho nên mỗi người dân Miến đều thích đi chùa cúng bông hoa và đọc kinh trong mỗi ngày không ngớt. Một điều đặc biệt nhất là trong cuộc lễ lớn lao như thế nhưng không thấy có một sòng cờ bạc nào cho tới bong vụ hay là quay số cũng không có. Nhưng người Miến hình như ưa “xâm mình” nên trong cuộc lễ thấy có rất nhiều chỗ bày ra xâm mình đủ thứ hình các loại, thú, phi cầm họ xâm rất mau lẹ độ trong 10 phút là xong hình một con thú nơi cánh tay hoặc ngực.
Cô Diệu Đáng con Đ.Đ. Hộ Tông đang tùng học tại ni đường Rangoon luôn luôn tới lui hỏi thăm tin tức các bà V.N. có ai qua không? Sau khi cuộc lễ bế mạc xong các phái đoàn trên thế giới đã lần lượt về xứ, phần tôi cũng sửa soạn xin chiếu khán đặng trở về xứ.
Ngày 30 tháng 5 dl, thình lình lại nghe tiếng nói người V.N., từ trên lầu trông xuống thấy Sư Giới Nghiêm và các bà tín nữ đang ngơ ngẩn tìm hỏi phái đoàn V.N. vì điện văn đến trễ nên tôi không biết trước để ra đón tiếp và lo giùm giấy tờ, các bà ấy là: Bà Ngô Thị Lợi, Lê Thị Hương, Trần Thuận Anh, Hà Thúc Hòa, cô Hương và cô Xuân, nhứt là cô Trần Thuận Anh khi đến phi trường mà không thấy tôi ra đón đã phụng phịu muốn rơi nước mắt, nhưng về tới Kaba Aye gặp được tôi thì các bà mới hết lo buồn, sau rốt lại may các bà cũng được chiêm bái răng nhọn Đức Phật, tháp thờ 8 sợi tóc của Đức Phật và nơi Thánh tích khác trong xứ Rangoon và Pegu, rất tiếc là các bà muốn đi Mandalay nhưng hỏi xe lửa cũng không có chỗ, máy bay cũng không, cho đến 8 ngày sau mà cũng chưa có chỗ vì chư Tăng và thiện tín họ tới hàng ngàn ngàn nên sự chuyên chở hành khách rất chậm trễ thành ra các bà phải buộc lòng ghi giấy để trở về Bangkok ngày 6-6-56. Phần Sư Giới Nghiêm có lòng muốn ở lại để học tham thiền trong một hạ, nên các bà từ giã Sư Giới Nghiêm và Sư Thiện Hạnh để lên tàu về xứ.
Khi về tới phi trường Daung Maung vì điện văn đến trễ nên không có Sứ quán V.N. ra rước, nhưng sở hàng không Thái rất tử tế đưa phái đoàn cho đến tận Sứ quán V.N. Trong khi lưu trú tạm tại Bangkok mọi việc đều nhờ Sứ quán lo cho, nhất là ông Mai Văn Hàm Đại sứ toàn quyền V.N. tại Vọng Các rất nhã nhặn, vui vẻ, bình dân đối đãi chúng tôi một cách hết sức thân mật. Trong khi ở Thái được xứ quán đưa cho xem những Thánh tích như là: Chùa Phật Ngọc, Chùa Cẩm Thạch, Chùa Phật nằm, bề dài hơn 46 thước tây, chùa Arūn, chùa Phật bằng vàng nặng lối 1.500 k, tháp vàng chùa Sakêt và tháp Nakon Pathom là một bảo tháp sáng tạo đầu tiên trên xứ Thái Lan.
Con đường hàng không từ Vọng Các tới Saigon rất bất tiện, phái đoàn phải chờ 6 hôm mới có chỗ của chuyến tàu hãng hàng không V.N. về Saigon ngày 12-6-1956 vào lối 12 giờ trưa phi cơ cất cánh mãi gần 7 giờ tối mới đến phi cảng T.S.N. thì đã có bà con chờ đón rước rất đông, sau khi trình giấy tờ xong toàn thể phái đoàn đều về Kỳ Viên Tự.
Hội Nghị Phật giáo Thế giới Lần IV Tại Kathmandu Népal (15-11-1956) Và Hội Nghị Triết Học Tại Newdelhi Ấn Độ (24-11-1956 Đến 30-11-1956) PL.2500
Được giấy mời của Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương tại Kathmandu Népal gửi đến thỉnh tôi và giấy mời của Chánh phủ Ấn Độ do Thủ tướng Nehru gửi đến thỉnh tôi đến Hội nghị Triết học tại Newdelhi vào ngày đã kể bên trên.
Tôi liền đệ đơn lên xin Tổng Thống V.N.C.H. cho phép tôi sang Hội nghị, đến ngày 5-11-1956 tôi liền được lịnh của Tổng Thống ưng thuận cho phép tôi và ông Nguyễn Văn Nẩm, bà Huỳnh Thị Kỳ để sang Népal và Ấn Độ Hội nghị.
Vì bận rộn lo giấy tờ cần thiết để xuất dương mãi cho đến ngày 13-11-1956 mới có chuyến phi cơ của hãng hàng không Air France sang Calcutta vào 8 giờ đêm, nhân dịp ấy cũng có bà Phũ Như ở Phnompenh và bà Diệp Xung, bà Kao Kim Liêng ở Cần Ché cũng đồng tháp tùng theo một chuyến tàu để sang Ấn Độ chiêm bái các nơi Phật tích, thành ra phái đoàn được cả thảy 6 người.
Đúng 20 giờ phi cơ cất cánh, trên tàu các cô bồi hầu toàn là người Pháp cách tiếp đãi với hành khách rất lễ độ, nào là tiếp thắt dây đai chỗ ngồi cho mấy bà già và cắt nghĩa cho hành khách biết dùng áo cứu nguy, khi có sự tai nạn. Ban đêm trên hư không tiết trời lạnh lắm, nên hãng Hàng không phải phát mền len cho hành khách đắp cho đỡ lạnh, vì mệt mỏi suốt ngày, nên khi vừa mơ màng giấc điệp thì có còi báo hiệu cho biết, phi cơ sắp đỗ xuống phi trường Calcutta lối 3 giờ rưỡi sáng, sau khi trình giấy tờ xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về trụ sở của Hội Đại Bồ Đề tạm nghỉ, chờ sáng ra ghi chỗ để lên phi cơ qua xứ Népal, ngày hôm ấy không còn một chỗ nào, phải chờ qua ngày 15-11-1956 mới có chỗ, phi cơ cất cánh lối 7 giờ sáng mãi đến 9 giờ hơn mới đáp xuống phi trường Patna để trình giấy thông hành.
Vì phi cảng nằm giáp ranh với Ấn Độ và Népal nên phải sang phi cơ khác đặng vô xứ Népal, hơn 10 giờ phi cơ mới cất cánh bay sang Kathmandu lối 12 giờ hơn mới đến phi trường Kathmandu, ở đây đã có ban tiếp tân chực sẵn để tiếp rước và đưa các quan khách về chỗ trú ngụ, nhưng khi phái đoàn V.N. đến thì cũng gần đến giờ khai mạc, nên toàn thể phái đoàn đều được đưa ngay lại chỗ Hội nghị. Đúng 1 giờ thì cuộc lễ bắt đầu khai mạc, có Quốc Vương Mahindra và các quan chức cao cấp x�� Népal đến dự, các đại diện trên thế giới đều ngồi trên khán đài, tôi nhìn qua thấy cả thảy 32 nước đến dự như là: Ấn Độ, Lào, Xiêm, Miến Điện, Tích Lan, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Mãn Châu, Tàu, Nhựt, Pháp, Anh, Mỹ, Ý, Đức, Nga, Tiệp Khắc, Hạ huy và Việt Nam v.v… Cuộc khai mạc này trên một bãi cỏ vuông vức lối 5.000 thước vuông, dân chúng tụ họp có trên 200.000 người, cuộc lễ kéo dài đến 5 giờ chiều mới giải tán, tất cả phái đoàn đều được đưa về nhà trọ, còn các nhà Sư thì được đưa đi an nghỉ nơi Ananda Kutti trên núi Swayambhu cách tỉnh thành độ 10 cây số.
Xứ Népal ở gần chơn núi Hy mã lạp sơn nên tuyết trời lạnh lắm, mới tháng 10 mà hàng thử biểu xuống đến 15, 16 độ, sáng ra thấy toàn một góc trời đều tuyết phủ trắng phau. Tỉnh thành đóng đô tại nơi một thung lũng chung quanh đều là núi non bao bọc, sự giao thông rất hiểm trở, trừ phi cơ ra thì muốn vào xứ ấy phải đi đường rừng và leo qua nhiều dãy núi mới vào xứ ấy được, dân số lối 13 triệu, người coi có vẻ mộc mạc, chơn thật và quê mùa nhưng trông có vẻ cảm tình, ưa thờ những thần thánh, có nhiều cổ giáo lạ lùng như Hồi giáo, Hỏa giáo, Bà-la-môn giáo v.v…, về Phật giáo thì xu hướng theo phái Bắc Tông, nên chùa chiền thì hay thờ các vị Bồ Tát, nhứt là Quan Thế Âm, phần nhiều đều chịu ảnh hưởng của Tây Tạng truyền sang. Đường sá thì rất chật hẹp, nhà cửa kiến trúc theo lối cổ nên rất thấp, nhưng nhiều từng và nghệ thuật chạm trổ có lẽ là xưa nhất và rất tinh xảo, chỗ nào cũng có đền vua cũ thuở xưa cho nên có một danh hiệu đặc biệt gọi là xứ đền đài vua chúa (pays des Palaces). Vì mỗi vị vua lên ngôi đều dời đền đi nơi khác.
Chương trình hội nghị
Trong ngày đầu để cho các phái đoàn trên thế giới đọc diễn văn chúc mừng buổi khai mạc và những thông điệp của các Quốc Trưởng gởi đến. Phái đoàn Nguyên Thủy V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn hướng đạo, cũng có đọc một bài diễn văn đại ý nói rằng: Hiện nay nhân loại đang bị bịnh tham, sân, si đè nén nặng nề và lo sợ vì nạn chiến tranh đe dọa, muốn trị các chứng bịnh khổ sở ấy cần phải có một phương thuốc hiệu nghiệm. Vậy không chi hơn là tất cả nhân loại nên thực hành theo Phật giáo, vì Phật giáo có tánh cách bình đẳng từ bi bác ái và không có lòng hãm hại tàn sát lẫn nhau, nên bắt đầu tu tập hạnh bố thí để trừ bớt lòng tham lam, trì giới để bớt lần lòng hãm hại, thù oán, nếu mỗi người mà giữ giới thì còn ai đâu mà chém giết, tàn sát lẫn nhau, mà nếu không có chém giết tàn sát thì đâu còn có giặc giã chiến tranh mà lo sợ. Không những thế ta còn phải cần tham thiền cho thân tâm được thanh tịnh mới phân biệt đâu là chơn thật giả tà và thấy rõ chơn tánh của vạn vật đều là vô thường, khổ não, vô ngã thì tất nhiên các bịnh tham, sân, si khổ não ấy sẽ tự tiêu diệt. Lẽ dĩ nhiên, chừng ấy cả Thế giới đều được thái bình và nhân loại đều được an cư lạc nghiệp.
Cách thức làm việc trong Hội nghị được chia ra làm 4 Ủy ban như sau:
Ủy ban thứ nhứt: Nghiên cứu về vấn đề giáo hóa, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tạo những trường học cho nhi đồng Phật tử, lập các lớp học ngày chúa nhật để dạy cho học sinh am hiểu về Phật giáo và nếu có thể lập ra các trường trung học hoặc đại học về Phật giáo tùy theo khả năng của mỗi trung tâm Phật giáo Thế giới Địa Phương.
Ủy ban thứ nhì: Nghiên cứu về vấn đề trực tiếp với xã hội, Ủy ban này đề nghị rằng: nên tham gia các công cuộc cứu tế xã hội bằng cách thiết lập dưỡng đường, cô nhi viện, trợ giúp các cơ quan cứu tế cho những người bị tai nạn và bảo vệ sức khỏe cho các loại cầm thú.
Ủy ban thứ ba: Nghiên cứu về vấn đề truyền bá Phật giáo trên thế giới, Ủy ban này thảo luận rất lâu, sau cùng đề nghị nên thành lập các trụ sở địa phương để truyền bá Phật giáo theo 3 kế hoạch như sau đây:
Ráng hành động cho cao thượng lên thêm trong những xứ đã có Phật Pháp.
Xứ nào chưa có Phật Pháp thì nên tham gia công cuộc cứu tế xã hội theo đề nghị của Ủy ban thứ nhì, rồi tùy phương tiện thuyết pháp, nói đạo cho công chúng nghe và tự mình phải thực hành cho đúng theo chánh giáo để làm gương mẫu cho người.
Nên lập các giáo đường để huấn luyện Tăng già và thiện tín về phương thế và tư cách cho các nhà đi truyền giáo cùng một khuôn khổ.
Ủy ban thứ tư: Nghiên cứu về sự hoạt động của Phật giáo Thế giới, Ủy ban này đưa ra rất nhiều đề nghị đại khái như là: thành lập tình đoàn kết và làm cho hiểu biết nhau giữa người tu Phật bất kỳ là nơi nào, nên trao đổi các nhà sư để đi truyền giáo và gửi các học Tăng đi học thêm Phật giáo ở các xứ, nên thành lập một hội thanh niên nam nữ Phật giáo quốc tế, nên thông dụng lá cờ Phật giáo trong các cuộc lễ của Phật giáo và thông dụng Phật lịch (là kể từ khi Đức Phật nhập Niết-Bàn tới nay là được 2.500 năm, dl 1956), về căn bản của sự truyền bá Phật giáo thì phải căn cứ vào Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận bằng tiếng Pāli, mỗi Phật tử phải gìn giữ giới luật cho trong sạch, nên viết ra một quyển sách để tất cả ngày lễ của Phật giáo cho được thống nhứt và cách thọ tam qui, ngũ giới cho đúng theo Phạn ngữ. Hội Phật giáo Thế giới còn kêu gọi các nước, nên cấm chế tạo dùng bom nguyên tử và khinh khí cùng tất cả các món khí giới có tánh cách sát hại cả khối người, với mỹ ý mong cầu đem lại sự an ninh cho nhân loại, các nhà Phật tử nên cấm các con em đừng cho chơi những các món đồ có tánh cách khêu khích tánh tình hung dữ của trẻ con.
Bốn Ủy ban này thảo luận xong lại đưa lên cho Tổng Ủy ban để bàn luận chung lại một lần nữa và khi đã được toàn thể Hội nghị chuẩn y thì mới đem ra ban hành và áp dụng.
Trong kỳ Hội nghị này cũng như mấy kỳ trước, nhưng chỉ khác ba điểm quan trọng là:
Trước kia những người nào muốn là hội viên của Hội Phật giáo Thế giới phải đóng 1.000 rupies trong mỗi năm, nhưng bây giờ chỉ sụt lại còn 100 rupies mà thôi.
Những kinh sách bằng tiếng Pāli được phiên dịch ra bằng các thứ tiếng quan trọng trên thế giới, nhứt là Anh, khi mỗi hội viên mua thì được trừ cho 20%.
Trụ sở Trung Ương của Hội Phật giáo Thế giới không được nhứt định để trên một nước nào, nghĩa là tùy nước nào có đủ khả năng thì được luân phiên đem về xứ ấy.
Sau khi 3 ngày Hội nghị xong thì tất cả đại diện và quan sát viên lối 300 vị đều được Chánh phủ Népal đưa cho đi chiêm bái các nơi cổ tích và Phật tích trong xứ, đến ngày chót chính bà Hoàng Hậu xứ Népal đứng ra thết một tiệc trà tại Hoàng cung của Tiên vương để tiễn biệt tất cả các đại diện trên thế giới và luôn dịp bà nhân danh cho Chánh phủ Népal tặng cho mỗi vị trưởng phái đoàn 1 pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng để kỷ niệm.
Đến ngày chót Chánh phủ cấp cho mấy chuyến phi cơ đưa các phái đoàn sang chiên bái vườn Lumbini là nơi Đức Bồ Tát Sĩ Đạt Ta giáng sanh gần giáp ranh với xứ Ấn Độ và làm lễ bế mạc luôn cuộc Hội nghị ấy lối 5 giờ chiều ngày 21-11-1956. Sau khi làm lễ bế mạc xong thì toàn thể phái đoàn đều được đưa đi qua nhà ga Nawgarh để lên tàu hỏa sang Newdelhi dự Hội nghị Triết học vào ngày 24-11-1956. Tại nhà ga đã có Chánh phủ Ấn Độ sửa soạn sẵn sàng để tiếp rước tất cả các đại diện nào đã được Chánh phủ Ấn Độ gửi thông điệp thỉnh đến.
Lối 9 giờ đêm thì tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh ầm ầm xì xịt, mãi cho đến 2 đêm 1 ngày là sáng ngày 23-11-1956 mới đến Newdelhi, ở đây đã có Ủy ban tiếp tân chực sẵn để rước về chỗ yên nghỉ tại Ashoka hotel, khách sạn này của Chánh phủ Ấn Độ đã cất hơn năm nay, mới vừa xong nhưng còn sắp đặt kiến thiết nội dung, cao đến 8 từng, có cả thảy lối 700 cái phòng, trong mỗi phòng bề ngang lối 3 thước rưỡi, bề dài lối 6 thước, bên ngoài có hành lang, mỗi phòng đều có trải khảm bằng lông trừu, có máy làm cho điều hòa, có tủ bàn, tủ lạnh, giường, bàn ghế, phòng tắm có cả nước lạnh, nước nóng, và điện thoại mỗi mỗi đều mới tinh xảo.
Các đại diện chánh thức do Chánh phủ thỉnh đến mỗi nước chỉ được có bốn người, hết thảy gần lối 100 vị mà thôi, nhưng sự tiếp đãi hết sức châu đáo mỗi phái đoàn đều có cho một chiếc xe hơi để túc trực từ sáng cho đến 12 giờ đêm, để đưa rước các đại diện đến chỗ Hội nghị và tới lui trong đô thị, hoặc là đi xem các ban văn nghệ trong buổi tối, luôn như thế cho đến 10 ngày tại Tân-đề-li, riêng nước Cộng Hòa Việt Nam chỉ có tôi và ông Mai Thọ Truyền được Chánh phủ Ấn Độ mời chánh thức nên mỗi việc đều được dễ dàng, còn phần mấy ông và quí bà kia vì không phải Chánh phủ mời đến, nên không được phép ở chung với các đại diện, nhưng cũng được trú ngụ tại chùa Birla Mindia, ăn và ở đều khỏi phải tốn phí chi cả.
Đến ngày 24-11 bắt đầu Hội nghị, các đại diện được đưa đến một nơi biệt thự thật to lớn cũng vừa mới cất xong, kiến trúc theo nhà hát tây, chứa đựng lối 1.000 người, rộng rãi, mỗi chỗ ngồi đều có bàn viết và ống nghe các thứ tiếng, do thông ngôn dịch lại. Đúng giờ khai mạc cuộc lễ rất long trọng, chính Tổng Thống Prasad và Thủ tướng Nehru đến dự lễ khai mạc, trong khi ấy cũng có Thủ tướng U.Nu Miến Điện, và hai vị lãnh đạo tinh thần của xứ Tây Tạng là Penchen Lama và Dalai Lama đến dự. Cuộc Hội nghị trong bảy hôm để thảo luận và bàn luận về bốn vấn đề:
Để bàn luận và trưng bày những nghệ thuật (art of Buddhism) của Phật giáo trong mỗi xứ, nhất là các kiểu mẫu tháp, chùa và hình tượng của mỗi xứ Phật giáo.
Bàn luận về văn hóa, có liên quan đến Phật giáo như các thi thơ hoặc học đường v.v… được do ảnh hưởng và hấp thụ theo Phật giáo.
Bàn luận về Kinh Luật của Phật giáo, áp dụng trong mỗi xứ, như cách nào còn chánh truyền và cách nào không còn phải là chánh truyền.
Bàn luận về sự thực (hành đạo) theo Phật giáo trong mỗi nước, như có nước cũng mang tiếng là theo Phật giáo, nhưng sự thờ cúng rất phức tạp, như thờ nhiều vị thần linh, hoặc ông này bà nọ đầy trong chùa, hoặc các nhà sư cũng có khi cũng có vợ con, và cũng ăn cơm chiều cũng như người thế v.v…
Sau khi bàn luận bảy hôm mới xong, Thế giới đều công nhận hễ là tu theo Phật giáo thì cần phải thực hành cho đúng theo Kinh, Luật, Luận Pāli y theo đường lối của Đức Phật đã giáo truyền trong 45 năm, sau khi Hội nghị xong, Thủ tướng Nehru có thết một ngọ trai tại tư dinh của ngài, để cúng dường đến chư Tăng Thế giới đã thỉnh đến Hội nghị, luôn cả thân quyến của ngài cũng đều đến dâng cúng vật thực cho chư Tăng.
Trước một hôm khi tất cả phái đoàn sẽ từ giã Tân-Đề-Li để lên tàu hỏa đi chiêm bái các nơi Phật tích, thì Tổng Thống Prasad có tạo một tiệc trà tại dinh ngài để tiễn biệt các vị đại diện, ngài thân hành ra khách đường để chào mừng quan khách một cách thân mật, luôn hôm ấy cũng vừa được tin một vị hòa thượng V.N. pháp danh Huệ Quang đi Hội nghị Phật giáo tại Népal luôn tiện Ngài qua Ấn Độ để chiêm bái, chẳng may vì tuổi già, đến 76 tuổi nên chịu không nổi với sự vất vả và lạnh lẽo, nên ngài tịch vào lối 6 giờ chiều ngày 2-12-1956, tại dưỡng đường Newdelhi, vì mỗi người đều có phận sự riêng, và giấy tờ ghi xong nên rất tiếc phái đoàn không có ai ở lại được để đưa đám táng của ngài.
Sáng hôm sau, nhằm ngày 3-12-1956, lối 9 giờ thì tất cả phái đoàn trên thế giới lên tàu hỏa để đi Sanchi viếng một cổ tháp thờ Xá Lị Đức Phật, kiến trúc đẹp nhứt đã tạo từ thời vua A-Dục rồi đi xứ Agra để viếng Taj Mahal là một kỳ quan thứ 7 của thế giới làm toàn bằng đá cẩm thạch, đi viếng xứ Savathi nơi chùa Bố Kim Tự là chỗ mà Đức Phật thường hay ngự trong khi còn tại thế, đi Kusinara để viếng chỗ mà Đức Phật nhập đại Niết-Bàn, đi xứ Balanai (Benares) để viếng vườn Lộc Giả, chỗ Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu cho năm thầy Kiều Trần Như, kế đi viếng xứ Patna cựu thủ đô của vua A-Dục, và nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, xong lại quay qua xứ Vương Xá Thành (Rajagaha) để viếng trường Malanda một cựu đại học đường Phật giáo rất có danh tiếng hồi thế kỷ thứ XII và XIII và viếng chỗ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất tại thạch động Sattapparani, chùa Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvana Vihara) suối ôn tuyền, thạch động chỗ ĐĐ. Ca-Diếp thường cư ngụ, chỗ núi Kicchayutta Kỳ Xà Quật chỗ Đức Phật thường ngự, và nơi có nhiều ngạ quỉ nhất, và chỗ Đề-Bà-Đạt-Đa lăn đá xuống để giết Phật v.v… Xong lại trở qua Bồ Đề Tràng (Bodhi gayā) để chiêm bái chỗ Đức Phật thành đạo, chỗ rắn bảy đầu đến che cho Ngài trong khi mưa to gió lớn, chỗ Ngài đi kinh hành, xóm cô Sojatā dâng cơm trộn sữa dê cho Ngài, con sông Ni-liên chỗ Ngài tắm xong mới thành đạo v.v… cũng tại Bồ Đề Tràng, tất cả các đại diện đều làm lễ bế mạc, cuộc đi chiêm bái và giải tán tại đây, nhưng Chánh phủ cũng đưa phái đoàn nào về ngả Calcutta cách đây độ 500 cây số mới giải tán, cuộc chiêm bái này kéo dài gần 2 tuần mới chấm dứt, tổn phí đều do Chánh phủ đài thọ. Riêng phần tôi không được cái hân hạnh đi chiêm bái với phái đoàn Chánh Phủ, vì còn mấy bà con đi theo, không được Chánh phủ cho phép đi chung với các vị đại diện, quan khách của Chánh Phủ, nên tôi phải tách ra để hướng dẫn phái đoàn V.N. đi chiêm bái riêng, nhưng cũng được đi các nơi như Chánh phủ hướng dẫn, chỉ phải trả có phân nửa tiền tàu hỏa mà thôi. Nhưng rất may là đi đến đâu nhờ có tôi là khách của Chánh Phủ, nên họ cũng tiếp đãi tử tế, và được ở ngay nhà trọ (Rest house) của Chánh phủ luôn cả phái đoàn cũng được ở khỏi phải tốn kém chi (nên biết rằng lúc này các nhà trọ, các nhà nghỉ mát, khách sạn đều có người giữ chỗ trước hết, vì những người đi chiêm bái đến hàng ngàn người, nên không có chỗ ở, phải ngủ đỡ nơi hành lang mấy nhà trọ, hoặc ngoài đường ngoài sá chẳng hạn, rất cực khổ vất vả lắm…)
Vì phái đoàn tách riêng ra nên đi đến chỗ nào muốn ở bao lâu cũng được, thành ra mãi đến 17-12-1956 mới về đến Calcutta ở tại hội Bồ Đề trong 3 hôm nhằm 20-12-1956, mới có chuyến phi cơ đi xuống xứ Madras, tỉnh thành này cũng to lớn, dân số có đến hơn 6 triệu, phần nhiều là dân Tamil, có nhiều phong tục kỳ dị là hay ăn trong lá, đàn ông thì phần nhiều thì đeo bông, còn đàn bà thì xỏ mũi để đeo bông, đeo kiềng và hay xâm mình cho đẹp, mấy ngón cẳng hay đeo cà rá, phái đoàn phải chờ 5 ngày mới có chuyến phi cơ để đi Tích-Lan, còn rộng ngày giờ nên được đi viếng các nơi trong đô thị, nhứt là viếng trụ sở Trung Ương của hội Thông thiên học tại vườn Adya cách tỉnh thành Madras độ 20 cây số ở dọc theo mé biển, nên khí hậu mát mẻ và phong cảnh rất kì quan, ở đây phái đoàn được ông Hội Trưởng và Tổng Thơ Ký tiếp rước rất nồng hậu.
Đúng ngày 25-12-56, phái đoàn đều lên phi cơ để bay qua Tích Lan, phi cơ cất cánh lối 12 giờ trưa, mãi gần đến 4 giờ chiều mới đến phi trường Colombo, vì có đánh điện văn cho hay trước, nên Đ.Đ. Narada có cho hai người đem hai chiếc xe hơi ra tận phi trường để đón rước phái đoàn về chùa Vajirārāma cư ngụ, tôi và ông Công Minh thì được ở lại chùa, còn mấy bà thì được đưa đi ở nơi nhà của bà Salgado thiện tín của chùa ở gần đấy, tới đây ai nấy cũng đều mỏi mệt, nhưng cũng ráng đi chiêm bái các Phật tích trên xứ Tích Lan, rất may nhờ Đ.Đ. Narada cho hay, nên có Sư Hộ Giác đến chờ, vì Sư ở xa Colombo hơn 100 cây số ngàn, phái đoàn có mướn được một chiếc xe để đi chiêm bái trong 6 hôm các nơi Phật tích như là: Xứ Anuradhapura, chỗ con Vua A Dục đem cây bồ đề qua trồng đầu tiên hơn 2200 năm nay mà vẫn còn sống, kế viếng xứ Mahintale chỗ Đại đức Mahinda bay qua đầu tiên, đứng trên một trái núi hóa hào quang ra để độ Đức Vua Devanampatissa đặng truyền bá Phật Pháp trong toàn xứ Tích Lan, núi Sigiriya, chỗ một đền vua cất trên chót núi, xứ Polonaruwa cựu thủ đô của một vị vua hộ trì Phật Pháp, xứ Badula để viếng một ngôi chùa làm trong hang núi rất cực kỳ mỹ thuật, viếng Aloka Vihara chỗ Chư Thánh Tăng cu hội lại để Kết Tập Tam Tạng lần thứ tư, và chép kinh hữu tự ra trước hết trong lịch sử. Viếng xứ Kandy chỗ thờ răng nhọn của Đức Phật, viếng xứ Mahiyangamma chỗ Đức Phật bay qua lần đầu tiên, viếng xứ Haton để chiêm bái dấu chân Đức Phật đạp để trên chót núi Siripāda khi Ngài bay qua xứ Tích Lan lần thứ ba, còn rất nhiều chỗ Phật tích khác nữa, nhưng không có đủ thì giờ, vì còn phải ghi giấy để về Singapore nên phải trờ về Colombo, trong kỳ đi chiêm bái này rất vui vẻ và thú vị lắm, vì có Sư Hộ Giác và một nhà Sư Nhật cùng đi theo, riêng phần ông Công Minh không được hưởng chung hạnh phước này, vì ông than mỏi mệt và đau chân, phần thì gần hết tiền, lại than van ăn ka-ri hoài đứt ruột không chịu nổỉ, nên ông ở lại chùa để ăn cơm Tàu cho tiện.
Qua đến ngày 7-1-1957 mới có chuyến phi cơ bay qua Singapore của hãng hàng không B.O.A.C, riêng phần bà Diệp Xung người Tàu nên giấy tờ rất khó khăn lắm, không thể đi về bằng phi cơ được, nên bà phải về bằng tàu thủy đến Saigon một mình, mấy ngày sau thành ra phái đoàn buộc lòng phải từ giã bà để lên phi cơ về trước với tấm lòng ngùi ngùi vì bỏ bà ở lại đi tàu một mình.
Sáng ngày 7-1-1957 thì phái đoàn phải ra phi trường Talamana để lên phi cơ của hãng hàng không B.O.A.C của Anh, đúng 7 giờ 30 thì phi cơ cất cánh bay qua Ấn Độ Dương, mãi cho đến chiều 6 giờ 30 mới đến phi trường Singapore nhờ có gởi thơ cho hay trước nên có nhân viên Sứ quán V.N. tại Tân-Gia-Ba ra đón rước và lo giấy tờ giùm, xong lại được đưa về nhà khách sạn của hãng hàng không an nghỉ. Còn phần tôi thì được đưa về chùa Sirilanka do một nhà sư Tích Lan cai quản, nhà sư này cũng là bạn thân đã quen biết với tôi từ lâu nên khi gặp nhau thì hết sức vui mừng, vì đi qua Singapore chỉ lưu trú tạm nên không được ở lâu, nhưng rất may nhờ có Hội Phật giáo Thế giới Địa Phương hay tôi đến nên sáng ra đã đến thăm và sắp đặt một chiếc xe sẵn sàng để đưa phái đoàn đi viếng tỉnh thành Singapore và các chùa chiền trong xứ, châu thành này dân số lối 1 triệu rưỡi, phần đông toàn là người Huê kiều, chiếm hầu hết các phần thương mãi trong đô thị. Tại đây đồ hàng hóa rất rẻ vì không có đánh thuế nhập cảng, châu thành thì đóng theo dọc bờ biển nên rất mát mẻ, sạch sẽ và thẩm mỹ.
Sau khi đi chiêm bái khắp châu thành thì tôi được thỉnh về thọ trai tại chùa Sirilanka, thọ trai xong lại phải đưa ra phi trường liền cho kịp giờ lên phi cơ, đúng 12 giờ 30 thì phi cơ cất cánh, theo đường cũng không có chi lạ, khi phi cơ bay qua vừa khỏi biển đến đất liền thì còi báo hiệu phải thắt dây đai, vì phi cơ sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất lối 3 giờ 30 chiều ngày 8-1-1957, khi lo giấy tờ xong đã có ông Nguyễn Văn Hiểu và bà ra trước đón rước, nên được đưa về chùa Kỳ Viên trong lúc 4 giờ. Tại chùa đã có chư thiện nam tín nữ chực sẵn đầy chùa để chào mừng phái đoàn trở về được bình an.
Tóm luận, kỳ Hội nghị này hết sức long trọng vì Chánh phủ Ấn xuất ra một số tiền rất nhiều, lối 75 triệu đồng rupies (600 triệu đồng bạc xứ ta) để sửa sang đường sá cầu kỳ, cất nhà trọ, đem đèn nước đến tận nơi, các xứ có Phật tích cho người đến chiêm bái dễ dàng, thuận tiện, và có mỹ ý để phục hưng lại nền Phật giáo trên đất Ấn. Tất cả phái đoàn lại được Chánh phủ Ấn Độ tặng cho mỗi vị một biểu hiệu bằng bạc của cuộc lễ, một cuốn album, một khuôn tháp bằng đồng đen kiến trúc nhái theo kiểu tháp Sanchi và rất nhiều sách để làm kỉ niệm.
Bài Phúc Trình Của Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn Trưởng Phái Đoàn Phật giáo VN
Dự Lễ 2500 Năm Kỷ Nguyên Phật giáo Tại Phnompenh – Cao MiênTừ Ngày 11-5-1957 Đến 18-5-1957
Ngày 9-5-1957 có lệnh của phủ Tổng Thống phái tôi làm trưởng phái đoàn Phật giáo và Thượng Tọa Thích Trí Thủ phái viên cùng ông Trần Thành Hiệp làm thơ ký để dự lễ 2.500 kỷ nguyên Phật giáo tại Phnompenh Cao Miên.
Vì ông thầy tế độ tôi tịch nên tôi đã về Phnompenh trước mấy hôm. Tôi phải đến tòa đại diện Chánh phủ V.N.C.H. tại Phnompenh lãnh nhiệm vụ lệnh ngày 11-5-1957, còn Thượng Tọa Thích Trí Thủ vì lý do sức khỏe nên không đến dự được. Chánh phủ phái Đ.Đ. Hộ Giác thay thế, còn ông Trần Thành Hiệp thì cũng vắng mặt luôn thành ra phái đoàn V.N. chỉ có tôi và Sư Hộ Giác mà thôi.
Lúc 4 giờ chiều hôm ấy lại được thiệp của Đức Vua Cao Miên mời tất cả phái đoàn trên thế giới vào triều đình để Ngài chào mừng và yết kiến Ngài. Phái đoàn V.N. được sắp ngồi nơi hàng ghế danh dự trước mặt Đức Vua và Hoàng Hậu, Đức Vua bắt đầu chúc mừng cho tất cả các phái đoàn, đại khái Ngài nói rằng: Với danh nghĩa của Quốc Vương và luôn cho cả dân tộc Cao Miên, xin cầu chúc cho tất cả phái đoàn đều được dễ dàng trong mọi tiện nghi và yên vui trong khi lưu trú trên lãnh thổ của Ngài. Ngài nói bằng tiếng Cao Miên do thái tử Sihanouk thông dịch lại bằng tiếng Anh và Pháp, kế đó các phái đoàn đều được phép đáp lời lại để phúc chúc Ngài tùy theo phái đoàn nào muốn nói. Trước hết phái đoàn Úc châu chúc mừng cho Ngài xong thì phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Bửu Chơn liên tiếp chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu bằng tiếng Anh, đại khái nói rằng: Xin thay mặt cho Phật giáo V.N. và toàn thể Phật tử cầu cho Đức Vua và Hoàng Hậu và luôn cả dân tộc Cao Miên đều được yên vui khỏe mạnh để hộ trì Phật Pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi thái tử Sihanouk thông dịch xong thì Đức Vua đáp từ lại bằng tiếng Cao Miên, tôi liền trả lời lại bằng tiếng Cao Miên Sadhu, Đức Vua và Hoàng Hậu hết sức ngạc nhiên hỏi tôi biết tiếng Cao Miên sao? Tôi trả lời rằng tôi biết tiếng Cao Miên rành vì trước kia tôi có tùng sự với Chánh phủ bảo hộ Pháp hơn 10 năm tại Kim Biên. Đức Vua và Hoàng Hậu rất mừng rỡ và nói rằng chúng tôi không dè nước V.N. cũng có Phật giáo Nguyên Thủy như chúng tôi. Rồi Đức Vua xin thành tâm cầu chúc cho quí Ngài được khỏe mạnh vẹn toàn để truyền bá chánh giáo của Đức Thế Tôn trên lãnh thổ V.N. Kể từ đó về sau mỗi khi trò chuyện thì dùng tiếng Cao Miên theo Hoàng phái, khi các phái đoàn chúc hạ cho Đức Vua và Hoàng Hậu xong rồi giải tán.
Tất cả phái đoàn đều được đưa về một biệt thự mới cất tinh xảo để trú ngụ, riêng phần phái đoàn V.N. đều là các nhà Sư nên ở nơi ấy bất tiện vì phải chung chạ cả nam lẫn nữ, nên chúng tôi xin về ở chùa Mohamontrey cho thanh tịnh. Chánh phủ Cao Miên cũng ưng thuận và có cấp cho chúng tôi một chiếc xe hơi để tùy nghi sử dụng, cho một ông thiếu úy để hầu cận, một người hạ sĩ quan và một chiếc xe moto có còi để hộ tống chúng tôi trong khi đi dự lễ.
Sáng ngày 12-5-1957 là ngày khai mạc cuộc lễ phải cung nghinh Ngọc Xá Lỵ Đức Phật Tổ từ đền Vua đến an vị nơi chỗ hành lễ (trước nhà gare xe lửa). Trước hết Đức Vua Cao Miên lên diễn đàn đọc diễn văn khai mạc xong, thì kế Đức Vua Sãi cũng đọc một bài diễn từ ý nghĩa nói về cuộc lễ kỷ niệm 2500 kỷ nguyên Phật giáo vừa xong thì hết buổi sáng. Đến chiều thì có cuộc lễ xuất gia cho 2.500 vị Tỳ Khưu và những người thọ trì thập giới được lịnh mời đến nơi hành lễ để Đức Vua Sãi ban huấn từ dạy dỗ theo phận sự trong Phật giáo, xong thì tất cả những vị ấy được dâng những lễ vật của tín thí đem đến cúng dường. Đến tối thì có thuyết pháp, dưng cộ về sự tích của Đức Phật, đốt pháo bông và tiếp tục luôn những cuộc diễn hành khác để giúp vui trong cuộc lễ.
Sáng ngày thứ hai 13-5-1957 nhằm ngày rằm tháng Vesakha (tháng tư âm lịch) chính ngày lễ Tam hợp là Phật Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết-Bàn, nên cuộc lễ cử hành suốt ngày và đêm càng thêm long trọng hơn hôm trước vì người đến xem lễ có trên 400.000, nào những lá cờ bay phất phới trên các dinh thự phố xá, những tiếng còi xe lẫn với tiếng người và tiếng truyền thanh kêu la inh ỏi làm cho một quang cảnh hết sức tưng bừng náo nhiệt luôn như thế trong cả 7 ngày lễ.
Mỗi buổi sáng lối 9 giờ đều có cuộc lễ để bát cho 2.500 vị Tỳ Khưu do tín đồ các nơi đem đến cúng dường. Sáng hôm rằm có cuộc lễ truyền giới “bát quan trai” cho tất cả thiện nam tín nữ trên khắp lãnh thổ Cao Miên bằng đài phát thanh, xong đúng 8 giờ tất cả các phái đoàn trên thế giới có Đức Vua Cao Miên và Hoàng Hậu cùng tất cả những quần thần trong triều đình và nhân vật quan trọng trong Chánh phủ Cao Miên đều có mặt tại khán đài. Khán đài này chia làm hai bên, bên tả là người thế, bên hữu chư Tăng, ở chính giữa thì một cái đài thật cao tạm tôn trí Ngọc Xá Lỵ trong khi hành lễ.
Hôm ấy, thái tử Sihanouk kiêm Thủ tướng lên đọc diễn văn để khai lễ, xong thì lần lượt tất cả 15 phái đoàn đến dự đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, vì sắp theo thứ tự của mẫu âm nên phái đoàn Australie Úc châu được lên phát biểu ý kiến trước nhứt, kế Miến Điện, Tích Lan, Tàu, Nhựt, Anh, ���n Độ, Pháp, Lào, Mã Lai, Việt Nam miền Bắc, Việt Nam miền Nam, Thái Lan, Nga và Hoa Kỳ. Đại ý trong các bài diễn văn cũng không chi lạ hơn là cầu chúc cho cuộc lễ được thành tựu mỹ mãn và sẽ đem lại nhiều điều hạnh phúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu luôn cả dân tộc Cao Miên cũng như tất cả nhân loại trên thế giới. Các phái đoàn thì phát biểu ý kiến bằng tiếng Anh, Pháp, hoặc tiếng bổn quốc của mình, duy có phái đoàn V.N. do Đ.Đ. Nāga Thera (Bửu Chơn) lãnh đạo lên đọc ba thứ tiếng là Việt, Cao Miên và Anh làm cho các phái đoàn hết sức hoan nghinh và chú ý, riêng về dân tộc Cao Miên thì lấy làm thỏa thích lắm, vì tôi nói tiếng họ một cách lưu loát và rõ rệt.
Chiều lại lối 4 giờ thì tất cả các đại diện của các Hội Phật giáo đều được mời lên đài phát thanh để phát biểu ý kiến, tôi liền phái Sư Hộ Giác thay mặt cho Phật giáo Nguyên Thủy V.N. lên phát biểu ý kiến bằng hai thứ tiếng Miên và Việt, sau cùng bài diễn văn có tuyên bố cúng vào cuộc lễ 25.000$ do tín đồ chùa Kỳ Viên Saigon, tín đồ việt kiều Phnompenh góp sức, nên rất được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Tối hôm ấy, cuộc lễ tiến hành luôn cho đến sáng, nào tụng kinh đọc kệ thuyết Pháp đúng 5 giờ sáng thì đốt pháo bông tượng trưng hình ảnh Đức Phật hóa hào quang ra sáu màu ở trên hư không để làm tiêu biểu khi Đức Phật thành đạo trong lúc rạng đông.
Sáng ngày 14-5-1957 sau khi điểm tâm xong thì tất cả các phái đoàn trên 40 người được Chánh phủ Cao Miên sắp đặt đưa đi viếng Đế Thiên Đế Thích ở Siêm-Réap bằng hai chiếc phi cơ, lối 10 giờ thì phi cơ đến phi trường Siêm-Réap, tại nơi đây đã có ban Tổ chức địa phương chực hờ sẵn để rước phái đoàn về cư trú nơi Grand Hotel, còn các nhà Sư thì được đưa đi cư ngụ riêng nơi một biệt thự, trong hai ngày ban Tổ chức đưa đi xem các kỳ quan thắng cảnh. Các phái đoàn chưa từng đến Angkor Wat thì đều tấm tắc khen ngợi cho là một kỳ quan vĩ đại, còn riêng phần tôi thì đền Angkor không lấy gì làm lạ vì tôi đã có viếng nhiều lần…
Sau hai ngày đi du lịch nơi đền Angkor đến sáng ngày 16-5-1957, lối 9 giờ thì tất cả các phái đoàn được đưa lên phi cơ để trở về Phnompenh. Tối hôm ấy có lịnh của Đức Vua cho mời các vị trưởng phái đoàn vào cung để dự yến, theo lẽ thì tôi không nên đi vì buổi chiều không có ăn uống chi được, nhưng vì nhân danh cho một phái đoàn, buộc lòng tôi phải vào cung cho có mặt vì không có ai thay thế, nên tôi phải thân hành đến nơi để cầu chúc cho Đức Vua và Hoàng Hậu được quý thể an khương và để hộ trì Phật pháp cho được tấn hóa lâu dài. Khi tôi vào đến nơi thì Đức Vua và Hoàng Hậu đều đứng dậy chấp tay vái chào rất cung kính và mời ngồi nơi ghế của Thủ Tướng bên cạnh Ngài để hàn huyên chuyện vãn. Ngài hỏi thăm việc truyền bá Phật giáo trên đất nước V.N., sau cùng Ngài nhân danh Chánh phủ Cao Miên và cho tất cả dân tộc Ngài để cầu chúc cho tôi và cả dân tộc V.N. đều được luôn luôn khỏe mạnh để thực hành theo giáo pháp của Đức Thế Tôn cho được mau đến nơi giải thoát. Sau khi dùng nước giải lao xong thì tôi đứng dậy kiếu từ Ngài và Hoàng Hậu để trở về chùa.
Hôm sau, 17-5-1957 lối 8 giờ sáng thì các phái đoàn đều được mời đến dự lễ Vua cày ruộng, khi cuộc lễ khởi hành thì có một vị quan và một cung phi thay thế cho Đức Vua và Hoàng Hậu ra cầm cày đi ba vòng. Cuộc lễ này có ba cặp bò trang sức rất uy nghiêm. Vua cầm cày đi trước, theo sau là Hoàng Hậu hốt lúa rải theo trong ba vòng mới thả bò ra cho ăn đồ để trong bảy cái mâm là: cỏ, lúa, bắp, đậu, mè, nước và rượu. Chỉ có hai con bò được thả cho ăn, nhưng con nào ăn trước món nào, thì tùy theo đó mà bàn theo cổ truyền của Bà-la-môn, nếu con bò ăn cỏ thì trong năm ấy súc vật có nhiều bịnh dịch, như ăn lúa thì lúa trúng mùa, ăn bắp, đậu mè thì các món ấy được dồi dào, còn như uống nước thì sẽ có mưa nhiều và bị nước lụt, còn như uống rượu thì trong nước sẽ có nổi loạn, hoặc bị trộm cướp. Nhưng năm thì bò ăn đậu và bắp mà thôi, nên ai nấy cũng bàn năm nay hai thứ ấy sẽ trúng mùa nhiều hơn hết. Khi đúng 11 giờ là xong cuộc lễ “Cày Ruộng”. Chiều lại thì dự lễ phóng xả tội nhân, đến tối lúc 8 giờ lại phải vào dinh Thủ Tướng để dự bữa tiệc của Ngài thết đãi để tiễn hành các phái đoàn. Tôi không ăn uống chi nhưng cũng phải vào dinh Ngài. Khi tôi và Sư Hộ Giác đến thì Thủ tướng Sihanouk đứng dậy chấp tay vái chào chúng tôi và thỉnh chúng tôi ngồi vào chỗ Ngài ngự, còn Ngài thì ngồi ghế gần bên cạnh để hầu chuyện. Vì Ngài đã có xuất gia nên rất cung kính chư Tăng, Ngài rất vui vẻ ân cần hỏi thăm điều nọ lẽ kia, vì chúng tôi nói toàn là tiếng Cao Miên (theo tiếng cả nhà vua) nên Ngài thích lắm. Sau khi chúng tôi độ nước giải lao xong, đứng dậy nhân danh cho V.N. cầu cho Ngài và cho nước Cao Miên được thái bình thạnh trị. Ngài nhân danh cho Chánh phủ và dân tộc Cao Miên ngỏ lời cám ơn Chánh phủ V.N. đã phái quí Ngài đến dự lễ và cũng cầu chúc cho chúng tôi được đầy đủ sức khỏe để truyền bá chánh giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sáng ngày 18-5-1957, lối 8 giờ thì phải đến dự lễ Đức Vua an vị Ngọc Xá Lị vĩnh viễn trên một bảo tháp đã cất xong gần trước nhà gare Phnompenh. Chiều lại dự lễ thuyết pháp Kết Tập Tam Tạng, xong thì Thái Tử Sihanouk lên đài phát thanh đọc diễn văn để bế mạc cuộc lễ vào lối 5 giờ. Đồng thời có còi báo hiệu và bắn luôn 25 tiếng súng đồng để công bố lên cho quần chúng biết cuộc lễ đã bế mạc.
Tóm luận, trong cuộc lễ kỉ niệm 2.500 năm Phật giáo tại Cao Miên hết sức long trọng không thể nào mô tả cho hết được. Những chi tiết về phái đoàn V.N. đã thâu thập được nhiều kết quả vẻ vang, như hôm ngày khai mạc, được Đức Vua Sãi tuyển lựa bốn vị cao Tăng để biếu lễ vật là một pho tượng Phật đá cẩm thạch và một bộ tam y, trong ấy nước V.N. cũng được lãnh một phần danh dự và hôm ngày bế mạc cũng được tặng cho một pho tượng bằng bạc, hơn nữa rất được Đức Vua và các quan triều thần kính nể, nhứt là gây nhiều cảm tình thân mật giữa hai quốc gia Miên-Việt.
Sau khi bế mạc còn có ít phận sự phải lo xong cho nên mãi đến ngày 21-5-1957, mới đáp phi cơ của hãng hàng không Việt Nam về xứ.
Dự Hội Nghị Quốc Tế Về Lịch Sử Tôn Giáo Lần Thứ IX Tại Tokyo Ngày 27-8-1958 Đến 9-9-1958
Ngày 19-7-1958, chúng tôi được lịnh bộ Ngoại Giao Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép sang Đông Kinh (Nhựt Bổn) để dự Hội nghị Quốc Tế về lịch sử Tôn Giáo lần thứ IX, cùng đi theo có ông Ngô Ngọc Cửu làm thơ ký.
Sau khi lo những giấy tờ thường lệ xong, đến ngày 9-8-1958 chúng tôi xuống tàu Cambodge của hãng hàng hải Messageries Maritimes Saigon lối 4 giờ chiều, có chư Đại đức trong ban Chưởng Quản GHTGNTVN và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiễn đưa chúng tôi xuống tàu. Nhưng mãi 8 giờ sáng hôm sau tàu mới nhổ neo, đúng giờ tàu từ từ rời bến, tôi đứng trên boong tàu trông xuống không thấy một người quen nào, cảnh bến tàu cũng không náo nhiệt như buổi chiều hôm qua, ngoài những nhân viên của hãng hàng hải Messageries Maritimes và các công chức của sở Thương Khẩu thì bến tàu vắng hoe. Tôi vẫn đứng xem phong cảnh nước nhà dọc theo những khúc quanh quẹo con sông Saigon, lối 11 giờ trưa thì tàu ra đến Vũng Tàu, chiếc tàu Cambodge vẫn vô tình lướt sóng trực chỉ thẳng Hải Cảng Manila (Phi-Luật-Tân), bây giờ tàu lần lần ra bể khơi và không còn thấy tâm dạng chi của bờ bến cả, giữa một vùng nước xanh rì mịt mù khơi trong cõi xa xăm, dưới một bầu trời quang đãng.
Ngoài tôi và ông Cửu ra, không có một hành khách Việt Nam nào, toàn là những du khách ngoại bang, chuyến này tàu chở lối 600 hành khách, mãi đang ngắm cảnh thình lình có còi báo hiệu cho biết đã đến giờ ăn (11 giờ 15) tôi và ông Cửu xuống phòng ăn, xong về phòng an nghỉ, trong phòng có đủ các tiện nghi nào điện thoại, máy lạnh, máy nóng, phòng tắm, phòng rửa mặt v.v… Theo lệ, 4 giờ chiều thì hãng tàu cho hành khách uống trà, đồng thời hôm ấy còi báo hiệu cho biết tất cả hành khách đều phải mang “phao hộ thân” theo (Sauvetàge) lên trên boong tàu của mỗi hạng để cho vị thuyền trưởng tập dượt và điều khiển vì hôm ấy có hơi sóng gió. Trong lúc tàu chạy, ngoài ra trời, nước, sóng, gió và tiếng ì ầm của động cơ thì cũng không có chi lạ, tôi nhân dịp ấy ráng làm xong hai bài diễn từ để đọc trong khi Hội nghị, xong việc trong lúc nhàn rỗi, tôi vì tánh xã giao mới làm quen với ông Saddier đại úy làm bác sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes, vì ông hay đi tới đi lui trên boong để xem hành khách có bịnh hoạn chi, nhân tiện để hỏi thăm về sự hoạt động của chiếc tàu Cambodge.
Ông thuật lại với tôi tàu này có đến 188 người làm công từ quan tàu cho đến thủy thủ, tổn phí lối một triệu đồng quan mỗi ngày, bề dài 168 thước, bề ngang 18 thước, bề sâu từ mặt nước lên đến chót cột buồm 32 thước, từ mặt nước trở xuống 7 thước 25, cả thảy lối 40 thước, có 7 từng từ A đến G, ở dưới đáy chở hàng hóa, từng ba A thì chở hành khách, hạng tư và hạng ba, từng B phòng ăn hạng nhứt và hạng nhì, phòng nấu ăn và phòng giải trí, giải lao cho hạng di lịch từng C thuộc về hạng du lịch, hạng nhì, phòng nhân viên cao cấp như cò tàu, bác sĩ v.v… và cũng có ít phòng cho hạng nhứt. Từng D toàn là phòng hạng nhứt, từng E phòng đọc sách, khiêu vũ, phòng viết thư, phòng giải khát, sân đánh Ping-pong, thảy banh tròn và hồ tắm của hạng nhứt, từng F có phòng vô tuyến điện, phòng nhân viên coi lái tàu và phòng giải trí trẻ con, từng G những máy móc để chỉ huy tàu chạy hoặc khi cập bến, máy Radas để coi chừng đá ngầm dưới nước, hoặc tàu bè phía trước trong lúc sa mù, ống viễn thị và những hiệu lệnh của hoa tiêu, tốc độ trung bình khoảng 40 cây số 1 giờ.
Ngoài ra, khi ông rảnh còn hỏi thăm về giáo lý của Bắc Tông và Nam Tông, vì ngoài giờ nghỉ trưa ra tôi lên phòng đọc sách cho khỏi chóng mặt và tiêu khiển thì giờ nên ông thường hay đến bàn luận về triết lý, có khi ông thỉnh tôi về phòng ông để giải lao, ngoài ra còn có hai ông bà René Sutra, bác sĩ khoa học và vật lý học ở tại Paris cùng đi một chuyến tàu, hai ông bà không theo đạo nào cả, nhiều khi thấy tôi ngồi yên lặng trên boong tàu nhìn ra biển khơi, ông bà lại gần xin lỗi hỏi thăm, sau khi được biết tôi đi dự Hội nghị Tôn Giáo Thế giới nên từ đó ông bà luôn luôn hay lại hỏi thăm về đạo lý của Phật giáo, vì ông bà đã có từng đi du lịch các nước Phật giáo Nam Tông. Ông bà nói chúng tôi không theo đạo nào, nhưng chúng tôi khảo cứu các nguồn tôn giáo, riêng chúng tôi thích nhất chủ nghĩa Phật giáo vì có tánh ôn hòa, từ bi, bác ái và rộng lượng khoan hồng hơn các tôn giáo khác. Màn đàm luận cho tiêu khiển thì giờ, mãi cho đến ngày 12-8-1958 lúc hơn 10 giờ sáng thì tàu mới cập bến Hải cảng Manila (Phi-Luật-Tân), mọi người đều được phép lên bờ giải trí, chỉ có tôi và ông Cửu không được phép lên bờ, vì trong Passe-Port không có để cho vào xứ ấy, tuy nhiên tôi cũng không chịu thua họ, tôi bèn gọi điện thoại cho Sứ quán V.N. tại Manila đến lãnh giùm, nhờ sự can thiệp của Sứ quán mà trong nửa giờ sau có xe của Sứ quán đến rước chúng tôi lên bờ đến viếng thăm Sứ quán, sau câu chuyện hàn huyên Sứ quán có đưa xe cho chúng tôi đi viếng thủ đô Manila gần 3 tiếng đồng hồ mới đưa chúng tôi xuống tàu, vì tàu sắp nhổ neo trong lúc 7 giờ tối. Nhưng còn nhiều việc trễ nãi, nên mãi đến 10 giờ đêm tàu mới nhổ neo trực chỉ thẳng đến Hông Kông, tàu chạy hơn 2 ngày 2 đêm mới đến hải cảng Hồng Kông vào lúc 9 giờ sáng ngày 14-8-1958. Hải cảng này rất dễ mỗi hành khách đi thông qua đều được phép lên bờ để viếng cảnh nên chúng tôi không có làm rộn đến Sứ quán chỉ có gọi điện thoại cho hay vậy thôi, vì tàu cập bến không lâu nên không có đến viếng Sứ quán chỉ lên bờ để viếng cảnh và xả hơi, vì mấy ngày ở dưới tàu cũng có hơi chóng mặt, ở đây phần nhiều đều nói tiếng Anh và tiếng Quảng Đông, nhà cửa rất nguy nga, đồ sộ có đến 16, 17 từng nhưng vuông dài như cái hộp quẹt, đồ hàng hóa rất rẻ vì là một hải cảng tự do không có đánh thuế thương khẩu. Nên ngành thương mãi rất phồn thịnh, trên bờ thì có nhiều loại xe chuyên chở hành khách nhứt là xe ô-tô buýt 2 từng, dưới sông thì tàu bè đậu dài theo hải cảng như xuồng đi chợ tết chen lại dày đặc, hai bên thì đều là hòn đảo nên phi trường phải làm khơi ra ngoài biển, phong cảnh trông rất ngoạn mục.
Đến 7 giờ tối hôm ấy, thì tàu rời bến trực chỉ thẳng đến xứ mặt trời, lối 5 giờ chiều ngày 15-8-1958, tàu chạy ngang đảo Đài Loan (Formose) trông thấy một hòn đảo đồ sộ xanh rì ở giữa bể khơi, chung quanh bao bọc những sương mù dường như che đậy không muốn cho ai khám phá những sự bí mật của đảo ấy, tàu Cambodge vẫn ầm ầm lướt sóng cũng không để ý gì đến đảo Đài Loan.
Mãi đến 3 giờ chiều ngày 17-8-1958, tàu mới cập bến hải cảng Kobé là một hải cảng to lớn thứ nhì xứ Nhật Bản, đến đây những hành khách du lịch phần nhiều đều lên bờ, tàu đậu ở đây hơn một ngày một đêm nên chúng tôi lên bờ viếng vài ngôi chùa, mãi đến 10 giờ đêm ngày 18-8-1958 tàu mới rời hải cảng Kobé thẳng đến hải cảng Yokohama đến 3 giờ chiều ngày 19-8-1958 tàu mới đến Yokohama. Hải cảng này to lớn nhứt trong xứ Nhật Bản, tàu bè đậu dọc theo hải cảng như xuồng đi chợ tết ở xứ ta. Hổm rày cỡi thuyền quá hải chinh đông vẫn được sóng lặng, bể êm, nhưng khi tàu gần cặp bến thì liền phát dông to gió lớn, vì vậy mà tàu phải khó khăn lắm mới cặp bến xong thì đã 4 giờ chiều. Tôi ở trên boong tàu trông xuống coi có ai quen không, nhưng không thể phân biệt là ai được toàn là một làn sóng người Nhật vô số vẫy tay, giở nón ra hiệu chào người mình muốn đón rước, tôi thấy một nhóm người có hai nhà Sư Nhật cứ vẫy tay ngay tôi, tôi phỏng đoán có lẽ họ đến rước mình chăng? Nhưng sự đoán của tôi không sai, sau tàu cập bến và trình những giấy tờ thường lệ, xong chúng tôi kêu được người khuân hành lý lên bờ thì có 2 nhà Sư và 2 người thế đến vái chào và tiếp rước chúng tôi và cho biết rằng Hội đồng ban Tổ chức Khoa học có phái ông Phó Thơ ký ra đón rước chúng tôi về nhà trọ Ymca gần chỗ Hội nghị Sankeikaikan đi bộ lối 10 phút, nhà trọ này chỉ dành riêng cho người nam mà thôi, người nữ không được phép trú ngụ, có nhà trọ khác chỉ tiếp rước riêng biệt người nữ, nhà trọ này cả thảy 8 từng, trên 6 từng và dưới đất 2 từng có đến gần 700 phòng.
Đô thị Tokyo thật to lớn, dân số gần 9 triệu, chiều dài đến 60 cây số ngàn, bề rộng lối 40 cây số ngàn, đường phần nhiều không tên, nhà không số, chỉ có tên từ khu, khóm vậy thôi, phần nhiều mỗi nhà đều có máy radio và vô tuyến truyền hình còn điện thoại thì dày đặc chỗ nào cũng có, nhưng lạ một điều là không khi nào nghe tiếng ồn ào của radio như ở xứ ta. Khi họ cần họ chỉ mở vừa cho trong nhà nghe thôi ngoài đường thật sạch sẽ không thấy ai buôn gánh bán bưng, hoặc ăn uống ngoài đường như xứ ta, hoặc cãi cọ ồn ào, cũng không thấy những người hành khất đi xin ăn hoặc trẻ con chạy giỡn chơi la ó ngoài đường, mỗi người hình như đều lo phận sự riêng của mình, vẫn yên lặng mà đi, mua bán thì có giá để sẵn khỏi cần phải trả giá. Về sự chuyên chở đi lại thì rất rẻ và dễ dàng: như xe điển, xe taxi, xe autobus, xe điển chạy trên nóc nhà, xe chạy ở dưới hầm ngầm ở dưới đất, có luôn cả nhà hàng buôn bán ở dưới hầm ấy nữa, không có xe cyclo, xe gắn máy và xe đạp rất ít, thành phố to lớn như thế nhưng ít thấy có người tàn phế đi xin ăn ngoài đường, một điều lạ là không thấy người phụ nữ nào có thai đi ngoài đường bao giờ. Bổn tánh người Nhật ưa thích chưng bông vì vậy mà có lối 300 trường dạy học cách chưng bông khắp trong các tỉnh lỵ xứ Nhật, mỗi khi ra trường thi đậu thì có thể làm Giáo sư hoặc làm việc coi về cách chưng bông cho các hãng to hay công sở. Tại Tokyo có hơn 50 đại học đường còn ở Kyoto thì có lối 40 đại học đường dạy đủ các ngành kỹ nghệ, văn hóa và chuyên nghiệp, mỗi người Nhật, nam hoặc nữ cũng phải học ít lắm tới trung học vì vậy mà xứ Nhật ít có người mù chữ.
Về tôn giáo thì có nhiều phe phái khác nhau như Khổng giáo, Lão giáo, Công giáo, Phật giáo và Võ Sĩ đạo (Shintoism), đạo này thờ những tấm kiếng tròn vo như mặt trời tượng trưng cho các vị thần phò hộ trong nước cho được thái bình, họ cho rằng các vị thần này lúc còn sống thì phò vua giúp nước, khi thác thì thành thần, vì vậy mà họ rất trọng và thường đến cúng vái các đền thờ này rất tấp nập. Mỗi khi họ đến chiêm ngưỡng họ thảy vào thùng ít đồng bạc, kéo chuông nghe rôn rổn vỗ tay hai lần xong cúi mình lui ra. Còn về Phật giáo thì chia làm nhiều phái như: phái Thiên Thai, phái Shingon (Mật Tông), phái Jodo (Di Đà), phái Nichiren (trì tụng Diệu Pháp Liên Hoa kinh sẽ thành Chánh giác), phái Thiền Tông (Zen Buddhism) phái này chuyên môn về thiền định để giải thoát, vì vậy mà phái này hiện còn đương thạnh hành lắm, có nhiều chùa chiền thật to lớn, địa thế chiếm gần bằng một châu thành nhỏ, có chỗ thanh tịnh để cho nhà Sư và thiện tín riêng biệt để tham thiền, hôm ấy có các phái đoàn Thế giới đến viếng, họ lấy cây đập thử mấy người đang tham thiền nghe chan chát cho mình xem. Trong các phái to lớn này còn có rất nhiều phái nhỏ khác nữa không thể kể hết được.
Chương trình và thể thức hội nghị
Chiều ngày 27-8-1958, tất cả các đại diện trên thế giới cả thảy 32 nước đều đến trình diện lãnh hồ sơ và chương trình nghị sự. Tôi nhận thấy các nước ấy là: Úc châu, Áo, Bỉ, Canada, Miến Điện, Tích Lan, Pháp, Đức, Anh, Ấn Độ, Ý Đại Lợi, Thái Lan, Việt Nam, Do Thái, Afghanistan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Hoà Lan, Thụy sĩ, Norway, Nam Dương quần đảo, Tân-Gia-Ba, Hồng Kông, Triều tiên và Mỹ quốc, Nhật v.v…
Sáng ngày 28-8-1958, lối 9 giờ thì Hội nghị khai mạc, bắt đầu bằng một bản âm nhạc du dương, hóa dịu của tiếng đờn tranh do các phụ nữ Nhật chuyên môn biểu diễn, sau một hồi nhạc thăng trầm, xướng ngôn viên lần lượt xướng danh từ người để lên đọc diễn văn khai mạc. Hôm ấy có ông bà hoàng Mikasa em Đức Vua Thiên Hoàng làm Chủ Tọa danh dự.
Hội nghị chia ra làm 3 phần. Phần thứ nhứt chia ra 4 nhóm: nhóm A) Bàn về sự khởi thủy các tôn giáo; nhóm B) Bàn về cổ giáo; nhóm C) Bàn về sự hoạt động các tôn giáo hiện tại; nhóm D) Bàn về các vấn đề tổng quát. Phần thứ nhì, chia ra làm 2 nhóm: A) Hội họp chung tất cả các đại diện trên thế giới để bàn luận chung trong 5 phiên; B) Chia ra làm 12 vấn đề Hội nghị bàn tròn trong 3 ngày, mỗi ngày 4 vấn đề, hội viên tùy thích vấn đề nào thì vào bàn luận với phe ấy. Phần thứ ba, đi châu du các xứ như là: Nikko, Kamakura, Ise, Tenri, Nara, Tokyo và Kyoto để khảo cứu các chùa chiền về văn hóa, kỹ thuật và cổ tích.
Kỳ Hội nghị này là lần đầu tiên ở xứ Á châu, vì các kỳ trước kia đều toàn là họp ở Âu châu cả. Tuy nhiên, cuộc Hội nghị đem lại nhiều kết quả tốt đẹp là được hiểu biết lẫn nhau về tôn chỉ và giáo lý của các tôn giáo khác nhau. Sự tổ chức hết sức chu đáo như trong lúc Hội nghị bàn luận đều có tốc ký viên ghi chép, thu thanh, quay phim, nhiếp ảnh, phát thanh và vô tuyến truyền hình, mọi việc đều sẵn sàng, êm đềm hòa thuận trật tự, do nhờ sự sắp đặt khéo léo của ban Tổ chức.
Hội nghị đề xướng rằng nên khuyến khích, học hỏi, nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo Âu châu và Á châu cho hiểu biết lẫn nhau, để đánh tan sự hiểu lầm giữa người Âu và Á cho rằng: quan niệm của sự văn minh Âu châu đối với các tôn giáo hoàn toàn là vô hiệu quả. Về mặt các tôn giáo không nên giải thích và cho rằng một giáo lý hoặc một quan niệm riêng biệt của mỗi phe mỗi phái, hoặc dùng quyền lực đàn áp sự tín ngưỡng của người khác, nhưng trái lại nên cho rằng là một việc làm cho được phát triển nền đại học văn hóa của thế giới, là một đặc tính của sự tư tưởng làm cho sinh hoạt và giá trị của mỗi cá nhân và nhân loại mà thôi.
Một giải pháp về các tôn giáo, là nên thân cận và trao đổi ý kiến tốt đẹp giữa Âu-Á không về mặt chủ nghĩa giáo lý, nhưng với mục đích là khởi xướng sự hiểu biết lẫn nhau về các tôn giáo dưới hình thức văn hóa, theo sự nhu cầu của khoa học hiện đại.
Hội IAHR (The International Association for the History of Religions) khuyên tất cả các đại diện trên thế giới nên thành lập một ban IAHR địa phương, ban này khi thành lập xong nên gửi tên ngay cho tổng hội IAHR thì sẽ được tham dự làm hội viên. Các nước sau đây đã hứa sẽ lập một ban IAHR địa phương như: Ấn Độ, Nhật Bản, Ả Rập, Miến Điện, Pakistan, Triều Tiên và có thể vào để đảm nhiệm chức vụ trong Tổng Ban Chấp Hành của IAHR, nếu được đại hội đề cử và chấp thuận. Năm 1960 hội IAHR sẽ họp tại Marburg (Đức quốc) và có lẽ năm 1963 sẽ họp tại New-Delhi (Ấn Độ) nếu xứ này thành lập xong ban quản trị địa phương.
Sau khi khai mạc đến ngày thứ nhì, tới phiên phái đoàn Việt Nam do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn hướng dẫn lên đọc diễn từ nói về lịch sử Phật giáo xứ Việt Nam và một bài nói về quan niệm của Phật giáo, sau khi thuyết trình xong vị Chủ Tọa có hỏi thính giả 3 lần ai có muốn hỏi chi không, nhưng họ vẫn yên lặng vì lí lẽ trong diễn từ rõ và hợp lý nên không ai bác bẻ chi cả.
Nguyên văn bài diễn từ bằng tiếng Anh như vầy:
THE TEACHINGS OF THE BUDDHA BY NĀGA THERA (BỦU CHƠN)
In the name of Việt Nam Theravada Sangha Order, I congratulate all Brothers and Sisters coming from any continent of the world to attend this useful Symposium.
I have the honour and opportunity to speak a few world in this solemn Symposium which is very interesting to all Nations.
Whether all Religions in the world are different forms but the aims are almost similar. The Islamism has the thought of “Peace” and they adore the St.Josaphat which name is derived from Buddhist Bodhisatta. The Hinduism has the aim of “Ahimsà-Harmlessness” then they consider Buddha as their Vishnu avatāra-incarnation of Vishnu. The Protestant has the ideal of “Neighbourliness”. Rationalism considers Buddha as a Greatest Thinker. The Confusius taught: The viser has to make like a non-intelligent one, the powerful man considers himself as a weak one, the richman does not forget when he was poor. As for Buddhism is “Mettā-loving kindness”. Therefore all Religions have the similar aims e.g. friendliness, harmlessness, neighbourliness, helpfulness and loving kindness. In Pāli, the language of Buddhist ures, Mettā is known under the name of “Brahma vihāra”, this term may be rendered by: excellent lofty or sublime state of mind, or alternatively, by Brahma-like or divine Abode.
It is said to be excellent or sudlime, because it is the right, or ideal, way of conduct towards all living beings. This attitude of mind provides in fact the answer to all situations arising from social contact. It is the great remover of tension, the great peace-maker in social conflict the great healer of wounds suffered in the struggle of existence, leveller of social barriers, builder of harmonious communities, awakener, of slumbering magnanimity long forgotten reviver of joy and hope long abandoned, promoter of human brotherhood against the forces of egotism. It is incompatible with a hateful state of mind, and in that is akin to Brahma who is conceived as the hateless one, inbeneficial contrast to many other conceptions of deities, in East and West, who by their own devolees, are said to show anger, wrath, jealousy and “righteous indignations”.
He who assiduously develops this Subline state, by conduct and meditation, is said to become an equal of Brahma and if one becomes the dominant influence in his mind, he will be reborn in congenial worlds, the Realms of Brahma. Therefore this state of mind is called God-like, Brahma-like. It is called Adobe, because it should become mind’s constact dwelling place where our mind feel “at home”, it should not remain merely place of rare and short visit, soon foggotten. In the other words, our mind should become thoroughly saturated by it. Mettā should become the inseparable companion of our days, and we should be mindful of it in all our common activities as far as it has any concern with this mental attitude. As in the Mettā sutta quotes: When standing, walking, sitting, lying down; whenever he feels free of tiredness; let him establish well mindfulness; this, it is said, is the Divine Adobe.
The Doctrine of the Lord Buddha is not noly Mettā loving-kindness but there are many other ways for practising. In the Tripitaka-Three Baskets, we have 84.000 of Dhamma. But the Buddha summarizes them in one Pāli stanza thus: Sabba pāpassa akaranaṃ. Kusallass’ upasampadā. Sacitta pariyoda panaṃ. Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ. That is to avoid all bad actions to flourish all merits, to purify one heart, that are the teachings of all Buddhas.
Moreover, the foundations of Buddhism is based on Law of Cause and Effect and the Four Noble Truths. A pure Buddhist should not believe or implore to the other Powerful Gods or any Supernatural Being or even the Buddha who might give us the happiness or painfulness, pure or impure but one has to recourse to oneself, as the Buddha said: Attāhi attāno nātho, kohi nātho paro siyā- e.g. One should have to recourse oneself, not by the other’s protection. The same way, in the Catholic Bible says: As thou sowest, so thou shalt reap.
The teachings of the Buddha calls Buddhism, it is Western term The Buddha Wasa Man, Buddhist should not regarding Him as a God, do not pray to him “Dependence on the others for Salvation is negative, dependence on oneself is positive”. To depend on another is to shelve making the effort, and to lose one’s independence.
Buddha is not a name, but an appellation, meaning Englishtened One. Former Buddhas have existed in the past ages, and other Buddhas are expected in the future, the present Buddha is Gautama or Sakyamumi. All Buddhas teach the same Doctrine. Among us whether we are Buddhist or not, we should learn and practice the “Science of Life” that is we must control ourselves the deed, speech and thought, do not let them discard the wholesome volition or the other words we should follow the “Noble Eighfold Path with embodies eight principles or rules of conducts, then one can improve the happiness in this very life as well as in the future’s. The Lord Buddha had foresighted that, in the future, His disciples would mistake Him as a Redeemer of the world or a Powerful God, then they engage only in the ritual ceremony of worshiping, and they do not set forth to practising the Dhamma, in other to escape all sufferings. So He recommended to His disciples as the following Pali stanza: Tumhehi kiccaṃ ātappaṃ – Akkhātara Tathāgatā. // Patipañño pamokkhanti – Jhāyino māra bandhnā. That is, you have to practice diligently the Dhamma, all Buddhas are only showing the way, if you follow the Path that I had shown, then you will escape the ties of the Māra or difilements, so you safety reach the stage of Salvation.
All these arguments testify that Buddhism is absolute and rationalist Doctrine which is not grasping on Atheism, Heresy or others power in order to get Deliverance. I am sure that, if the moderm world tries to understand and usefulness of Buddhism which teaches the mankind to be non-violent but compassionate, then the whole world would be peaceful. Finally, I hope that this significant Symposium will bring happiness and cordiality to all Nations.
Bản dịch:
Bài diễn từ của Đại đức Bửu Chơn – Nāga Thera trong kỳ Hội Nghị Lịch Sử Tôn giáo Thế giới lần thứ chín tại Đông Kinh.
GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT
Nhơn danh cho Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, tôi xin chúc mừng tất cả các huynh đệ nam, nữ trên khắp Thế giới đến dự Hội nghị Triết học hữu ích này.
Tôi lấy làm may mắn và danh dự được phát biểu ít lời trong kỳ Hội nghị Triết học long trọng này, nó rất hữu ích cho tất cả quốc gia.
Mặc dù tất cả Tôn giáo có hình thức khác nhau nhưng tôn chỉ gần giống nhau như: Hồi giáo có quan niệm “hòa bình” và họ tôn sùng vị thánh Josephat mà danh từ này tương đồng từ nguồn gốc “Bồ đề tát đỏa” của Phật giáo, Ấn giáo có tôn chỉ là “vô hại” họ cho Đức Phật như là một hiện thân của vị thần Vishnu của họ. Tin lành giáo có quan niệm là “tương thân” hay tương trợ lẫn nhau. Hợp lý giáo hay Thuần lý giáo thì cho Đức Phật là một bậc “đại tư tưởng”, Khổng giáo thì dạy rằng: Người trí thức nên làm như người ngu muội, người có quyền thế nên tự cho mình như kẻ yếu hèn, người giàu sang không nên quên mình trong lúc hàn vi. Còn về Phật giáo thì có bản chất “từ bi, bác ái”, vì vậy mà tất cả các tôn giáo đều có tôn chỉ tương đồng là: tình huynh đệ, không hãm hại nhau, tương thân tương trợ và từ bi bác ái.
Pāli là thứ tiếng dùng trong Kinh nhà Phật, thì tiếng Metta – Bác ái còn gọi là Brahma Vihāra = Phạm hạnh, danh từ này còn có nghĩa là: vô lượng cao quí hay là trạng thái cao thượng của tinh thần hay nói một cách khác là sự ưa mến của các bực phạm hạnh hay là “nơi mà tâm các vị Thần tiên cư trú”.
Sở dĩ nói là vô lượng cao quí là vì có quan niệm hành động chân chánh đối với tất cả chúng sanh, vì trạng thái của tâm bác ái để đối phó lại hay là trả lời cho tất cả trường hợp xảy ra trong sự trực tiếp với xã hội. Chính tâm ấy rất quan trọng trong sự dứt bỏ tình trạng căng thẳng giữa đôi bên. Nó làm cho xã hội xung đột nhau được hòa bình, nó làm cho lành mạnh những vết thương đau khổ trong sự tranh đấu của đời người, nó bẻ gãy hàng rào giai cấp của xã hội, nó xây dựng một xã hội nhu hòa, nó thức tỉnh cho lòng rộng lượng đã bỏ quên từ lâu đời, khiêu gợi lại sự vui vẻ và hy vọng đã hoang phế, nó khởi xướng tình huynh đệ của nhân loại và gạt bỏ sức lực mạnh mẽ của sự ích kỷ, nó không thích hợp với trạng thái ghét vơ của tâm hồn.
Và chính tâm bác ái ấy rất thân cận với trời “Phạm Thiên” là bực không có tâm thù oán và sân hận, nó trái ngược lại với những quan niệm của các Thần Giáo khác, ở Á cũng như Âu châu, do sự sùng tín của họ mà có khi tỏ ra ganh tỵ, sân hận, giận dữ, công phẫn mà họ cho là việc làm chánh đáng. Người nào siêng năng thực hành đức tánh cao cả này bằng sự tham thiền thì người ấy trở nên đồng đẳng như trời Phạm Thiên, và nếu tâm người ấy được thấm nhuần phép thiền định về bác ái thì sau khi chết sẽ được tái sanh về cõi trời ấy, như thế nên mới gọi trạng thái của tâm này là “như Chư Thiên hoặc như Phạm Thiên”.
Còn nói về sự cư ngụ là tâm luôn luôn phải khắng khít ở trong pháp bác ái ấy cũng như chỗ ở của mình, chớ không phải chỗ mà mình chỉ đến viếng cấp thời rồi quên đi mau chóng. Nói một cách khác, là tâm của chúng ta nên luôn luôn khắng khít vào đấy. Hằng ngày lòng bác ái như người bạn không rời chúng ta và trong tất cả mọi sự hành vi luôn luôn phải chủ tâm đến nó, cho đến tất cả những sự việc nào có liên quan đến trạng thái của tâm này. Cũng như trong Kinh bác ái có giải rằng: Dù khi đi, đứng, ngồi, nằm, bất luận trong lúc nào mà không mỏi mệt thì nên cố gắng niệm lòng bác ái, như vậy nên mới gọi là “chỗ cư ngụ của Chư Thiên”.
Giáo lý của Đức Phật chẳng phải có tâm bác ái mà thôi nhưng còn rất nhiều cách thực hành khác nữa. Trong Tam Tạng còn có đến tám muôn bốn nghìn pháp môn, nhưng Đức Phật tóm lại trong bài kệ Pāli như vầy: Phải tránh xa các điều ác, nên làm các điều lành. Trau tâm cho trong sạch, đó là những lời giáo huấn của chư Phật. Hơn nữa, Phật giáo căn bản trên Lý nhân quả và Tứ diệu đế.
Người Phật tử thuần thành không nên tin tưởng và van lơn khấn vái với các thần lực hoặc một nhân vật siêu phàm xuất chúng nào, dầu cho Đức Phật, để đem lại cho ta vui hay khổ, trong sạch hay nhơ bẩn, nhưng trái lại con người phải tự nương nhờ lấy mình như Đức Phật có nói: “Tự mình hãy nương nhờ lấy mình chớ không nên nương nhờ hoặc cầu cứu nơi kẻ khác”, cũng như thế ấy trong kinh Thánh của đạo Gia-tô có nói: “Người gieo giống nào, người sẽ gặt lại giống ấy”. Đức Phật là một nhân vật như chúng ta, người Phật tử không nên coi Ngài như một vị Thần linh, không nên cầu khẩn Ngài. Trong Phật giáo không có sự nhờ người khác mà giải thoát, nhưng phải tự lực mình mới giải thoát được cho mình. Sự do nhờ nơi kẻ khác tức là làm ngăn trở sự cố gắng và làm cho ta mất sự tự lập và tự chủ.
Đức Phật không phải là một cái tên, nhưng đó chỉ là một danh từ kêu gọi vậy thôi, thật ra Phật có nghĩa là “Một đấng đã giác ngộ hay sáng suốt”. Trong thời quá khứ cũng có nhiều vị Phật và cũng sẽ có những vị Phật trong thời vị lai, còn trong hiện tại là Đức Phật Gautama hay Sakyāmuni đang giáo truyền.
Tất cả chư Phật đều giảng dạy đồng một giáo lý, chúng ta ở đây dầu là Phật tử hay không cũng nên luyện tập một “cuộc đời thanh khiết”, là chúng ta nên tự kiểm điểm mọi sự hành vi của thân, khẩu, ý đừng cho nó hoạt động ngoài phạm vi của pháp thiện, hay nói một cách khác là chúng ta nên thực hành theo “Bát chánh đạo”, con đường có 8 chi để trau dồi hạnh kiểm của mình, nếu được như vậy thì con người tự mình có thể làm cho tăng trưởng nhân vị của mình và hạnh phúc trong kiếp hiện tại và trong những kiếp vị lai.
Đức Phật Ngài đã có viễn kiến thấy rằng, trong ngày vị lai các hàng môn đệ của Ngài có thể lầm tưởng Ngài là một “Bậc Cứu Thế” hoặc là một “Vị Thần Linh”, như vậy họ chỉ chuyên cần theo nghi thức lễ bái cúng dường mà thôi chớ không quan tâm thực hiện theo giáo lý của Ngài đặng thoát khỏi sự thống khổ. Nên Ngài mới căn dặn các hàng môn đệ như vầy: “Các người hãy cố gắng thực hành theo giáo pháp, tất cả chư Phật chỉ là người chỉ đường vậy thôi, nếu các người thực hành con đường Như Lai đã chỉ thì sẽ thoát khỏi sự cột trói của Ma vương (hay là phiền não), như vậy thì các người mới đến nơi giải thoát một cách an toàn”.
Tất cả những bằng chứng đã kể trên để minh định rằng Phật giáo là một giáo lý tuyệt đối hợp lý, không cố chấp vào thần linh, tà thuyết hay do nơi năng lực của kẻ khác mà được giải thoát sự thống khổ. Tôi dám quả quyết rằng, nếu Thế giới văn minh mà khoa học này mà hiểu được sự lợi ích của Phật giáo đã giáo hóa nhân loại không có tàn ác, bạo ngược nhưng trái lại có tâm bác ái, rộng lượng, khoan dung thì Thế giới sẽ chắc chắn được hưởng sự “hòa bình”. Đến đây tôi mong ước sao cho cuộc Hội nghị “Lịch sử tôn giáo” có đầy ý nghĩa này sẽ đem lại sự hạnh phúc và tình thân ái cho nhân loại và các quốc gia.
Bài này sau lại hội đồng trong ban Tổ chức được tuyển chọn và in ra sách để gởi đi khắp các nơi trong các Đại Học Đường Nhật Bản để cho sinh viên học hỏi.
Sau khi Hội nghị xong, các phái đoàn đều được đưa đi chiêm bái và khảo cứu các xứ đã kể trên, phần nhiều chùa chiền của Phật giáo và phái Võ sĩ đạo, kiến trúc rất đẹp và nguy nga đồ sộ, các đền thờ của võ sĩ đạo thì phần nhiều lợp bằng vỏ cây theo cổ truyền, thật dày trong 20 năm mới thay lợp lại một lần. Ở trước đền khi vào ngay cửa chính thì thấy một sợi dây rơm thắt lại bằng cườm tay là tiêu biểu của sự đoàn kết về võ sĩ đạo, còn các chùa Phật giáo thì thường cất nơi thanh vắng và trên núi non.
Các phái đoàn đi chiêm bái lần lần đến xứ Kyoto một cựu thủ đô xứ Nhật đúng ngày 9-9-1958, lối 11 giờ trưa, Ban Tổ chức và các phái đoàn cu hội tại Đại Học Đường Kyoto và tuyên bố bế mạc Hội nghị nơi ấy.
Trong lúc Hội nghị có sáu bữa tiệc để thết đãi các phái đoàn, ngày thứ nhứt do ông Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học và ban Tổ chức thết đãi, ngày thứ nhì do đức Hoàng Tử Mikasa, ngày thứ ba do ông Nobusuke Kishi Thủ tướng Nhật, ngày thứ tư do ông Bộ trưởng bộ Giáo dục tổ chức, ngày thứ năm do ông Vương Ngoại xứ Tenriko, ngày bế mạc do ông Giám đốc đại học đường Kyoto thết đãi để tiễn biệt các phái đoàn Thế giới và giải tán luôn cuộc Hội nghị nơi ấy.
Trong khi lưu trú tại Đông kinh được nhiều bạn Nhật đã từng gặp trước kia tại Rangoon đến thăm, ngoài ra tòa Sứ quán Việt Nam có tổ chức một buổi tiệc để thết đãi phái đoàn trước khi về xứ. Ông bà đại sứ Bùi Văn Thinh rất ân cần khoản đãi, luôn tất cả nhân viên trong xứ quán cũng rất vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong khi hữu sự.
Tối hôm ấy phái đoàn Việt Nam phải lên tàu hỏa lúc 10 giờ đêm để trở về Tokyo cách đô thị Kyoto 600 cây số ngàn, tàu hỏa chạy suốt đêm sáng hôm sau lối 9 giờ mới về tới Tokyo, suốt ngày hôm ấy phải lo sắp đặt hành lý và đến kiếu từ Sứ quán vì sáng mai lúc 6 giờ phải ra phi trường để lên đường về xứ.
Vừa hừng sáng thì đã có xe Sứ quán đến rước chúng tôi ra phi trường và đưa chúng tôi ra tận nơi phi trường để tiễn biệt. 8 giờ 15 thì phi cơ cất cánh (lối 6 giờ sáng xứ ta) mãi đến 4 giờ chiều phi cơ mới đỗ xuống phi cảng Hồng Kông cho hành khách lên xuống độ 45 phút thì lại cất cánh trực chỉ phi trường Tân Sơn Nhứt, mãi đến 19 giờ 30 mới đến nơi cả thảy lối 13 tiếng đồng hồ, khi xuống phi cơ để về chùa thì đã có các vị Đại đức trong ban chưởng quản và một số thiện nam tín nữ rất đông đến tiếp rước chúng tôi một cách nồng nhiệt, sau khi mừng rỡ hàn huyên phái đoàn lên xe đưa về Kỳ Viên tự.
Trong lúc tôi Hội nghị và chiêm bái các nơi Phật tích cũng được công đức đa thiểu, vậy tôi xin hồi hướng quả phúc ấy cho tất cả bà con có lòng trong sạch hộ độ tôi đa thiểu về chi phí, do năng lực phước báu ấy xin cho tất cả bà con thiện nam tín nữ được mọi điều an vui, hạnh phúc.
Hội Nghị Lịch Sử Tôn Giáo Quốc Tế Lần Thứ XTại Marburg (Tây Đức) (11-24/9/1960)
           Cuộc hành trình
Ngày 24-8-1960 tôi được giấy bộ Nội Vụ mời tôi đến để lấy giấy tờ sang Tây Đức Hội nghị Lịch Sử Tôn Giáo lần thứ X tại Marburg-Lahn.
Sau khi lo xong giấy tờ thường lệ đến ngày 8-9-60, lúc 20 giờ, có chư Tăng và thiện tín rất đông tụ hội tại chùa Kỳ Viên tụng kinh cầu an và phúc chúc cho tôi thượng lộ bình an. Xong có hai xe tiễn đưa tôi ra phi trường: một xe chư Tăng có Sư Hộ Giác làm hướng đạo, một xe của bà Vũ Thị Kiểm đưa tôi và ít người thiện tín. Vì ban đêm vào phi trường phải xin phép nên một số chư Tăng và thiện tín đành phải ở lại, chỉ tiễn chân tôi trước chùa thôi.
Đến phi trường còn phải chờ hơn 1 tiếng đồng hồ: đến 21 giờ 30 thì phi cơ mới cất cánh. Trên hư không ban đêm khí trời lạnh nên nhân viên của hãng hàng không Air France biếu cho mỗi người một chiếc mền len và một đôi vớ mang cho đỡ lạnh. Đêm đã khuya trên phi cơ đều tắt đèn hết, chỉ chừa ánh sáng hơi lu lờ cho hành khách an nghỉ. Phần tôi không thể nào ngủ được, ngồi dựa lưng vào ghế lo nghĩ vơ vẩn đâu đâu. Vì các kỳ Hội nghị khác đều có người theo giúp đỡ, chuyến này lại không có ai, chỉ có một mình một bóng tôi mà thôi. Phần cuộc hành trình rất xa xôi trên l��nh thổ Âu châu, không phải là xứ Phật giáo, nhưng tôi cũng cứ hy sanh nhẫn nại để làm tròn xứ mạng, vì phải đương đầu với bao nhiêu sự khó khăn nên tôi nguyện đành liều cho phần phước đến đâu hay đến đó. Mảng suy nghĩ vu vơ bỗng có còi báo hiệu cho hành khách phải thắt dây đai vì phi cơ sắp đổ xuống phi trường Bangkok lúc 12 giờ đêm. Khi hành khách lên xuống xong lại cất cánh trực chỉ thẳng qua Karachi. Khi đến nơi thì trời vừa sáng, hành khách được đưa đi đến một nhà hàng để điểm tâm, xong lại cất cánh thẳng qua Teheran (Perse). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn toàn là đồng cát trắng phau phau, có chỗ thì núi non gồ ghề, chớn chở, trơ trọi, không có cây cối chi. Phi cơ bay hàng mấy tiếng đồng hồ, nhưng vì đây là một bãi sa mạc thật to của xứ Ba-tư (Perse) vậy.
Từ Teheran qua Rome (Ý Đại Lợi) phi cơ phải bay thật cao vì bị sa mù và núi non hiểm trở. Gần 8 tiếng đồng hồ phi cơ mới báo hiệu cho biết gần đến phi trường Ciampino (Rome). Ở đây thì giờ khác hơn bên ta 6 tiếng đồng hồ, nên khi đến nơi thì trời vừa tối. Có xe của hãng hàng không đưa về Hotel, nghỉ tạm chờ chuyến phi cơ ngày mai mới đi qua Frankfurt (Đức). Hôm ấy cùng đi một chuyến có ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn đi dự Hội nghị giáo huấn ở Rome, cùng ở chung một Hotel, nên dùng điện thoại chuyện vãn với nhau cho đỡ buồn. Tôi cũng có gọi điện thoại cho Sứ quán Việt Nam tại Rome để báo tin cho hay. Tình cờ lại gặp ông Đỗ Văn Minh đang làm việc cho Sứ quán tại Rome. Vì trước đây 2 năm, tôi cũng đi dự Hội nghị IAHR tại Đông kinh (Tokyo) cũng gặp ông đang tùng sự nơi ấy. Ông rất mừng và yêu cầu tôi có cần chi đến ông thì ông sẵn sàng giúp đỡ. Tôi cho hay rằng ngày mai lối 17 giờ 30, tôi phải lên phi cơ nên không có cần chi. Nhưng ông cũng không chịu làm ngơ, ông mua đủ thứ trái cây, sai tài xế đem đến biếu tôi. Vì đã quá ngọ nên tôi tạm lãnh và cho luôn ông bà Nguyễn Xuân Nhẩn.
Đúng 17 giờ thì có xe Sứ quán V.N. đến đưa tôi ra phi trường cách đô thị lối 15 cây số ngàn. Phi cảng này thật to rộng khi đến thì ở một nơi, khi đi thì ở một chỗ khác nữa, cách nhau độ 3 cây số, đâu mặt lại với nhau. Theo luật Chánh phủ Ý thì mỗi hành khách khi đi phải đóng một số tiền là 700 lires, lối 50$ xứ ta. Mọi việc đều nhờ Sứ quán V.N. lo cho cả. Phi cơ này của hãng hàng không Lufthansa của Đức, chở lối 100 hành khách bay trên 2 tiếng đồng hồ mới đến phi trường Frankfurt (Tây Đức). Trên phi cơ trông xuống thấy toàn là tuyết trắng xóa, bao phủ những dãy núi cao chớn chở. Khí trời ở đây lạnh lắm, lối 17-18 độ, ban đêm có khi 10-11 độ hoặc 12-13 độ là cùng. Khi phi cơ báo hiệu cho biết gần đến phi trường thì hơn 8 giờ. Các phi trường Âu châu rất dễ, không cần biên giấy kê khai hoặc thẻ kiểm điểm chi cả. Khi đến nơi, họ chỉ hỏi giấy thông hành, xem xong họ đóng dấu rồi đưa lại và cám ơn mình nữa. Còn về quan thuế, thì họ hỏi mình có chi kê khai không như rượu mạnh, thuốc điếu, dầu thơm… Khi mình nói không có chi khai, thì họ đóng dấu và cho đi liền.
Trước khi đó một giờ có Sứ quán V.N. ra đón rước, nhưng khi hỏi chuyến phi cơ từ Saigon qua thẳng Frankfurt thì hãng hàng không trả lời không có người V.N. nào qua cả. Vì tôi có gởi thơ cho hay trước sẽ đi qua chuyến đó, nhưng không có chỗ nên đi vòng qua Rome thành ra cuộc tiếp rước mới sai như vậy. Nhưng cũng may có người cùng đi Hội nghị đưa tôi lên tàu hỏa tốc hành lên Marburg, chỗ Hội nghị cách đó 100 cây số ngàn. Khi tàu hỏa đến nơi thì đã có Ủy ban Tổ chức họ chực sẵn để tiếp rước các phái đoàn đưa về nhà trọ. Tôi được đưa về nhà trọ một biệt thự của Giáo sư Dr. Seidelmann cùng với hai người đại diện Thụy Điển: một ông kỹ sư khoáng vật và một ông cử nhân thần học, cùng ở chung nhau mỗi người một phòng. Lúc bấy giờ đã hơn 10 giờ đêm, phần thì đi đường mệt nhọc nên phải nghỉ sớm cho có sức khỏe để mai bắt đầu Hội nghị.
Sáng ngày 11-9-1960, khi điểm tâm xong, tôi cùng hai ông Thụy Điển đi đến chỗ Hội nghị. Chỗ này ở trên một chót đồi, có hai vật cổ truyền là một nhà thờ Thiên Chúa giáo đã xây dựng từ năm 1235-1335 do nữ hoàng Elisabeth và được tu bổ phục hưng lại năm 1470, và một trường đại học thành lập từ năm 1527 hiện giờ có luôn luôn lối 6.000 học sanh đến học đủ các ngành và các khoa đại học.
#ducphap #TyKhuuBuuChon #thienphatgiao #thiensu #theravada Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
0 notes
lethiphuonganh · 4 years
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
  Kính bút
  Nāga Mahā Thera – Tỳ Khưu Bửu Chơn 
  Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
  Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
  Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)
Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
  Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
  Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
#phatgiaonguyenthuy
#phatgiao
#TyKhuuBuuChon
#tinhtam
#theravada
Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
from Theravada https://theravadavn.blogspot.com/2020/08/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc.html
0 notes
Link
VUA LỐP' HÀ THÀNH NGUYỄN VĂN CHẨN - NGƯỜI TÀI BỊ THỜI THẾ CẢN TRỞ Người nông dân khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng. Ba lần vào tù. Ba lần làm lại từ vạch xuất phát. Chỉ mất chục năm gây dựng một tài sản kếch xù nhưng phải bỏ ra gần gấp đôi quãng thời gian đó cho hành trình khó nhọc tìm lại công lý. Người bình thường, chỉ cần một lần hứng chịu nỗi oan trái như ông, cũng đã đủ gục ngã và vĩnh viễn không còn sức gượng dậy. Ông “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn (1926-2013) là người nổi tiếng kể từ một bài phóng sự về ông của nhà văn, nhà báo Trần Huy Quang "Câu chuyện vua lốp hay tất cả cho sản xuất", khi đó được đọc trên sóng phát thanh và đến năm 1986 thì được in trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Chẩn sinh năm 1926, quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa, tài sản chỉ có cái ao rau muống. Ông từng kẽo kẹt gánh đôi thúng đựng cá giống đi bộ ra tận Hà Nam mua cá bột về quê bán. Gánh bộ gần 100km mà ông Chẩn không để chết một con cá giống nào. Gánh cá lệch một bên vai, vừa đi ông vừa phải lắc quang gánh để thêm không khí cho cá. Gánh cá bột đã giúp gia đình ông không bị đói, nhưng cái nghèo thì vẫn hiển hiện trong nhà. Nghe thấy bạn bè đi làm ăn xa về kể ở Hà Nội có thể kiếm được tiền, ông ngẫm nghĩ: "Người ta kiếm ăn được thì mình cũng làm được". Nhưng nhìn lại gia cảnh nhà mình lúc ấy chỉ có một ao trồng rau cần là tài sản quý giá nhất, ông bàn với vợ đem bán. Năm 1954 để lại cho vợ con một nửa số tiền bán rau, một nửa đủ để mua vé tàu xe ra Hà Nội và ăn uống một vài ngày, Nguyễn Văn Chẩn thề nếu không kiếm được tiền đưa vợ con ra Hà Nội sẽ không trở về. Không có chút vốn liếng nào ngoài nỗi lo lắng, hy vọng và cả bản tính phiêu lưu, quyết đoán, ông lang thang hết phố này sang phố khác. Đi đến đâu ông cũng thấy cảnh náo nhiệt buôn bán, cảnh tấp nập trong các xưởng thủ công. Ông dừng lại hàng tiếng đồng hồ trước các cửa hàng gò hàn, cắt tóc và bắt đầu thấy hoang mang không biết sẽ phải bắt đầu kiếm sống từ đâu khi trong tay chỉ có nghề trồng lúa và bán cá giống. Rồi ông đi bộ xuống chợ Hàng Da, chân mỏi, bụng đói, ông ngồi ghé xuống một cửa hàng chuyên làm dép lốp. Và thế là cuộc đời của ông Chẩn gắn với những chiếc lốp xe từ đấy. Hà Nội có thêm một "gã" nhà quê 28 tuổi đi chân đất lang thang xin việc ở các xưởng làm dép lốp. Thử việc đến 4 xưởng vẫn bị trượt, cuối cùng ông được nhận vào làm việc không công trong một xưởng nhỏ ở cuối phố Hàng Da. Công việc của ông là pha trà, bưng nước cho cánh thợ, thỉnh thoảng được gọi ra giữ hộ chiếc lốp xe ôtô để bóc thành từng lớp mỏng. Vào giờ nghỉ trưa, ông ăn quáng quàng bát cơm nguội rồi ngồi tỉ mẩn tập bóc lốp từ những mảnh cao su thừa thãi trong xưởng. Thấy ông chăm chỉ, người chủ đã thương tình trả cho ông chút công xá hàng tháng để ông có tiền ăn uống, thuê nhà trọ. Gần một năm sau, Nguyễn Văn Chẩn đã thành thục nghề bóc lốp làm dép. Ông về quê, dắt díu vợ con ra ở trọ trong căn gác xép ngay trên phố Hàng Da. Nắm được bí quyết làm nghề, năm 1959 ông tách ra làm riêng. Hàng bán chạy ở Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc, đơn hàng tới tấp đến, xưởng phát triển vùn vụt, ông giàu lên trông thấy. Bấy giờ, dép của ông được đưa đi khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội, rồi lan toả khắp miền Bắc đến Hải Phòng, Quảng Ninh, vào tận Thanh Hoá, Nghệ An... Ông trở thành ông chủ dép lốp có tiếng ở Hà Nội lúc nào không hay. Những đơn hàng cứ tới tấp đưa tới, khắp nơi đặt mua. Xưởng dép phát triển vùn vụt. Nhưng chữ “tài” thường đi liền với chữ “tai”, cũng từ đó người đàn ông tuổi Bính Dần bắt đầu vướng vòng lao lý. Ông Chẩn ba bốn bận bị tịch thu tài sản, ba phen đi tù (39 tháng) và một lần trốn tù (gần 200 ngày) cùng nhà cửa, máy móc, vật tư, nguyên liệu… đều bị tịch thu hết vì ông bị liệt vào danh sách Z30 với tài sản bất minh. Cứ sau mỗi lần tai họa ập đến, ông lại vượt lên, làm lại từ hai bàn tay trắng và lần nào cũng thành công nhờ ý chí quật cường, nhờ trí thông minh sáng tạo và khát vọng làm giàu, không cam chịu để vợ và một đàn 10 đứa con đẻ, 4 con nuôi phải nghèo túng, lêu lổng. Đời ông Chẩn, có những cái mốc không thể quên. Bắt đầu có chút của cải và tư liệu sản xuất, “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn lập tức bị xếp vào danh sách những người giàu có như tư bản mới nổi. Kể từ năm 1969, tai bay vạ gió liên tiếp xảy đến với gia đình ông, biến ông từ một người lao động chân chính trở thành kẻ có tiền án, tiền sự. Trở thành ông chủ sản xuất dép lốp nổi tiếng từ nguyên liệu lốp ôtô phế liệu. Đống lốp xe ôtô hỏng ông mua từ những người bán phế liệu, từ Công ty Vệ sinh, những thứ mang vứt ở đường cũng chẳng đắt hàng ấy được ông mua về từng chồng chất trong ngôi nhà cấp 4, chỉ một lần bức tường đất của căn nhà ọp ẹp đổ khiến đống lốp phế liệu lăn hết ra ngoài phố, người ta đến lập biên bản. Tưởng thế là kết thúc, nào ngờ sau đó có người còn quy ông là thành phần tư sản mới nổi, bị tịch biên tài sản, phải đi cải tạo. Tuy vài ngày sau được tha về nhưng biến cố đầu đời ấy cũng đã khiến ông Chẩn choáng váng, “chẳng hiểu sao gã tá điền suốt ngày quần quật bóc lốp, ăn không dám ăn no, mặc chỉ dám dùng loại rẻ tiền nhất mà lại bị liệt vào tầng lớp tư sản?”. Nhưng rồi mọi chuyện đều ổn thỏa. Người ta mang xe chở đến trả lại cho ông vài chiếc lốp xe lấy lệ. Chẳng còn vốn để làm ăn. Rồi dép nhựa ra đời, nghề làm dép lốp của ông không còn chỗ đứng. Từng đống dép lốp ế nằm chỏng chơ khiến lòng ông như có lửa đốt. Lại nghèo rồi, làm nghề gì để kiếm sống đây? Đang lao đao vì "dép với lốp" thì sự tình cờ lại đưa đẩy ông sang một lĩnh vực mới: Làm bút. Một lần, ông phải mua cho con chiếc bút với giá chợ giời đắt gấp ba lần so với giá phân phối ở cửa hàng. Phải mua chiếc bút với giá đắt cắt cổ, ông Chẩn ức lắm. Tối về, chưa đưa cho con dùng vội, ông ngồi chong đèn tháo tung từng bộ phận của chiếc bút săm soi hàng tiếng đồng hồ. Và bộ não nhạy bén của ông đã thấy đây là cơ hội để có thể phất lên. Ông vui mừng với sáng kiến của mình, đạp xe lùng sục khắp các xó xỉnh tha về đủ loại đồ nhựa phế phẩm. Chuyển sang nghề làm bút, "vua lốp" quên ăn quên ngủ nghiên cứu để nắm được những "yếu quyết" của nghề. Vợ con tròn mắt thấy ông cứ lụi cụi với đống nhựa, chẳng màng cơm nước, ngủ nghê. Ông thuê thợ làm khuôn đúc, pha chế nhựa chế tạo thử những chiếc bút máy đầu tiên. Được 12 chiếc hoàn chỉnh, ông vơ cả nắm đút vào túi mang đi xin cấp phép sản xuất. Ông Chẩn đem mẫu bút ra Phòng thủ công nghiệp quận đăng ký sản xuất bút mực. Một thời gian sau, ông được phép sản xuất và những chiếc bút máy không nhãn mác từ nhựa phế thải tái sinh do ông mầy mò nghiên cứu nhanh chóng tràn ngập khắp thị trường nhờ giá rẻ, chất lượng tốt. Bút do ông làm mang kiểu dáng Trường Sơn, được bày ở khắp các cửa hàng bách hoá chiếm được cảm tình của người mua nên ông trở nên khá giả. Phất lên nhờ chiếc bút được một thời gian ngắn thì phòng tài chính quận Hoàn Kiếm đến khám nhà, kiểm tra đăng ký sản xuất. Dù ông đã trình giấy tờ đủ, nhưng vẫn bị tịch thu toàn bộ công cụ, nguyên liệu, sản phẩm, thuê xe đưa về quận Hoàn Kiếm. Ông khiếu nại, "vì sao tôi ở quận Ba Đình mà Hoàn Kiếm lại bắt?" và gửi đơn kiện đi khắp nơi, ít lâu sau ông được trả lại một số những thứ đã tịch thu. Sau lần bị tịch thu công cụ, nguyên vật liệu sản xuất bút, "vua lốp" đoạn tuyệt với nghề làm bút tai vạ. Những tưởng sẽ được yên ổn, nào ngờ chỉ một thời gian ngắn sau đó, công an quận Ba Đình kéo đến khám nhà, tịch thu toàn bộ mô-tơ, khuôn làm bút, vài tạ dép đứt quai, cao su, hàng ngàn chi tiết bút... Ông bị khởi tố và bị xử 30 tháng tù vì tội "tàng trữ, đầu cơ, sản xuất trái phép". Lúc đó ông chống án nhưng không được xử phúc thẩm. Cuối cùng phải ngồi tù đủ 30 tháng không thiếu một ngày, 18 tháng tại Hoả Lò và 12 tháng tại trại Hồng Ca (Yên Bái). Đến lần thứ 2 này thì ông cũng không thể hiểu nổi tại sao một người như ông chỉ biết đầu tắt mặt tối sản xuất ra sản phẩm toàn bằng phế liệu lại bị quy vào thành phần buôn lậu, tàng trữ trái phép. Ra tù, không chịu nổi sự vô lý ấy, ông làm đơn kêu oan. Tòa án Nhân dân Tối cao xử phúc phẩm ngày 25 tháng 5 năm 1972, án số 22 xử ông phạm tội đầu cơ, phạt cảnh cáo và nộp phạt một trăm đồng, thế là hai năm rưỡi ngồi tù oan, rồi phần bị tịch thu được trả lại, nhưng cũng giống như lần tịch thu lốp ôtô, ông chỉ nhận lại được số hàng hóa ít ỏi bằng 1/10 số bị lấy mất. Đến bây giờ ông cũng không hiểu nổi số tài sản ấy đã đi đâu mất. Tất cả những chuyện trái khoáy trên mới chỉ là màn dạo đầu cho những tai ương mà ông Nguyễn Văn Chẩn phải chịu. Khuynh gia bại sản, ông phải đi móc củ sen, làm công nhân vệ sinh, ra đường sửa xe đạp rồi lại loay hoay tìm hướng đi mới. Nhận thấy nguồn cung ứng lốp khan hiếm, ông nghĩ ra cách mua lốp xe cũ về dán lại, và sáng chế ra một loại nhựa vá săm lốp rất tốt, dán săm lốp bền chắc tới mức dùng lực kéo hai đầu thì chỉ đứt chỗ khác chứ không đứt chỗ nhựa dán. Người ta đến nhà ông xếp hàng từ sáng sớm, mua cả chai, lọ, cả can to, ông lại giàu lên, để rồi hai năm sau, lại bị bắt. Nhưng sự thịnh vượng ấy không kéo dài được bao lâu. Nhiều người vẫn không thể lý giải, một người nông dân chỉ học hết lớp Ba mà có khả năng “mó tay ra vàng”, động vào cái gì ra tiền cái đó. Người ta lại vin vào lý do này, nguyên cớ khác để đến bắt và khám nhà ông. Đầu năm 1974, công an Ba Đình lại đến khám nhà bắt người, ông bị giam ở quận, lần này thì vì lý do lãng nhách, “thằng cha này giàu nhanh thế, chắc chắn phải có vấn đề”. Do ông đã có tiền án tiền sự nên việc bị bắt, bị giam chỉ là chuyện thường. Và thế là tài sản, công nhân lại thêm một lần nữa tan tác. Ông buộc phải làm đơn khiếu nại lên Viện KSND tối cao. Ông bị giam đến ngày 30 tháng 3 năm 1974 thì được thả. Chẳng biết làm gì kiếm tiền để nuôi cả một đại gia đình với một đàn con lóc nhóc, ông bàn với vợ mở một quán nước chè bán kiếm sống qua ngày, song cái nghề gắn với cao su không chịu buông tha cho ông. Sau cả tuần nghiên cứu, ông đã đi đến một quyết định mới, táo bạo hơn. ông lại quay về với chiếc lốp. ông định làm nghề vá lốp sửa chữa xe đạp, và qua đó sáng chế ra khuôn đúc lốp xe. Theo ông kể thì chiếc lốp đầu tiên xuất xưởng, hình thức chưa đẹp lắm. Để đúc rút những khiếm khuyết, ông nhờ một người đạp xích lô lắp vào và cho chạy thử. Khi bơm căng, chạy được một đoạn thì mành bật ra. Người đạp xích lô lắc đầu, tỏ vẻ bi quan, song với ông Chẩn, ông lại thấy vui. Hỏi ra mới biết, ông đã biết được những điểm yếu của nó. Qua lần ấy, ông tiếp tục mày mò và hoàn thiện một chiếc lốp khác. Thử đi, thử lại thấy yên tâm, ông mới chính thức cho sản xuất hàng loạt và tung ra thị trường. Sau năm năm mày mò nghiên cứu, ông cho ra đời hiệu lốp Quyết Thắng. Đầu năm 1980, ông sản xuất lốp xe đạp “Quyết Thắng”, sản xuất ra tốt hơn nhiều lần lốp Sao Vàng và được người tiêu dùng ưa chuộng. Ông lại hái ra tiền từ thương hiệu lốp "Quyết Thắng", lại có điều kiện tái đầu tư mua nhà, mở xưởng sản xuất lớn, mỗi năm sản xuất trên 2.000 đôi. Ngày ấy người nào mua được đôi lốp “Quyết thắng” là mừng lắm, đi hơi bì bì, nặng nhưng mà bền, xe thồ còn dùng được ba năm. Đa phần người chạy xe thồ đều sử dụng lốp xe Quyết Thắng. Lốp “Quyết Thắng” được Ban Khoa học – Kỹ thuật UBND TP Hà Nội cấp “Giấy chứng nhận chất lượng” ngày 5-3-1982 và được trao Huy chương Đồng tại Triển lãm “Thành tựu kinh tế – kỹ thuật Việt Nam” tại Hội chợ – Triển lãm Giảng Võ năm 1983, ông được xưng tụng là "vua lốp". Đây là thời điểm ông giàu có nhất, có tiền, có đất, có nhà xưởng. Lúc ấy, để mua được một chiếc lốp xe Ben hỏng từ Cẩm Phả, Quảng Ninh về làm nguyên liệu sản xuất phải có chữ ký của Chủ tịch tỉnh mới được mang ra tỉnh khác. Giá của một chiếc lốp xe Ben hỏng lúc ấy 1 cây vàng mới mua được. Thế mà trong xưởng của ông Chẩn có lúc có cả trăm chiếc. Nhiều người nhìn ông khâm phục. Ông mở rộng cơ sở sản xuất, mua lại toàn bộ bãi rác của nhà máy cao su Sao Vàng, bao gồm lốp và cao su phế liệu. Bãi nguyên liệu của gia đình ông (chợ Thành Công bây giờ) luôn có tới hàng trăm tấn. Ở cái thời ấy, bụng mọi người còn đang lép kẹp thì cứ mỗi lần đi ăn sáng, ra đến cổng gặp ai quen biết là ông đều tươi cười rủ đi ăn cùng. Thậm chí có người chẳng quen biết gì mấy làm nghề “ve chai”, “đồng nát”, ông cũng rất tôn trọng và đãi họ một bữa no. Chính vì vậy mà đội quân này đã giúp ông thu mua nhiều phế liệu để sản xuất ra săm, lốp xe. Rồi tai vạ lại đổ xuống đầu, lần này rất nghiêm trọng vì "Chỉ thị Z30" - tịch thu những nhà 2, 3 tầng mới xây những năm 1980 - ra đời. Ngày 27 tháng 8 năm 1983, lực lượng liên ngành quận Ba Đình bao gồm quân đội, công an, viện kiểm sát, ủy ban đã phong tỏa nhà và xưởng sản xuất để công bố quyết định: cùng một lúc có bốn lệnh khẩn cấp được đọc: Bắt người khẩn cấp, khám nhà khẩn cấp, thu toàn bộ nguyên vật liệu, thu nhà. Ông lại bị khởi tố, tịch biên toàn bộ tài sản, nhà cửa, công cụ, nguyên liệu sản xuất, vợ con phải ra vỉa hè căng lều, trải chiếu, ông phải đi trốn. Khi công an đến nhà, ông Chẩn đang trốn trên Hàng Đào, sau đó phiêu bạt đi Thái Bình, Hải Phòng, Hà Bắc gần một năm. Ông chỉ về khi bà và các con đã phát đơn khởi kiện, do vậy tránh được việc phải vào tù lần nữa nhưng vẫn phải vào trại tạm giam. Ngôi nhà bị tịch thu trở thành Trạm Y tế phường Ngọc Hà. Vợ ông ngày ngày đội đơn quỳ trước cổng số 4 phố Lê Lai (trụ sở UBND TP Hà Nội) kêu oan. Còn ông trong trại cũng chỉ biết viết hàng trăm lá đơn khiếu nại. Vài tháng sau, ông được thả nhưng vẫn bị tịch thu nhà cửa, tài sản. Cả nhà ông phải ở nhờ vỉa hè trên phố Sơn Tây. Nỗi oan ức đã tới đỉnh điểm, gia đình ông Chẩn bắt đầu hành trình gian nan đi tìm lại công lý, với những nỗi niềm tâm sự không thể diễn đạt thành lời. Từ đó ông bắt đầu hành trình khiếu nại đòi lại tài sản và danh dự. Đơn kêu oan gửi tới khắp nơi, những lá đơn viết cùng nước mắt dày lên cả chồng cao ngất. Báo chí, có lẽ không thiếu một tờ nào: hơn 40 tờ báo trong nước và nhiều tờ báo nước ngoài đều đăng tải những bài viết về “vua lốp”. Trong một lần trả lời báo chí, cố nhà báo Trường Phước, Đài Truyền hình Việt Nam cho biết, ông coi những doanh nhân như "Vua lốp" là những anh hùng thời đổi mới: "Nếu nói trong "chiến dịch" đánh đổ những tư nhân làm giàu như ông Chẩn - Hà Nội có sai lầm thì trong đó có cả những sai lầm của những nhà báo lên tiếng cổ vũ cho chiến dịch này như tôi. Bằng công cụ truyền hình, bằng các buổi bình luận, nhưng trước hết bằng lòng nhiệt tình trong sáng nhưng nhầm lẫn của mình, tôi đã làm "đau" ông Chẩn". Ông Chẩn trở thành cái tên rất nổi tiếng, cho dù theo cái cách với ông chẳng vui vẻ gì. Thời gian đó, ông phải vừa lẩn trốn, vừa viết, gửi rất nhiều đơn đến cơ quan công quyền. Nhà văn Nguyễn Trần Thiết viết tiểu thuyết “Vòng trầm luân oan nghiệt” dựa theo cuộc đời ông, được ông biếu một chiếc lốp. Có người xui biếu xén, hối lộ để được việc, ông quắc mắt bảo, tôi thà không có xu nào chứ nhất định không bao giờ cho thằng nào làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của tôi. Niềm tin sắt đá vào công lý, vào lẽ phải của gia đình ông Chẩn cùng tiếng nói đồng thuận từ phía công luận đã thắng. Cuối cùng thì Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cũng ra quyết định đình chỉ vụ án, yêu cầu trả lại toàn bộ tài sản, nhà cửa cho "Vua lốp". Tuy nhiên Công an lại ra quyết định miễn tố. Không hài lòng, ông tiếp tục kiện, vì "Miễn tố là có tội nhưng miễn cho, nhưng tôi có tội gì?". Tới ngày 21 tháng 12 năm 1985, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định hủy bỏ quyết định miễn tố của Công an Hà Nội, quyết định đình chỉ điều tra, thừa nhận ông vô tội và yêu cầu Hà Nội trả lại tài sản cho gia đình ông. Đây có thể nói là một "thắng lợi tinh thần", giúp ông lấy lại danh dự. Nhưng cũng phải chờ tới 5 năm sau, quyết định về việc trả lại tài sản cho ông mới được Chủ tịch UBND TP. Hà Nội ký. Đằng đẵng 7 năm giời, năm 1990, ông Chẩn được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mời đến gặp. Cuộc gặp gỡ này đã giúp ông có cơ hội minh oan. Ngày 1 tháng 9 năm 1990, Hà Nội ra công văn số 4071 do Chủ tịch Lê Ất Hợi ký về việc trả lại tài sản cho ông. Căn nhà 917m2 của ông khi được trả lại bảy năm bị lấn chiếm chỉ còn trên 200m2. Sau 76 tháng 10 ngày bị tịch thu nhà, gia đình, vợ con phải sống cầu bơ, cầu bất, ông Chẩn mới được minh oan trở về nơi ở cũ. Vào thời điểm 1991, nhiều tờ báo đã chạy những dòng tít lớn liên quan đến việc có hãng sản xuất săm lốp ô tô nổi tiếng trên thế giới, trụ sở tại Pháp là Mítxơlanh cử đại diện đến gặp “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn, tìm hiểu cơ hội hợp tác làm ăn, vì ông nắm được bí quyết độc quyền. Nhưng khi đại diện của hãng sản xuất lốp này đến Hà Nội thì ông Chẩn đang vướng vào oan án, mọi nhà cửa, vật liệu, xưởng sản xuất bị niêm phong. Nhưng thấy ông tay trắng, họ đành quay về. Ngày ông nhận lại căn nhà ở làng Ngọc Hà nhằm dịp giáp Tết, cả nhà mừng tủi, hàng xóm láng giềng kéo đến chia vui. Ngôi nhà trong làng Ngọc Hà được trao trả, nhưng tài sản khác thì không. Lại mười năm gõ cửa các cơ quan chức năng, một phần tài sản của ông mới được nhận lại năm 1993 bằng tiền. Nhưng, tính các loại vật tư, nguyên liệu mà Nhà nước phải trả ông trị giá lúc ấy là 1.659 chỉ vàng thì quả là một khoản tiền lớn. Thế nhưng, với gần nửa tạ đơn gửi tới các cơ quan công quyền và hàng chục bài báo cùng một cuốn tiểu thuyết kêu oan cho ông, cuối cùng “vua lốp” cũng chỉ được trả lại 80 triệu đồng… 80 triệu đồng này ông ấy vào Nam, ra Bắc và đãi đằng bạn bè gần hết. Giờ đây, ông và cả người vợ đồng cam cộng khổ vẫn giữ nguyên những chiếc khuôn làm lốp để làm kỷ niệm. Qua tuổi 70, ông mới được nhận lại một phần tài sản của mình, phần tài sản mà ông phải đổi bằng mồ hôi, nước mắt mới có được. Về già, cụ Chẩn nghễnh ngãng nặng, cụ cho kê hai cái bàn bi a trong sân, cho trẻ thuê với điều kiện “không nói tục, chửi bậy”. Cụ còn làm nghề bốc thuốc chữa bệnh, chữa được cho nhiều người mắc chứng nan y. Cái nghề tình cờ gắn vào ông khi ông đang ngồi thụ án tại Yên Bái. Theo ông kể thì thời ấy, có một ông già người Hoa cùng trại đã truyền hết cho ông bí quyết chữa bệnh từ cây thuốc nam. Ông già người Hoa ấy thấy ông luôn trong tâm trạng chán nản nên đã tận tình chỉ bảo ông. Ông Chẩn nhập tâm hết. Ông ghi chép cẩn thận vào một cuốn sổ. Và khi mọi sóng gió đã lắng xuống, ông thảnh thơi bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người. Cho đến cuối năm ngoái, ông mắc bệnh thiểu năng tuần hoàn não, khi ấy ông mới chịu thôi. Các con cụ cũng đã nên ông nên bà, con cháu không ai còn theo nghề lốp. Cái phát minh được đánh giá là “vĩ đại” của Việt Nam trong việc tái sử dụng cao su phế thải ngày nay đang có những "vua lốp" trẻ tiếp tục. Trithuc.vn VUA LỐP' HÀ THÀNH NGUYỄN VĂN CHẨN - NGƯỜI TÀI BỊ THỜI THẾ CẢN TRỞ Người nông dân khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng. Ba lần vào tù. Ba lần làm lại từ vạch xuất phát. Chỉ mất chục năm gây dựng một tài sản kếch xù nhưng phải bỏ ra gần gấp đôi quãng thời gian đó cho hành trình khó nhọc tìm lại công lý. Người bình thường, chỉ cần một lần hứng chịu nỗi oan trái như ông, cũng đã đủ gục ngã và vĩnh viễn không còn sức gượng dậy. Ông “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn (1926-2013) là người nổi tiếng kể từ một bài phóng sự về ông của nhà văn, nhà báo Trần Huy Quang "Câu chuyện vua lốp hay tất cả cho sản xuất", khi đó được đọc trên sóng phát thanh và đến năm 1986 thì được in trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Chẩn sinh năm 1926, quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa, tài sản chỉ có cái ao rau muống. Ông từng kẽo kẹt gánh đôi thúng đựng cá giống đi bộ ra tận Hà Nam mua cá bột về quê bán. Gánh bộ gần 100km mà ông Chẩn không để chết một con cá giống nào. Gánh cá lệch một bên vai, vừa đi ông vừa phải lắc quang gánh để thêm không khí cho cá. Gánh cá bột đã giúp gia đình ông không bị đói, nhưng cái nghèo thì vẫn hiển hiện trong nhà. Nghe thấy bạn bè đi làm ăn xa về kể ở Hà Nội có thể kiếm được tiền, ông ngẫm nghĩ: "Người ta kiếm ăn được thì mình cũng làm được". Nhưng nhìn lại gia cảnh nhà mình lúc ấy chỉ có một ao trồng rau cần là tài sản quý giá nhất, ông bàn với vợ đem bán. Năm 1954 để lại cho vợ con một nửa số tiền bán rau, một nửa đủ để mua vé tàu xe ra Hà Nội và ăn uống một vài ngày, Nguyễn Văn Chẩn thề nếu không kiếm được tiền đưa vợ con ra Hà Nội sẽ không trở về. Không có chút vốn liếng nào ngoài nỗi lo lắng, hy vọng và cả bản tính phiêu lưu, quyết đoán, ông lang thang hết phố này sang phố khác. Đi đến đâu ông cũng thấy cảnh náo nhiệt buôn bán, cảnh tấp nập trong các xưởng thủ công. Ông dừng lại hàng tiếng đồng hồ trước các cửa hàng gò hàn, cắt tóc và bắt đầu thấy hoang mang không biết sẽ phải bắt đầu kiếm sống từ đâu khi trong tay chỉ có nghề trồng lúa và bán cá giống. Rồi ông đi bộ xuống chợ Hàng Da, chân mỏi, bụng đói, ông ngồi ghé xuống một cửa hàng chuyên làm dép lốp. Và thế là cuộc đời của ông Chẩn gắn với những chiếc lốp xe từ đấy. Hà Nội có thêm một "gã" nhà quê 28 tuổi đi chân đất lang thang xin việc ở các xưởng làm dép lốp. Thử việc đến 4 xưởng vẫn bị trượt, cuối cùng ông được nhận vào làm việc không công trong một xưởng nhỏ ở cuối phố Hàng Da. Công việc của ông là pha trà, bưng nước cho cánh thợ, thỉnh thoảng được gọi ra giữ hộ chiếc lốp xe ôtô để bóc thành từng lớp mỏng. Vào giờ nghỉ trưa, ông ăn quáng quàng bát cơm nguội rồi ngồi tỉ mẩn tập bóc lốp từ những mảnh cao su thừa thãi trong xưởng. Thấy ông chăm chỉ, người chủ đã thương tình trả cho ông chút công xá hàng tháng để ông có tiền ăn uống, thuê nhà trọ. Gần một năm sau, Nguyễn Văn Chẩn đã thành thục nghề bóc lốp làm dép. Ông về quê, dắt díu vợ con ra ở trọ trong căn gác xép ngay trên phố Hàng Da. Nắm được bí quyết làm nghề, năm 1959 ông tách ra làm riêng. Hàng bán chạy ở Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc, đơn hàng tới tấp đến, xưởng phát triển vùn vụt, ông giàu lên trông thấy. Bấy giờ, dép của ông được đưa đi khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội, rồi lan toả khắp miền Bắc đến Hải Phòng, Quảng Ninh, vào tận Thanh Hoá, Nghệ An... Ông trở thành ông chủ dép lốp có tiếng ở Hà Nội lúc nào không hay. Những đơn hàng cứ tới tấp đưa tới, khắp nơi đặt mua. Xưởng dép phát triển vùn vụt. Nhưng chữ “tài” thường đi liền với chữ “tai”, cũng từ đó người đàn ông tuổi Bính Dần bắt đầu vướng vòng lao lý. Ông Chẩn ba bốn bận bị tịch thu tài sản, ba phen đi tù (39 tháng) và một lần trốn tù (gần 200 ngày) cùng nhà cửa, máy móc, vật tư, nguyên liệu… đều bị tịch thu hết vì ông bị liệt vào danh sách Z30 với tài sản bất minh. Cứ sau mỗi lần tai họa ập đến, ông lại vượt lên, làm lại từ hai bàn tay trắng và lần nào cũng thành công nhờ ý chí quật cường, nhờ trí thông minh sáng tạo và khát vọng làm giàu, không cam chịu để vợ và một đàn 10 đứa con đẻ, 4 con nuôi phải nghèo túng, lêu lổng. Đời ông Chẩn, có những cái mốc không thể quên. Bắt đầu có chút của cải và tư liệu sản xuất, “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn lập tức bị xếp vào danh sách những người giàu có như tư bản mới nổi. Kể từ năm 1969, tai bay vạ gió liên tiếp xảy đến với gia đình ông, biến ông từ một người lao động chân chính trở thành kẻ có tiền án, tiền sự. Trở thành ông chủ sản xuất dép lốp nổi tiếng từ nguyên liệu lốp ôtô phế liệu. Đống lốp xe ôtô hỏng ông mua từ những người bán phế liệu, từ Công ty Vệ sinh, những thứ mang vứt ở đường cũng chẳng đắt hàng ấy được ông mua về từng chồng chất trong ngôi nhà cấp 4, chỉ một lần bức tường đất của căn nhà ọp ẹp đổ khiến đống lốp phế liệu lăn hết ra ngoài phố, người ta đến lập biên bản. Tưởng thế là kết thúc, nào ngờ sau đó có người còn quy ông là thành phần tư sản mới nổi, bị tịch biên tài sản, phải đi cải tạo. Tuy vài ngày sau được tha về nhưng biến cố đầu đời ấy cũng đã khiến ông Chẩn choáng váng, “chẳng hiểu sao gã tá điền suốt ngày quần quật bóc lốp, ăn không dám ăn no, mặc chỉ dám dùng loại rẻ tiền nhất mà lại bị liệt vào tầng lớp tư sản?”. Nhưng rồi mọi chuyện đều ổn thỏa. Người ta mang xe chở đến trả lại cho ông vài chiếc lốp xe lấy lệ. Chẳng còn vốn để làm ăn. Rồi dép nhựa ra đời, nghề làm dép lốp của ông không còn chỗ đứng. Từng đống dép lốp ế nằm chỏng chơ khiến lòng ông như có lửa đốt. Lại nghèo rồi, làm nghề gì để kiếm sống đây? Đang lao đao vì "dép với lốp" thì sự tình cờ lại đưa đẩy ông sang một lĩnh vực mới: Làm bút. Một lần, ông phải mua cho con chiếc bút với giá chợ giời đắt gấp ba lần so với giá phân phối ở cửa hàng. Phải mua chiếc bút với giá đắt cắt cổ, ông Chẩn ức lắm. Tối về, chưa đưa cho con dùng vội, ông ngồi chong đèn tháo tung từng bộ phận của chiếc bút săm soi hàng tiếng đồng hồ. Và bộ não nhạy bén của ông đã thấy đây là cơ hội để có thể phất lên. Ông vui mừng với sáng kiến của mình, đạp xe lùng sục khắp các xó xỉnh tha về đủ loại đồ nhựa phế phẩm. Chuyển sang nghề làm bút, "vua lốp" quên ăn quên ngủ nghiên cứu để nắm được những "yếu quyết" của nghề. Vợ con tròn mắt thấy ông cứ lụi cụi với đống nhựa, chẳng màng cơm nước, ngủ nghê. Ông thuê thợ làm khuôn đúc, pha chế nhựa chế tạo thử những chiếc bút máy đầu tiên. Được 12 chiếc hoàn chỉnh, ông vơ cả nắm đút vào túi mang đi xin cấp phép sản xuất. Ông Chẩn đem mẫu bút ra Phòng thủ công nghiệp quận đăng ký sản xuất bút mực. Một thời gian sau, ông được phép sản xuất và những chiếc bút máy không nhãn mác từ nhựa phế thải tái sinh do ông mầy mò nghiên cứu nhanh chóng tràn ngập khắp thị trường nhờ giá rẻ, chất lượng tốt. Bút do ông làm mang kiểu dáng Trường Sơn, được bày ở khắp các cửa hàng bách hoá chiếm được cảm tình của người mua nên ông trở nên khá giả. Phất lên nhờ chiếc bút được một thời gian ngắn thì phòng tài chính quận Hoàn Kiếm đến khám nhà, kiểm tra đăng ký sản xuất. Dù ông đã trình giấy tờ đủ, nhưng vẫn bị tịch thu toàn bộ công cụ, nguyên liệu, sản phẩm, thuê xe đưa về quận Hoàn Kiếm. Ông khiếu nại, "vì sao tôi ở quận Ba Đình mà Hoàn Kiếm lại bắt?" và gửi đơn kiện đi khắp nơi, ít lâu sau ông được trả lại một số những thứ đã tịch thu. Sau lần bị tịch thu công cụ, nguyên vật liệu sản xuất bút, "vua lốp" đoạn tuyệt với nghề làm bút tai vạ. Những tưởng sẽ được yên ổn, nào ngờ chỉ một thời gian ngắn sau đó, công an quận Ba Đình kéo đến khám nhà, tịch thu toàn bộ mô-tơ, khuôn làm bút, vài tạ dép đứt quai, cao su, hàng ngàn chi tiết bút... Ông bị khởi tố và bị xử 30 tháng tù vì tội "tàng trữ, đầu cơ, sản xuất trái phép". Lúc đó ông chống án nhưng không được xử phúc thẩm. Cuối cùng phải ngồi tù đủ 30 tháng không thiếu một ngày, 18 tháng tại Hoả Lò và 12 tháng tại trại Hồng Ca (Yên Bái). Đến lần thứ 2 này thì ông cũng không thể hiểu nổi tại sao một người như ông chỉ biết đầu tắt mặt tối sản xuất ra sản phẩm toàn bằng phế liệu lại bị quy vào thành phần buôn lậu, tàng trữ trái phép. Ra tù, không chịu nổi sự vô lý ấy, ông làm đơn kêu oan. Tòa án Nhân dân Tối cao xử phúc phẩm ngày 25 tháng 5 năm 1972, án số 22 xử ông phạm tội đầu cơ, phạt cảnh cáo và nộp phạt một trăm đồng, thế là hai năm rưỡi ngồi tù oan, rồi phần bị tịch thu được trả lại, nhưng cũng giống như lần tịch thu lốp ôtô, ông chỉ nhận lại được số hàng hóa ít ỏi bằng 1/10 số bị lấy mất. Đến bây giờ ông cũng không hiểu nổi số tài sản ấy đã đi đâu mất. Tất cả những chuyện trái khoáy trên mới chỉ là màn dạo đầu cho những tai ương mà ông Nguyễn Văn Chẩn phải chịu. Khuynh gia bại sản, ông phải đi móc củ sen, làm công nhân vệ sinh, ra đường sửa xe đạp rồi lại loay hoay tìm hướng đi mới. Nhận thấy nguồn cung ứng lốp khan hiếm, ông nghĩ ra cách mua lốp xe cũ về dán lại, và sáng chế ra một loại nhựa vá săm lốp rất tốt, dán săm lốp bền chắc tới mức dùng lực kéo hai đầu thì chỉ đứt chỗ khác chứ không đứt chỗ nhựa dán. Người ta đến nhà ông xếp hàng từ sáng sớm, mua cả chai, lọ, cả can to, ông lại giàu lên, để rồi hai năm sau, lại bị bắt. Nhưng sự thịnh vượng ấy không kéo dài được bao lâu. Nhiều người vẫn không thể lý giải, một người nông dân chỉ học hết lớp Ba mà có khả năng “mó tay ra vàng”, động vào cái gì ra tiền cái đó. Người ta lại vin vào lý do này, nguyên cớ khác để đến bắt và khám nhà ông. Đầu năm 1974, công an Ba Đình lại đến khám nhà bắt người, ông bị giam ở quận, lần này thì vì lý do lãng nhách, “thằng cha này giàu nhanh thế, chắc chắn phải có vấn đề”. Do ông đã có tiền án tiền sự nên việc bị bắt, bị giam chỉ là chuyện thường. Và thế là tài sản, công nhân lại thêm một lần nữa tan tác. Ông buộc phải làm đơn khiếu nại lên Viện KSND tối cao. Ông bị giam đến ngày 30 tháng 3 năm 1974 thì được thả. Chẳng biết làm gì kiếm tiền để nuôi cả một đại gia đình với một đàn con lóc nhóc, ông bàn với vợ mở một quán nước chè bán kiếm sống qua ngày, song cái nghề gắn với cao su không chịu buông tha cho ông. Sau cả tuần nghiên cứu, ông đã đi đến một quyết định mới, táo bạo hơn. ông lại quay về với chiếc lốp. ông định làm nghề vá lốp sửa chữa xe đạp, và qua đó sáng chế ra khuôn đúc lốp xe. Theo ông kể thì chiếc lốp đầu tiên xuất xưởng, hình thức chưa đẹp lắm. Để đúc rút những khiếm khuyết, ông nhờ một người đạp xích lô lắp vào và cho chạy thử. Khi bơm căng, chạy được một đoạn thì mành bật ra. Người đạp xích lô lắc đầu, tỏ vẻ bi quan, song với ông Chẩn, ông lại thấy vui. Hỏi ra mới biết, ông đã biết được những điểm yếu của nó. Qua lần ấy, ông tiếp tục mày mò và hoàn thiện một chiếc lốp khác. Thử đi, thử lại thấy yên tâm, ông mới chính thức cho sản xuất hàng loạt và tung ra thị trường. Sau năm năm mày mò nghiên cứu, ông cho ra đời hiệu lốp Quyết Thắng. Đầu năm 1980, ông sản xuất lốp xe đạp “Quyết Thắng”, sản xuất ra tốt hơn nhiều lần lốp Sao Vàng và được người tiêu dùng ưa chuộng. Ông lại hái ra tiền từ thương hiệu lốp "Quyết Thắng", lại có điều kiện tái đầu tư mua nhà, mở xưởng sản xuất lớn, mỗi năm sản xuất trên 2.000 đôi. Ngày ấy người nào mua được đôi lốp “Quyết thắng” là mừng lắm, đi hơi bì bì, nặng nhưng mà bền, xe thồ còn dùng được ba năm. Đa phần người chạy xe thồ đều sử dụng lốp xe Quyết Thắng. Lốp “Quyết Thắng” được Ban Khoa học – Kỹ thuật UBND TP Hà Nội cấp “Giấy chứng nhận chất lượng” ngày 5-3-1982 và được trao Huy chương Đồng tại Triển lãm “Thành tựu kinh tế – kỹ thuật Việt Nam” tại Hội chợ – Triển lãm Giảng Võ năm 1983, ông được xưng tụng là "vua lốp". Đây là thời điểm ông giàu có nhất, có tiền, có đất, có nhà xưởng. Lúc ấy, để mua được một chiếc lốp xe Ben hỏng từ Cẩm Phả, Quảng Ninh về làm nguyên liệu sản xuất phải có chữ ký của Chủ tịch tỉnh mới được mang ra tỉnh khác. Giá của một chiếc lốp xe Ben hỏng lúc ấy 1 cây vàng mới mua được. Thế mà trong xưởng của ông Chẩn có lúc có cả trăm chiếc. Nhiều người nhìn ông khâm phục. Ông mở rộng cơ sở sản xuất, mua lại toàn bộ bãi rác của nhà máy cao su Sao Vàng, bao gồm lốp và cao su phế liệu. Bãi nguyên liệu của gia đình ông (chợ Thành Công bây giờ) luôn có tới hàng trăm tấn. Ở cái thời ấy, bụng mọi người còn đang lép kẹp thì cứ mỗi lần đi ăn sáng, ra đến cổng gặp ai quen biết là ông đều tươi cười rủ đi ăn cùng. Thậm chí có người chẳng quen biết gì mấy làm nghề “ve chai”, “đồng nát”, ông cũng rất tôn trọng và đãi họ một bữa no. Chính vì vậy mà đội quân này đã giúp ông thu mua nhiều phế liệu để sản xuất ra săm, lốp xe. Rồi tai vạ lại đổ xuống đầu, lần này rất nghiêm trọng vì "Chỉ thị Z30" - tịch thu những nhà 2, 3 tầng mới xây những năm 1980 - ra đời. Ngày 27 tháng 8 năm 1983, lực lượng liên ngành quận Ba Đình bao gồm quân đội, công an, viện kiểm sát, ủy ban đã phong tỏa nhà và xưởng sản xuất để công bố quyết định: cùng một lúc có bốn lệnh khẩn cấp được đọc: Bắt người khẩn cấp, khám nhà khẩn cấp, thu toàn bộ nguyên vật liệu, thu nhà. Ông lại bị khởi tố, tịch biên toàn bộ tài sản, nhà cửa, công cụ, nguyên liệu sản xuất, vợ con phải ra vỉa hè căng lều, trải chiếu, ông phải đi trốn. Khi công an đến nhà, ông Chẩn đang trốn trên Hàng Đào, sau đó phiêu bạt đi Thái Bình, Hải Phòng, Hà Bắc gần một năm. Ông chỉ về khi bà và các con đã phát đơn khởi kiện, do vậy tránh được việc phải vào tù lần nữa nhưng vẫn phải vào trại tạm giam. Ngôi nhà bị tịch thu trở thành Trạm Y tế phường Ngọc Hà. Vợ ông ngày ngày đội đơn quỳ trước cổng số 4 phố Lê Lai (trụ sở UBND TP Hà Nội) kêu oan. Còn ông trong trại cũng chỉ biết viết hàng trăm lá đơn khiếu nại. Vài tháng sau, ông được thả nhưng vẫn bị tịch thu nhà cửa, tài sản. Cả nhà ông phải ở nhờ vỉa hè trên phố Sơn Tây. Nỗi oan ức đã tới đỉnh điểm, gia đình ông Chẩn bắt đầu hành trình gian nan đi tìm lại công lý, với những nỗi niềm tâm sự không thể diễn đạt thành lời. Từ đó ông bắt đầu hành trình khiếu nại đòi lại tài sản và danh dự. Đơn kêu oan gửi tới khắp nơi, những lá đơn viết cùng nước mắt dày lên cả chồng cao ngất. Báo chí, có lẽ không thiếu một tờ nào: hơn 40 tờ báo trong nước và nhiều tờ báo nước ngoài đều đăng tải những bài viết về “vua lốp”. Trong một lần trả lời báo chí, cố nhà báo Trường Phước, Đài Truyền hình Việt Nam cho biết, ông coi những doanh nhân như "Vua lốp" là những anh hùng thời đổi mới: "Nếu nói trong "chiến dịch" đánh đổ những tư nhân làm giàu như ông Chẩn - Hà Nội có sai lầm thì trong đó có cả những sai lầm của những nhà báo lên tiếng cổ vũ cho chiến dịch này như tôi. Bằng công cụ truyền hình, bằng các buổi bình luận, nhưng trước hết bằng lòng nhiệt tình trong sáng nhưng nhầm lẫn của mình, tôi đã làm "đau" ông Chẩn". Ông Chẩn trở thành cái tên rất nổi tiếng, cho dù theo cái cách với ông chẳng vui vẻ gì. Thời gian đó, ông phải vừa lẩn trốn, vừa viết, gửi rất nhiều đơn đến cơ quan công quyền. Nhà văn Nguyễn Trần Thiết viết tiểu thuyết “Vòng trầm luân oan nghiệt” dựa theo cuộc đời ông, được ông biếu một chiếc lốp. Có người xui biếu xén, hối lộ để được việc, ông quắc mắt bảo, tôi thà không có xu nào chứ nhất định không bao giờ cho thằng nào làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của tôi. Niềm tin sắt đá vào công lý, vào lẽ phải của gia đình ông Chẩn cùng tiếng nói đồng thuận từ phía công luận đã thắng. Cuối cùng thì Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cũng ra quyết định đình chỉ vụ án, yêu cầu trả lại toàn bộ tài sản, nhà cửa cho "Vua lốp". Tuy nhiên Công an lại ra quyết định miễn tố. Không hài lòng, ông tiếp tục kiện, vì "Miễn tố là có tội nhưng miễn cho, nhưng tôi có tội gì?". Tới ngày 21 tháng 12 năm 1985, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định hủy bỏ quyết định miễn tố của Công an Hà Nội, quyết định đình chỉ điều tra, thừa nhận ông vô tội và yêu cầu Hà Nội trả lại tài sản cho gia đình ông. Đây có thể nói là một "thắng lợi tinh thần", giúp ông lấy lại danh dự. Nhưng cũng phải chờ tới 5 năm sau, quyết định về việc trả lại tài sản cho ông mới được Chủ tịch UBND TP. Hà Nội ký. Đằng đẵng 7 năm giời, năm 1990, ông Chẩn được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mời đến gặp. Cuộc gặp gỡ này đã giúp ông có cơ hội minh oan. Ngày 1 tháng 9 năm 1990, Hà Nội ra công văn số 4071 do Chủ tịch Lê Ất Hợi ký về việc trả lại tài sản cho ông. Căn nhà 917m2 của ông khi được trả lại bảy năm bị lấn chiếm chỉ còn trên 200m2. Sau 76 tháng 10 ngày bị tịch thu nhà, gia đình, vợ con phải sống cầu bơ, cầu bất, ông Chẩn mới được minh oan trở về nơi ở cũ. Vào thời điểm 1991, nhiều tờ báo đã chạy những dòng tít lớn liên quan đến việc có hãng sản xuất săm lốp ô tô nổi tiếng trên thế giới, trụ sở tại Pháp là Mítxơlanh cử đại diện đến gặp “vua lốp” Nguyễn Văn Chẩn, tìm hiểu cơ hội hợp tác làm ăn, vì ông nắm được bí quyết độc quyền. Nhưng khi đại diện của hãng sản xuất lốp này đến Hà Nội thì ông Chẩn đang vướng vào oan án, mọi nhà cửa, vật liệu, xưởng sản xuất bị niêm phong. Nhưng thấy ông tay trắng, họ đành quay về. Ngày ông nhận lại căn nhà ở làng Ngọc Hà nhằm dịp giáp Tết, cả nhà mừng tủi, hàng xóm láng giềng kéo đến chia vui. Ngôi nhà trong làng Ngọc Hà được trao trả, nhưng tài sản khác thì không. Lại mười năm gõ cửa các cơ quan chức năng, một phần tài sản của ông mới ��ược nhận lại năm 1993 bằng tiền. Nhưng, tính các loại vật tư, nguyên liệu mà Nhà nước phải trả ông trị giá lúc ấy là 1.659 chỉ vàng thì quả là một khoản tiền lớn. Thế nhưng, với gần nửa tạ đơn gửi tới các cơ quan công quyền và hàng chục bài báo cùng một cuốn tiểu thuyết kêu oan cho ông, cuối cùng “vua lốp” cũng chỉ được trả lại 80 triệu đồng… 80 triệu đồng này ông ấy vào Nam, ra Bắc và đãi đằng bạn bè gần hết. Giờ đây, ông và cả người vợ đồng cam cộng khổ vẫn giữ nguyên những chiếc khuôn làm lốp để làm kỷ niệm. Qua tuổi 70, ông mới được nhận lại một phần tài sản của mình, phần tài sản mà ông phải đổi bằng mồ hôi, nước mắt mới có được. Về già, cụ Chẩn nghễnh ngãng nặng, cụ cho kê hai cái bàn bi a trong sân, cho trẻ thuê với điều kiện “không nói tục, chửi bậy”. Cụ còn làm nghề bốc thuốc chữa bệnh, chữa được cho nhiều người mắc chứng nan y. Cái nghề tình cờ gắn vào ông khi ông đang ngồi thụ án tại Yên Bái. Theo ông kể thì thời ấy, có một ông già người Hoa cùng trại đã truyền hết cho ông bí quyết chữa bệnh từ cây thuốc nam. Ông già người Hoa ấy thấy ông luôn trong tâm trạng chán nản nên đã tận tình chỉ bảo ông. Ông Chẩn nhập tâm hết. Ông ghi chép cẩn thận vào một cuốn sổ. Và khi mọi sóng gió đã lắng xuống, ông thảnh thơi bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người. Cho đến cuối năm ngoái, ông mắc bệnh thiểu năng tuần hoàn não, khi ấy ông mới chịu thôi. Các con cụ cũng đã nên ông nên bà, con cháu không ai còn theo nghề lốp. Cái phát minh được đánh giá là “vĩ đại” của Việt Nam trong việc tái sử dụng cao su phế thải ngày nay đang có những "vua lốp" trẻ tiếp tục. Trithuc.vn #news
0 notes
hoangviettravel · 5 years
Text
Du Lịch Đài Loan: Hà Nội- Đài Bắc- Đài Trung- Cao Hùng 5N4D
 Hà Nội
 5 Ngày 4 Đêm
Du lịch Đài loan với các điểm tham quan chọn lọc.
Mua sắm tại chợ đêm Tây Môn Đinh Đài bắc và chợ đêm Lục hợp cao hùng- là 2 khu chợ đặc sắc nhất Đài Loan
Trải nghiệm thả thiên đăng tại phố cổ Thập phần
Thăm Văn Võ Miếu và Phật Quang sơn- 2 danh thắng linh thiêng bậc nhất
Thăm nhà hát Opera Đài Trung độc nhất vô nhị- xứng danh “9 biểu tượng mới của thế giới”
Thăm Làng cầu vồng tràn ngập sắc màu- nơi mà tín đồ mê chụp ảnh thỏa sức tạo dáng
Chương trình học làm bánh dứa rất thú vị, quý khách tự tay trải nghiệm làm bánh
Tặng quý khách bữa lẩu Shabu Shabu
Lịch Khởi Hành tour: 
NGÀY KHỞI HÀNH TOUR
Thứ bảy 09/11/2019
Thứ sáu 15/11/2019
Thứ hai 25/11/2019
GIÁ:  11.990.000đ
Tour:  Hà Nội- Đài Bắc- Đài Trung- Cao Hùng
LỊCH TRÌNH
Ngày 1: Hà Nội – Đài Bắc | (Ăn trưa MB/ tối)
Xe và hướng dẫn viên Công ty du lịch đón quý khách tại điểm hẹn khởi hành ra sân bay Nội Bài đáp chuyến bay VN576 (08h15-12h05).
Tới sân bay quốc tế Đào Viên CKS, xe đưa đoàn đi tham quan và mua sắm tại Tháp 101 tầng– Là công trình cấp bậc quốc tế của đại kiến trúc sư Lý Tổ Nguyên dốc nhiều tâm huyết để thiết kế. Lấy số 8 có đồng âm là chữ “phát” nghĩa là cát tường của người trung quốc để làm đơn vị thiết kế. Cứ mỗi 8 tầng là một đơn vị kết cấu, liên kết với nhau, xếp chồng lên nhau. Tổng thể xây dựng, bề ngoài hình thành sự nhịp nhàng của vẻ đẹp thẩm mỹ. (Không bao gồm phí lên đỉnh tháp). Dùng bữa tối tại nhà hàng.
Thỏa sức khám phá Tây Môn Đinh– Là một trong những khu chợ đêm nổi tiếng nhất xứ Đài, thể hiện văn hóa, con người và nếp sống của người dân nơi đây. Tới đây bạn có thể mua sắm những mặt hàng yêu thích với giá rất phải chăng và đặc biệt là thưởng thức những món ăn đậm hương vị của nền ẩm thực Đài Loan cũng như cơ hội để khám phá đời sống người dân bản địa nơi đây sôi nổi, hiền lành và mến khách.
Quý khách nhận phòng và nghỉ đêm tại Đài Bắc. 
Ngày 2: Đài Bắc Ăn sáng tại khách sạn, Xe đưa đoàn đi thăm quan:
Thăm Phố Cổ Thập Phần là điểm dừng chân khá thú vị và nó bao quát cảnh đẹp đài loan, đối với những ai muốn chiêm ngưỡng một không gian toàn là điều cổ xưa. Khu phố này nằm dọc theo đường ray xe lửa, là khu vực sinh sống có khoảng 10 hộ gia đình, được xây dựng từ thời xưa nhưng nó vẫn mang một vẻ cuốn hút khó tả, thu hút các tour du lịch Đài Loan. Đến đây để tham quan phong tục thả đèn hoa đăng lên trời có ý nghĩa cầu nguyện và được hiểu như nó là biểu tượng của sự hòa bình – một nền văn hóa khá độc đáo tại đây. Đèn được làm bằng giấy gạo dầu trên chiếc khung làm bằng tre hoặc nứa. Chúng có nhiều sắc màu khác nhau, mỗi màu sẽ mang một ý nghĩa, có thể là sức khỏe, tiền tài công việc hoặc bình yên…
Thác nước Thập Phần: Hòn đảo xinh đẹp này còn có một thác nước được mệnh danh Niagara phiên bản châu Á. Dù không hùng vĩ và trải dài trên hai quốc gia như “bản gốc”, thác nước Thập Phần vẫn là một trong những nơi không nên bỏ lỡ để tham quan. Để ngắm nhìn Thập Phần, bạn sẽ phải bước qua một cây cầu cheo leo. Chiều cao thác nước khoảng 20m và rộng 40m, đây là thác nước rộng nhất Đài Loan, nằm ở thượng nguồn sông Cơ Long
Thăm công viên Dã liễu– nơi được coi là một báu vật của Đài loan: Do sự bào mòn của gió và cát, sự xâm thực của sóng biển, sự tích lũy xác của các loài sinh vật trên biển nên trên bãi biển đã hình thành nhiều lớp hóa thạch, nhiều tảng đá với hình thù rất đa dạng và đẹp mắt, tạo thành kỳ quan thiên nhiên hiếm có. Hàng năm, không biết bao nhiêu lượt khách thi nhau đổ về công viên Dã Liễu hay còn gọi là Yehliu để tham quan và lưu lại cho mình những bức hình ấn tượng.
Thăm Đài tưởng niệm Trung Chính( hay còn gọi là Nhà tưởng niệm Tưởng Giới Thạch) : là nơi được dành riêng cho nhà lãnh đạo quân sự và chính trị của chính phủ Trung Hoa Dân quốc từ năm 1950 cho tới 1975. Khám phá lịch sử về ông ở thế kỷ thứ 20 thông qua những bức ảnh, tranh vẽ và thiết kế kiến trúc tuyệt vời
Quý khách nghỉ đêm tại Đài Bắc. 
Ngày 3: Đài Bắc- Đài Trung- Nam Đầu 
Ăn sáng tại khách sạn, Đoàn di chuyển tới Đài Trung
Thăm nhà hát Opera Đài Trung độc nhất vô nhị- do kiến trúc sư Toyo Ito, Nhật Bản thiết kế, lấy ý tưởng từ “nhà hang”, “nhà lỗ” của loài người thời tiền sử, trở thành tòa kiến trúc tường uốn lượn, máng dốc độc đáo có một không hai trên thế giới. Do quá trình thi công vô cùng phức tạp nên được truyền thông quốc tế vinh danh nằm trong “9 biểu tượng mới của thế giới”. Nhà hát rộng 58.000 m2 với sức chứa 3000 người. Điểm đặc biệt là một dãy tường kính có hình dạng đồng hồ cát phía mặt tiền, được lợp bởi các ô kính theo dạng mạng lưới để du khách có thể ngắm thành phố từ các tầng.
Thăm quan Làng Cầu Vồng– Nếu đã từng trầm trồ với làng cầu vồng ở Indonesia thì bạn hãy chuẩn bị choáng ngợp đi, vì Đài Loan có sở hữu một nơi hoành tráng hơn thế gấp nhiều lần. Dưới bàn tay tô vẽ của ông Huang Yung-Fu (một cựu quân nhân) tô vẽ cho những bức tường của ngôi làng bằng những bức tranh và hình ảnh mô phỏng theo những tác phẩm nổi tiếng. Đảm bảo chỉ cần giơ máy lên là đã có hình sống ảo cực cool để khoe với bạn bè rồi.
Lên thuyền du ngoạn Hồ Nhật Nguyệt, là hồ tự nhiên lớn nhất của Đài Loan. Nằm trên vùng cao nguyên, hồ Nhật Nguyệt cách mặt biển khoảng hơn 700m, thuộc quận Nam Đầu, miền trung Đài Loan. Phần phía đông của hồ tròn như mặt trời, còn phía tây lại cong bán nguyệt. Vì vậy nơi đây mới được gọi là hồ Nhật Nguyệt.
Thăm Miếu Văn Võ-là nơi thờ Khổng Tử (Văn Miếu) và Quan Công (Võ Miếu) nằm ở bờ hồ phía bắc của Nhật Nguyệt Hồ, được xây dựng thành hệ thống kiến trúc bên triền đồi, trải dài từ thấp đến cao, tạo nên một khung cảnh lung linh, huyền ảo nhuốm màu linh thiêng.
Tham quan mua sắm Linh Chi, Mỹ Phẩm
Ăn tối. Nghỉ đêm tại Đài Trung hoặc Nam Đầu.
Miếu Văn Võ
Ngày 4: Đài Trung/Nam Đầu- Cao Hùng
Ăn sáng tại khách sạn, Đoàn di chuyển đi Cao Hùng
Xe đưa đoàn đi Chiêm bái Chùa Phật Quang Sơn được khánh thành năm 2011, là công trình kiến trúc tiêu biểu, đại diện cho sự giao thoa giữa các yếu tố hiện đại và truyền thống, cổ kim đông tây của Đài Loan. Bức tượng Phật Quang đặt sau chính điện là biểu tượng của ngôi chùa này. Tượng cao 108 mét, được đúc bằng 1872 tấn đồng, hiện là pho tượng đồng cao nhất thế giới. Từ mùng 1 tết cho đến rằm tháng giêng là khoảng thời gian khách thập phương đến thăm chùa đông nhất.
Mua sắm tại trung tâm đá quý.
Sau bữa trưa, đoàn thăm quan quần thể danh thắng Hồ Liên Trì với tháp Long Hổ, Xuân Thu các. Mua sắm tại cửa hàng đặc sản địa phương, tỳ hưu
Tự do vui chơi và thưởng thức ẩm thực tại đất cảng Cao Hùng tại chợ đêm Lục Hợp. Nghỉ đêm tại Cao Hùng.
Ngày 5: Cao Hùng – Hà Nội
Ăn sáng, Xe và hướng dẫn viên đưa đoàn ra sân bay Cao Hùng làm thủ tục cho chuyến bay về Hà Nội. Xe đưa quý khách về điểm đón ban đầu. Kết thúc chương trình.
CHÍNH SÁCH
Giá bao gồm:
Thị thực:    Visa Đài Loan theo đoàn.
Vé thắng cảnh:   Vào cửa lần 1 tại các điểm trong chương trình
Bảo hiểm:    Mức bồi thường tối đa 10,000 USD/01 vụ
Hướng dẫn viên:    Hướng dẫn viên Tiếng Việt /Anh/ Trung tại địa phương; đoàn từ 15 khách người lớn sẽ có hdv  Tiếng Việt suốt tuyến
Quà tặng:    Mũ du lịch
Khách sạn:    Tiêu chuẩn 3-4*: 02 khách/phòng. Trường hợp lẻ người ngủ ghép phòng 3.
Bữa ăn:    Ăn sáng buffet tại khách sạn, ăn chính 7 usd/01 khách/01 bữa.
Xe ô-tô:    Xe máy lạnh đời mới đưa đón trong và ngoài nước theo chương trình
Vé máy bay:    HAN –ĐÀI BẮC/CAO HÙNG– HAN (hàng không Vietnam airlines)  với hành lý 7kg xách tay và 20kg ký gửi.
Không bao gồm:
Tiền bồi dưỡng cho HDV và lái xe:    5 USD/khách/ngày tour.
Các chi phí khác:    Phòng đơn, Phí visa nhập cảnh lại Việt Nam với người nước, Việt kiều…
Chi phí cá nhân:    Đồ uống, hành lý quá cước, tiền điện thoại, phí giặt là trong khách sạn, và các chi phí không có trong mục Bao gồm
Hướng dẫn làm visa:
CHUẨN BỊ HỒ SƠ XIN VISA: LƯU Ý VISA DU LỊCH ĐÀI LOAN KHÔNG ÁP DỤNG CHO NHỮNG KHÁCH HÀNG ĐÃ TỪNG ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI ĐÀI LOAN. Khách có quốc tịch khác vui lòng báo trước khi đăng ký tour.
DẠNG VISA ONLINE:
Đối với những khách đã có visa các nước tiên tiến sau trong vòng 10 năm kể từ ngày cấp visa đến ngày đi du lịch, thì chỉ cần chụp ảnh hộ chiếu gốc và visa đó ( không tính visa đã bị Void, cancel hoặc visa lao động). Visa tiên tiến các nước gồm những nước sau: hàn, nhật, mỹ, úc, schengen, Canada, newzeland, visa du lịch Đài Loan dạng dán do ROC cấp. Thì chỉ cần chụp mặt hộ chiếu+ mặt visa tiên tiến trên ( nếu khai không thành công thì vui lòng chuẩn bị hồ sơ xin visa Quan Hồng)
DẠNG VISA QUAN HỒNG: Áp dụng cho khách chưa từng đi các nước tiên tiến như trên và những khách tuy có visa tiên tiến nhưng khai không thành công.
Bước 1: Khai thông tin sau: khai trên giấy hoặc nhắn tin ( yêu cầu khai trung thực, chuẩn xác):
–      Họ và tên du khách:
–       Địa chỉ nơi ở hiện tại:
–      Số điện thoại và email du khách:
–  Tình trạng kết hôn của bản thân:      Đã kết hôn/ đã ly dị/ Chưa kết hôn
–  Họ và tên chồng/ vợ:
–  Nghề nghiệp của bản thân:
–  Chức vụ:
–  Tên công ty/trường học nơi làm việc/học tập:
–  Địa chỉ công ty/trường học:
–  Số điện thoại công ty:
Bước 2: Chuẩn bị hồ sơ theo hướng dẫn:
Nếu khách ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh:
+ Scan Hộ chiếu có thời hạn 6 tháng trở lên so với ngày kết thúc tour.
+ Chụp CMT hoặc hộ khẩu
Nếu khách ở các tỉnh thành khác:
+ Scan Hộ chiếu có thời hạn 6 tháng trở lên so với ngày kết thúc tour.
+ Chụp CMT hoặc hộ khẩu
+ Chụp nghề hoặc tài chính.
Lưu ý:
  -- Giá có thể thay đổi khi hàng không tăng phụ thu nhiên liệu.
–    Thứ tự các điểm tham quan có thay đổi tùy theo điều kiện thời tiết, nhưng vẫn đảm bảo đủ các điểm tham quan.
–    Nếu quý khách không tham gia điểm shopping bắt buộc trong chương trình sẽ bị tính phụ thu thêm (Các điểm shopping bắt buộc gồm:  tỳ hưu, bánh dứa, trà, đá quý, linh chi, đặc sản địa phương. Nếu quý khách bỏ điểm sẽ phụ thu theo quy định. Điểm shopping có thể thay đổi).
https://hoangviettravel.vn/tour-ha-noi-dai-bac-dai-trung-cao-hung/
0 notes
saigonbay · 5 years
Text
Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, giá rẻ
Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, giá rẻ
Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, giá rẻ
Bạn đang băn khoăn không biết phải làm thế nào vì đang có món hàng cần chuyển gấp đi Vĩnh Phúc nhưng hiện tại bạn quá bận không thể tự mình đi được? Vậy thì bạn đừng lo lắng, hãy để dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, giá cả hợp lý của SgbExpress giúp bạn!
Hiện nay, SgbExpress là đơn vị số một trong lĩnh vực vận tải, chuyển phát nhanh. Chúng tôi tự hào đã phát triển được hệ thống chuyển phát nhanh trong địa bàn Thành phố Hà Nội cũng như hệ thống chuyển phát nhanh từ Hà Nội đến 63 tỉnh thành một cách chuyên nghiệp, uy tín để đáp ứng nhu cầu đa dạng của Quý khách hàng. 
Tiềm năng phát triển dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc:
  Vĩnh Phúc là một tỉnh thành có vị trí địa lý thuộc châu thổ sông Hồng thuộc trung du và miền núi phía bắc, Vĩnh Phúc có gianh giới giáp với các tỉnh thành như sau; Phía bắc giáp hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Phía tây giáp tỉnh Phú Thọ. Phía nam và phía đông giáp với TP Hà Nội. Với vị trí địa lý thuận lợi cùng với chính sách phát triển kinh tế mở cửa Vĩnh Phúc những năm gần đây có nền kinh tế rất phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Nơi đây các dịch vụ mua bán hàng, chuyển phát bưu phẩm cũng tăng cao theo, từ đó nhu cần cần gửi hàng cũng tăng lên theo.
Để đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển giữa Hà Nội và Vĩnh Phúc , SgbExpress cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc an toàn, nhanh chóng với giá cả cạnh tranh nhất.
Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, nhanh nhất của SgbExpress
Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc chất lượng của SgbExpress phục vụ mọi địa điểm thuộc Hà Nội và Vĩnh Phúc:
Tại tất cả các quận huyện của Hà Nội:
Ba Đình, Bắc Từ Liêm, Cầu Giấy, Đống Đa, Hà Đông, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Long Biên, Nam Từ Liêm, Tây Hồ, Thanh Xuân, Sơn Tây, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hoà.
Tại tất cả các huyện, thị trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc:
Thị xã Phúc Yên, Huyện Bình Xuyên, Huyện Lập Thạch, Huyện Sông Lô, Huyện Tam Đảo, Huyện Tam Dương, Huyện Vĩnh Tường, Thành phố Vĩnh Yên, Huyện Yên Lạc.
Chuyển phát nhanh nội địa chuyên nghiệp, giá rẻ với SgbExpress
Dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín đối với tất cả các loại hàng hóa:
Chuyển phát nhanh đi Vĩnh Phúc với mặt hàng đa dạng:
Những loại hàng hóa được nhiều người lựa chọn chuyển phát nhanh đi Vĩnh Phúc thường là thực phẩm, thời trang, đồ điện tử, quà tặng, mỹ phẩm hay dược phẩm,…
Chuyển phát nhanh thực phẩm: thực phẩm tươi, sống, thực phẩm xanh, đồ khô, bánh kẹo
Chuyển phát nhanh dược phẩm, mỹ phẩm
Chuyển phát nhanh hồ sơ, giấy tờ lao động, giấy tờ xin việc, chuyển phát nhanh hồ sơ du học
Chuyển phát nhanh đồ điện tử, điện lạnh
Chuyển phát nhanh sản phẩm thời trang
Chuyển phát nhanh hàng dễ vỡ, gốm sứ, thủy tinh
Chuyển phát nhanh quà tặng: quà sinh nhật, các dịp lễ Tết; thiệp mừng…
Chuyển phát nhanh thư tín, giấy tờ, bưu phẩm chuyển phát nhanh:
Chuyển phát nhanh chứng từ, tài liệu, hộ chiếu, hồ sơ đăng kí học, hóa đơn, bưu kiện mật, thư, bưu thiếp, ấn phẩm, công văn. Vật phẩm bằng thủy tinh.Chất lỏng, chất dầu và vật phẩm dễ chảy nước, Bột khô, bột màu.Ong tầm, đỉa sống và các ký sinh trùng.Chất sinh vật dễ hỏng.Chất phóng xạ. Sách báo, tạp chí…
SgbExpress có nhiều kinh nghiệm trong chuyển phát nhanh tất cả các loại hàng hóa:
Chuyển phát nhanh dàn âm thanh, amply, xe đạp, xe đạp điện, đàn organ, đàn guitar.Chúng tôi chuyển phát nhanh gối, nệm Kymdan. Chuyển phát nhanh quà tặng. Chuyển phát nhanh máy ép nước mía. Chuyển phát nhanh trống múa lân, đầu múa lân. Chuyển phát nhanh tranh, tranh sơn mài, tranh sơn dầu. Chuyển phát nhanh tôm khô, cá khô, mực khô. Chuyển phát nhanh bàn ghế mây. Chuyển phát nhanh quần áo, giày dép, túi xách. Chuyển phát thực phẩm, đồ ăn. Chuyển phát nhanh tượng chúa. Chuyển phát nhanh hàng đông lạnh, thực phẩm tươi sống…
Các gói dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín của SgbExpress:
Chuyển phát nhanh hỏa tốc;
Chuyển phát nhanh thường;
Chuyển phát nhanh hàng nặng giá rẻ;
Chuyển phát nhanh hàng quá khổ, quá tải.
Lợi ích dịch vụ chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín của SgbExpress:
– Thời gian vận chuyển nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng.
– SgbExpress là công ty tiên phong, hàng đầu trong lĩnh vực chuyển phát nhanh quốc tế và nội địa.
– Áp dụng công nghệ tiên tiến nhất, hiện đại nhất trong quá trình làm việc.
– Dịch vụ được cung cấp đối với tất cả mặt hàng, thư tín, giấy tờ, văn bản.
– Thủ tục gửi hàng đơn giản, ngắn gọn, nhanh chóng.
– Hàng hóa được đảm bảo an toàn, nguyên vẹn.
Chúng tôi nhận chuyển phát nhanh đến tất cả các tỉnh thành:
An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Định, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hậu Giang, Hòa Bình, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Phú Yên, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
 Dịch vụ chuyển phát nhanh đi các nước trên thế giới của SgbExpress:
Bên cạnh dịch vụ chuyển phát nhanh nội địa, chuyển phát nhanh đi 64 tỉnh thành trong nước, chúng tôi còn nhận hàng gửi đi hơn 200 nước trên thế giới như: Mỹ, Canada, Mexico, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nam Phi, Angola, Nga,  Malaysia, Singapore, Philippin,Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Mông Cổ, Indonesia,…
  Tham khảo bài viết tại : Chuyển phát nhanh Hà Nội – Vĩnh Phúc uy tín, giá rẻ
https://sgbexpress.com
0 notes
d1z1 · 8 years
Text
Hành trình ‘lột xác’ từ cậu bé buôn gạo của ông Lương Trí Thìn
Thị trường bất động sản phục hồi nhờ vào các thương vụ M&A
I. Vốn ngoại trở lại với bất động sản
Người ta thường thấy Châu Nhuận Phát sử dụng các bằng phương tiện giao thông công cộng như xe buýt, tàu điện ngầm mỗi đi ra ngoài. Các dự án cao cấp có vị trí tốt thường ở các mặt đường lớn, các khu phát triển hấp dẫn như: Sky Garden hay ở hướng phát triển “nóng” như Tay Ho Residence, Water Mark ở Hồ Tây. Mục tiêu dự án là xây dựng một khách sạn 5 sao với 250 phòng, một khách sạn hạng sang 100 phòng, 226 biệt thự, 85 nhà phố, 114 căn hộ và trung tâm thương mạiĐược biết, Nakheel là chủ đầu tư nhiều dự án hàng đầu Dubai, trong đó có dự án bất động sản nổi tiếng thế giới là Palm Jumerah Island (Đảo Cây Cọ), một nhóm đảo trải dài trên gần 20km2, nằm trong dự án xây dựng đảo nhân tạo lớn nhất thế giới. Nước cung cấp từ Air X còn được ướp lạnh hoặc đun nóng.
Can ho Water Bay
Đây có thể xem là một trong các cơ số vũ khí chi viện chủ lực sau cùng để quân đội VNCH “tự thân vận động” trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam. Đây là quán bún bò ngon nhất ở Đà Nẵng, chỉ bán từ 1h đến 6h chiềuBún bò Thủy 218/4 Đống Đa Bún bò quán 244 Hùng Vương (bán từ chiều đến tối)Bánh canhBánh canh 86 số 142 Huỳnh Thúc KhángBánh canh Ruộng gần trường Lê Quý Đôn, quận 3 Bánh canh Minh Nguyệt số 8 Yên Bái Bánh canh Nguyễn Chí Thanh (sau lưng trường Phan Chu Trinh) Bánh canh đường Kỳ Đồng Bánh canh chợ Cồn, bán phía trước chợ từ 6h tối Bánh canh cá lóc Thanh Hương 18 Thái Phiên, 130B Lê Đình Dương Bánh canh Nga 193 Đống ĐaBánh canh là đặc sản của mảnh đất Đà Thành. Hiện tại, họ vẫn tiếp tục nhận được những cầu từ nhiều nhà đầu tư đến từ Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc… và các nơi khác liên quan đến việc đầu tư, mua lại các dự án bất động sản. Quan ngại công tác xử lý xe quá tải có xu hướng trầm lắng, cử tri Lê Văn Tiến (Hiệp hội Vận tải TP Hải Phòng) bày tỏ: “Xe chạy quá tải không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng đường sá giao thông mà còn khiến doanh nghiệp vận tải chân chính mất nguồn hàng. Ngoài ra còn có khu vui chơi với Thế giới Games; Phố ẩm thực gồm hơn 200 nhà hàng và Rạp chiếu phim Platinum Cineplex. Ông Nguyễn Vĩnh Trân, Tổng giám đốc NLG chia sẻ, NLG chọn đối tác nước ngoài có thể giúp Công ty trong định hướng phát triển.
II. Thâu tóm dự án bất động sản
Nói cách khác là trên thị trường BĐS đang có cuộc soán ngôi đổi chủ từ doanh nghiệp nội yểu vốn sang doanh nghiệp ngoại mạnh vốn. Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1948 và từng có thời gian làm trại dưỡng lão. Tràng Tiền Plaza chính thức hoạt động từ khoảng đầu năm 2002 trên cơ sở hợp tác giữa Tổng Công ty Vinaconex với Tổng công ty Thương mại Hà Nội, được xây dựng trên vị trí Bách hóa Tổng hợp cũ, nhìn ra Hồ Gươm, ba mặt phố Tràng Tiền, Hàng Bài và Hai Bà Trưng. Ở phân khúc cao cấp hơn, Novaland cũng chuyển hướng từ phát triển dự án độc lập sang tìm kiếm dự án dở dang để hợp tác đầu tư. Đến nay, họ đã bán Metropolitan Plaza ở Quảng Châu, Oriental Financial Center ở Thượng Hải và International Financial Center ở Nam Kinh. Philae là tàu thăm dò đầu tiên của con người có thể đặt chân lên một sao chổi khi nó lang thang trong không gian.
Xu hướng“capital flight” (trốn khỏi Trung Quốc) sẽ mang lại gì cho bất động sản Việt Nam?. Lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo nhiều năm qua luôn dẫn đầu về thu hút nguồn vốn FDI đã tụt xuống vị trí thứ 2 khi chỉ đạt 234 triệu USD vốn đăng ký, chiếm khoảng 24%. Lượng dầu, nước, thực phẩm mang theo đủ cho tàu có thể tuần tra trên biển trong vòng 7 ngày. Nhiều dự án sắp bàn giao đang nằm trong sự lựa chọn của khách hàng như : Indochina Plaza Hanoi, Royal City, Times city.Trong một báo cáo mới đây, ông Neil MacGregor, CEO Savills Việt Nam, nhìn nhận, Việt Nam đang ở điểm đáy của chu kỳ bất động sản, các nhà đầu tư muốn tận dụng sự phục hồi của thị trường, khi những thị trường khác bắt đầu nguội dần. Tuy nhiên, tổng diện tích của Hà Nội chỉ là 3.
III. Maldives: Chỉ một bước chân là tới được thiên đường
iWallet Classic Carbon Fiber có giá bán 560 USD. Máy bay tuy hơi chật chội và ồn, nhưng bù lại bay rất thấp để hành khách thỏa sức ngắm những đảo san hô như những chuỗi vòng ngọc trai trắng muốt trên nền biển xanh thăm thẳm. Giới chuyên gia bất động sản cho rằng, tính thanh khoản của bất động sản tốt hơn đang thúc đẩy hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực này. Ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc Đầu tư công ty Savills Việt Nam nhận định, các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc đang tăng cường các hoạt động M&A đối với các dự án bất động sản Việt Nam. Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, Trưởng đoàn Việt Nam, Thủ tướng quốc gia Việt Nam lúc đó Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào. Trong đó, 5 doanh nghiệp có sở hữu nước ngoài trên 40% bao gồm: Du lịch Ninh Vân Bay (NVT) và Hạ tầng nước Sài Gòn (cùng có tỷ lệ tối đa 49%); Đầu tư và Kinh doanh nhà Khang Điền (48,3%); Đầu tư Nam Long (48,49%); CTCP Đầu tư Năm Bảy Bảy (43%).
Bên cạnh đó, Savills Việt Nam cũng nhìn thấy nhu cầu ngày càng tăng từ các nhà đầu tư Singapore và Đài Loan ở phân khúc nhà ở và văn phòng. Phi cơ Poseidon có đủ nhiên liệu để tìm kiếm trong vòng ba giờ trên diện tích khoảng 10. Jen Capital, một chi nhánh phát triển bất động sản của Tập đoàn Chiaphua (Hồng Kông), cũng đang lên kế hoạch phát triển một dự án tại quận 2, TP. Ở đây, bột Sago được làm những chiếc bánh như bánh in, bánh in có nhúng chocolate… được bán 1 đô la Brunei mấy chiếc bé tẹo. Ở phân khúc cao cấp hơn, Novaland cũng chuyển hướng từ phát triển dự án độc lập sang tìm kiếm dự án dở dang để hợp tác đầu tư. Chỉ sau đó vài tháng, EXS Capital, một tập đoàn đầu tư chuyên đầu tư vào châu Á với các văn phòng ở Hồng Kông và Tokyo, đã rót 37 triệu USD vào Sơn Kim Land, công ty bất động sản thuộc Tập đoàn Sơn Kim.
0 notes
lethiphuonganh · 4 years
Text
Tổng Hợp Bài Tường Thuật Hội Nghị Quốc Tế Của Tỳ Khưu Bửu Chơn
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Phi Lộ
Trong thời gian qua hơn 10 năm tôi đã đi dự Hội nghị Quốc tế nhiều lần nhưng không có dịp soạn thảo lại những bài tường thuật để cống hiến quí vị độc giả không được sự may mắn đi đến nơi để quan sát tận mắt.
Nên thừa lúc nhàn rỗi tôi ráng soạn lại những điều mắt thấy tai nghe, mặc dầu quí vị chỉ đọc qua những lời tường thuật và hình ảnh thì cũng có thể hiểu biết được và thông cảm những gì mà họ thảo luận trong kỳ Hội nghị, và luôn cả phong cảnh, cách tổ chức trình bày, nghi lễ phong tục, trong mỗi quốc độ khác nhau tùy theo sự tiến hóa của tinh thần hay vật chất, để giúp thêm một phần tài liệu nào cho các bạn hậu tấn có dịp sẽ dự những Hội nghị Quốc tế trong mai hậu.
Hơn nữa cũng là một thiêng lịch sử kỷ niệm trong đời tu học của tôi đã mang chuông đi đánh xứ người và giúp ích gì cho nền đạo giáo nước nhà.
Trong những bài tường thuật có bài đã viết từ lâu nên lối hành văn có hơi cổ kính, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẹn của chuyện thật không muốn sửa đổi trau chuốt văn hoa làm mất bản chất chính yếu và quan niệm thành thật chất phác trong thời kỳ ấy.
Dù sao cũng không thể nào tránh khỏi sự sơ thất một đôi chỗ trong khi soạn thảo có một mình, ước mong quí vị hoan hỷ tha thứ cho.
Trong lúc soạn thảo nhờ cô Viriyā một đệ tử chân thành tinh tấn, hy sinh thì giờ quí báu đánh máy, cách trình bày nội dung và sửa giùm bản thảo giúp tôi.
Tôi xin thành thật cám ơn và chia phần công đức cho cô.
Tôi cũng xin thành kính dâng lên quả phúc này đến thầy tổ và song thân.
  Kính bút
  Nāga Mahā Thera – T�� Khưu Bửu Chơn 
  Tăng Thống G.H.T.G.N.T.V.N
  Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới
  Mùa Xuân Năm Giáp Thìn.
Hội Nghị Lễ Kết Tập Tam Tạng Lần VI Tại Rangoon Miến Điện (17-5-1954)
Bài tường thuật của Thượng tọa Nāga Thera (Bửu Chơn)
Vào ngày 6-5-1954 tôi được danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng Hội Đồng Toàn Quốc Phật giáo xứ Miến Điện gửi đến thỉnh tôi và các chư đạo hữu chùa Kỳ Viên là Trụ sở Trung ương của Phật giáo Nguyên Thủy, để dự lễ khai mạc kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Dưới đây là danh thiệp của ngài Chánh Hội Trưởng:
From: Tharo Thiri Thudhamma Sir U Thwin Chairman of the Union Buddha Sasanā Council Rangoon, Burma.
To: Ven. Nāga Thera dit Pham Van Tong c/o Ky Vien Tu Banco Saigon.
Dear Sir,
As you are aware the Opening Proceedings of the CHATTHA SANGĀYANĀ (the Sixth Great Buddhist Councit) are to commence on the Vesakha Punnima, 2498 B.E (17th May 1954) at the Maha Pasana Guha Rangoon, and we have the pleasure and honour to invite you to join with us in witnessing and sharing the Merit of the Opening Proceedings on this felicitous occasion.
  Mettecittena, Sign, U. THWIN.
Bản dịch: Thado Thiri Thudhamma U Thwin Chánh Hội Trưởng Hội đồng Phật giáo toàn quốc xứ Miến Điện.
Kính gửi Đại đức Nāga Thera (Bửu Chơn), chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon.
Bạch Ngài,
Ngày khai mạc kỳ lễ Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu nhằm ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 đúng 17 Mai 1954, nơi Đại Thạch Động Rangoon Miến Điện.
Nhơn dịp lễ khai mạc này, với tư cách của Chánh Hội trưởng, danh dự và hoan hỷ, chúng tôi xin thỉnh Ngài tới dự lễ và chia phước cùng chúng tôi.
  Tấm lòng thân ái, ký tên, U. ThWIN
Khi được thiệp mời, tôi liền hết sức vận động và phải trải qua nhiều sự khó khăn mới được đủ giấy tờ cho xuất dương cho kịp kỳ khai mạc.
Đúng ngày 14-5-1954, phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam chùa Kỳ Viên Bàn Cờ Saigon, do Thượng Tọa Nāga Thera – Bửu Chơn trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn lìa khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lối 14 giờ rưỡi, phi cơ từ từ cất cách sau khi gần một tiếng đồng hồ thì lại đáp cánh xuống phi trường P.P để chờ hành khách lên xuống và trình giấy thông hành, sau khi nửa tiếng đồng hồ thì phi cơ lại cất cánh trực chỉ thủ đô Bangkok, gần 6 giờ chiều thì phi cơ mới đổ xuống phi trường Daungmaung Bangkok.
Khi phi cơ vừa hạ cách thì tôi thấy rất nhiều khách quan ra đón chào thân quyến, riêng phái đoàn V.N. thì có ông Cố vấn và Tổng Thơ Ký của tòa Đại Sứ V.N. tại Bangkok ra vái chào và đón rước về Sứ quán. Sau khi trình giấy thông hành xong thì toàn thể phái đoàn được đưa về Sứ quán để yên nghỉ, chờ sáng hôm sau phải đáp tàu sang Rangoon.
Vừa hừng sáng lại phải trở ra phi trường để sang Rangoon, mãi lối 9 giờ hơn thì phi cơ mới cất cánh, ngót trên hai tiếng đồng hồ mới tới phi trường Rangoon (Miến Điện).
Hôm ấy có cả phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thailand nên cuộc tiếp rước hết sức long trọng. Sau khi câu chuyện hàn huyên và lời chúc hạ xong lại đưa tất cả phái đoàn về Kapa Aye (World Peace Pagoda) Chùa Thế giới Hòa Bình là nơi trụ sở trung ương Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu.
Xe vừa tới nơi thì thấy vô số lầu đài, dinh thự hai, ba từng. Hỏi ra mới biết nào là Tăng đường, Trai đường và các Ty các Sở như là: Sở Ngoại Giao, Bộ Thông Tin, Sở Y Tế, Sở Cảnh Sát và các cơ sở của Hội Đồng Kết Tập Tam Tạng v.v…
Chính giữa một khu vực trên 100 mẫu có một trái núi giả bên trong là nơi để cho Chư Tăng Cư hội để kết tập. Trái núi giả ấy gọi là Đại Thạch Động chứa được lối 6.500 người có phòng tham thiền, phòng giải lao, phòng tắm và tiện nghi, có ba từng lên xuống đều dùng thang điện, có sáu cây cột và sáu cái cửa cái để ra vô là tượng trưng cho sự kết tập lần thứ sáu.
Đại Thạch Động này Chánh phủ Miến Điện xuất ra lối 9 triệu và 100.000 Rupies, lối 72 triệu bạc xứ ta. Những đồ vật liệu để xây cất thạch động này thì lối 130.000m3 (thước khối) gạch bể, 225.000m3(thước khối) đá xanh (thứ sỏi để tráng đường), 559.572 tấn đá, 170.000m3 (thước khối) cát, 11.973 tấn kẽm, 757 tấn cây vuông và 125 tấn cây giá tị. Bề dài 455 feet lối 145 thước, bề ngang 370 feet lối 120m (thước). Thời gian xây dựng chỉ trong vòng 14 tháng là xong hết.
Tới ngày Rằm tháng Tư nhằm 17 Mai 1954, đúng 12 giờ trưa là giờ để khởi sự khai mạc, mỗi phái đoàn trên thế giới đều có mặt, tôi nhận thấy như phái đoàn Việt Nam, Cao Miên, Lào, Thailand, Tàu, Nhựt, Malaya, Nam Dương, Indonésia, Đức, Anh, Népal, Tích Lan, Ấn Độ, Sikkimy, Pakistan (Hồi quốc) v.v… và các sứ thần đại diện cho mỗi nước trên thế giới. Trong lễ khai mạc dùng ba thứ tiếng là: Pāli, Miến Điện và Anh ngữ.
Vừa đúng giờ thì trời mưa xối xả trên ngót một tiếng đồng hồ, ai ai cũng đều đồng lòng cho là một điềm lành của cuộc Kết tập và sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Khi mọi người đều an tọa thì tiếng đại bác, đại cổ, tiếng đại hồng chung và tiếng còi (sirène) reo lên inh ỏi để làm biểu hiệu cho cuộc lễ khai mạc.
Một vị Thượng Tọa lão niên đứng lên long trọng tuyên bố thay Ban Hội Đồng Kết Tập trước sự hiện diện của 2.500 vị Thượng Tọa, Đại đức của thế giới tới cộng sự, kế tiếp lần lượt các đại diện đọc thông điệp chúc hạ của các vị Đế Vương và Quốc Trưởng Thế giới gởi tới. Phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. được sắp vào bữa thứ nhì để đọc diễn văn do Đại đức Nāga Thera Bửu Chơn lên đài phát thanh trước đọc bằng Phạn ngữ sau lại bằng tiếng Anh. Đại đức Bửu Chơn và Sư Hộ Giác được ghi tên vào sổ để tiếp tục kết tập phần nhứt. Vì sự kết tập được chia ra làm 5 phần (cinq Sections), mỗi phần có 500 vị.
Về cách thức kết tập thì một vị Thượng Tọa Chủ Tịch tuyên bố, hai vị Thượng Tọa khác một vị vấn một vị đáp. Bắt đầu từ Tạng Luật, Kinh và Luận, vị vấn hỏi kỹ lưỡng mỗi Tạng hoặc mỗi điều học, như hỏi bất cộng trụ thứ nhứt vì nguyên nhân làm sao mà Phật cấm, ai phạm điều học ấy trước hết, tại xứ nào? Phật chỉ định mấy lần và cấm chỉ mấy lần? Thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội? Khi xong mỗi điều học thì chư tăng cộng sự đồng lòng đọc lên điều học một lần để tỏ lòng tán thành điều học ấy là đúng theo chánh truyền của Đức Phật, lần lượt như thế cho đến khi tròn đủ tám muôn bốn ngàn pháp môn (84.000 Dhammakhandha). Mỗi ngày ba thời, sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, trưa từ 1 giờ tới 3g30 nghỉ giải lao nửa giờ rồi tiếp tục cho tới 5 giờ mới giải tán, công cuộc tiến hành như thế cho tới hai năm mới chấm dứt là đúng Phật lịch 2500 năm.
Chánh phủ đã dự định một số tiền khổng lồ là 90 triệu đồng Rupies lối 650 triệu bạc ta để hộ trợ cho công cuộc kết tập trong hai năm cho được thành tựu.
Về phái đoàn Phật giáo Nguyên Thủy V.N. rất được nhiều nước hoan nghinh vì có biếu cho đại hội 1.000 đồng Rupies và một tấm tranh năm con rồng vàng nhứt là các vị sư biết nói tiếng Pāli và tiếng Anh trôi chảy.
Sau khi ba ngày khai mạc thì Chánh phủ Miến đã sắp đặt cho tất cả phái đoàn trên thế giới tới dự lễ được đi chiêm bái các nơi Phật Tích toàn xứ Miến Điện, như là xứ Pegu, Mandalay, Sagan, Pagan cách tỉnh thành Rangoon độ trên 1.000 cây số. Toàn xứ Miến Điện bảo tháp nhiều nhứt là xứ Mandalay và Pagan có trên 55 ngàn bảo tháp, Chánh phủ chu cấp cho bảy chiếc phi cơ để đưa đi chiêm bái và các sở phí đều do Chánh phủ đài thọ. Tại tỉnh Mandalay, cựu thủ đô Miến, là nơi Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm cách đây lối một thế kỷ, có nhiều cổ tháp có trên 1.000 năm, trên mỗi chót tháp đều thếp vàng, nên khi du khách vừa mới tới thì những sự chói sáng của bảo tháp dưới ánh thái dương làm cho chói lòa cả mắt.
Xứ Miến Điện rất rộng lớn nhưng dân số chỉ lối 18 triệu, chư Tăng lối 80 ngàn vị, có cả các nước ngoại quốc tới học nền đạo đức như là người Mỹ, Anh, Ấn, Tích, Đức v.v… Vì vậy mà xứ Miến Điện nay rất có tên tuổi trên thế giới về Phật giáo Nguyên Thủy (Nam Tông) vì còn giữ nguyên vẹn những tinh túy của chánh truyền, đến hiện nay mà vẫn còn có nhiều vị đắc đạo quả. Như cách đây độ hai năm có một vị A-la-hán đã nhập diệt hiện nay xác vẫn còn quàn mà chưa hôi thối và còn mềm mại.
Tóm lại, ai muốn tìm chánh truyền của Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) thì nên đến xứ Miến để học hỏi và nghiên cứu thì sẽ đạt được như ý nguyện.
Về pháp học thì còn nhiều nhà sư thuộc nằm lòng Tam Tạng Pāli, còn pháp hành thì cũng còn nhiều vị Thánh Tăng đắc được đạo quả Niết-Bàn.
#tinhtam
#ducphat
#TyKhuuBuuChon
#Vipassana
#theravada
Theo nguồn: https://theravada.vn/book/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc-te-cua-ty-khuu-buu-chon/
from Theravada https://theravadavn.blogspot.com/2020/07/tong-hop-bai-tuong-thuat-hoi-nghi-quoc.html
0 notes
saigonbay · 5 years
Text
Dịch vụ chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây, Hà Nội
Dịch vụ chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây, Hà Nội
Chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây giá rẻ nhất 2016
Chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây giá rẻ, nhanh chóng, thuận tiện. Thị xã Sơn Tây có tốc độ phát triển mạnh mẽ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh.
Chuyển phát nhanh tại thị xã Sơn Tây
SgbExpress nhận vận chuyển tất cả các loại hàng hóa :
Chuyển phát nhanh các loại hàng hóa:
Chuyển phát nhanh dàn âm thanh, amply, xe đạp, xe đạp điện, đàn organ, đàn guitar.Chúng tôi chuyển phát nhanh gối, nệm Kymdan. Chuyển phát nhanh quà tặng. Chuyển phát nhanh máy ép nước mía. Chuyển phát nhanh trống múa lân, đầu múa lân. Chuyển phát nhanh tranh, tranh sơn mài, tranh sơn dầu. Chuyển phát nhanh tôm khô, cá khô, m��c khô. Chuyển phát nhanh bàn ghế mây. Chuyển phát nhanh quần áo, giày dép. Chuyển phát thực phẩm, đồ ăn. Chuyển phát nhanh tượng chúa.
Và các loại hàng hóa khác: đồ thờ. Bể cá cảnh. Chén dĩa. Gốm sứ. Album, hình cưới, lông mi giả. Áo cưới, áo đầm, váy. Màn cửa. Trang sức. Trà, cà phê. Võng xếp. Giày dép.tượng phật. Hàng nhà chùa. Thuốc tây. Bánh kẹo, mứt, Mỹ phẩm, trang sức, túi hàng hiệu, balo, túi xách. Chuyển phát nhanh điện thoại, tablet, bếp hồng ngoại, bếp từ, tivi, loa đài.
Chuyển phát nhanh thư tín, giấy tờ:
Chuyển phát nhanh chứng từ, tài liệu, hộ chiếu, hồ sơ đăng kí học, hóa đơn, bưu kiện mật, thư, bưu thiếp, ấn phẩm, công văn…
Bưu phẩm chuyển phát nhanh:
Vật phẩm bằng thủy tinh.Chất lỏng, chất dầu và vật phẩm dễ chảy nước, Bột khô, bột màu.Ong tầm, đỉa sống và các ký sinh trùng.Chất sinh vật dễ hỏng.Chất phóng xạ.
Chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây
SgbExpress nhận chuyển phát nhanh tại các phường trong thị xã Sơn Tây:
Chuyển phát nhanh các phường: Kim Sơn, Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn,  Xuân Khanh, Cổ Đông,  Đường Lâm, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân Sơn
SgbExpress chuyển phát nhanh tại tất cả các phố ở quận Ba Đình:
Chùa Thông, 1, 21, 418, 87, Bùi Thị Xuân, Cầu Trì, Đinh Tiên Hoàng, Hoàng Diệu, Lạc Sơn, Láng Hòa Lạc, Lê Lợi, Lê Trọng Tấn, Ngô Quyền, Nguyễn Thái Học, Phạm Ngũ Lão, Phó Đức Chính, Cao Trung, Đường Lâm, Phố Hàng, Phùng Khắc Khoan, Quang Trung, Quốc lộ 21A, Quốc lộ 32, Quốc lộ 71, Thanh Vị, Tỉnh lộ 414, Tỉnh lộ 416, Tỉnh lộ 73, Trung Sơn Trầm, Trưng Vương, Tùng Thiện, Vĩnh Thụy.
SgbExpress cung cấp các gói dịch vụ chuyển phát nhanh nội thành tại thị xã Sơn Tây linh hoạt:
Chuyển phát nhanh hỏa tốc chỉ trong vòng 2h.
Chuyển phát nhanh thường trong ngày.
Chuyển phát nhanh giao hàng thu tiền COD.
Chuyển phát nhanh hàng nước ngoài về.
SgbExpress cung cấp các gói dịch vụ chuyển phát nhanh ngoại thành tại thị xã Sơn Tây đi các tỉnh:
Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Bình Dương, Đà Nẵng, Hải Phòng, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, An Giang, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Định, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cần Thơ, Cao Bằng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hậu Giang, Hòa Bình, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
Dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế tại Thị xã Sơn Tây đi các nước:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Anh, Đức, Mỹ, Cộng hòa Séc, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đan Mạch, Bỉ, Ý, Pháp…
Lợi ích dịch vụ chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây của SgbExpress:
– Thời gian vận chuyển nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng.
– SgbExpress là công ty tiên phong, hàng đầu trong lĩnh vực chuyển phát nhanh quốc tế và nội địa.
– Áp dụng công nghệ tiên tiến nhất, hiện đại nhất trong quá trình làm việc.
– Dịch vụ được cung cấp đối với tất cả mặt hàng, thư tín, giấy tờ, văn bản.
– Thủ tục gửi hàng đơn giản, ngắn gọn, nhanh chóng.
– Hàng hóa được đảm bảo an toàn, nguyên vẹn.
SgbExpress cam kết cung cấp cho khách hàng dịch vụ chuyển phát nhanh giá rẻ, nhanh chóng, thuận tiện, uy tín.
  Coi thêm ở : Dịch vụ chuyển phát nhanh tại Thị xã Sơn Tây, Hà Nội
https://sgbexpress.com
0 notes