ca-chuoi
ca-chuoi
ngày hoàn hảo cho cá chuối
13 posts
Don't wanna be here? Send us removal request.
ca-chuoi · 1 month ago
Photo
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Art by Julia Peng
28K notes · View notes
ca-chuoi · 1 month ago
Text
“To move forward clinging to the past is like dragging a ball and chain. The prisoner is not the one who has committed a crime, but the one who clings to his crime and lives it over and over. We are all guilty of crime, the great crime of not living life to the full. But we are all potentially free. We can stop thinking of what we have failed to do and do whatever lies within our power. What these powers that are in us may be no one has truly dared to imagine. That they are infinite we will realize the day we admit to ourselves that imagination is everything. Imagination is the voice of daring. If there is anything God-like about God it is that. He dared to imagine everything.”
— Henry Miller, The Rosy Crucifixion
301 notes · View notes
ca-chuoi · 5 years ago
Photo
Tumblr media
Odalisque with Slave, 1839, by ⁣⁣⁠Jean Auguste Dominique Ingres (1780-1867)⁣⁣⁠
Why Victorians Went Crazy for Orientalism
During the period of feverish obsession with Orientalism, European artists and art lovers looked towards what they dubbed the “East” - aka the “Orient.” The Victorians weren’t overly specific, as this region actually spans many distinct territories and cultures over the Middle East, North Africa, and West Asia. They all did have one sure thing in common however, their “otherness.” They were decidedly different from European culture and while the obsession of the Orient has stretched quite far back in history (and I mean centuries before), we’re going to focus on how and why the Victorians in particular went crazy for it - particularly their obsession with the Ottoman Empire.
The idea of the “Orient” often sets the scene in one’s mind as slave markets, snake charmers, women either dressed in too much clothing or none at all, the hustle of markets and harems, as ‘Arabian Nights’ from Disney’s Aladdin plays in the background. These are just some of the stereotypes which continue to dominate much of the region(s) rich cultures and histories. Provocative, erotic, and exotic.
Power and Obsession
Society at this time held an appreciation of the complex architecture, but often little else, interested only in what the artists could portray as consumable to an audience - whether it was an accurate representation or not.
They largely pushed the view of East civilizations “otherness” through unrealistic portrayals of its people. Clearly all Arab men were snake charmers or slave traders, and all women were poor sexy slaves or… sexy slaves with slightly more luxurious lifestyles - “sexy slave babes” as Lindsay Ellis playfully coins in her video essay ‘The Most Whitewashed Character In Literary History.’ It largely represented these cultures stereotypes or fantasies from the Victorians outside perspectives.
Tumblr media
For example, look at the amazing care Osman Hamdi Bey, an artist actually born within the Ottoman Empire, took in portraying the architecture and lettering within ‘Reading the Quran,’ and ‘The Tortoise Trainer.’
Tumblr media
While Jean-Léon Gérôme’s painting ‘The Snake Charmer’ isn’t as grounded in reality.
These portrayals, which didn’t just occur in visual art but also frequently in literature and the World’s Fair, created a narrative in which the Western control of the East made them civilized and justifying that good ol’ colonial spirit.
Breaking the Nude Rules
Nudity was a big thing for the Victorians. Today we regard them as shrewds scared of showing their ankles, but they went nuts for scandal and drama. Traditionally in Victorian art, nudity had to hold a purpose in order to be deemed acceptable. This included requirements such as depicting mythological or allegorical figures. Then entered ‘Orientalism’ and with it an exception to the rule, where they could view as many naked sexy slave babes that they wanted! Orientalism was an exception to the Nude Rules within Victorian society, and Orientalist artists milked it. Depictions of harems within Victorian art could vary greatly, from some showing it as a more domestic space for women, to others dialed up the exotic and erotic to 100.
When seeing how the Harem was depicted in art by men in particular isn’t all that surprising, as it was the unrealistic portrayal of what was essentially the equivalent to an exotic form of an all-girls sleepover, equipped with nothing but pillows. In short, it was pure fantasy. This is largely due to the fact that men weren’t actually allowed in harems. Going back to Ellis’ video essay, these 19th century European men of course struggled with the “why can I not have the thing?” mentality, and so were naturally inclined to go off nothing but their sexy, sexy fantasies. 
Tumblr media
For example, let us view the harem through the male gaze with Jean-Léon Gérôme’s ‘Pool in a Harem,’ painted in the 1870s.
Tumblr media
In comparison is Henriette Browne’s 1860 painting titled ‘A Visit: Harem Interior, Constantinople.’
Beautiful but Problematic
Orientalism, since the publishing of the famous ‘Orientalism’ by Edward Said, has been dubbed inherently racist by many. Many depictions were for sure inspired by colonialism and the want to patronising-ly differentiate civilizations. Adam Shatz in his article ‘Orientalism, Then and Now’ suggests that this hasn’t ended with the Victorians:
“Orientalism is still with us, a part of the West’s political unconscious. It can be expressed in a variety of ways: sometimes as an explicit bias, sometimes as a subtle inflection, like the tone color in a piece of music; sometimes erupting in the heat of argument, like the revenge of the repressed. But the Orientalism of today, both in its sensibility and in its manner of production, is not quite the same as the Orientalism Said discussed forty years ago.” - Adam Shatz, The New York Review of Books
The Victorians undoubtedly fetishized these cultures in the guise of documenting the culture. And these stereotypes continue to persist to this day. On the site for ‘Reclaiming Identity: Dismantling Arab Stereotypes,’ it’s described how these views contribute to a larger (and inaccurate) view of the Middle East:
“‘Orientalism’ is a way of seeing that imagines, emphasizes, exaggerates and distorts differences of Arab peoples and cultures as compared to that of Europe and the U.S. It often involves seeing Arab culture as exotic, backward, uncivilized, and at times dangerous.”  - arabstereotypes.org
Orientalist artists no doubt made visually stunning works of art, but delving deeper into identifying what makes them more fantasy than reality and the repercussions that came from that is far more important. These works often took away what made the cultures of these regions unique and interesting in order to push their own narrative, and push a consumer trend. When again looking at an orientalist piece perhaps ask yourself what aspects the artist is portraying; reality or fiction?
11K notes · View notes
ca-chuoi · 5 years ago
Text
Bản Giao Hưởng Số VII Và Không Gian Siêu Hình Của Âm Nhạc - Hamvas Béla
1.
Người ta cho rằng, âm nhạc của Beethoven mang tính titán. Đúng. Không phải chỉ vì nó vĩ đại trên cả tầm vóc con người, mà hơn thế nữa, nó cướp lấy vũ trụ.
Nhạc Beethoven lừa âm thanh ra khỏi nơi ẩn nấp của chúng, hung tợn xé tan dẫm đạp âm thanh từ nơi chúng trú ẩn và nuôi dưỡng, hớp hơi thở đầy ắp những âm thanh là âm thanh, lôi chúng lên từ vực thẳm, nơi chúng rơi xuống, từ đá, từ biển, từ đất, từ linh hồn, từ những ngôi sao, từ thế giới bên kia, một cách say đắm, điên cuồng, căng thẳng, tan hòa chúng một cách tàn bạo, ngây ngất, xô đẩy, hất chúng về phía trước.
Những gì còn lại sau đấy, không đáng kể.
Điều chắc chắn, âm nhạc của Beethoven mang tính titán; nhưng số phận của ông chắc chắn cũng thế. Bởi những gì ông làm, chỉ titán làm nổi, bởi những gì vì thế ông đau khổ  chỉ titán đau khổ nổi.
Kẻ quái vật có đôi môi mím chặt, có hộp sọ to tướng, cô đơn, thô thiển đã lĩnh đủ từ âm nhạc của mình, ông bị trừng phạt bởi đã cướp đi toàn bộ âm thanh của thế gian.
Họa chăng chỉ những người Hy lạp hiểu cái gì đã xảy ra, khi ông điếc hoàn toàn, khi ông trở thành kẻ nửa điên rồ thô bạo, vì bị sỉ nhục, vì không bao giờ nghe thấy nữa những âm thanh thế gian mà ông đã cướp đi.
Đúng vậy, như mọi titán, Beethoven cũng thế, ông trở thành nạn nhân của chính tầm vóc vĩ đại của mình, ông, kẻ trong âm nhạc tôn giáo kính trọng các thần linh bằng cách cào xé họ rách tan, chống lại họ bằng cách pha loãng toàn bộ âm thanh thế gian, trút lên đầu họ toàn bộ chất ma quái nguyên thủy của  âm thanh.
Chính thế, thần linh đành quy phục trước ông; nếu họ muốn nghe thứ nhạc xứng đáng với thần linh, họ cần phải nghe Beethoven. Bởi trong thi phẩm còn có thể tranh cãi: Homéros hay Shakespeare, Mahábhárata hay tác phẩm khác; trong hội họa và điêu khắc cũng vậy; nhưng trong âm nhạc thì không.
Cạnh Beethoven không ai trụ nổi. Trong toàn bộ sự sống xuất hiện duy nhất một kẻ khốn khổ, kẻ không nghe thấy mảy may gì từ âm nhạc: chính bản thân ông- Beethoven.
2.
Titán là một thực thể có sức lực nhưng không có đạo đức.
Bởi hắn không biết khái niệm mức độ. Và bởi vậy hắn cần đụng độ với TRẬT TỰ VĨ ĐẠI và cần phải thất bại. Vô ích hắn có sức khỏe khi đập tan mức độ. Sức lực của hắn không giới hạn, không mệt mỏi, và sức lực không chịu đựng nổi bất kỳ ai, bất kỳ cái gì  bên cạnh và trên đầu hắn.
Tội lỗi của titán là sự ngạo mạn. Hắn tưởng sự sống là công việc, là sức mạnh, là tài năng, là sự bền bỉ, là lý trí của sức lực. Hắn tưởng thế gian là chiến lợi phẩm, cần chinh phục bằng sức lực.
Nhưng chính sức lực biến thành điểm yếu của hắn. Có mỗi cái gì đó hắn chưa biết, chưa đủ mạnh.
Một cái gì đó chính là sự nhún nhường.
Tất cả ai biến sức lực của mình thành cái gì đó vượt giới hạn con người, đều đùa bỡn với một nguy hiểm,  sẽ trở thành titán, nghĩa là đánh mất giới hạn, đặt mình lên trước nhất, và như vậy phạm tội của sự ngạo mạn.
Kẻ ngạo mạn, có nghĩa là chưa biết một cái gì đó, không có khả năng và chưa đủ mạnh về một cái gì đó. Sức mạnh vượt giới hạn con người biến thành ma quỷ quay chống lại chính kẻ đã thu thập sức mạnh ấy.
Sự trả thù sẽ đến chính từ cái con người tưởng sẽ giúp họ đi đến chiến thắng. Họ thất bại từ sức mạnh. Lúc nào cũng chiến thắng, chiến thắng và chiến thắng; chỉ khải hoàn ca và khải hoàn ca. Giữa chừng con người không nhận ra, một khía cạnh, một bề mặt của nó trống rỗng, huếch hoác, yếu ớt, thiếu hụt, hẫng.
Nó không đủ sức để dừng lại và quỳ gối. Nó không có mức độ, không đạo đức, không tôn giáo, không sự mềm yếu, không đủ sức đi đến sự âu yếm, không thể biết mang ơn;
Những trống rỗng này cần thất bại trong vũ trụ, và cần biến thành tro bụi, thành sự vô nghĩa.
3.
Bản thân sự ngạo mạn chính là sự nhận biết ra titán, bên cạnh titán có sirén-loài tiên biển. Sirén là nửa phần đàn bà và là phần bên trong của titán, cũng như titán là nửa phần đàn ông và là phần bên trong của sirén.
Sức mạnh là của titán cũng như sự quyến rũ là của sirén. Nhưng cả hai đặc tính này thực chất là một.
Cái cách thức người đàn bà đánh mất mức độ, không biết nhún nhường, biến mình thành một cái gì đó vượt giới hạn đàn bà, để nắm giữ chiến lợi phẩm và ngự trị nó: đấy là sự quyến rũ.
Cái cách thức, người đàn ông đánh mất mức độ, không biết nhún nhường, biến bản thân mình thành cái gì đó vượt giới hạn con người để nắm giữ chiến lợi phẩm và ngự trị nó: đấy là sức mạnh.
Sự quyến rũ là sức mạnh của đàn bà, cũng như sức mạnh là sự quyến rũ của đàn ông.
4.
Tước vòng đời sống của titán và sirén không khó. Đấy là phép thuật của cái Tôi, của chính cái Tôi, một hình thái, một thực thể như nó có, muốn trở thành một cái gì đó vượt giới hạn con người và phù phép vào nơi nó đọng lại vĩnh cửu: đấy là phép thuật của sự quyến rũ và sức mạnh, muốn vĩnh viễn tồn đọng bằng khuôn mặt này, mái tóc này, âm thanh này, mái đầu này, những tư tưởng này, những hình ảnh này, những khát vọng và những bản năng này.
Như thế, như nó đang sống, nó muốn vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái đó một cách bất biến trong vô tận. Nó không nhận biết cái gì tốt hơn, nhiều hơn, bởi nó là sự ngạo mạn, cái Tôi là như thế, như nó có, xứng đáng để lưu đọng vĩnh viễn: nó muốn đạt cái hạnh phúc như vậy để bước vào một nơi” nước mắt không với tới bao giờ”.
Nó có nhu cầu bám vào hạnh phúc, vào cái sự sống trong sạch, yên ổn, đặc quánh, tan biến và rạng rỡ, một sự sống, nơi tất cả trạng thái hoảng loạn bị kích động biến mất,  mọi ngất ngây đều  tan hòa.
Không thể biết ai đến trước. Nhưng chắc chắn, khi titán ra đời và bắt đầu chia xẻ thế gian, lúc đó thượng đế gửi sirén tới.
Khi titán thoạt trông thấy sirén, hắn hô to: Đây rồi! chính là nàng! Nếu kẻ đến trước là sirén và bắt đầu chinh phục thế gian bằng sự quyến rũ, lúc đó các thần linh gửi titán tới. Nhìn thấy kẻ khổng lồ này, sirén hét lên: Đây rồi! chính là chàng! Trong phút giây ấy cả hai đều trượt ngã.
Titán tin rằng hạnh phúc đang ở chỗ sirén, còn sirén tin chắc rằng hạnh phúc đang ở chỗ titán. Từ đó đến nay tất cả mọi titán và sirén đều tin tưởng hạnh phúc đang ở chỗ kẻ kia.
Và chúng quên tất cả những gì chúng muốn, quên luôn cả sự sống vĩnh hằng của thượng đế. Chúng quay hướng phép thuật của mình vào nhau, chinh phục, quyến rũ lẫn nhau, từ lúc đó cho đến tận bây giờ. Chúng nộp mạng cho nhau, coi lẫn nhau là chiến lợi phẩm, và cả hai đều tin chắc rằng hạnh phúc do kẻ kia mang lại cho mình.
Còn các vị thần linh chỉ mỉm cười. Giờ đây chúng vẫn đang cấu xé, chinh phục và quyến rũ cũng như đang hành hạ nhau- và quên hết thảy những điều khác.
5.
Ai nghe nhạc của Beethoven, đều có một ấn tượng con người này không viết nhạc bằng niềm vui.
Người nào chiêm ngưỡng, nghe, đọc một tác phẩm lớn, đều luôn luôn có một ấn tượng,  tác phẩm ấy không được sáng tạo  bằng niềm vui. Ở khía cạnh này luôn có thể nhận biết ra chân dung bậc thầy và nghệ sĩ rởm.
Nghệ sĩ rởm vẽ hoặc viết, hoặc hát về sự tự chiêm ngưỡng bản thân mình, sự thưởng thức quan trọng đối với y. Y đặt bản thân mình thành khán giả luôn, trong cùng một cá nhân y là nhà văn và người đọc, trong cùng lúc có từ bên trong và  nhìn từ bên ngoài.
Bởi vậy tác phẩm của nghệ sĩ rởm không có khuôn mặt, nghệ thuật nghiệp dư giống như một sự thủ dâm, tác phẩm tạo ra  không mang lại niềm vui cho ai, chỉ cho chính kẻ tạo ra nó.
Không được phép viết ra dù chỉ một âm thanh, một dòng chữ nhằm phục vụ sự chiêm ngưỡng chính mình
Tại sao lại không? Bí mật. Nhưng tuyệt đối cấm.
Bậc thầy biết một cách bản năng, cần tự hành mình như thế nào để chống lại sự tự chiêm ngưỡng bản thân. Trong khi đó nghệ sĩ rởm thì đắc ý. Khi nào y bắt đầu đau, cảm thấy mình trở thành gánh nặng, và bắt đầu trở nên bị cầm tù, lúc đó y bắt đầu trở thành bậc thầy.
Nhà thơ cần từ bỏ thú vui vầy với chữ; nhà soạn nhạc cần quen với việc âm thanh trở thành nỗi đam mê. Tất cả các tác phẩm lớn là kết quả của khổ hạnh, và chỉ cái giá của việc từ bỏ sự thưởng thức mới vĩ đại.
Nghệ sĩ rởm không làm được. Y bị bỏ bùa khi tự thưởng thức âm thanh riêng của mình, nhưng từ phút ấy không còn là âm thanh nữa mà chỉ là sự trống rỗng. Bậc thầy là kẻ khổ hạnh, khi cả thế gian nồng nhiệt chiêm ngưỡng, bậc thầy tỉnh.
Cần làm quen với thứ độc tố dùng để sử dụng chống lại việc tự chiêm ngưỡng tác phẩm. Cần sử dụng một cách nghiêm khắc, như bất kỳ một tuyên thệ giáo phái nào: với điều mi sáng tạo, mi không được phép chiêm ngưỡng nó, và mi là kẻ duy nhất không cổ vũ nó.
6.
Beethoven gặp khó khăn nhiều hơn khi muốn thoát khỏi gánh nặng ngày càng tăng với những nhiệm vụ của mình. Ông muốn tránh né khỏi những ngọn roi khích động luôn đẩy ông vào những đảm nhận khó đảm đương. Ông gặp phiền toái từ những điều ông không muốn nhiều hơn từ những điều ông muốn.
Sáng tạo của ông có hay không? Có vĩ đại không?
Khi chợt tỉnh ra, rằng tuyệt tác, đấy là sự khủng khiếp hơn là niềm vui, đấy là nỗi sợ hãi hơn là sự chiêm ngưỡng. Sau rốt, trong sáng tạo thật sự duy nhất có một kẻ đáng quan tâm, kẻ sáng tác.
Chỉ kẻ sáng tác nhận biết tác phẩm không chỉ hay mà giá của cái hay là gì. Chẳng thà ông trốn thoát, rút lui, do dự, chẳng thà ông ẩn trốn, còn tốt hơn hát khúc khải hoàn. Cái kém chất lượng của tác phẩm rởm nằm trong điều tác phẩm nói ra, còn sự vĩ đại của bậc thầy nằm trong sự im lặng của tác phẩm.
Như thể chẳng thà cắt đi tất cả còn hơn kiêu căng vỗ ngực. Banzac từng nói, trong sáng tác con người trước tiên rầu rĩ, sau đó tiếp tục công việc một cách khổ sở vì không từ bỏ được, sau cùng những mong muốn được rút lui.
Trong cường độ này của sự sống, con người chỉ biết lảng tránh, nhưng nếu  đã ở  trong rồi, nó đau khổ khôn xiết, bởi không thể từ bỏ, rồi sau cùng, nó không bao giờ tìm thấy ngôi nhà mình ở đâu nữa, chỉ ở đây.
7.
Trong định nghĩa của tâm lý học hiện đại joga-một cách chậm rãi bằng sự tập trung sức mạnh thường xuyên - đẩy những nội dung vô thức nâng dần về phía ý thức.
Để đạt tới cái gì không quan trọng. Quan trọng là chắc chắn có một quá trình nâng cao và thanh toán một bộ phận tối tăm và bị chìm nghỉm của đời sống.
Phải chăng có một thời toàn bộ sự sống Poseidon mờ mịt sâu thẳm đã từng hiện hình giữa ban ngày ban mặt. Rất có thể, có một thời tất cả những gì ngày nay phập phồng ẩn hiện trong vô thức đã từng nổi trên bề mặt ý thức, chỉ sau những hậu họa thiên tai nó bị chìm nghỉm, như châu lục Atlantic.
Bởi nếu không phải như vậy, không bao giờ có thể nâng lên nổi  cái hiện thực dưới lớp vô thức. Nghĩa là vô thức có thời đã từng là ý thức, khi con người hoàn toàn xuất hiện dưới ánh sáng, và phần lớn những vô thức này chưa bị chìm nghỉm.
Chỉ như vậy và duy nhất chỉ như vậy mới có thể lôi trở lại tất cả những gì đã bị chìm đắm một lần, chỉ như vậy chiến thắng và sự vĩ đại mới chính là việc nâng những gì đã bị chìm đắm lên cao, và chỉ như vậy việc đánh chìm một cái gì đó mới thực sự nguy hiểm, mới thực sự là tai họa nếu con người rơi xuống vô thức.
Joga là một quá trình phương pháp soi sáng con người đến tận nơi tối tăm nhất, và lôi trả lại những gì đã bị dìm xuống nơi tăm tối.
8.
Rằng nghệ thuật của Beethoven là joga-âm thanh, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.
Bởi vậy nó không bao giờ làm người ta có cảm giác, cái ông sáng tạo ra bản thân nó là sự tự chiêm ngưỡng.
Trong những thành tựu của khổ hạnh hoặc joga không thể có sự hưởng thụ. Beethoven biết ông đạt được cái gì, ông phải trả giá như thế nào, cái gì chờ đợi ông. Âm nhạc đối với ông là một quá trình có ý thức và có kỷ luật để kéo tất cả những gì bị chìm đắm lên; thế giới âm thanh là thế giới để ông thực hành joga.
Đạo sĩ, hay joga, khi rọi ánh sáng về phía thế giới của tối tăm, và dẫn dắt một cách có ý thức ánh sáng vào chính bản thân mình, lúc đó nhà khổ hạnh khêu gợi từ tăm tối những hình hài được tâm lý học gọi là các nguyên mẫu cổ.
Nguyên mẫu cổ độc lập với con người, là hình thức nguyên sơ, thực thể nguyên sơ, là bản chất, là hiện tượng cổ. Những hình hài cổ này của sự sống là các nhân vật của thần thoại: rồng, ngựa có cánh, quỷ Lucifer, thiên thần, ma quái, thần hộ mệnh, mẫu tổ. Là những hiện tượng cổ như titán và như sirén.
Đạo sĩ hay joga là một quá trình phép thuật, và như mọi phép thuật, cực kỳ nguy hiểm.
Tại sao?
Bởi vì khi từ tăm tối các hiện tượng cổ hiện lên, nhà đạo sĩ cần nhận biết về thực thể cổ này và nêu được tên chúng. Vì thế, dù đấy là con người, ngôi sao, hay thực vật, động vật, thực thể sơ sinh hay một khám phá mới hiện lên từ sự vô danh, việc đầu tiên và cũng là việc quan trọng nhất: đặt tên và gọi tên.
Cái tên giờ đây gắn với ánh sáng, và không cho phép sự vật chìm trở lại nữa. Nếu con người không nhận ra hiện tượng cổ, không biết tên của nó, thực thể cổ này sẽ chìm trở lại.
Và cái tiếp theo sẽ là sự khủng khiếp của mọi khủng khiếp. Đạo sĩ bắt đầu đồng hóa mình với chính hiện tượng cổ. Đây là khoảnh khắc, theo như truyền thuyết, con người biến thành rồng hoặc thành quái vật, hoặc thành ma quỷ. Bởi con người tin rằng họ chính là thực thể cổ.
Như cách thức Beethoven biến thành titán, bởi vì ông tin rằng mình là titán. Con người đồng hóa bản thân mình, điều đó có nghĩa rằng nó sẽ nhận được số phận của hiện tượng cổ. Nó biến đổi. Beethoven nhận được sức mạnh của titán, sự quyến rũ của sirén, sự ngạo mạn- tất cả, những gì đi với số phận kiểu này. Sự trừng phạt và sự thất bại.
9.
Những tác phẩm đầu tiên của Beethoven lắm lời.
Trong mọi trường hợp đây là tác phẩm rởm. Sự tự chiêm ngưỡng nằm trong âm thanh, thành công nằm trong sự hòa đồng và trong các cách giải quyết, giai điệu gắn bó và thành công trong hình thức hoàn hảo. Bởi vậy tác phẩm đầy rẫy những tiết tấu biếng lười và những âm điệu trống rỗng, thứ chẳng có ý nghĩa gì.
Nhưng giai đoạn này chấm dứt nhanh chóng.
Chất liệu sáng tạo ngày càng tăng lên, nơi chứa đựng ngày càng thu hẹp lại.Thời gian bắt đầu bị rút ngắn. Một nhiệm vụ nổi lên, làm thế nào để thu hẹp được thế giới âm thanh ngày càng dày đặc và mở rộng vào một hình thức không cần thiết phải mở rộng.
Hình thức được diễn giải dài dòng đã bị rút ngắn. Cần cô đọng sự vật, cần cắt bớt. Cần gạt sang một bên thứ ngôn ngữ thường ngày, bởi như thế này đã quá loãng. Cần tìm ra những ký hiệu ngắn gọn và dày đặc nội dung.
Trong giây phút đó xuất hiện cái được gọi là piano của Beethoven.
Piano của Beethoven thông thường là một công thức sống động bằng hai-ba biến tấu. Các âm điệu ngày càng mạnh mẽ, mỗi một âm điệu sau vang lên mạnh hơn âm điệu trước, và tăng dần theo tịnh tiến lũy thừa, càng ngày càng phẫn nộ thét gào bằng nỗi đam mê càng ngày càng cuồng nhiệt hơn, để đến khi người ta  tưởng màng nhĩ của nhạc cụ sắp rách toạc trong tiếng thét gào thì đột nhiên, rất bất ngờ, âm thanh lắng xuống.
Piano của Beethoven không kết thúc trong sự tăng dần tốc độ, mà sức mạnh âm thanh trong khoảnh khắc cuối cùng bị nén chặt lại và giảm tốc.
Đấy là sự xuất hiện của kỷ luật tự thân khổ hạnh.
Như Rolland đã viết: Beethoven là nghệ sĩ duy nhất trên thế gian người ta có thể hoàn toàn tin tưởng trao mình cho ông-không phải vì bên cạnh ông chỉ có sự an toàn và yên ổn, mà trái lại ở bên cạnh Beethoven là sự đam mê đáng sợ, đáng kinh khủng nhất, nhưng những đam mê này cho dù có sức mạnh kinh hãi đến đâu người ta đều biết: bản thân Beethoven mạnh hơn tất cả mọi đam mê.
Khi ông thả  con thú hoang dại nhất ra cũng là lúc ông chiến thắng nó. Piano của Beethoven là khoảnh khắc giải phóng nỗi đam mê hung tợn nhất, cùng lúc với chiến thắng huy hoàng nhất nỗi đam mê này.
Đấy là khoảnh khắc của kẻ khổ hạnh, khi  bằng thứ kỷ luật có ý thức nâng bổng thực thể cổ từ nơi tối tăm quay lại phía ánh sáng để đạo sĩ tóm lấy cổ nó và dẫm bẹp. Đây là động tác của titán.
Sự xuất hiện của piano Beethoven chấm dứt thời kỳ lắm lời của âm nhạc. Chấm dứt phong cách ngồi lê mách lẻo thị dân và theo lối rokoko trong âm nhạc. Giờ đây không còn ai nói về sự hài hòa êm dịu, về những tính toán khôn khéo nhiều sắc thái của các tác động âm nhạc và những âm điệu vỗ về nữa.
Joga âm thanh đã khởi hành, lôi cổ các hiện tượng cổ xưa của thế giới âm thanh bí ẩn và tăm tối rời khỏi nơi ẩn nấp của chúng.
10.
Trở thành đạo sĩ, thành kẻ khổ hạnh khi con người trở nên mạnh hơn bản thân nó.
Thứ xuất hiện trong piano Beethoven là hình thức cơ bản của đời sống khổ hạnh, nỗi đam mê được giải phóng nổ tung và tháo lui trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi con người bị đam mê tóm lấy. Con người trở nên mạnh hơn bản thân nó vì thế.
Con người tưởng mình hiểu ra điều này. Thực ra họ hiểu rất ít. Họ không thể hiểu rằng họ đang đi trên đất lầy. Đúng thế, nhưng cái gì mạnh hơn và mạnh hơn so với cái gì? cái gì là con người và cái gì là bản thân nó? căn nhà của nó ở đâu, trong cái gì? Cái gì vậy khi tôi mạnh mẽ, và tôi mạnh mẽ hơn cái gì?
Khi nào con người ta mạnh hơn, như khi Odyssey cột mình vào cột buồm lúc các thủy thủ khác bịt tai họ lại, chỉ để chàng vẫn nghe tiếng hát của loài tiên biển sirén, và như vậy chàng mạnh hơn cả bản thân mình?
Hay chàng cho phép tiếng hát du dương quyến rũ, chàng đi về phía đó và như vậy chàng mạnh hơn bản thân? Khi nào người ta vĩ đại hơn: khi yếu hơn hay khi mạnh hơn? Khi chống lại hay khi không chống lại?
Sức mạnh nào lớn hơn, cái đến và đang ngự trị được tung ra một cách ngạo nghễ, hay là cái sức mạnh trói bản thân mình vào cột buồm và tự vệ, vì cần phải trở nên mạnh như thế, bởi bản thân tự biết nó không đủ mạnh?
Thực ra cái nào là con người, chính bản thân nó hay kẻ mạnh hơn bản thân nó?
Ôi!” trong trái tim hoang dã của con người nó không có nhà ở bất kỳ đâu, và cũng không thể có”.
Nhà của nó không ở đây, chẳng ở kia; không phải nó, không phải trong bản thân nó, không phải trong kẻ mạnh hơn chính bản thân nó. Và toàn bộ sự lưỡng thể này, sự bấp bênh định mệnh trên đất lầy này há không phải một dạng của sự lưỡng tính ẩn náu trong sâu thẳm cùng tận hay sao?
Phải chăng con người không mạnh hơn khi không chống lại, con người yếu hơn khi cho phép người đàn bà bí ẩn, nỗi đam mê trong nó lên tiếng, hiến dâng bản thân nó?- hay nó mạnh hơn, khi chống lại, khi buộc mình vào cột buồm, lúc nỗi đam mê đàn ông bí ẩn trong nó lên tiếng- nhưng bản thân con người không phải là kẻ này cũng chẳng phải là kẻ kia, trong trái tim hoang dã của nó không nơi nào là nhà và không bao giờ có thể có?
Không ai có thể quyết định, cái nào cần đến sức mạnh lớn hơn, khi tôi mạnh mẽ chống lại hay khi tôi mềm yếu.
Cả hai biến thành Một trên cái đất lầy bấp bênh, và biến đổi nhanh như chớp, để tiếp tục thành dòng chảy hòa cùng nhau: thực chất ở đây có cả hai, hai sự khác nhau, thậm chí đối chọi hẳn với nhau, với hai câu trả lời, câu thứ nhất đúng thế, câu thứ hai không- đúng  cũng có nghĩa là không – nhưng nghĩa là gì?
Mọi sự vật trong cái ý nghĩa lưỡng thể của nó tiến về phía trước, thận trọng, men bờ vực thẳm, là nỗi hiểm nguy lớn nhất, ai dám đến đây? ai dám hiểu chừng ấy? bởi sự vật biến đổi không thể nhận thấy, với một nụ cười không kiểm chứng nổi khi cái này trườn biến vào cái kia bằng những giai điệu rơi xuống.
Tất cả lao xuống hòa vào một trong cùng một nắm bắt chóng mặt niềm vui và nỗi khủng khiếp: nhưng cần nhận ra, cần nhìn thấy tất cả, cần nhìn thấy đến chừng mực không thể chịu đựng được nữa.
Chỉ những kẻ khốn khổ mới cần đến sự an ủi. Luôn luôn cần nhìn thấy nhiều hơn nữa, và khi không thể đi tiếp được nữa, tận lúc đó vẫn cần biết: con người cần tìm thấy căn nhà cho trái tim hoang dã của mình.
11
Ký hiệu của lời hình thành nhân đôi như thế.
ần phải tìm thấy những công thức âm thanh thu gọn, đã sàng lọc, để thoát ra khỏi thời gian run rẩy bị thu hẹp, để viết ra được điều muốn viết.
Cần tìm ra văn bản Chiffre để giải nghĩa những ấn tượng bí ẩn và hai nghĩa của số phận, và để viết ra tất cả những gì nhìn thấy.
Những hình thức chủ đạo: bằng sonata, bằng kiểu điệp khúc rôn-đô, bằng tẩu pháp, ca khúc, các hình thức vũ nghệ…không thể dùng chúng để giải quyết. Nhưng chỉ bằng âm nhạc chủ đạo cũng không nốt.
Sáng tạo ra một loại âm nhạc mới? Điên rồ! Cả hình thức lẫn âm nhạc đều chưa được chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ này. Không thể sử dụng những âm thanh ngây thơ và trong sáng của Bach, Mozart, Haydn để đạt tới điều Beethoven muốn.
Ông thử khúc chiết; chỉ ném đề tài vào bản phác thảo; ông thử đơn giản hóa hình thức; bỏ đi các mục, dồn vào làm một. Nhưng tất cả đều chỉ là chuyện hình thức. Cần phải thay đổi âm thanh.
Không thể biết chính xác, bước quyết định này đã xảy ra trong tác phẩm nào. Nhìn lại từ phía sau, từ dưới lên trên không xác định nổi điều này.
Rất có thể một vài âm tiết và chất tượng trưng trong những bản sonata đầu tiên đã vang lên như sau: không phải như âm nhạc, mà như một thứ âm nhạc vượt tầm âm nhạc.
Như cách thức số phận vượt tầm số phận không chịu đựng số phận mà chịu đựng số phận của số phận- cuộc sống vượt tầm không chỉ sống một đời sống mà thể hiện một đời sống vượt tầm cuộc sống- con người vượt tầm là con người của con người- Übermensch,Überleben,Überschicksal- Übermusik là âm nhạc của con người vượt tầm con người, của số phận vượt tầm số phận.
Nó cô đọng hơn, sáng chói hơn, nguy hiểm hơn, khó nhọc hơn, tỉnh táo hơn, đam mê hơn. Beethoven đã tìm ra một vị trí không cần thay đổi trong hình thức và trong âm nhạc, chỉ cần thay đổi chính âm thanh bằng cách nâng âm thanh cao lên thêm một mức.
Như vậy bản thân các hình thức và âm nhạc không mảy may bị chạm tới. Thậm chí,ông chính là kẻ bảo tồn các quy tắc và hình thức hoàn hảo nhất của âm nhạc.
Âm thanh của Übermusik hoàn toàn không đếm xỉa nó có ý nghĩa gì trong cái thế giới hiện thực. Bản chất bên trong của nó không phải xúc cảm, mà là  thế giới âm thanh vượt tầm âm thanh.
Beethoven không sáng tạo ra một hình thức mới, một âm nhạc mới, một cách thể hiện mới, một ngôn ngữ âm thanh mới mà âm thanh được Beethoven tạo dựng ý nghĩa, giá trị của âm thanh được ông lên một mức.
Beethoven tạo ra một khả năng mới, bằng khả năng này cái sự sống vượt tầm đời sống và con người vượt tầm con người có điều kiện diễn tả mình trong thế giới âm thanh.
Beethoven tạo dựng âm nhạc dành cho các hiện tượng vũ trụ cổ, bởi ông cho rằng âm nhạc chưa từng có khả năng này, như vậy ông đã nâng tất cả lên cao hơn một mức. Đấy chính là ý nghĩa của Übermusik.
Không thể đảo ngược tình thế lại được nữa.
Không bao giờ có thể viết nổi nhạc bằng sự thơ ngây Mozart hay ngập ngụa tràn trề kiểu Bach nữa.
Âm nhạc từ giờ phút này trở đi chỉ có thể là thứ joga-âm thanh, một thứ khổ hạnh có ý thức kỷ luật làm mê hoặc các hiện tượng vũ trụ cổ bằng âm điệu.
Thế giới vô tư của âm nhạc biến mất vĩnh viễn: âm nhạc trở thành vũ khí, thành công cụ thần chú, thành phép màu, thành sân khấu, thành bãi pháp trường, thành pháp binh, thành tri thức và cây thập tự.
12.
Có thể lần từng bước trong các tác phẩm của Beethoven để thấy thế giới âm thanh Übermusik vĩnh cửu đã dẫm bẹp các âm thanh cũ như thế nào, đã biến đổi để trở thành kẻ thống trị ra sao, đã chiếm lĩnh không gian như thế nào. Không thể so sánh đối chiếu chúng với nhau được.
Trong thế giới hội họa tất cả mọi người vẽ bằng một ngôn ngữ, đấy là thứ ngôn ngữ Handel, Mozart và những người khác đã viết. Đấy là thứ ngôn ngữ các nhà thơ dùng để viết từ Sappho cho đến Keats. Kể cả các nhà thơ, các họa sĩ đều không thể nâng ngôn ngữ lên vượt tầm thế giới con người.
” Chỉ âm nhạc, thứ nghệ thuật duy nhất làm nổi việc bước vào một thế giới cao hơn, một thế giới đối với khoa học và nghệ thuật chỉ là tượng trưng”. Trong nghệ thuật ngoài Beethoven ra không ai có thể có một cá tính titán như thế.
Có thể nhận biết ra các bến đỗ. Trước tiên là các tác phẩm xung quanh bản Pathétique các bản sonata viết cho violon, piano và dàn nhạc.
Sự kiên định xa lạ tại đây bắt đầu trở nên run rẩy, tuy bên ngoài dường như không có gì thay đổi, một sự độc đoán khủng khiếp bí ẩn xuất hiện. Rất có thể trong thời gian này những cây cột đầu tiên đã bị đổ vỡ sau hậu trường.
Âm nhạc của ông bắt đầu trở nên đứt đoạn, bất thường, mê hoặc và có phép thuật. Hình thức nhạc tất nhiên vẫn như cũ, thậm chí có vẻ như hoàn thiện hơn. Übermusik phá vỡ thế giới âm thanh cảm xúc và bắt đầu trở nên nảy lửa.
Bến đỗ tiếp theo, như Rolland nhận ra, tập trung quanh các tác phẩm Eroica và Appassionata.  Dễ dàng nhận ra ý nghĩa anh hùng ca bùng nổ trong các tác phẩm này là cái gì. Toàn bộ thế gian đỏ rực, từ tăm tối loãng dần những thân hình lửa rồng quằn quại.
Giai đoạn thứ ba tiếp nối với vai trò piano của Beethoven. Sự bóp nghẹn những đam mê bị quất xé. Nhất là bản giao hưởng số V. và bắt đầu từ đó cho đến những bản mise.
Sự cô đọng ngày càng hiện ra rõ nét hơn. Đôi chỗ lóe lên những tố chất chỉ có thể bắt gặp trong những bản sonata cuối cùng và trong những bản tứ tấu. Một tố chất nhạc được tiếp cận: tốc độ.
Một người nào đó vút qua như một thiên thể trong vũ trụ, như một tảng sao băng, nhưng là một kẻ không choáng váng chóng mặt trước tốc độ khủng khiếp này: một kẻ bay đi với ý thức tỉnh táo, để không chỉ tuân theo tốc độ mà còn chỉ đạo tốc độ nữa.
Giữa chừng, nó nhìn thấy tất cả bởi một phần thế kỷ của khoảnh khắc đủ để nó nhận biết ra một cái gì đấy. Nó lao xuống khoảng không của ánh sáng năm tháng với lòng tự tin vô bờ bến và với một kỷ luật gắt gao.
Bến đỗ tận cùng là những bản sonata cuối, bản mise và bản giao hưởng số IX.
Bức tranh trước đó thay đổi đến mức  nhà ảo thuật đứng giữa không gian vô tận, như một nhạc trưởng, vẫy cao cây đũa thần, mưa thiên thể nảy lửa ào ào trút xuống, cùng với những tiếng nổ vang dội ngày càng khủng khiếp núi hoang dại nâng bổng lên, trên đỉnh núi cao vợi từ ánh sáng chói chang trong suốt như pha lê- sao chổi quét nhanh vun vút-biển nổi sóng, cuồn cuộn, thở hắt.
Chan hòa là những ảo ảnh vũ trụ: chậm dần, đột ngột, nhanh như chớp, rồi lại bình thản và xao xác- nhỏ dần, bỗng hú lên…
Một ý chí, một sức mạnh sáng tạo điều khiển tất cả những điều này: nhà ảo thuật vĩ đại.
13.
Bản giao hưởng số VII là bản đầu tiên của bến đỗ cuối cùng.
Người ta viết nhiều điều ngu ngốc về bản giao hưởng này.
Wagner nói, đây thuần túy là một vũ điệu. Obussier viết, đây là bản giao hưởng Hy lạp, như kiểu Hyperión của Hölderlin, Iphigeneia của Goethe, Dionysus, Apollón, và phải là Hy lạp, bởi:”„sự gắn bó tinh thần thẩm thấu một tôn giáo thánh thiện gặp gỡ sự ngất ngây say đắm của đời sống” Đúng thế, những phân tích này quả là đúng. Nhưng – vẫn chỉ là: nhưng
Không nói lên chút gì về các mô-tip. Không nhất thiết phân tích. Ở Beethoven trong giai đoạn này các chủ đề( motip) không mang một ý nghĩa độc lập. Cạnh Beethoven, chủ đề đã tìm ra cách thức để đạt tới bản chất một cách ngắn nhất.
Nói cách khác: có một thứ ngôn ngữ tin rằng có thể nắm bắt được sự vật bằng khái niệm. Ở đây khái niệm mang một ý nghĩa độc lập, bởi nó cùng giá trị với sự vật. Nó có nghĩa là sự vật. Một thứ ngôn ngữ khác dùng để sử dụng và phù phép khi đọc bùa. Bản thân việc đọc bùa này không mang ý nghĩa gì; nó là công cụ sử dụng để trích dẫn sự vật một cách đúng đắn.
Âm nhạc trước Beethoven là thứ ngôn ngữ khái niệm. Bởi vậy chủ đề (motip) mang một ý nghĩa đơn điệu.
Trong âm nhạc của Beethoven chủ đề là con đường ngắn nhất dẫn đến bản chất, hay âm thanh có phép màu chính là bùa, bằng một tri thức nhất định dùng để phù phép kêu gợi cái hiện thực bí ẩn bị  dấu kín.
14.
Điều thể hiện trong mục đầu tiên sẽ còn quay lại một lần nữa ở Beethoven, trong một bản sonata cuối cùng, như vài tiết tấu: nửa đầu tiên trong mục thứ hai của sonata A-dúr Sau Beethoven sẽ xuất hiện lần nữa ở Schumann, trong mục thứ hai của fantázia C-dúr, như một đề tài phụ đầu tiên.
Để đỡ mệt mỏi tìm hiểu về điều này, tốt nhất chúng ta hãy đi ngay vào trọng tâm của sự vật. Đấy là sự ngưỡng mộ của con người với tiếng hót của loài chim.
Đặc biệt vào mùa xuân, tháng năm và đặc biệt trong tiếng hót của chim họa mi.
Trong bài ca của loài chim con người không thể tiếp cận nổi cái hiện sinh cùng lúc của hoa và khí hậu ấm áp, và bởi thế sẽ biến đi, cho dù nó để lại một ấn tượng thoảng qua dễ chịu phảng phất vị hương.
Gần như ai cũng ngây ngất với giọng hót của chim; nhưng rất ít người hiểu được bài ca của nó.
Xưa kia người ta nói Thánh Péter hiểu tiếng của loài chim.
Ngày nay cho dù người ta sưu tầm các đề tài và chủ đề của âm thanh chim hót như với dân ca và các loài đá cổ, và còn tạo ra khoa học từ đấy. Nhưng các bài nghiên cứu về âm thanh hót của chim khiến người ta thất vọng gạt sang một bên. Té ra những kẻ đi sưu tầm chẳng hiểu chút gì về âm nhạc.
Giữa âm nhạc của con người và của loài chim sự khác biệt nằm trong kết cấu của nó.
Có cái kết cấu ngẫu hứng của loài chim hay không?
Không được phép quên rằng có mối liên hệ giữa âm nhạc và kiến trúc. Và nếu như có mối liên quan giữa nhạc giao hưởng và nhà thờ, thì cũng có mối liên quan như thế giữa tiếng hót của chim  hoàng anh với tổ chim.
Nhưng hiểu thứ âm nhạc này không hề dễ. Âm nhạc của loài chim không phân biệt với âm nhạc của người theo kiểu nhạc của nhà soạn nhạc này khác với nhạc của nhà soạn nhạc kia- không giống như phân biệt nhạc của dân tộc này hoặc của thời đại kia.
Bất cứ loại âm nhạc nào, thời cổ xưa, của xứ Ba tư, Ấn độ, Nhật bản, thời hiện đại, từng loại đều không nói lên điều gì khác, ngoài điều con người muốn nói.
Nỗi khó khăn để hiểu được điệu hát của chim ở chỗ không thể trải nghiệm số phận kiếp sống của chim. Một cách trực tiếp con người không thể trải qua số phận của chim mà chỉ có thể gián tiếp bằng cách đắm chìm vào SỰ SỐNG DUY NHẤT của vũ trụ, trong SỰ BÍ ẨN TRUNG ĐIỂM CỦA CÁI TOÀN BỘ, nơi tất cả các số phận và sự sống gặp gỡ nhau, và từ cái NHẤT, từ TRUNG ĐIỂM này có thể trực tiếp hiểu sự sống của loài chim và âm nhạc của nó.
Hay nói đúng hơn, không có ngoại lệ, trong mọi trường hợp, trong phải từ bên ngoài và bằng sự cứng nhắc, chỉ t��� bên trong bằng sự giúp đỡ, bằng thông điệp  của MỘT THỰC THỂ VĨ ĐẠI VŨ TRỤ tôi mới có thể hiểu, tiếp cận và sống sót.
Đấy là nguyên nhân, không phải nhà bác học đi sưu tập các chủ đề và viết thành sách hiểu nổi nhạc của loài chim mà là Thánh Péter, kẻ vì ân sủng của TRUNG ĐIỂM VĨ ĐẠI  hiểu và có thể trò chuyện với loài chim.
15.
Người nào hiểu chỉ duy nhất một giọng chim hót đã thu ngay được kinh nghiệm rằng hình thức cổ của mọi loại âm nhạc đều nằm trong giọng hót này.
Nhiều khả năng dành cho con người để diễn đạt, thể hiện, trò chuyện, thư giãn: bằng cử chỉ, bằng lời nói, bằng màu sắc, vật chất, bằng viết.
Nhưng loài chim không có gì hết ngoài giọng hót. Đối với nó, giọng là thứ quan trọng hơn cả, bởi giữa các thực thể, chim là giống ưa bầy đàn, trực tiếp và gần gũi nhất.
Chúng ta phải cảm ơn Delamain, người viết những cuốn sách hay nhất về loài chim, ông cho rằng cái thực thể xã hội bé nhỏ này một giây phút cũng không thể sống thiếu bầu bạn, nhân tình, để không ngừng trò chuyện, trao cảm xúc, kinh nghiệm, và luôn luôn cần giao tiếp với cái thế giới của loài có cánh.
Ở loài chim tiếng hót là toàn bộ sự sống: là cảm xúc thanh bình, là niềm vui, là  thỏa mãn bầy đàn, là hiện thực cùng màu lông hay khác màu, là sự khác biệt của các linh hồn bé nhỏ.
Không tồn tại thực thể nào yếu đuối, tinh tế và đầy tính cộng đồng hơn loài chim. Và cũng không tồn tại thực thể nào mang ý nghĩa hiện sinh quyết định của mối quan hệ với kẻ khác hơn loài chim.
Cuộc di cư của chim chứa chất tính chất trung thành cảm động và bền vững như trong một tình bạn tuyệt đẹp hoặc trong các cuộc hôn nhân hòa hợp và hạnh phúc. Tất cả mọi tính chất: tình bạn giàu có, tình yêu, tính cộng đồng, tính trực tiếp nằm trong khả năng giao tiếp duy nhất của số phận loài chim: giọng hót- âm nhạc của loài chim.
Bởi vậy trong giọng hót của chim có hình thức cổ của mọi loại âm nhạc, có hiện tượng cổ, nguyên tượng-âm thanh của mọi thể loại âm nhạc. Và con người, trải qua năm tháng nghe giọng hót của chim bằng tri thức, bằng nhận biết, sẽ từ từ hiểu ra thế giới của những hiện tượng âm nhạc cổ.
16
Trước tiên không được phép tin rằng với từ-âm nhạc của chim có thể giải quyết được tất cả. Trái lại. Từ ngữ: âm nhạc của chim chỉ dành cho kẻ không am hiểu- và không có loại âm nhạc họa mi, sơn ca, hay chim sáo.
Mọi loài chim đều có một thứ âm thanh riêng biệt độc đáo đặc thù riêng, khác hẳn nhau, như thể nhạc Ai cập với nhạc hiện đại, như thể quốc ca của người Úc khác hẳn của người Debussy. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng âm nhạc của chim không có truyền thống.
Delamain viết, con sáo nhỏ khi bắt đầu biết chú ý đến cái khác ngoài miếng ăn, nó hít đầy lồng ngực những bài ca mà sáo cha véo von trên đầu nó, để khi mùa xuân đến, nó cũng bắt đầu véo von những bài ca cha nó hát. Nhưng chỉ vài ba tuần sau, những chủ đề học được từ bài hát của sáo cho bắt đầu biến thành của riêng nó. Đến mùa xuân thứ hai trong đời, nó đã trở thành một nghệ sĩ cá nhân thực thụ.
Còn một khả năng khác mà con người hay nghiệm thấy. Ở những vùng đồi hay trong các thung lũng, hay trong các khu rừng, nơi một nghệ sĩ có tầm vóc cao hơn hẳn xuất hiện, ở đó mọi kẻ còn lại đều tự nguyện ẩn náu dưới tác động của nghệ sĩ đó, tiếp thu tính chất, giai điệu chủ đề  nhưng phần lớn chịu ảnh hưởng phong cách(stilus) của nghệ sĩ đó.
Những con chim biết hót có một trực giác phong cách không thể tiêu diệt nổi.Có thể nghe những buổi hòa nhạc của chúng suốt những buổi chiều hoặc các buổi tối: trong những tác phẩm được xây dựng từ phong cách cá nhân độc đáo của chúng, một âm thanh thừa hoặc giả đều không có khả năng lọt vào.
Bởi nói chung không có âm nhạc của loài chim- đến âm nhạc sáo hoặc âm nhạc sơn ca cũng không nốt, chỉ còn lại âm nhạc của từng cá nhân, từ đó suy ra bài ca của một thực thể này không thể dịch ra ngôn ngữ âm thanh của một thực thể khác.
Ai cũng biết, hoặc ít nhất cũng cảm thấy không thể chép nhạc một bài ca của chim. Nhạc chép ra là âm thanh người, không phải âm thanh con sáo. Không thể biểu diễn âm thanh này trên bất kỳ dụng cụ nhạc nào, cũng như cất tiếng hát nó lên được.
Không phải vì không có nhạc cụ hay giọng hát người, mà vì thứ âm thanh này duy nhất. Bài ca của họa mi không thể dịch ra ngôn ngữ âm thanh sơn ca. Và bài ca của sơn ca cũng không thể dịch ra ngôn ngữ âm thành của loài chim khác. Âm thanh cá nhân hiện sinh của những con chim cực kỳ đơn lẻ hoàn toàn khác biệt, như thể sự khác biệt của mọi loài hoa, mọi giống cây, của mỗi ngày và mỗi số phận.
17
Có con chim sáo mà âm nhạc của nó mang chất gì đó anh hùng ca, thật là một phát hiện tuyệt hay. Nó trải rộng bản thân một cách hãnh diện và mạnh mẽ vô bờ bến, nó không sợ hãi, không suy tính khi lao vào cuộc chiến, thẳng tắp, trong sáng và tự do.
Con chim sáo khác giọng ca dày dặn và cô đọng, như rượu vang đỏ như máu, thơm ngào ngạt, ngây ngất.
Con sáo khác nữa, giọng ca nhẹ nhõm và thanh lịch, đắm say với cách thức tiếp cận tinh tế và thân ái.
Lại có con sáo được ưa thích bởi sự tươi tỉnh trong bài ca của nó, khiến người ta tin rằng trái tim nhỏ bé của nó cần cháy rực trong ngọn lửa hạnh phúc của thiên đường.
Và những âm điệu tha thiết buồn bã của họa mi, nỗi tư lự khe khẽ mỉm cười cất lên từ những giấc mộng xa xôi!
Giọng ca trầm bổng vui tươi khanh khách của chim ức đỏ, nốt láy rền trong suốt của sơn ca đồng cỏ, giọng ngất ngây của chim sẻ vàng và tiếng ríu rít như bạc của sơn tước- sau cùng vẫn gặp gỡ nhau ở đâu đó.
Toàn bộ thứ âm thanh chim này là âm nhạc của sirén. Như tất cả những gì bản chất, điều này chỉ có thể tìm thấy tại một nơi: TRUNG TÂM. Nơi tất cả các số phận gặp gỡ nhau, như mọi đầu dây trong MỘT bàn tay.
Sơn ca rừng là một loài chim hiếm. Phần lớn nó hót về đêm, trong bóng tối đen đặc hoang dã, khi tất cả những con chim khác đã im bặt. Và chỉ trong các khu rừng lớn.
Rất hiếm hoi, nó hót lúc hoàng hôn muộn, trước khi mặt trời lặn, khi trong ánh dương tà rực rỡ đến gió cũng ngừng thổi. Người ta nhận ra ngay lập tức gam nửa cung( cromatik) trong giọng hót của nó.
Bản thân chủ đề âm thanh tương đối đơn giản. Việc ứng dụng vào còn đơn giản hơn nữa.
Trước tiên, âm thanh gam nửa cung này trò chuyện chậm rãi, buồn bã, tư lự và trầm ngâm, như một kẻ trái tim phiền muộn, không thở được. Sau đó nhanh dần, nhưng đứt quãng, như một tiếng thở dài giữa chừng.
Lần thứ ba nhanh dần hơn nữa, nhưng tốc độ gấp gáp này chỉ càng tăng chất liệu buồn bã, lần thứ tư tốc độ càng nhanh nữa lên, nhưng càng gấp gáp cuồng nhiệt, say đắm,  nỗi buồn vô tận càng nhân dần lên văng vẳng bên tai.
Tất cả vang lên bằng một nỗi đau buồn tha thiết, với giọng nức nở nghẹn ngào vô hướng và dịu êm, nỗi buồn rưng rưng nước mắt này trong vắt như pha lê, sâu như biển, thấu tận xương, cùng nỗi đắm say bùng cháy khiến con người trong một khoảnh khắc bỗng hiểu hết tâm trạng Odysseus: chàng cần phải nghe giọng hát của sirén.
Tại sao? Bởi  cần phải buộc mình vào cột buồm. Không thể cưỡng lại giọng hát này  được, bằng toàn bộ tố chất nguyên thủy trong con người cả thế gian bỗng trở nên đau đớn không thể tả được từ vô tận sâu thẳm, rồi từ từ, như từ một quyến rũ, người ta mong được chết- khát vọng chết trong trang phục rực rỡ, ảo ảnh hạnh phúc ngập tràn, mơ màng thiu thiu.
Con người bỗng thấy mình muốn nằm xuống, và ngủ, ở nơi nó đang có, ngủ đi trong yên lặng vĩnh cửu của cái chết, trong niềm âu yếm bất tận không màu, và chờ đợi đôi cánh trắng mềm mại của cái chết nhấc bổng nó bay lên.
18
Goethe từng nói, màu sắc  là nỗi đam mê và là hành động của ánh sáng Leiden und Taten des Lichts. Giờ đây con người đã hiểu, âm nhạc không là gì khác ngoài là nỗi đam mê và là hành động của âm thanh.
19
Truyền thuyết Hy lạp cũng như văn hóa Kelta đều biết về tính chất sirén của giọng hót chim. Những con thiên nga trắng sống ở Izland cất tiếng hát trong những khoảng thời gian bí ẩn- người ta nói, khi chúng hấp hối, một cái chết trong âm thanh. Những mục đồng Izland tuyên bố, kẻ  nào nghe thấy giọng hát này” Sẽ hiểu hết những gì từ trước tới nay chưa hiểu, và sẽ quên hết tất cả những gì từ trước tới nay đã biết.”
20
Trong phần đầu của bản giao hưởng số VII âm nhạc loài chim lên tiếng, và sẽ quay lại trong những bản sonata cuối cùng, cũng như còn xuất hiện lần nữa trong không gian âm thanh tưởng tượng của Schumann.
Giọng hót của chim, hay âm nhạc của sirén, hay một trong những hiện tượng cổ, giữa những nguyên tượng-âm thanh: là thứ âm nhạc quyến rũ dạt dào, là kẻ ta không thể chống trả lại được, là thần chết với nụ cười và vòng tay ôm nóng bỏng.
Titán bằng âm thanh phù phép đã hóa phép thành công nửa đàn bà của mình hiện lên. Nhưng cùng lúc đó hiện tượng cổ của âm nhạc cũng hóa phép làm xuất hiện kẻ đối địch riêng của nó.
Người ta nhận biết chất liệu đặc thù cổ này của hiện tượng cổ âm nhạc. Đấy là nhạc của dế. Người Hy lạp, người Trung hoa, Nhật bản kể về nó trong các truyện cổ tích nói về Koko-Daishi, nhưng người của thời hiện đại cũng biết.
ột cách tất nhiên như thế nào đó tận cùng của âm thanh chim là âm thanh dế. Hoàn toàn tất nhiên, toàn bộ âm thanh của thế giới nằm giữa hai âm thanh này- hai đầu tận cùng, hai hiện tượng cổ cơ bản: giọng hót của chim và bài ca của dế.
Thế giới siêu hình của  âm nhạc nằm trên hai cây cột chống đỡ này.
Thoreu viết trong Walden: „ Trước hết bạn cần để ý tới tiếng dế ru rỉ rả. Giữa những tảng đá, ở đây, chỗ nào cũng đều nghe thấy nhiều tiếng dế, nhưng tôi cho là tuyệt nhất nếu chỉ một con dế hát.
Làm con người nghĩ đến những giờ phút muộn mằn, những ngày sống đã qua, nhưng chỉ như được nếm thử từ cái vĩnh hằng, từ thời gian đã sống. Đã muộn, nhưng đối với con người chỉ là những công việc phụ vội vã của số phận dành cho nó.
Cái vang lên từ bài hát dế là sự thông thái đã chín muồi, cái không bao giờ muộn, đi qua những lo toan tăm tối, là sự thông thái lạnh lùng, ít ỏi, trầm tĩnh chín chắn chín muồi, vượt qua những mùa xuân háo hức và những mùa hè sôi nổi.
Lũ dế nói những lời sau đây với lũ chim: Ôi, chúng bay lũ chim, hót bằng giọng lửa đốt, như một lũ trẻ thơ, thiên nhiên cất lời từ chúng bay. Còn từ chúng ta, sự thông thái chín muồi lên tiếng. Bốn mùa đã chấm dứt, tất cả đều đi ngủ, để chúng ta hát bài ca tiễn đưa thông thái.
Cứ như thế, dế rỉ rả vĩnh hằng, dưới gốc cỏ, rỉ rả từ tháng năm cũng như trong tháng mười. Trong bài ca của dế không có sự xao động, chỉ có bình yên và thông thái. Giống như một bài văn đã suy nghĩ kỹ và chắc chắn. Dế không uống rượu, chỉ uống sương.
Bài ca của nó không phải một thi phẩm tình yêu ngắn ngủi vang lên khi giai đoạn yêu đã dứt…Lũ dế ẩn náu dưới những gốc cỏ, không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của bốn mùa, và bài ca của chúng cũng không thay đổi, như sự thật không hề thay đổi.
Con người nghe bài hát của dế trong những khoảnh khắc trong sạch và lành mạnh.”
21
Sự sống có bốn mức độ: cứng rắn, tan ra, trên cả giác quan và thuần túy Có.
Ở mức độ cứng rắn sự sống vẫn bị tác động, nhận biết được, bị uốn nắn.
Ở mức độ tan hòa sự sống mang tính âm nhạc và có âm thanh.
Ở mức độ trên cả c��m giác, sự sống đánh mất tượng hình và âm thanh; đây là cái mà Keat gọi là viewless, là mức độ của logos, là nơi sự sống xuất hiện như logos, là tín hiệu tinh thần, không nhìn thấy, không nghe thấy, không nắm bắt được bằng giác quan , bằng ngôn ngữ, mà là phép thuật tuyệt đối trên cả từ ngữ.
Và ở mức độ thứ tư cả phép thuật tuyệt đối trên cả các giác quan này cũng bị tước mất. Chỉ còn lại trạng thái: Có
Từ mức độ cao nhất có thể đi xuống mức độ thấp nhất. Có biến thành viewless, viewless biến thành âm thanh, từ âm thanh biến thành tượng hình. Nhưng từ hình ảnh không bao giờ biến thành âm thanh, từ âm thanh không bao giờ biến thành viewless và từ đó thành thuần túy Có.
Đi từ trên xuống dưới có thể và được phép. Nhưng đi từ dưới lên trên sự sống bị khóa, tự bản thân mình và từ bản thân mình đi từ mức độ này sang mức độ khác không ai có thể dấn bước.
Có một giai đoạn không thể bắc cầu chia cắt các bậc thang với nhau, vậy mà vẫn có những kẻ bước qua, bí hiểm. Không thể giải thích từ cuộc sống, từ chất thiên tài, hay từ tinh thần hoặc từ sự sống.
Không phải sự phát triển, chẳng phải nhận thức, cũng chẳng phải cảm giác hoặc phép thuật. Tôi nhận được hoặc không. Tôi đạt đến hoặc không. Không phải phần thưởng, chẳng phải sự vật lộn tranh đấu, không phải tài năng cũng chẳng phải tri thức. Kẻ nào không hiểu, chẳng thể nào giải thích cho họ được.
22
Ngày xửa ngày xưa, thần thoại Hy lạp kể, trước khi các Nữ Thần Nghệ Thuật ra đời, lũ dế cũng là con người như chúng ta.
Khi các Nữ Thần xuất hiện và những bài ca của họ tràn ngập thế gian, một bộ phận con người yêu thích các bài ca này đến nỗi quên ăn quên ngủ, chỉ nghe và nghe, đến nỗi họ quên mất luôn họ đã chết.
Từ những kẻ này các thế hệ dế nối tiếp nhau ra đời, những kẻ nhận được phần thưởng từ các Nữ Thần Nghệ Thuật, không cần ăn, không cần uống chỉ cần hát, chừng nào chúng còn sống.
23
Truyền thuyết Hy Lạp còn cho biết nữ thần EOS, nữ thần của bình minh yêu chàng Tithonos đẹp tuấn tú và van xin các thần linh hãy biến chàng thành bất tử. Thần Zeus hứa giúp đỡ, nhưng chàng trai tuấn tú ngày mỗi teo nhỏ lại, trở nên đen đủi và sau cùng biến thành chú dế.
Chàng Tithonos chỉ trở thành bất tử trong hình hài của con dế.Nhưng tình cảm của nữ thần rạng đông EOS vẫn không hề thay đổi, vẫn yêu chàng trai trong hình hài dế xấu xí, bởi vậy chàng hát khúc ca chào đón nàng tiên bình minh của mình.
24
Sau cùng bài ca dế của nhà thơ cổ Hy lạp Anaakreón vang lên như sau: có thực thể nào hạnh phúc hơn mi, ôi dế! Uống những giọt sương thơm quanh vòm lá, sống và hát ca, như một vị vua…Apollo cũng phải ưa thích, tặng giọng ca bạc vàng…ôi! cô gái thông thái của đất nâu, mi chẳn suy tư gì, chỉ ca hát…mi như một thiên thần…
25
Trong phần đầu tiên của bản giao hưởng số VII sau những âm thanh sirrén vang lên đến phần hai của bản giao hưởng là những âm điệu mềm mại, đơn độc, hai phần tư gam.
Không còn nghi ngờ gì nữa, sau âm nhạc của chim giờ đây bài ca của dế vang lên.
Âm nhạc dế thiên đường vĩnh cửu, hai phần tư gam, chậm rãi, lặng lẽ, hướng về thời gian vĩnh cửu, qua mọi đam mê.
Đây là thứ âm nhạc của sự sống trong sạch, của thuần túy Có vượt qua công việc, trò chơi, tình yêu, sự quyến rũ, niềm vui, qua mọi hạnh phúc, mọi chiến thắng, mọi cái đẹp, là âm thanh vĩnh cửu, khẽ khàng đơn điệu của bình yên vô tận, của tĩnh lặng vô biên, vượt qua mọi mất mát, ngắm nhìn sự đổi thay của số phận từ vũ trụ vĩnh hằng, nhìn thấy cái hữu hạn trong vô hạn.
Đây là sự thông thái chậm rãi của Tithonos bất tử, là khát vọng chết ma quỷ và đam mê sống rực cháy của sirén.
Là âm nhạc ngọt ngào và tươi tỉnh thiên đường.
Là tiếng ngân vỡ vụn của âm thanh, gợi nhớ, làm run rẩy cơn khát, sự kích động, cơn đói cồn cào, sự bất an, các khát vọng; vượt qua mọi âm thanh thế gian, là bình an của thuần túy Có vượt trên cả thế giới tinh thần và giác quan, thứ làm tan chảy mọi cơn đói khát, làm dịu đi, làm tỉnh trí, khiến tỉnh ngộ,không cần nụ cười, cái đẹp và sự an ủi.
Là nỗi thanh bình không bị quấy rầy, là sự thông thái tươi tỉnh và là sự lặng im./.
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hungary
0 notes
ca-chuoi · 5 years ago
Text
HENRY MILLER - TẠI SAO BẠN KHÔNG THỬ VIẾT ĐI?
*
GIỚI THIỆU [1]
Trong bài tiểu luận nổi tiếng nhan đề "Thi sĩ", Emerson viết rằng tất cả mọi người đều sống bằng chân lý và đều cần sự tỏ bầy. Trong tình yêu, trong nghệ thuật, trong sự ích kỷ, trong chính trị, trong cần lao, trong bạc bài đen đỏ, chúng ta nghiên cứu để tìm cách thốt lên niềm bí ẩn đau thương của chúng ta. "Con người chỉ là mình một nửa, nửa kia chính là sự diễn tả tỏ bầy của hắn vậy." (The man is only half himself, the other half is his expression.)
Sự tỏ bầy đó có thể là hành động hay lời nói. Nhưng viết mới là cách diễn tả trọn vẹn nhất.
Viết là một phương tiện giải thoát. Bằng cách viết, chúng ta thoát khỏi những bóng ma quá khứ. Kỷ niệm, dù là kỷ niệm hạnh phúc hay đớn đau, đẹp hay xấu đều ray rứt, ám ảnh, nhắc nhở, đòi tái hiện hay hồi sinh vào hiện tại. Chúng ta hoặc muốn trìu mến vuốt ve hay xua đuổi tàn nhẫn quá khứ. Hồi tưởng hay quên lãng. Cách nào thì chúng ta cũng cần đến sự tỏ bầy. Viết chính là cuộc hành hương về dĩ vãng. Một lần viết là một lần đi tảo mộ, một lần trở về khóc bên nấm mộ thanh xuân. Một lần mãi mãi. Bởi vì từ đây kỷ niệm đã được phục sinh, đã nhận được một đời sống riêng của nó. Và chúng ta có thể thanh thản ra đi: chúng ta đã thanh toán xong với quá khứ.
Bằng cách viết, chúng ta cũng thoát khỏi những ước vọng bất khả. Có lẽ không ai bằng lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Nếu chúng ta không khao khát một cuộc sống khác, thì ít ra, chúng ta cũng mong muốn một cuộc sống phong phú hơn, rực rỡ hơn, mãnh liệt hơn và nồng nàn hơn. Nhưng xã hội chì chiết chúng ta, luân lý ràng buộc chúng ta và những kẻ khác giới hạn chúng ta. Chỉ bằng cách viết chúng ta mới có thể sống cuộc sống chúng ta đến độ tràn đầy mơ ước. Tác phẩm nghệ thuật là cái hơn nữa thêm vào cho cuộc đời.
Viết là một cách cầu kinh. Sự sung sướng có khuynh hướng tự mãn và trông tìm nghỉ ngơi. Chính nỗi đau khổ khôn nguôi khiến người ta hướng tới tôn giáo và nghệ thuật. Như một niềm an ủi cuối cùng.
Viết còn là một cách sám hối. Đứa trẻ không cần viết vì nó ngây thơ. “Một người viết là để liệng đi độc tố mà hắn đã tích lũy bởi cách sống lầm lạc của hắn. Hắn cố gắng khôi phục lại sự hồn nhiên của hắn” (Henry Miller, Sexus, Grove Press, p.24). Sẽ không còn một ai cầm bút viết một chữ nào trên giấy nếu hắn có cơ hội, nếu hắn có can đảm sống đến tận cùng, đến hết điều hắn tin tưởng.
Nhưng điều này cũng thực không kém: tất cả mọi người đều có thể trở thành nhà văn, nhà văn quyến rũ nữa, nếu hắn thành thật và can đảm nói lên tất cả những điều hắn tin tưởng và cảm nghiệm theo cách riêng của hắn. Tiêu chuẩn về chân thiện mỹ của hắn, những điều hắn yêu thương và ghét bỏ, hối tiếc và thù hận, hy vọng và tuyệt vọng, tóm lại cuộc đời hắn, trở nên lôi cuốn, nếu được sống một cách chân thành, được phát lộ một cách đơn giản, không che đậy.
*
“Tại sao bạn không thử viết đi?” Câu hỏi đó hẳn sẽ ray rứt chúng ta nhiều. Nhất là khi chúng ta đã từng sống, từng yêu thương, từng khắc khoải. Nhất là khi chúng ta ý thức được rằng chúng ta có tất cả trong ta. Rằng chúng ta là một khối cốt mìn. Rằng chúng ta chỉ cần một tia lửa nhỏ.
Tia lửa ấy chính là lòng tự tin.
“Tại sao bạn không thử viết đi?” Henry Miller tự hỏi mình và hỏi mọi người câu hỏi đó. Riêng cá nhân ông, ông thích thú chứng tỏ rằng “tôi cũng có thể viết, như bất cứ một người nào” (I proved to my satisfaction that, like any other mortal, I too could write. - Art and Outrage). “Vì thiếu thốn, tôi dệt bài ca. Giống hệt như một chiến sĩ, thách đấu một trận sinh tử mà không có một tấc khí giới trong tay, trước hết phải tự tôi luyện lấy khí giới của mình” (Sđd.) Trong tiến trình đó, hắn phải mang vào tất cả cuộc đời hắn. Mục đích của công việc chẳng bao lâu sẽ bị bỏ quên hay bị gạt ra ngoài: nhà văn viết để viết. Và vì nhà văn thường viết vì một nhu cầu cá nhân, họ thường có khuynh hướng coi cuộc đời và tác phẩm họ như một cái gì riêng tư, chẳng liên quan tới ai. Nhưng tác phẩm của họ, ‘tựa những trái táo được hái lúc còn xanh, tự ủ chín lấy mình, mỗi ngày một trở nên dịu ngọt và chan chứa ý nghĩa’ (Pasternak, Bác sĩ Zhivago). Như trái táo được hái xuống không còn thuộc về cây táo nữa, tác phẩm nghệ thuật được viết xong không còn là của riêng nhà văn. Nó thuộc về tất cả mọi người. Nó tham dự vào đời sống, trở thành chính đời sống, độc lập với nhà văn, do đó giải thoát nhà văn khỏi cuộc sống riêng tư, khỏi cuộc sống nói chung và khỏi thân phận của một kẻ thụ tạo. Tác phẩm nghệ thuật giúp nhà văn đi sâu vào lòng mình và lòng đời, đồng thời cho phép hắn rời xa chính mình và rời xa đồng loại cùng thời với mình. Nó củng cố niềm tin của nhà văn vào chính mình như một kẻ sáng tạo. Đầy quyền năng và siêu thoát.
Vậy tại sao bạn không thử viết đi?
---
TẠI SAO BẠN KHÔNG THỬ VIẾT ĐI? [2]
Buổi chiều hôm đó, thay vì lao ra khỏi nhà ngay sau bữa ăn tối, như thường lệ, tôi lại nằm trên sập, trong bóng tối và chìm đắm vào mộng mơ. “Tại sao bạn không thử viết đi?" Đó là câu hỏi không ngừng ám ảnh tôi suốt ngày, thôi thúc liên miên, ngay cả lúc tôi cảm ơn bạn tôi Mac Gregor vì tờ giấy bạc mười dollar tôi đã giật lửa được của hắn sau khi đã nịnh hót tán tỉnh hắn bằng đủ điều nhục nhã.
Nằm trong bóng tối, tôi bắt đầu lần trở về nguồn. Tôi bắt đầu hồi tưởng lại những ngày thơ ấu diễm phúc, những ngày hè dài lê thê khi mẹ tôi nắm tay tôi, dắt tôi băng qua cánh đồng đến thăm Joey và Tony, những người bạn nhỏ của tôi. Là một đứa trẻ, tôi không thể cảm thấu niềm bí ẩn của nguồn vui do cảm thức tự tôn mang lại. Cảm giác khác thường đó, cho người gia nhập và đồng thời quan sát sự gia nhập của mình, đối với tôi dường như là khả năng thiên phú của tất cả mọi người. Tôi tận hưởng tất cả mọi sự nhiều hơn những đứa trẻ khác đồng tuổi tôi mà không hay. Sự chia cách giữa tôi và những kẻ khác chỉ ló ra dần dần với thời gian.
Viết, tôi nghĩ, phải là một hành động vô cầu. Chữ nghĩa, như con nước lớn dưới đáy sâu, phải trào vọt lên mặt bởi xung lực của chính nó. Đứa trẻ không cần viết; nó ngây thơ. Một người viết là để liệng bỏ đi độc tố mà hắn đã tích lũy vì lối sống lầm lạc của hắn. Hắn gắng khôi phục lại sự hồn nhiên của hắn, tuy nhiên tất cả thành quả hắn đạt được trong khi hành động (bằng cách viết) là tiêm chích vào thế giới mầm độc của sự tỉnh mộng của hắn. Không một người nào viết một dòng nào trên giấy nếu hắn có can đảm sống hết tất cả những gì hắn tin tưởng. Cảm hứng của hắn bị lái sang hướng khác ở khởi nguồn. Nếu hắn muốn sáng tạo một thế giới chân, mỹ và thần thông tại sao hắn lại đặt hàng triệu chữ giữa hắn và thực tại của thế giới đó? Tại sao hắn triển hạn hành động - trừ phi, như những người khác, điều hắn thực sự ao ước là sức mạnh, danh vọng, thành công. Balzac nói rằng: "Sách vở là hành động chết của con người". Tuy nhiên, sau khi nhận thấy sự thật, hắn giao nhất quyết thiên thần cho ác quỉ ám ảnh hắn.
Một nhà văn cũng mị độc giả của mình một cách bẩn thỉu y hệt một chính trị gia hay bất cứ một ông lang băm nào; hắn muốn bắt mạch lớn, cho đơn như một y sĩ, dành cho chính mình một chỗ được công nhận như một sức mạnh, nhận được một ly đầy nịnh bợ, dầu cho phải chờ đợi ngàn năm. Hắn không muốn một thế giới mới có thể được thiết lập ngay tức khắc bởi vì hắn biết thế giới đó không bao giờ thích hợp với hắn. Hắn muốn một thế giới bất khả, bị chế ngự bởi những sức mạnh hoàn toàn ngoài sự kiểm soát của hắn trong đó hắn là một đấng quân vương không thụ phong. Hắn bằng lòng cai trị một cách xảo quyệt trong thế giới tượng trưng tưởng tượng - bởi nguyên ý tưởng giao tiếp với những thực tại phũ phàng cũng đủ khiến hắn sợ hãi rồi. Đúng là hắn có khả năng thâu tóm chụp bắt thực tại lớn hơn người khác, nhưng hắn từ chối không chịu bắt thế giới phải chấp nhận thực tại cao cả đó bằng sức mạnh của gương mẫu. Hắn chỉ bằng lòng thuyết pháp, lết đi trong dấu vết của những thảm họa và tai ương, một kẻ tiên tri gở lạ luôn luôn bị ném đá, luôn bị xa lánh bởi những kẻ thiếu khả năng luôn sẵn sàng đứng ra nhận trọng trách gánh vác việc đời. Nhà văn lớn thực thụ không hề thèm viết: hắn muốn thế giới là một cõi hắn có thể sống an bình với những giấc mộng lớn mộng con của hắn. Chữ rung động thứ nhất mà hắn đặt lên giấy là chữ của thiên thần bị thương đau khổ. Viết tương đương với việc uống thuốc mê. Nhận thấy cuốn sách dưới tay mỗi ngày một dày lên, tác giả cuốn sách lòng đầy ảo tưởng về sự vĩ đại của mình. “Ta cũng là một kẻ chinh phục - có lẽ là kẻ chinh phục vĩ đại nhất thế giới! Ngày vinh quang của ta đã tới. Ta sẽ cai trị trần gian - bởi sức mạnh phù thủy của ngôn ngữ...” Et cetera ad nauseam.
Câu hỏi gọn ghẽ: "Tại sao bạn không thử viết đi" luôn luôn dìm tôi vào đầm lầy tuyệt vọng của rối loạn như lúc ban đầu. Tôi muốn mê hoặc chứ không muốn cai trị; tôi muốn một cuộc sống rộng lớn, phong phú nhưng không bám vào kẻ khác; tôi muốn giải phóng óc tưởng tượng của tất cả mọi người ngay tức thì bởi vì nếu không có sự trợ giúp của toàn thế giới, nếu không có một thế giới đồng thời tưởng tượng, thì tưởng tượng phóng túng sẽ trở thành một tật xấu. Tôi không trọng việc sáng tác per se một chút nào hơn Thượng đế per se. Không một ai, không một nguyên tắc nào, không một ý tưởng nào tự nó hữu hiệu hết. Chỉ hữu hiệu phần thực tại, kể cả Thượng Đế, được tất cả cộng đồng nhân loại công nhận. Người ta lo lắng về số phận của thiên tài. Tôi không bao giờ lo lắng về thiên tài: thiên tài tự lo liệu lấy thiên tài trong con người. Tôi luôn luôn dành mối quan tâm của tôi cho con người tầm thường, con người mất mình trong sự chà đạp, con người quá đỗi trung bình, quá đỗi tầm thường đến nỗi sự hiện diện của hắn cũng không được ai thèm để ý tới. Những thiên tài không hứng khởi lẫn cho nhau. Có thể nói tất cả mọi thiên tài đều là những con đỉa đói. Họ cùng nuôi dưỡng từ cùng một suối nguồn - dòng máu đời. Điều quan trọng nhất đối với thiên tài là tự khiến mình trở thành vô dụng, là trầm mình trong dòng suối chung, lại trở thành một con cá trong nước chứ không phải một con quái vật. Tôi nghĩ rằng điều lợi ích duy nhất mà sự sáng tác có thể cung hiến cho tôi là dời chuyển những sự khác biệt đã chia cách tôi với đồng loại. Tôi hoàn toàn không muốn trở thành một nghệ sĩ theo nghĩa trở thành một cái gì khác lạ, một cái gì tách biệt và ở ngoài dòng đời.
Cái hay nhất của việc trứ tác không phải là việc viết chữ nọ kế chữ kia, đặt hòn gạch nọ lên hòn gạch kia hiện tại mà là những sự trù liệu, công việc mở đường khai lối, được thực hiện trong im lặng, trong mọi hoàn cảnh, trong mộng mị cũng như trong trạng thái thức tỉnh. Nói tóm lại, thời kỳ thai nghén vậy. Chưa bao giờ có một người nào viết lên giấy điều hắn có ý định viết: sự sáng tạo nguyên thủy, miên man bất tận dù khi người ta viết hay không viết, thuộc về sự tuôn trào ban sơ: nó không chiều hướng, không hình thức, không cả yếu tố thời gian. Trong trạng thái trù tính là sáng tạo chứ không phải sinh đẻ này, cái gì biến mất không hề bị tiêu diệt; có một cái gì vẫn hiện hữu đó, một cái gì bất khả hủy diệt, như ký ức, hay vật chất/ hoặc Thượng Đế, được mời gọi tới trong đó người ta lắc lay như một cành củi nhỏ trong dòng cuồng lưu. Chữ, câu, ý tưởng, bất kể vi tế hay chất phác thế nào, sự chạy trốn điên cuồng nhất của thi ca, những giấc mộng sâu thẳm nhất, những viễn tượng ám ảnh nhất chỉ là những chữ tượng hình thô sơ được trạm trổ bằng đau đớn và ưu sầu để truy niệm một biến cố bất khả di dịch. Trong một thế giới được xếp đặt thông minh không cần gì phải vận dụng một cố gắng phi lý để thiết định những tình cờ mầu nhiệm đó. Quả thật, việc đó vô nghĩa, bởi vì nếu con người dừng lại để nhận định, ai là kẻ bằng lòng với sự giả tạo trong khi cái chân thật ở ngay trong tầm tay mình? Ai còn muốn vặn nút máy truyền thanh và lắng nghe, Beethoven chẳng hạn vậy, khi chính hắn có thể cảm nghiệm những hòa âm mà Beethoven đã cố gắng ghi lại một cách tuyệt vọng? Một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, nếu đạt tới một cái gì, phục vụ chúng ta hồi tưởng, hay có thể nói khiến chúng ta mộng tưởng về cái không thể đụng chạm tới được. Nghĩa là vũ trụ vậy. Nó không thể được hiểu - nó chỉ có thể được chấp nhận hay bị khước từ. Nếu được chấp nhận, chúng ta sẽ được bồi tiếp sinh lực, nếu bị khước từ, chúng ta bị giảm thiểu. Dầu đối tượng nó nhằm đến là gì đi chăng nữa, nó cũng chẳng bao giờ đạt tới, nó luôn luôn là một cái gì thêm nữa mà chữ cuối cùng sẽ không bao giờ được nói ra. Cái gì thêm nữa ấy là tất cả những gì chúng ta đặt vào bởi lòng khao khát điều chúng ta phủ nhận mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta tự chấp nhận chúng ta một cách toàn diện, thì tác phẩm nghệ thuật, đúng ra toàn thể thế giới nghệ thuật sẽ chết vì thiếu ăn. Bất cứ một tên Ất Giáp nào trong chúng ta cũng di động mà không dùng đến chân tay ít ra vài giờ mỗi ngày, khi mắt hắn nhắm và thân thể hắn nghỉ ngơi. Một ngày kia người ta có thể sẽ đi tới chỗ có thể thủ đắc được nghệ thuật thơ mộng trong khi hoàn toàn tỉnh thức. Rất lâu trước đó sách vở sẽ không còn nữa, bởi khi người ta có thể vừa hoàn toàn tỉnh táo vừa mơ mộng thì những khả năng giao cảm (với nhau cũng như với tinh thần điều động nhân loại) sẽ được gia tăng mạnh mẽ đến nỗi khiến cho tác phẩm nghệ thuật chẳng khác nào những tiếng càu nhàu gắt gỏng và rời rạc của một tên ngốc.
Nằm trong bóng tối hoài niệm về một ngày mùa hạ, tôi suy nghĩ và biết tất cả điều đó mà không luyện hay ngay cả cố gắng ít nhiều chân thành, luyện nghệ thuật đọc chữ tượng hình sơ đẳng. Ngay cả trước khi bắt đầu, tôi ghê tởm sự cố gắng của những bậc thầy được công nhận. Không có đủ khả năng cũng như sự hiểu biết để làm dù là một cái cửa chính ở mặt tiền của một lâu đài lớn, tôi phê bình và ta thán chính ngành kiến trúc. Nếu tôi chỉ là viên gạch tí hon trong ngôi nhà thờ lớn kiểu cổ này có lẽ tôi sẽ sung sướng hơn bội phần: tôi sẽ có đời sống, đời sống của toàn thể cơ cấu, dù như một thành phần cực tiểu của nó. Nhưng tôi ở bên ngoài, một tên mọi rợ không vẽ nổi vài nét phác nguệch ngoạc, huống hồ cả một đồ hình của tòa lâu đài hắn mơ ước ngụ cư. Tôi mơ ước một thế giới mới huy hoàng rực rỡ nhưng sụp đổ ngay khi ánh sáng rọi lên. Một thế giới biến mất nhưng không chết bởi tôi chỉ cần trở nên tĩnh lặng trở lại và mở to mắt nhìn vào bóng tối là nó lại hiện ra... Vậy thì trong tôi có một thế giới hoàn toàn không giống bất cứ thế giới nào tôi biết. Tôi không nghĩ rằng đó là của đặc hữu của tôi - chỉ có khía cạnh nhìn của tôi là đặc biệt thôi bởi nó độc nhất vô nhị. Nếu tôi nói ngôn ngữ của viễn quan độc nhất này, thì không ai hiểu tôi cả; tôi tha hồ xây một tòa lâu đài dù đồ sộ đến đâu thì nó vẫn vô hình. Tôi bị tư tưởng này ám ảnh. Ích lợi gì khi xây dựng một miếu đường vô hình vô ảnh? (…)
Chính trong phòng làm việc của Ulric cách đây mấy tháng không lâu tôi hoàn tất cuốn sách đầu tiên của tôi – cuốn sách viết về mười hai người đưa điện tín. Tôi thường làm việc trong phòng của anh hắn, nơi trước đây ít lâu một tên chủ bút tạp chí, sau khi đọc mấy trang của một truyện ngắn chưa in, lạnh lùng báo cho tôi biết rằng tôi chẳng có một chút xíu tài năng nào, rằng tôi chẳng biết ngay cả điều sơ đẳng về nghệ thuật viết. Tóm lại hoàn toàn thất bại và tốt hơn cả, con ơi, là quên văn nghệ đi, ráng kiếm ăn một cách lương thiện. Một tên ngớ ngẩn khác viết một cuốn sách rất thành công về Jesus - người thợ-mộc đã nói với tôi tương tự như vậy. Nếu những lá thư từ chối có chút giá trị nào thì đó chỉ là sự trợ giúp để hỗ trợ cho sự phê bình của những đầu óc báo động này. "Những thằng chó chết này là những tên nào vậy?" Tôi thường hỏi Ulric. "Chúng nó căn cứ vào đâu để nói với tôi điều đó? Chúng nó đã làm được cái quái gì, trừ việc chứng tỏ rằng chúng biết cách kiếm tiền?
Vậy là tôi đã nói về Joey và Tony. Tôi nằm trong bóng tối, như một cành củi nhỏ trồi bồng bềnh trong dòng Kourochivo. Tôi trở lại câu thần chú đơn giản, đơm rạ làm ra gạch ngói, nét phác thô sơ, miếu đường phải dựng trên thịt da xương máu, và tự khiến mình biểu lộ trước mắt toàn thể thế giới. Tôi trở dậy và vặn ngọn đèn êm dịu. Tôi cảm thấy trầm tĩnh và sáng suốt tựa một bông sen mãn khai. Không một bước đi tới đi lui tàn bạo, không bứt tóc nhổ râu tận gốc rễ. Tôi chậm rãi ngồi xuống một chiếc ghế cạnh bàn và với một cây bút chì, tôi viết. Tôi mô tả bằng những chữ đơn giản cảm giác nắm tay mẹ và băng qua cánh đồng hoe nắng như thế nào, cảm giác nhìn thấy Joey và Tony chạy về phía tôi cánh tay mở rộng, mặt hân hoan rạng rỡ như thế nào. Tôi đặt viên gạch nọ lên viên gạch kia như một người thợ hồ lương thiện. Một cái gì có tính chất vươn lên đã xảy ra - không một ngọn cỏ chồi lên nhưng là một cái gì có tính cách cơ cấu, một cái gì bằng phẳng. Tôi không gắng sức để kết thúc nó; tôi ngừng lại khi tôi đã nói tất cả những gì tôi có thể nói. Tồi đọc lại điều tôi viết, một cách bình thản. Tôi xúc động đến nỗi nước mắt tôi trào ra. Đó không phải là cái để đưa cho một ông chủ bút; đó là một cái gì để cất vào ngăn kéo, để giữ như một nhắc nhở cho những quá trình tự nhiên như một hứa hẹn viên thành.
Mỗi ngày chúng ta tàn sát những xung lực tinh túy nhất của chúng ta. Đó là lý do tại sao ta đau nhói trong tim khi đọc những dòng viết bởi bàn tay một bậc thầy và nhận thấy chúng chính là của chúng ta, là những chồi non mềm mại mà chúng ta đã làm thui chột đi bởi chúng ta thiếu lòng tin để tin tưởng vào những khả năng của chúng ta, tiêu chuẩn chân thiện mỹ của riêng chúng ta. Bất cứ người nào, khi hắn tĩnh lặng, khi hắn trở nên lương thiện với chính mình một cách tuyệt vọng, đều có thể nói lên những sự thực sâu xa. Tất cả chúng ta đều phát nguyên từ một nguồn. Chẳng có chi huyền bí về nguồn gốc của sự vật. Tất cả chúng ta đều tham dự vào sự sáng tạo. Tất cả chúng ta đều là vua chúa, tất cả chúng ta đều là thi sĩ, tất cả chúng ta đều là nhạc sĩ: chúng ta chỉ cần mở tung, để khám phá xem cái gì đã sẵn có ở đó.
Điều xảy ra cho tôi trong khi viết về Joey và Tony tương đương với sự phát lộ. Tôi được khải ngộ rằng tôi có thể nói điều tôi muốn nói - nếu tôi không nghĩ đến một điều gì khác, nếu tôi đặc biệt chú tâm đến điều đó mà thôi - và nếu tôi sẵn sàng cam chịu những hậu quả mà một hành động thuần túy luôn luôn bao hàm.
---
[1] Nguyễn Hữu Hiệu, Con đường sáng tạo, 1973
[2] Henry Miller on Writing.
---
Tumblr media
0 notes
ca-chuoi · 5 years ago
Text
Henry Miller - Nói về sáng tạo
Giới thiệu
Henry Miller là một khuôn mặt độc đáo nhất của văn học hiện đại. Tên ông phải được đặt giữa Emerson và Whitman, Cendrars và Céline, Dostoievsky và Nietzsche, Élie Faure và Oswald Spengler, Rimbaud và D. H. Lawrence, Milarepa và Lewis Carroll, Thoreau và Trang Tử.
Tác phẩm Henry Miller đi giữa dòng văn chương và kinh thánh. Đó là sự phối hợp kỳ diệu giữa Chí Tôn Ca (Bhagavad Gità) linh thánh và Dục Lạc Kinh (Kamasutra) nhầy nhụa. Bước vào tác phẩm Miller như bước vào một ngôi đền Ấn Độ: người ta thấy những bộ phận sinh dục vĩ đại ngổn ngang cạnh những thánh tượng uy nghi, những cảnh dâm loạn tiếp cận những nghi lễ tôn nghiêm tác động giao hợp được coi như tác động sùng thượng (acte d’adoration sublime), một phương tiện xuất thần nhập diện.
Henry Miller duy giác như những người duy linh, những nhà thần bí, những thi sĩ thế kỷ XVI, những đại thi sĩ có khuynh hướng tiên tri và đầy ắp viễn tưởng vũ trụ: Wiliam Blake, Cheikh el Nefzaoui, Omar Khayyam, Walt Whitman. Nhất là Whitman qua Lá Cỏ, xưng tụng một sự diễn tả tự do, một cuộc sống vũ trụ tràn trề ngây ngất không che giấu:
Qua tôi những tiếng nói bị cấm đoán, Tiếng nói của giống đực giống cái và dâm đãng, tiếng nói bị che đậy và tôi vén mở, Tiếng nói tục tĩu, bởi tôi được soi sáng và chuyển hóa.
(“Song of Myself”)
Toàn bộ tác phẩm Henry Miller là một bài Ngợi Ca Tôi (“Song of Myself”) trường thiên. “Với tôi sách vở là con người, và cuốn sách của tôi là chính con người tôi, nồng nhiệt, dâm đãng, hiếu động, trầm tư, thận trọng, dối trá và thành thực một cách quỉ quái.” (“Black Spring”). Ông muốn phát lộ ông “càng công khai, trần truồng và trâng tráo bao nhiêu càng hay bấy nhiêu”. (I wanted to reveal myself as openly, nakedly, and unshamedly as possible – Obscenity and Literature).
Có thể nói Henry Miller cũng là một “nhà thần bí ở trạng thái man rợ” như Rimbaud. Ông sinh năm 1891 tại New York từ một gia đình gốc Đức. Cha ông là thợ may. Cậu bé lớn lên trong lòng phố và phố xá mãi mãi là trường học của cậu và bối cảnh của những cuốn tiểu thuyết sau này.
Năm 1924, Henry Miller bỏ ngang Westers Union Telegraph Company, quyết định không làm gì hết, trừ sáng tạo, vì ông nhận định rằng: “Bổn phận của thiên tài (…) là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn sống trong phép mầu, là khiến cho phép mầu mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm”. (The task of genius, and man is nothing if not genius, is to keep the miracle alive, to live always in the miracle, to make the miracle more and more miraculous, to swear allegiance to nothing but to live only miraculously, think only miraculously, die miraculousky – The Colossus of Maroussi, Penguin Books, p.88) và “Sự kỳ diệu và và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt trong chúng ta khi chúng ta trở thành phần tử có trách nhiệm của xã hội!”.(The wonder and the mystery of life – which is throtted in us we become responsible members of society! – Tropic of Capricorn, SAS press. P.149). Thế giới chỉ có thể bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá trị nơi tôi “kể từ lúc tôi chấm dứt là một thành phần trang nghiêm của xã hội và trở thành chính Tôi” (Sexus, Grove Press, p. 261) dù cái tôi ấy thế nào. Ít ra thế giới cũng sẽ bớt đi được một kẻ sẵn sàng dùng bạo lực để bắt người khác theo mình, bớt đi được một con cừu nô lệ. Ít ra thế giới cũng có thêm được cá thể sáng tạo và dám thể hiện mình, dám trở thành “cái tôi của chính tôi”.
Có hai điều Miller thành thực không tin, hai điều mà xã hội thành thực tin: đó là sự trang nghiêm và Làm việc. Trang nghiêm là một hình thức giả dối, cứng nhắc, chết chóc, còn làm việc là một hành động chỉ dành cho bọn ngốc nghếch. Nó hoàn toàn trái với Sáng tạo là một trò chơi, một hành động tối thượng, xứng đáng với con người. Henry Miller theo sát tư tưởng Nietzsche về sáng tạo. Theo Nietzsche, sáng tạo “là sự giải thoát thênh thang khỏi khổ đau, sự bay bổng của cuộc đời”. Nhưng để trở thành kẻ sáng tạo, cần phải có nhiều khổ đau và hóa thân.
“Vâng, Zarthustra nói, phải có nhiều cái chết đắng cay trong cuộc đời các ngươi, ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các ngươi, ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các ngươi sẽ trở thành những kẻ bảo vệ mà biện minh cho tất cả những gì hư mất phù du.” (Also seid ihr Fürsprecher und Rechtsfertiger Vergänglichkeit – Also sprach Zarathustra).
Bài “Nói về sáng tạo’’ dưới đây của Henry Miller, trích trong cuốn Sexus (The Rosy Crucifixion, book one) sẽ soi sáng tư tưởng trên của Nietzsche.
*
Thế giới chỉ bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá trị từ nơi tôi kể từ lúc tôi ngừng là một thành phần trang nghiêm của xã hội và trở thành chính Tôi. Nhà Nước, quốc gia, liên hiệp quốc của thế giới không là gì khác hơn một tập thể rộng lớn gồm những cá nhân lập lại những lỗi lầm của ông cha họ. Họ đã bị cuốn hút vào bánh xe từ thuở sơ sinh và bị trói buộc ở đó cho tới chết – và sự nô lệ đó họ cố gắng làm cho ra vẻ đứng đắn bằng cách gọi nó là “cuộc đời”. Nếu ta hỏi bất cứ một người nào giải thích hay định nghĩa thế nào là cuộc đời, đâu là tất cả gốc gác ngọn ngành của nó, chúng ta sẽ nhận được một cái nhìn bỡ ngỡ thay câu trả lời. Cuộc đời là một cái gì mà triết gia đề cập tới trong những cuốn sách không ai đọc cả. Những kẻ ngụp lặn giữa dòng đời, “khuất mình làm thân trâu ngựa”, không có thì giờ cho những câu hỏi lẩn thẩn ấy. “Người ta phải ăn chứ, phải không?” Câu cật vấn này, một câu nói cho có chuyện, đã được giải đáp, nếu không phải bằng cách phủ định tuyệt đối thì ít ra cũng bằng cách phủ định tương đối khá lạ lùng bởi những người hiểu biết là một đầu mối cho một loạt những câu hỏi khác tiếp nối bằng một chiều rất ư là Euclide. Từ chút ít sách vở tôi đã học, tôi nghiệm ra rằng những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời, đều ăn ít, ngủ ít, thủ hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động: sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho. Đó là lối sống lôi cuốn tôi: nó làm thành thiên lương. Đó là cuộc đời – chứ không phải là sự giả đò mà những người xung quanh tôi thờ phụng.
Tôi hiểu tất cả những điều ấy – bằng tâm trí – trước tuổi thành nhân. Nhưng tôi phải trải qua cả một màn bi hài kịch vĩ đại của cuộc đời trước khi viễn ảnh này về thực tại có thể trở thành một nguyên động lực. Lòng khao khát cuộc đời dữ dội mà những người khác cảm thấy trong tôi tức động như một khối nam châm, nó lôi cuốn những người thiếu lòng khát khao đặc biệt của tôi. Lòng khát khao phóng đại lên một ngàn lần. Như thể những kẻ đeo dính vào tôi như mạt sắt cũng trở nên có từ tính khác. Cảm giác chín mùi thành kinh nghiệm và kinh nghiệm đẻ ra kinh nghiệm.
Điều tôi ngầm thèm muốn là gỡ mình ra khỏi tất cả những cuộc sống tự đan bện ngang dọc vào chính cuộc đời tôi và khiến định mệnh tôi trở thành một phần của họ. Để rũ mình khỏi những kinh nghiệm chồng chất chỉ thuộc về tôi này bởi nọa lực, cần phải có một nỗ lực tàn bạo: thỉnh thoảng tôi chọc thủng và xé rách lưới, nhưng chỉ trở nên vướng mắc thêm mà thôi. Sự giải thoát của tôi dường như thiết yếu gây ra đau đớn và phiền não cho những người gần kề và thân yêu đối với tôi. Mỗi vận động tôi làm cho lợi ích của cá nhân tôi đều mang lại khiển trách và lời buộc tội. Tôi bị coi là một kẻ phản bội hơn muôn ngàn lần. Tôi mất cả quyền trở nên đau ốm – bởi “người ta” cần tôi. Tôi không được phép ù lì. Tôi tin rằng nếu tôi có chết đi có lẽ họ cũng truyền điện vào tử thi của tôi để tạo cho nó một bề ngoài sống động.
“Đứng trước gương, tôi sợ hãi tự nhủ: Ta muốn nhìn trong gương xem ta giống cái gì với đôi mắt nhắm nghiền.”
Những chữ trên của Richter, khi tôi đọc lần đầu tiên, đã đi xộc vào con người tôi và gây nên một cơn chấn động không thể tả xiết. Cũng như câu tiếp theo, hầu như một hệ luận của câu trên - của Novalis:
“Chỗ của linh hồn là ở nơi mà nội giới và ngoại giới giao tiếp nhau. Và không ai hiểu mình, nếu hắn chỉ là mình và không đồng thời là một người khác.”
“Thủ đắc cái Tôi siêu việt của mình, đồng thời là cái Tôi của cái Tôi của mình” như Novalis nói tiếp.
Có một lúc khi người ta bị tư tưởng áp chế, khi người ta chỉ là một nạn nhân của tư tưởng khác. Sự “chiếm hữu” bởi những người khác dường như xẩy ra vào những thời kỳ mất cá tính, khi những tự ngã khác bong ra, nếu người ta có thể nói vậy. Thường thường người ta không thấu hiểu được tư tưởng; chúng đến và đi, được chấp nhận và bị khước từ, được khoác lên những tấm áo, bị cởi ra như những chiếc vớ dơ bẩn. Nhưng trong thời kỳ mà chúng ta gọi là khủng hoảng, khi tâm trí bị bể vỡ ra từng mảnh như một viên kim cương dưới những nhát búa dữ dội, những ý tưởng ngây thơ này của một kẻ mơ mộng bám víu lấy, trú ấn trong những kẽ nứt của óc não. Và bởi một vài tiến triển thẩm thấu tế nhị mang lại một sự biến đổi nhân cách rõ rệt, bất khả vãn hồi. Bề ngoài không có sự thay đổi lớn lao nào xẩy ra; đương sự không thình lình cư xử khác lạ; ngược lại hắn có thể cư xử một cách “bình thường” hơn trước kia. Vẻ bình thường bề ngoài đó càng ngày càng đảm trách tính chất của một phương sách phòng ngừa. Từ thất vọng bề ngoài hắn đi tới thất vọng bên trong. Tuy nhiên, với mỗi một cơn khủng hoảng mới, hắn càng trở nên ý thức mãnh liệt hơn về một sự đổi thay, đúng hơn không phải là đổi thay mà là một sự kiên cường hóa của một điều gì ẩn sâu trong hắn. Bây giờ trong khi nhắm mắt, hắn có thể thực sự nhìn thấy hắn. Hắn không thấy một cái mặt nạ nữa. Đúng hơn, hắn thấy mà không nhìn. Ảnh tượng không thị giác, một sự thấu hiểu uyển chuyển những cái không thể sờ mó được: sự hỗn hợp của hình tượng và âm thanh: trung tâm của màng lưới. Nơi tuôn trào những cá tính bí mật, thoát khỏi sự tiếp xúc thô sơ của giác quan; nơi đây những chủ âm của nhận thức kín đáo vỗ vào nhau trong những hòa điệu tươi sáng, rung động. Không có một ngôn ngữ nào được sử dụng, không một hình thể nào được phác họa hết.
Khi một con tầu đắm, nó thong thả chìm xuống, cột trụ, cột buồm, dây thừng, neo móc trôi theo sóng nước. Trên đáy biển, chết, chiếc vỏ tầu rỉ nước tự trang điểm bằng châu báu; cuộc sống cơ cấu lại bắt đầu một cách chẳng ăn năn. Cái gì là con tầu đang trở thành cái vô danh bất khả hủy diệt.
Tựa những con tầu, con người cũng nhiều phen chìm đắm. Chỉ có trí nhớ cứu con người khỏi cảnh tan tác phân ly. Thi sĩ gieo thoi trong khung cửi, trải rơm cho người chết đuối bám víu khi họ đang chìm vào hủy diệt. Ma quỉ trèo lên những cầu thang máy nước, làm những cuộc thăng hoa hư ảo, rơi ngã chóng mặt, ghi nhớ số lượng, ngày tháng, biến cố, trong khi đi từ thể hơi sang chất lỏng và ngược trở lại. Không có đầu óc nào có thể ghi nổi những cuộc dâu bể tang thương. Không có gì xẩy ra trong đầu óc ngoại trừ sự sét rỉ và hao mòn tiệm tiến của tế bào. Nhưng trong tâm trí, những thế giới không xếp loại, không định danh, không đồng hóa, thành hoại, kết hợp, tan vỡ không ngừng. Trong tâm giới, ý tưởng là những yếu tố bất khả hủy diệt tạo thành những chòm sao long lanh châu báu của đời sống nội tâm. Chúng ta di động trong những quĩ đạo của chúng, một cách tự do nếu chúng ta tuân theo những kiểu mẫu phức tạp của chúng, nô lệ hay bị chiếm hữu nếu ta cố gắng ức chế chúng. Tất cả mọi vật ngoại giới chỉ là hình ảnh do cơ tâm phóng chiếu ra.
Sáng tạo là trò chơi ngoại diện diễn ra ở mép rìa; nó tự phát và cưỡng bách, phục tùng luật lệ. Người ta dời khỏi gương soi và màn vén lên. Séance permanente. Chỉ có những kẻ điên bị loại trừ. Chỉ có những kẻ “mất trí” như chúng ta nói. Vì những người này không bao giờ ngừng mơ bằng họ đang mơ mộng. Họ đứng trước gương mắt mở lớn và ngủ mê mệt; họ niêm phong hình bóng họ vào trong nấm mộ kỷ niệm. Trong họ tinh tú rơi rụng để tạo thành cái mà Hugo gọi là “bầy thú mù quáng trong lồng của những mặt trời, bởi tình yêu, tự biến mình thành những con chó lông sù và những đảo Terre Neuve của vô cùng.”
Cuộc sống sáng tạo! Thăng thiên. Vượt qua chính mình. Phóng mình vào bầu trời xanh, nắm chắc những chiếc đu bay, leo lên, liệng bay, nắm đầu thế giới kéo lên, lay động những thiên thần từ những vòm trời thanh khí, đắm mình vào những vực sâu tinh tú, nắm chặt lấy đuôi sao chổi. Nietzsche đã viết một cách xuất thần về sáng tạo – và sau đó bất tỉnh trong gương để chết trong gốc rễ và hoa lá. “Cầu thang và những cầu thang trái ngược” ông viết, và rồi hốt nhiên không còn đáy sâu nào nữa hết; tâm trí như một phiến kim cương tan vỡ, bị nghiền nát bởi những nhát búa của chân lý.
Có một lúc tôi làm việc với tư cách quản lý của cha tôi. Người ta để tôi một mình hàng giờ, giam kín trong một căn nhà nhỏ mà chúng tôi dùng làm văn phòng. Khi cha tôi uống rượu với những người bạn chí thân thì tôi cũng đang uống dưỡng chất từ bình của đời sống sáng tạo. Bạn đường của tôi là những tinh thần tự do, những bậc chúa tể phi phàm của tâm hồn. Chàng thanh niên ngồi trong ánh đèn vàng vọt đây trở nên hoàn toàn phóng dật; chàng sống trong những kẽ nứt của tư tưởng vĩ đại, nép mình tựa một kẻ ẩn tu trong khe núi khô cằn của một rặng núi cao. Từ thực chàng chuyển qua mộng và từ mộng qua tưởng tượng. Tại cánh cửa cuối cùng này, qua đó không còn có nẻo về, sự sợ hãi bám riết chàng. Mạo hiểm xa xôi là phiêu du một mình, là hoàn toàn tin cậy vào chính mình.
Mục đích của kỷ luật là nâng đỡ tự do. Nhưng tự do đưa tới vô biên và vô biên thì khủng khiếp quá. Rồi phát hiện cái tư tưởng thoải mái là dừng lại tại mép rìa, ghi xuống thành từ ngữ những bí ẩn của rung động, thôi thúc, đẩy đưa, của sự tắm gội cảm thức trong hơi hướng nhân loại. Trở thành hoàn toàn nhân loại, quỉ quái yêu ma nhân từ nhập thể, kẻ gác những cánh cửa lớn dẫn tới bên ngoài và đi xa khuất và mãi mãi cô độc…
Con người chìm đắm như tầu bè. Trẻ con cũng vậy. Có những trẻ em đắm chìm vào lúc tuổi lên chín lên mười, mang theo với chúng niềm bí ấn của kẻ phản bội. Có những ác quỉ phản trắc nhìn ta bằng cặp mắt dịu dàng, thơ ngây của tuổi ngọc: tội ác của chúng không được ghi lại, bởi không có tên gọi.
Tại sao những khuôn mặt khả ái ám ảnh chúng ta nhường ấy? Những đóa hoa dị thường có chăng những gốc rễ độc địa?
Nghiên cứu nàng từng chút một, chân tay, tóc, môi, tai, ngực du hành từ rốn tới mắt người đàn bà mà tôi đã đâm bổ xuống như một con mãnh cầm, đã cào cấu, cắn xé, ngạt thở vì những chiếc hôn, người đàn bà trước kia là Mara và bây giờ là Mona, người đã có và có thể có những cái tên khác nữa, là những người khác nữa, những tập hợp gồm những vật bổ trợ khác, không còn có thể đạt tới, không còn có thể đi sâu vào hơn một pho tượng lạnh giá trong một khu vườn quên lãng của một lục địa đã mất. Vào lúc lên chín hay sớm hơn, với một khẩu súng lục mà nàng không có ý định kết liễu, nàng có thể bóp cái cò súng vọng tưởng và ngã xuống như một con thiên nga tử thương, từ đỉnh cao của giấc mơ màng. Có thể như vậy được lắm, vì trong da thịt, nàng tan tác, trong tâm trí nàng như hạt bụi phất phơ. Trong tim nàng một cái chuông ngân, nhưng ý nghĩ nó thế nào thì không ai biết được. Hình ảnh nàng tương đồng với hư vô mà tôi đã hình thành trong lòng. Nàng đã đưa nó vào, luồn nó vào tựa một màn tơ mỏng giữa những nếp gấp của óc não vào một giây phút thương vong. Và khi vết thương khép miệng, dấu vết hãy còn ghi, tựa dấu vết mong manh mà một chiếc lá để lại trên phiến đá.
Những đêm thao thức khi hồn đầy sáng tạo, tôi không thấy gì ngoài cặp mắt nàng và trong cặp mắt ấy, nổi lên như những vũng dung nham sôi sục, ma quái hiện trên mặt mờ nhạt, tan biến, tái hiện, mang lại kinh hoàng, lo âu, sợ hãi, huyền nhiệm. Một kẻ thường xuyên bị theo đuổi, một đóa hoa bị che khuất mà hương thơm bọn chó săn tài giỏi nhất cũng không bao giờ đánh hơi được. Sau những bóng ma, ló mình qua rừng rậm, một đứa trẻ nhỏ đứng đường như tựa hiến thân mình một cách dâm đãng. Rồi con thiên nga lặn, chậm rãi, như trong phim chiếu bóng, và tuyết đổ với thân thể sa xuống, kế đó bóng ma và nhiều bóng ma hơn nữa, cặp mắt lại trở thành mắt, sáng rực như than đá non, rồi đỏ chói như cục than hồng, rồi mềm như những đóa hoa; rồi mắt, mũi, miệng, má, tai lờ mờ hiện ra khỏi hỗn mang, nặng nề như vầng trăng một cái mặt nạ gỡ ra, xác thịt thành hình dáng, mặt mũi.
Đêm đêm, tôi từ bỏ ngôn từ để kiếm mộng mơ, xác thịt, bóng ma. Ám ảnh và lay tỉnh. Những đóa hoa của vầng trăng, những cây dừa thân rộng của rừng hoang mọc cao, tiếng bầy chó sủa ma, thân thể trắng mảnh mai của một đứa trẻ, những bọt sôi sục của phún xuất thạch, nhịp chậm dần của tuyết đổ, đáy sâu không cùng nơi khói sóng nở ra thành xác thịt. Và xác thịt là gì nếu không phải là vầng trăng? và vầng trăng là gì nếu không phải là đêm? Và đêm thì dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, trên mọi sự chịu đựng.“
Hãy nghĩ tới chúng ta!” nàng nói cái đêm hôm đó khi nàng quay đi và lao vút lên thang như một cánh chim. Và có thể nói tôi không nghĩ đến điều gì khác. Hai chúng tôi là những cái cầu thang lên cao bất tận. Rồi “những cầu thang ngược dòng”; cầu thang trong văn phòng cha tôi, cầu thang dẫn tới tội ác, tới điên cuồng, tới những cửa chính của sáng tạo. Làm sao tôi có thể nghĩ tới điều gì khác?
Sáng tạo. Sáng tạo huyền thoại trong đó tôi có thể tra vừa chiếc thìa khóa mở tung cửa hồn nàng.
Một người đàn bà cố gắng phát lộ niềm bí ẩn của nàng. Một người đàn bà tuyệt vọng, qua tình yêu, tìm cách nối kết nàng với chính nàng. Đứng trước sự mênh mang của huyền bí, con người đứng như một con rết cảm thấy mặt đất trơn tuột dưới chân mình. Mỗi cánh cửa mở đều dẫn tới khoảng không trống trải hơn. Người ta phải bơi lội như một vì sao trong đại dương không vết tích của thời gian. Người ta phải có sự nhẫn nại của quặng radium chôn vùi dưới đỉnh Hy Mã Lạp Sơn.
Đến nay dễ đã đến hai chục năm qua kể từ ngày tôi bắt đầu nghiên cứu sự phát quang của linh hồn; trong thời gian đó tôi đã thực hiện hàng trăm cuộc thí nghiệm. Kết quả là tôi biết thêm đôi chút về chính tôi. Tôi nghĩ nó phải gần giống với những nhà lãnh tụ chính trị hay những viên tướng tài. Người ta không khám phá ra điều gì về sự bí ấn của vũ trụ, tốt hơn, người ta biết được vài điều về bản chất của định mệnh.
Lúc khởi đầu, người ta muốn đề cập tới mọi vấn đề một cách trực tiếp. Sự đề cập càng trực tiếp và cấp bách bao nhiêu, người ta càng mau mắn và chắc chắn thành công trong việc để mình mắc lưới bấy nhiêu. Không có một người nào đơn thương độc mã như người anh hùng. Và không một người nào có thể tạo ra nhiều bi kịch và rốt loạn như mẫu người ấy. Hoa gươm trên cái nút Gordian[1] , hắn hứa hẹn sự giải thoát mau lẹ. Ảo tưởng si mê kết thúc trong một đại dương máu me lai láng.
Nghệ sỹ sáng tạo có vài điểm tương đồng với người anh hùng. Dầu tác động trên một bình diện khác, chính hắn cũng tin tưởng rằng mình có thể đưa ra vài giải đáp. Hắn hiến đời mình để tựu thành những cuộc chiến thắng tưởng tượng. Chung cục của bất cứ một thí nghiệm nào, dù bởi chính khách, chiến sĩ, thi sĩ hay triết gia, thì những vấn đề của cuộc sống vẫn còn nguyên vẻ bí ấn phức tạp ấy. Những người hạnh phúc nhất là những người không có lịch sử, người ta nói vậy. Những kẻ có lịch sử, những kẻ là lịch sử, qua công nghiệp của họ, dường như chỉ có việc nhấn mạnh vào tính chất vĩnh cửu của nguyên lý đấu tranh. Chính họ cuối cùng cũng biến mất như những kẻ không cố gắng, những kẻ bằng lòng sống chỉ để mà sống và hưởng thụ.
Cá thể sáng tạo (trong khi vật lộn với môi vật) được coi như chứng nghiệm một nỗi hân hoan cân bằng, nếu không trầm trọng hơn, nỗi đau đớn và khắc khoải đi kèm theo sự đấu tranh biểu lộ mình. Hắn sống trong tác phẩm hắn, chúng ta nói vậy. Nhưng lối sống độc đáo ấy, thay đổi đến vô cùng, tùy theo từng cá nhân. Chỉ với điều kiện người ta ý thức về một cuộc sống phóng khoáng hơn, phong phú hơn, người ta mới có thể được kể như sống trong tác phẩm mình. Nếu không có sự thể hiện thì đâu là mục đích hay lợi ích hay lợi ích trong việc thay thế cuộc sống tưởng tượng bằng cuộc sống phiêu lưu thuần túy của thực tại? Bất cứ kẻ nào nâng mình lên khỏi những giao động của cái vòng quanh quẩn thường ngày không phải là chỉ làm vậy với hy vọng mở rộng kinh nghiệm trường, hoặc ngay cả làm giầu có nó, mà còn làm cho nó tốt tươi thêm. Chỉ trong ý hướng đó, cuộc đấu tranh mới có ý nghĩa. Khi đã chấp nhận quan điểm đó rồi thì tất cả mọi phân biệt giữa thành công và thất bại đều trở thành không. Đó là điều mà tất cả mọi nghệ sĩ vĩ đại đều học hỏi được giữa đường, rằng tiến trình mà trong đó hắn bị cuốn lôi vào có liên quan tới một chiều kích khác của đời sống, rằng trong khi đồng hóa mình với tiến trình đó hắn thăng tiến cuộc sống. Nhờ quan niệm đó, hắn thường trực được dời xa – và che chở - khỏi cái chết âm hiểm dường như đắc thắng khắp nơi quanh hắn. Hắn trực cảm thấy rằng niềm bí ẩn lớn lao sẽ không bao giờ thấu hiểu được nhưng có thể nhập vào trong chính bản chất hắn. Hắn phải khiến mình thành một phần của sự huyền nhiệm, sống trong nó cũng như với chính nó. Chấp nhận là giải pháp duy nhất. Chấp nhận là một nghệ thuật chứ không phải là sự thực thi ích kỷ của trí tuệ. Và chính qua cửa ngõ nghệ thuật mà cuối cùng người ta thiết lập được sự giao tiếp với thực tại: đó là một khám phá lớn lao. Ở đây tất cả đều là trò chơi và sáng tạo; không có chỗ đặt chân vững trãi nào để phóng xạ tiễn học thủng độc khí của tham, sân, si. Thế giới không cần phải đưa vào trật tự: thế giới chính là trật tự nhập thể. Chính chúng ta phải hòa điệu với trật tự đó, phải biết đâu là trật tự thế giới, khác biệt nào với trật tự mong muốn mà chúng ta tìm cách bắt nhau theo. Sức mạnh mà chúng ta khao khát thủ đắc ngõ hầu thiết định chân, thiện, mỹ, nếu chúng ta chiếm lãnh được, sẽ chứng tỏ đó là những phương tiện để tàn sát lẫn nhau. Chúng ta bất lực, thực là may mắn cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải thủ hữu thị kiến, kế đó kỷ luật và cuối cùng đức nhẫn nại. Chừng nào mà chúng ta chưa nhẫn nhục nhận thức rằng có một thị kiến ở trên thị kiến của chúng ta, chừng nào chúng ta chưa tin tưởng và trông cậy vào những sức mạnh siêu việt thì kẻ mù vẫn còn dẫn dắt kẻ mù. Những kẻ tin vào sự toàn năng của công việc và trí thông minh mãi mãi sẽ chỉ gặp những thất bại do những biến cố hư ảo và khôn lường gây ra. Họ là những kẻ thường xuyên bất mãn, không còn có thể nguyền rủa thánh thần hay Thượng Đế, họ quay sang anh em họ và vừa đổ lên đầu những người cơn ấy thịnh nộ bất lực của họ, họ vừa la lên: “Phản bội! Ngu ngốc!” và những tiếng vô nghĩa khác.
Niềm hân hoan lớn lao của nghệ sĩ là ý thức được một trật tự cao viễn hơn, nhận thức được, bởi sự vận dụng thiết yếu và đột khởi của những xung lực của chính hắn, mối tương đồng giữa sự sáng tạo của con người và cái được gọi là “thiên” tạo. Trong những tác phẩm của tưởng tượng phóng túng, sự hiện hữu của luật tự biểu thị qua trật tự còn hiển nhiên hơn trong những tác phẩm nghệ thuật khác. Không có gì ít điên cuồng, ít hỗn loạn hơn một tác phẩm tưởng tượng phóng túng. Những sự sáng tạo này, không là gì khác hơn sự sáng tạo thuần túy, xâm nhập vào mọi mức độ, tạo tác mẫu mực riêng cho nó, như nước. Sự miễn dịch không cùng không đem lại điều gì mới mẻ cho nó, ngoại trừ nâng cao ý nghĩa của cái dường như bất khả lãnh hội. Một cách nào đó, cái bất khả lãnh hội này là mẹ đẻ của ý nghĩa sâu xa. Không một người nào bị cảm kích, ngay cả những người làm bộ không bị cảm kích. Trong tác phẩm tưởng tượng ngông cuồng có một cái gì hiển hiện mà tác dụng chỉ có thể so sánh với rượu trường sinh bất tử. Yếu tố bí mật này, thường bị gán cho nhãn hiệu “vô nghĩa” mang theo nó hương vị của cái thế giới rộng lớn và hoàn toàn hiểm hóc này trong đó chúng ta và tất cả những thiên thể khác tìm thấy thể hiện của mình. Từ ngữ vô nghĩa là một trong những danh từ mù mờ nhất trong từ vựng chúng ta. Nó chỉ có một tính chất tiêu cực, như cái chết. Không ai giải thích được vô nghĩa: nó chỉ có thể được chứng minh. Tuy nhiên, nói thêm rằng ý nghĩa và vô nghĩa có thể đắp đổi cho nhau là chẻ sợi tóc làm tư. Vô nghĩa thuộc về thế giới khác, những chiều kích khác, và thái độ mà đôi lúc ta bứt nó khỏi chúng ta, cứu cánh mà chúng ta bác bỏ nó, chứng tỏ bản chất lộn xộn của nó. Bất cứ điều gì chúng ta không thể bao gồm nổi trong cái khung chật hẹp của nhận thức chúng ta là chúng ta khước từ ngay. Do đó sự sâu sắc và vô nghĩa có thể được coi như có một vài điểm đồng thanh tương ứng bất ngờ nào đó.
Tại sao tôi không nhắm thẳng và sự vô nghĩa đích thực? Bởi vì cũng như những người khác, tôi sợ nó. Và sâu xa hơn thế nữa là sự kiện, không những đặt mình ra bên ngoài, tôi lại vướng mắc vào chính giữa lưới. Tôi phải duy trì trường phái Dada phá hoại của chính tôi: tôi phải tiến bộ nếu đó là chữ dùng đúng, từ học giả tới nhà phê bình, cuối cùng tới người sử dụng búa. Kinh nghiệm văn nghệ của tôi nắm trong đổ nát tựa những kinh thành cổ kính bị bọn Vendale[2] cướp phá. Tôi muốn xây dựng, nhưng những nguyên liệu thất thường không thể tin cậy được và họa đồ vẫn chưa bước qua giai đoạn tuyến đồ. Nếu chất liệu của nghệ thuật là tâm hồn người thì tôi phải thú thực rằng, với những tâm hồn chết, tôi không thể thấy hình ảnh nào nhen nhúm nẩy mầm trong vòng tay tôi.
Bị vướng mắc vào thảm kịch lớp lang chồng chất, bị bắt buộc tham gia không ngừng có nghĩa là người ta không ý thức về những nét đại dương của màn kịch lớn lao hơn đó, trong ấy hành động của con người chỉ là một phần rất nhỏ. Hành vi sáng tác chấm dứt mọi thứ hành động đã buông thả một thứ hành động khác. Khi một nhà sư, trầm tư lúc tụng niệm, thong thả và lặng lẽ kinh hành qua tiền đình một ngôi đền, và trong khi đi như vậy lần lượt làm chuyển động mạn đà la[3] , đã cho một hình ảnh sống động của hành động ngồi xuống bàn viết. Tâm trí nhà văn, không còn bận quan sát, nhận thức, tư lự, lang thang giữa thế giới của hình thể được làm quay tròn bởi sự vỗ cánh đơn thuần. Đó không phải bạo chúa nào phỉ chí tung hoành trên đám thần dân khuất phục của đế quốc chiếm lãnh phi nghĩa của hắn. Đúng hơn, một nhà thám hiểm, đánh động thiếp gọi những thực thể say ngủ của mộng mơ hắn trở về đời. Tác động mơ mộng như một luồng gió trong ngôi nhà hoang, xếp đặt đồ đạc của tâm trí trong một môi trường mới. Bàn ghế cộng tác, mùi xú uế bay hết, một cuộc chơi bắt đầu.
Hỏi mục đích của cuộc chơi này, nó quan hệ thế nào với đời, là lẩn thẩn. Chẳng khác nào hỏi Hóa Công tại sao sinh ra núi lửa đó? tại sao giông tố đó? Vì hiển nhiên chúng không đóng góp gì cả ngoại trừ tai họa[4] . Nhưng, vì tai họa chỉ tai hại cho những kẻ bị chìm đắm trong đó, trong khi chúng soi sáng cho những kẻ sống sót và nghiên cứu chúng trong thế giới sáng tạo cũng vậy. Kẻ mơ mộng trở về từ cuộc phiêu bạt giang hồ, nếu hắn không bị đắm tầu dọc đường, có thể và thường chuyển hóa sự sụp đổ của cơ cấu vi tế hắn vào chất liệu khác. Đối với một đứa trẻ, sự châm trích một cái bọt bóng không thể đem lại điều gì khác hơn ngoài sự kinh ngạc và thích thú. Học viên của mê vọng có thể phản ứng một cách khác.
Một khoa học gia có thể đem lại cho một bọt bóng cảm xúc phong phú của một thế giới tư duy. Hiện tượng tương tự khiến đứa trẻ kêu lên vì thích thú có thể phát sinh ra một viễn tượng chân lý chói lòa, trong đầu óc một thí nghiệm viên nhiệt thành. Trong nhà nghệ sĩ những phản ứng tương khắc này dường như hòa hợp hay hỗn hợp, tạo ra một phản ứng tối hậu, vật xúc tác lớn lao gọi là thực hiện. Nhìn, biết, khám phá, hưởng thụ - những khả năng hay năng lực này yếu đuối xanh xao hay vô sinh nếu không có sự hiện thực. Trò chơi của nghệ sĩ là dời chuyển vào thực tại. Chỉ khi nhìn bên kia khía cạnh “tai họa” hẹp hòi thì cảnh tượng một bãi chiến trường thảm bại mới biễu diễn trước con mắt trần. Vì, từ thời khởi thủy, cảnh tượng mà thế giới trình bầy cho con mắt trần của nhân loại dường như không là gì khác hơn một bãi chiến trường tan hoang gớm ghê. Nó đã như vậy và sẽ như vậy cho đến khi con người ngừng coi mình như một chỗ phân tranh. Cho đến khi hắn đảm nhận trọng trách mở thành “cái Tôi của cái Tôi của hắn”.
--- [1] Thần thoại Hy Lạp: nút Gordius là một cái nút được thắt bởi vua Gordius xứ Phrygia theo sấm truyền thì chỉ có vị chúa tể tương lai của châu Á mới cởi được. Alexandre đại đế, không cởi được bèn cắt phăng. Từ đó thành ngữ: Cắt cái nút Gordius có nghĩa: giải quyết vấn đề nan giải một cách thẳng thừng và hữu hiệu - N. H. H [2] Người Vandale thuộc giống Nhật Nhĩ Man đã xâm lăng xứ Gaule Bắc Phi, Tây Ban Nha, La Mã phá hủy nhiều công trình văn học nghệ thuật. – N. H.H. [3] Hay bánh xe Pháp luân hoặc trống trên có chép kinh Phật giáo Tây Tạng thường dùng – N. H. H. [4] Cùng với tài hoa một vần – N. H. H.
0 notes
ca-chuoi · 5 years ago
Text
Buồn hơn cái chết - Nguyễn Quang Thiều
Vào lúc nào đấy trong đêm tối như hốc mắt người chết Ai đó ghé xuống bên anh thì thào thông báo: ban mai ngươi sẽ ra đi Băng qua mọi sợ hãi, mọi thách thức anh đến tìm em Chúng ta ôm nhau im lặng nơi bậc cửa đầy gió
Không còn đâu trên thế gian yên tĩnh như nơi này Chúng ta trút bỏ áo quần như trút bỏ thống khổ nằm xuống bên nhau Trong ánh sáng của ngôi sao đã chết một triệu năm Chúng ta thì thầm những tiếng nói thường vọng trong mơ
Chợt phép nhiệm mầu lướt qua, ai đó mỉm cười Chúng ta trở nên tinh khiết và gánh nặng của da thịt tội lỗi Đã tan biến như chưa bao giờ có cùng những tuyệt vọng của đời sống Và chúng ta nghe bản chúc phúc của đồ đạc
Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này Em đừng khóc, đừng thay đổi những chiếc ghế chúng ta thường ngồi trong bóng tối Đừng thay đổi những lý do, đừng thay đổi những sợ hãi Đừng thay đổi cả những cái cây chết ở góc vườn
Em đừng khóc, đừng bao giờ khóc về chuyến đi này, hãy nhìn ra cửa sổ Anh sẽ ra đi từ đấy, một ngôi sao lấp lánh từ đêm anh sinh ra Ngôi nhà còn lại trên thế gian, em hãy đến, ngồi xuống chiếc ghế trong bóng tối, hãy thì thào, hãy gọi Quần áo cũ của anh vẫn ấm mãi hơi thở ấy, vẫn bụi bặm ấy và những mẩu thuốc trong túi Vẫn những cơn ho ấy, vẫn đau đớn ấy và dịu dàng ấy làm em bật khóc vì hạnh phúc
Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ Cờ sẽ rực rỡ biết nhường nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào Giống cậu bé ham chơi trốn cha mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang Và cúi xuống bên em đang thiếp ngủ, thì thầm anh nói Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết. 
0 notes
ca-chuoi · 6 years ago
Photo
Tumblr media Tumblr media Tumblr media
vănguard #2 
0 notes
ca-chuoi · 7 years ago
Quote
688. What is the self? A man goes to the window to see the people passing by; if I pass by, can I say he went there to see me? No, for he is not thinking of me in particular. But what about a person who loves someone for the sake of her beauty; does he love her? No, for smallpox, which will destroy beauty without destroying the person, will put an end to his love for her. And if someone loves me for my judgement or my memory, do they love me? me, myself? No, for I could lose these qualities without losing my self. Where then is this self, if it is neither in the body nor the soul? And how can one love the body or the soul except for the sake of such qualities, which are not what makes up the self, since they are perishable? Would we love the substance of a person's soul, in the abstract, whatever qualities might be in it? That is not possible, and it would be wrong. Therefore, we never love anyone, but only qualities. Let us stop scoffing at those who win honour through their appointments and offices, for we never love anyone except for borrowed qualities.
Blaise Pascal, Human Happiness
0 notes
ca-chuoi · 9 years ago
Text
Mặt trời đã lặn. Hàng cây sẫm lại, yểu điệu in trên nền trời đen. Con sông lớn hung dũng cuộn êm dòng nước lững lờ. Trăng vừa nhô lên ở chân trời, giữa hai tàn cây lớn, nhưng chưa đổ bóng xuống xung quanh. Chúng tôi leo ngược theo bờ dốc, rồi rẽ qua một lối nhỏ chạy dọc theo cánh đồng lúa mì xanh um. Lối đi nầy cũ đến vô vàn: muôn ngàn người từng dẫm chân lên đó trước ta; đây là nơi ấp ủ cả một kho tàng truyền thống và cô tịch. Lối đi uốn khúc giữa đồng ruộng va hàng xoài hàng me và những nấm mộ hoang vu. Từ vài khuôn vườn lớn phảng phất một mùi hương êm dịu. Chim xếp cánh nghỉ trong đêm. Mặt ao bát ngát bắt đầu phản chiếu ánh sao lấp lánh. Đêm nay trời đất không cởi mở lắm. Cây cối đứng dang ra nhau, thâu mình trong quạnh hiu và bóng tối. Vài người đầu làng đạp xe máy đi qua, nói chuyện xầm xì, rồi tất cả trầm lặng trở lại trong cô tịch bao la; tất cả đều thanh bình khi tất cả đều hiu hắt một mình. Đó là một nỗi cô đơn không đau buốt, không ghê rợn: cô đơn của tự thể - vô nhiễm, phong phú, sung mãn. Cây me đứng kia không sống cuộc sống nào khác hơn là hiện thực chính nó. Nỗi cô đơn kia cũng vậy. Người ta tự nhiên mà cô đơn, như lửa, như hoa, nhưng mấy ai thấu rõ tất cả niềm thanh tịnh và bao la bao hàm trong đó. Người ta chỉ thực sự có cảm thông khi người ta chỉ một mình. Một mình không phải do bác bỏ hoặc tự khép kín mình lại mà có được. Trái lại, đây là nỗi cô đơn gột sạch tất cả nguyên cớ, tất cả mong cầu, tất cả mục đích. Nỗi cô đơn này không phải là cứu cánh do trí óc đặt ra. Nên ta không thể mong ước được một mình. Mong ước như vậy chỉ là chạy trốn trước cái khổ mất cảm thông. Sự cô lập, trái lại, đèo theo tất cả niềm sợ sệt và khổ đau. Đó chỉ là một động tác không thể tránh được của cái tôi. Trong vòng diễn tiến, dài rộng hay hẹp, sự cô lập chỉ đưa đến cảnh tán loạn, xung đột và khổ não, không bao giờ phát sinh được trạng thái cô đơn. Cô lập phải dứt đi thì cô đơn mới hiện thực. Cô đơn vốn là bất khả phân, còn cô lập tức tách rời. Cái gì chỉ một mình thì uyển chuyển, và chững chạc. Chỉ có cái một mình mới tiếp thông được với cái không nguyên nhân, cái không đo lường được. Với cô đơn, cuộc sống chứng vĩnh cửu. Có cô đơn, thì không có cái chết. Cô đơn chẳng lúc nào là không hiện thực. Mặt trăng nhô cao trên ngọn cây, giãi xuống từng mảng bóng dày và đen. Một con chó sủa lên khi chúng tôi đi qua xóm làng nhỏ, rồi trở ngược dọc theo bờ sông. Mặt nước êm ả làm sao chiếu rõ những vì sao và những ngọn lửa lấp lánh trên cây cầu dài bắt qua sông. Bên bờ sông mấy em bé cười đùa, một em nhỏ khóc ré. Dân chài đang giặt lưới và cuốn lại. Một con chim đêm im lặng bay lướt qua. Bên kia bờ sông lớn có người cất tiếng hát, giọng hát trong và thấm thía. Lại niềm cô tịch của cuộc sống thấm nhuần khắp, mênh mông…
0 notes
ca-chuoi · 9 years ago
Photo
Tumblr media
0 notes
ca-chuoi · 12 years ago
Text
Suicides - Guy de Maupassant
To Georges Legrand.
Hardly a day goes by without our reading a news item like the following in some newspaper:
“On Wednesday night the people living in No. 40 Rue de——-, were awakened by two successive shots. The explosions seemed to come from the apartment occupied by M. X——. The door was broken in and the man was found bathed in his blood, still holding in one hand the revolver with which he had taken his life.
"M. X——was fifty-seven years of age, enjoying a comfortable income, and had everything necessary to make him happy. No cause can be found for his action.”
What terrible grief, what unknown suffering, hidden despair, secret wounds drive these presumably happy persons to suicide? We search, we imagine tragedies of love, we suspect financial troubles, and, as we never find anything definite, we apply to these deaths the word “mystery.”
A letter found on the desk of one of these “suicides without cause,” and written during his last night, beside his loaded revolver, has come into our hands. We deem it rather interesting. It reveals none of those great catastrophes which we always expect to find behind these acts of despair; but it shows us the slow succession of the little vexations of life, the disintegration of a lonely existence, whose dreams have disappeared; it gives the reason for these tragic ends, which only nervous and high-strung people can understand.
Here it is:
“It is midnight. When I have finished this letter I shall kill myself. Why? I shall attempt to give the reasons, not for those who may read these lines, but for myself, to kindle my waning courage, to impress upon myself the fatal necessity of this act which can, at best, be only deferred.
"I was brought up by simple-minded parents who were unquestioning believers. And I believed as they did.
"My dream lasted a long time. The last veil has just been torn from my eyes.
"During the last few years a strange change has been taking place within me. All the events of Life, which formerly had to me the glow of a beautiful sunset, are now fading away. The true meaning of things has appeared to me in its brutal reality; and the true reason for love has bred in me disgust even for this poetic sentiment: ‘We are the eternal toys of foolish and charming illusions, which are always being renewed.’
"On growing older, I had become partly reconciled to the awful mystery of life, to the uselessness of effort; when the emptiness of everything appeared to me in a new light, this evening, after dinner.
"Formerly, I was happy! Everything pleased me: the passing women, the appearance of the streets, the place where I lived; and I even took an interest in the cut of my clothes. But the repetition of the same sights has had the result of filling my heart with weariness and disgust, just as one would feel were one to go every night to the same theatre.
"For the last thirty years I have been rising at the same hour; and, at the same restaurant, for thirty years, I have been eating at the same hours the same dishes brought me by different waiters.
"I have tried travel. The loneliness which one feels in strange places terrified me. I felt so alone, so small on the earth that I quickly started on my homeward journey.
"But here the unchanging expression of my furniture, which has stood for thirty years in the same place, the smell of my apartments (for, with time, each dwelling takes on a particular odor) each night, these and other things disgust me and make me sick of living thus.
"Everything repeats itself endlessly. The way in which I put my key in the lock, the place where I always find my matches, the first object which meets my eye when I enter the room, make me feel like jumping out of the window and putting an end to those monotonous events from which we can never escape.
"Each day, when I shave, I feel an inordinate desire to cut my throat; and my face, which I see in the little mirror, always the same, with soap on my cheeks, has several times made me weak from sadness.
"Now I even hate to be with people whom I used to meet with pleasure; I know them so well, I can tell just what they are going to say and what I am going to answer. Each brain is like a circus, where the same horse keeps circling around eternally. We must circle round always, around the same ideas, the same joys, the same pleasures, the same habits, the same beliefs, the same sensations of disgust.
"The fog was terrible this evening. It enfolded the boulevard, where the street lights were dimmed and looked like smoking candles. A heavier weight than usual oppressed me. Perhaps my digestion was bad.
"For good digestion is everything in life. It gives the inspiration to the artist, amorous desires to young people, clear ideas to thinkers, the joy of life to everybody, and it also allows one to eat heartily (which is one of the greatest pleasures). A sick stomach induces scepticism unbelief, nightmares and the desire for death. I have often noticed this fact. Perhaps I would not kill myself, if my digestion had been good this evening.
"When I sat down in the arm-chair where I have been sitting every day for thirty years, I glanced around me, and just then I was seized by such a terrible distress that I thought I must go mad.
"I tried to think of what I could do to run away from myself. Every occupation struck me as being worse even than inaction. Then I bethought me of putting my papers in order.
"For a long time I have been thinking of clearing out my drawers; for, for the last thirty years, I have been throwing my letters and bills pell-mell into the same desk, and this confusion has often caused me considerable trouble. But I feel such moral and physical laziness at the sole idea of putting anything in order that I have never had the courage to begin this tedious business.
"I therefore opened my desk, intending to choose among my old papers and destroy the majority of them.
"At first I was bewildered by this array of documents, yellowed by age, then I chose one.
"Oh! if you cherish life, never disturb the burial place of old letters!
"And if, perchance, you should, take the contents by the handful, close your eyes that you may not read a word, so that you may not recognize some forgotten handwriting which may plunge you suddenly into a sea of memories; carry these papers to the fire; and when they are in ashes, crush them to an invisible powder, or otherwise you are lost—just as I have been lost for an hour.
"The first letters which I read did not interest me greatly. They were recent, and came from living men whom I still meet quite often, and whose presence does not move me to any great extent. But all at once one envelope made me start. My name was traced on it in a large, bold handwriting; and suddenly tears came to my eyes. That letter was from my dearest friend, the companion of my youth, the confidant of my hopes; and he appeared before me so clearly, with his pleasant smile and his hand outstretched, that a cold shiver ran down my back. Yes, yes, the dead come back, for I saw him! Our memory is a more perfect world than the universe: it gives back life to those who no longer exist.
"With trembling hand and dimmed eyes I reread everything that he told me, and in my poor sobbing heart I felt a wound so painful that I began to groan as a man whose bones are slowly being crushed.
"Then I travelled over my whole life, just as one travels along a river. I recognized people, so long forgotten that I no longer knew their names. Their faces alone lived in me. In my mother’s letters I saw again the old servants, the shape of our house and the little insignificant odds and ends which cling to our minds.
"Yes, I suddenly saw again all my mother’s old gowns, the different styles which she adopted and the several ways in which she dressed her hair. She haunted me especially in a silk dress, trimmed with old lace; and I remembered something she said one day when she was wearing this dress. She said: 'Robert, my child, if you do not stand up straight you will be round-shouldered all your life.’
"Then, opening another drawer, I found myself face to face with memories of tender passions: a dancing-pump, a torn handkerchief, even a garter, locks of hair and dried flowers. Then the sweet romances of my life, whose living heroines are now white-haired, plunged me into the deep melancholy of things. Oh, the young brows where blond locks curl, the caress of the hands, the glance which speaks, the hearts which beat, that smile which promises the lips, those lips which promise the embrace! And the first kiss-that endless kiss which makes you close your eyes, which drowns all thought in the immeasurable joy of approaching possession!
"Taking these old pledges of former love in both my hands, I covered them with furious caresses, and in my soul, torn by these memories, I saw them each again at the hour of surrender; and I suffered a torture more cruel than all the tortures invented in all the fables about hell.
"One last letter remained. It was written by me and dictated fifty years ago by my writing teacher. Here it is:
 ”'MY DEAR LITTLE MAMMA:
 “'I am seven years old to-day. It is the age of reason. I take  advantage of it to thank you for having brought me into this world.
 ”'Your little son, who loves you
                  "'ROBERT.’
“It is all over. I had gone back to the beginning, and suddenly I turned my glance on what remained to me of life. I saw hideous and lonely old age, and approaching infirmities, and everything over and gone. And nobody near me!
"My revolver is here, on the table. I am loading it…. Never reread your old letters!”
And that is how many men come to kill themselves; and we search in vain to discover some great sorrow in their lives.
0 notes
ca-chuoi · 13 years ago
Text
a perfect day for bananafish - j.d. salinger
There were ninety-seven New York advertising men in the hotel, and, the way they were monopolizing the long-distance lines, the girl in 507 had to wait from noon till almost two-thirty to get her call through. She used the time, though. She read an article in a women’s pocket-size magazine, called “Sex Is Fun - or Hell.” She washed her comb and brush. She took the spot out of the skirt of her beige suit. She moved the button on her Saks blouse. She tweezed out two freshly surfaced hairs in her mole. When the operator finally rang her room, she was sitting on the window seat and had almost finished putting lacquer on the nails of her left hand.
She was a girl who for a ringing phone dropped exactly nothing. She looked as if her phone had been ringing continually ever since she had reached puberty.
With her little lacquer brush, while the phone was ringing, she went over the nail of her little finger, accentuating the line of the moon. She then replaced the cap on the bottle of lacquer and, standing up, passed her left—the wet—hand back and forth through the air. With her dry hand, she picked up a congested ashtray from the window seat and carried it with her over to the night table, on which the phone stood. She sat down on one of the made-up twin beds and—it was the fifth or sixth ring—picked up the phone.
“Hello,” she said, keeping the fingers of her left hand outstretched and away from her white silk dressing gown, which was all that she was wearing, except mules—her rings were in the bathroom.
“I have your call to New York now, Mrs. Glass,” the operator said.
“Thank you,” said the girl, and made room on the night table for the ashtray.
A woman’s voice came through. “Muriel? Is that you?”
The girl turned the receiver slightly away from her ear. “Yes, Mother. How are you?” she said.
“I’ve been worried to death about you. Why haven’t you phoned? Are you all right?”
“I tried to get you last night and the night before. The phone here’s been—.”
“Are you all right, Muriel?”
The girl increased the angle between the receiver and her ear. “I’m fine. I’m hot. This is the hottest day they’ve had in Florida in –.”
“Why haven’t you called me? I’ve been worried to - -.”
“Mother, darling, don’t yell at me. I can hear you beautifully,” said the girl. I called you twice last night. Once just after - -.“
I told your father you’d probably call last night. But, no, he had to – Are you all right Muriel? Tell me the truth.”
“I’m fine. Stop asking me that, please.”
“When did you get there?”
“I don’t know. Wednesday morning, early.”
“Who drove?”
“He did,” said the girl. “And don’t get excited. He drove very nicely. I was amazed.”
“He drove? Muriel, you gave me your word of-.”
“Mother,” the girl interrupted, “I just told you. He drove very nicely. Under fifty the whole way, as a matter of fact.”
“Did he try any of that funny business with the trees?”
“I said he drove very nicely, Mother. Now, please. I asked him to stay close to the white line, and all, and he knew what I meant, and he did. He was even trying not to look at the trees - you could tell. Did Daddy get the car fixed, incidentally?”
“Not yet. They want four hundred dollars, just to–.”
“Mother, Seymour told Daddy that he’d pay for it. There’s no reason for –.”
“Well, well see. How did he behave—in the car and all?”
“All right,” said the girl.
“Did he keep calling you that awful–.”
“No. He has something new now.”
“What?”
“Oh, what’s the difference, Mother?
"Muriel, I want to know. Your father–.”
“All right, all right. He calls me Miss Spiritual Tramp of 1948,” the girl said, and giggled.
“It isn’t funny, Muriel. It isn’t funny at all. It’s horrible. It’s sad, actually. When I think how–”
“Mother,” the girl interrupted, “listen to me. You remember that book he sent me from Germany? You know, those German poems. What’d I do with it? I’ve been racking my-.”
“You have it.”
‘Are you sure?“ said the girl.
"Certainly. That is, I have it. It’s in Freddy’s room. You left it here and I didn’t have room for it in the—Why? Does he want it?”
“No. Only, he asked me about it, when we were driving down. He wanted to know if I’d read it.”
“It was in German!”
“Yes, dear. That doesn’t make any difference,” said the girl, crossing her legs. “He said that the poems happen to be written by the only great poet of the century. He said I should’ve bought a translation or something. Or learned the language, if you please.”
“Awful. Awful. It’s sad, actually, is what it is. Your father said last night—.”
“Just a second, Mother,” the girl said. She went over to the window seat for her cigarettes, lit one, and returned to her seat on the bed. “Mother”, she said, exhaling smoke.
“Muriel. Now, listen to me.”
“I’m listening.”
“Your father talked to Dr. Sivetski.”
“Oh?” said the girl.
“He told him everything. At least, he said he did—you know your father. The trees. That business with the window. Those horrible things he said to Granny about her plans for passing away. What he did with all those lovely pictures from Bermuda—everything.”
“Well?” said the girl.
“Well. In the first place, he said it was a perfect crime the Army released him from the hospital – my word of honor. He very definitely told your father there’s a chance – a very great chance, he said, that Seymour may completely lose control of himself. My word of honor.”
“There’s a psychiatrist here at the hotel,” said the girl.
“Who? What’s his name?”
“I don’t know. Rieser or something. He’s supposed to be very good.”
“Never heard of him.”
‘Well, he’s supposed to be very good, anyway.“
"Muriel, don’t be fresh, please. We’re very worried about you. Your father wanted to wire you last night to come home, as a matter of f—.”
“I’m not coming home right now, Mother. So relax.”
“Muriel. My word of honor. Dr. Sivetski said Seymour may completely lose contr—.”
‘I just got here, Mother. This is the first vacation I’ve had in years, and I’m not going to just pack everything and come home,“ said the girl. "I couldn’t travel now anyway. I’m so sunburned I can hardly move.”
“You’re badly sunburned? Didn’t you use that far of Bronze I put in your bag? I put it right—.”
“I used it. I’m burned anyway.”
“That’s terrible. Where are you burned?”
“All over, dear, all over.”
“That’s terrible.”
“I’ll live.”
“Tell me, did you talk to this psychiatrist?”
"Well, sort of,” said the girl.
“What’d he say? Where was Seymour when you talked to him?”
“In the Ocean Room, playing the piano. He’s played the piano both nights we’ve been here.”
“Well, what’d he say?”
“Oh. Nothing much. He spoke to me first. I was sitting next to him at Bingo last night, and he asked me if that wasn’t my husband playing the piano in the other room. I said yes, it was, and he asked me if Seymour’s been sick or something. So I said –.”
“Why’d he ask that?”
“I don’t know, Mother. I guess because he’s so pale and all,” said the girl. “Anyway, after Bingo he and his wife asked me if I wouldn’t like to join them for a drink. So I did. His wife was horrible. You remember that awful dinner dress we saw in Bonwit’s window? The one you said you’d have to have a tiny, tiny—.”
“The green?”
“She had it on. And all hips. She kept asking me if Seymour’s related to that Suzanne Glass that has that place on Madison Avenue - the millinery.”
“What’d he say, though? The doctor.”
“Oh. Well, nothing much, really. I mean we were in the bar and all. It was terribly noisy.”
“Yes, but did - did you tell him what he tried to do with Granny’s chair?”
“No, Mother. I didn’t go into details very much,” said the girl. “I’II probably get a chance to talk to him again. He’s in the bar all day long.”
“Did he say he thought there was a chance he might get - you know - funny or anything? Do something to you!”
“Not exactly,” said the girl. “He had to have more facts, Mother. They have to know about your childhood - all that stuff. I told you, we could hardly talk, it was so noisy in there.”
“Well. How’s your blue coat?”
“All right. I had some of the padding taken out.”
“How are the clothes this year?”
“Terrible. But out of this world. You see sequins – everything,” said the girl.
“How’s your room?”
“All right. Just all right, though. We couldn’t get the room we had before the war,"’ said the girl. "The people are awful this year. You should see what sits next to us in the dining room. At the next table. They look as if they drove down in a truck.”
‘Well, it’s that way all over. How’s your ballerina?“
"It’s too long. I told you it was too long.”
“Muriel, I’m only going to ask you once more - are you really all right?”
“Yes, Mother,” said the girl. “For the ninetieth time.”
“And you don’t want to come home?”
“No, Mother.”
“Your father said last night that he’d be more than willing to pay for it if you’d go away some place by yourself and think things over. You could take a lovely cruise. We both thought –.”
“No, thanks,” said the girl, and uncrossed her legs. “Mother, this call is costing a for-”
“When I think of how you waited for that boy all through the war - I mean when you think of all those crazy little wives who—.”
“Mother,” said the girl, “we’d better hang up. Seymour may come in any minute.”
“Where is he?”
“On the beach.”
“On the beach? By himself? Does he behave himself on the beach?”
“Mother,” said the girl, “you talk about him as though he were a raving maniac - ”
“I said nothing of the kind, Muriel.”
“Well, you sound that way. I mean all he does is lie there. He won’t take his bathrobe off.”
“He won’t take his bathrobe off? Why not?”
“I don’t know. I guess because he’s so pale.”
“My goodness, he needs the sun. Can’t you make him?”
“You know Seymour,” said the girl, and crossed her legs again. “He says he doesn’t want a lot of fools looking at his tattoo.”
“He doesn’t have any tattoos! Did he get one in the Army?”
“No, Mother. No, dear,” said the girl, and stood up. “Listen, I’ll call you tomorrow, maybe.”
“Muriel. Now, listen to me.”
“Yes, Mother,” said the girl, putting her weight on her right leg.
“Call me the instant he does, or says, anything at all funny – you know what I mean. Do you hear me?”
“Mother, I’m not afraid of Seymour.”
“Muriel, I want you to promise me.”
“All right, I promise. Goodbye, Mother,” said the girl. “My love to Daddy.” She hung up.
“See more glass,” said Sybil Carpenter, who was staying at the hotel with her mother. “Did you see more glass?”
“Pussycat, stop saying that. It’s driving Mommy absolutely crazy. Hold still, please.”
Mrs. Carpenter was putting sun-tan oil on Sybil’s shoulders, spreading it down over the delicate, wing-like blades of her back. Sybil was sitting insecurely on a huge, inflated beach ball, facing the ocean. She was wearing a canary-yellow two-piece bathing suit, one piece of which she would not actually be needing for another nine or ten years.
“It was really just an ordinary silk handkerchief -you could see when you got up close,” said the woman in the beach chair beside Mrs. Carpenter’s “I wish I knew how she tied it. It was really darling.”
“It sounds darling,” Mrs. Carpenter agreed. “Sybil, hold still, pussy.”
“Did you see more glass?” said Sybil.
Mrs. Carpenter sighed. “All right,” she said. She replaced the cap on the sun-tan oil bottle. “Now run and play, pussy. Mommy’s going up to the hotel and have a Martini with Mrs. Hubbel. I’ll bring you the olive.”
Set loose, Sybil immediately ran down to the flat part of the beach and began to walk in the direction of Fisherman’s Pavilion. Stopping only to sink a foot in a soggy, collapsed castle, she was soon out of the area reserved for guests of the hotel.
She walked for about a quarter of a mile and then suddenly broke into an oblique run up the soft part of the beach. She stopped short when she reached the place where a young man was lying on his back.
“Are you going in the water, see more glass?” she said.
The young man started, his right hand going to the lapels of his terry-cloth robe. He turned over on his stomach, letting a sausaged towel fall away from his eyes, and squinted up at Sybil.
“Hey. Hello, Sybil.”
“Are you going in the water?”
"I was waiting for you,” said the young man. “What’s new?”
“What?” said Sybil.
“What’s new? What’s on the program?”
“My daddy’s coming tomorrow on a airplane,” Sybil said, kicking sand.
“Not in my face, baby,” the young man said, putting his hand on Sybil’s ankle. “Well, it’s about time he got here, your daddy. I’ve been expecting him hourly. Hourly.”
“Where’s the lady?” Sybil said.
“The lady?” The young man brushed some sand out of his thin hair. “That’s hard to say, Sybil. She may be in any one of a thousand places. At the hairdresser’s. Having her hair dyed mink. Or making dolls for poor children, in her room.” Lying prone now, he made two fists, set one on top of the other, and rested his chin on the top one. “Ask me something else, Sybil,” he said. “That’s a fine bathing suit you have on. If there’s one thing I like, it’s a blue bathing suit.”
Sybil stared at him, then looked down at her protruding stomach. “This is a yellow,” she said. “This is a yellow.”
“It is? Come a little closer.”
Sybil took a step forward.
“You’re absolutely right. What a fool I am.”
“Are you going in the water?” Sybil said.
“I’m seriously considering it. I’m giving it plenty of thought, Sybil, you’ll be glad to know.”
Sybil prodded the rubber float that the young man sometimes used as a head-rest. “It needs air,” she said.
“You’re right. It needs more air than I’m willing to admit.” He took away his fists and let his chin rest on the sand. “Sybil,” he said, “you’re looking fine. It’s good to see you. Tell me about yourself.” He reached in front of him and took both of Sybil’s ankles in his hands. “I’m Capricorn,” he said. “What are you?”
“Sharon Lipschutz said you let her sit on the piano seat with you,” Sybil said.
“Sharon Lipschutz said that?”
Sybil nodded vigorously.
He let go of her ankles, drew in his hands, and laid the side of his face on his right forearm. “Well,” he said, “you know how those things happen, Sybil. I was sitting there, playing. And you were nowhere in sight. And Sharon Lipschutz came over and sat down next to me. I couldn’t push her off, could I?”
“Yes.”
“Oh, no. No. I couldn’t do that,” said the young man. I’II tell you what I did do, though.“
"What?”
“I pretended she was you.”
Sybil immediately stooped and began to dig in the sand. “Let’s go in the water,” she said.
“All right,” said the young man. “I think I can work it in.”
“Next time, push her off,” Sybil said.
“Push who off?”
“Sharon Lipschutz.”
“Ah, Sharon Lipschutz,” said the young man. “How that name comes up. Mixing memory and desire.” He suddenly got to his feet. He looked at the ocean. “Sybil,” he said, “I’ll tell you what we’ll do. Well see if we can catch a bananafish.”
“A what?”
“A bananafish,” he said, and undid the belt of his robe. He took off the robe. His shoulders were white and narrow, and his trunks were royal blue. He folded the robe, first lengthwise, then in thirds. He unrolled the towel he had used over his eyes, spread it out on the sand, and then laid the folded robe on top of it. He bent over, picked up the float, and secured it under his right arm. Then, with his left hand, he took Sybil’s hand.
The two started to walk down to the ocean.
“I imagine you’ve seen quite a few bananafish in your day,” the young man said.
Sybil shook her head.
“You haven’t? Where do you live, anyway?”
“I don’t know,” said Sybil.
“Sure you know. You must know. Sharon Lipschutz knows where she lives and she’s only three and a half.”
Sybil stopped walking and yanked her hand away from him. She picked up an ordinary beach shell and looked at it with elaborate interest. She threw it down. “Whirly Wood, Connecticut,” she said, and resumed walking, stomach foremost.
“Whirly Wood, Connecticut,” said the young man. “Is that anywhere near Whirly Wood, Connecticut, by any chance?”
Sybil looked at him. “That’s where I live,” she said impatiently. “I live in Whirly Wood, Connecticut.” She ran a few steps ahead of him, caught up her left foot in her left hand, and hopped two or three times.
“You have no idea how clear that makes everything,” the young man said.
Sybil released her foot. “Did you read ‘Little Black Sambo’?” she said.
“It’s very funny you ask me that,” he said. ‘It so happens I just finished reading it last night.“ He reached down and took back Sybil’s hand. "What did you think of it?” he asked her.
“Did the tigers run all around that tree?”
“I thought they’d never stop. I never saw so many tigers.”
“There were only six,” Sybil said.
“Only six!” said the young man. “Do you call that only?”
“Do you like wax?” Sybil asked.
“Do I like what?” asked the young man.
“Wax.”
“Very much. Don’t you?”
Sybil nodded. “Do you like olives?” she asked.
“Olives - yes. Olives and wax. I never go anyplace without ‘em.”
“Do you like Sharon Lipschutz?” Sybil asked.
“Yes. Yes, I do,” said the young man. “What I like particularly about her is that she never does anything mean to little dogs in the lobby of the hotel. That little toy bull that belongs to that lady from Canada, for instance. You probably won’t believe this, but some little girls like to poke that little dog with balloon sticks. Sharon doesn’t. She’s never mean or unkind. That’s why I like her so much.”
Sybil was silent.
“I like to chew candles,” she said finally.
“Who doesn’t?” said the young man, getting his feet wet. “Wow! It’s cold.” He dropped the rubber float on its back. “No, wait just a second, Sybil. Wait’ll we get out a little bit.”
They waded out till the water was up to Sybil’s waist. Then the young man picked her up and laid her down on her stomach on the float.
“Don’t you ever wear a bathing cap or anything?” he asked.
“Don’t let go,” Sybil ordered. “You hold me, now.”
“Miss Carpenter. Please. I know my business,” the young man said. “You just keep your eyes open for any bananafish. This is a perfect day for bananafish.”
I don’t see any,“ Sybil said.
"That’s understandable. Their habits are very peculiar. Very peculiar.” He kept pushing the float. The water was not quite up to his chest.
“They lead a very tragic life,” he said. “You know what they do, Sybil?”
She shook her head.
“Well, they swim into a hole where there’s a lot of bananas. They’re very ordinary-looking fish when they swim in. But once they get in, they behave like pigs. Why, I’ve known some bananafish to swim into a banana hole and eat as many as seventy-eight bananas.” He edged the float and its passenger a foot closer to the horizon. “Naturally, after that they’re so fat they can’t get out of the hole again. Can’t fit through the door.”
“Not too far out,” Sybil said, “What happens to them?”
“What happens to who?”
“The bananafish.”
“Oh, you mean after they eat so many bananas they can’t get out of the banana hole?”
“Yes,” said Sybil.
“Well, I hate to tell you, Sybil. They die.”
“Why?” asked Sybil.
“Well, they get banana fever. It’s a terrible disease.”
“Here comes a wave,” Sybil said nervously.
“We’ll ignore it. Well snub it,” said the young man. “Two snobs.” He took Sybil’s ankles in his hands and pressed down and forward. The float nosed over the top of the wave. The water soaked Sybil’s blond hair, but her scream was full of pleasure.
With her hand, when the float was level again, she wiped away a flat, wet band of hair from her eyes, and reported, “I just saw one.”
“Saw what, my love?”
“A bananafish.”
“My God, no!” said the young man. “Did he have any bananas in his mouth?”
“Yes,” said Sybil. “Six.”
The young man suddenly picked up one of Sybil’s wet feet, which were drooping over the end of the float, and kissed the arch.
“Hey!” said the owner of the foot, turning around.
‘Hey, yourself! We’re going in now. You had enough?“
"No!”
“Sorry,” he said, and pushed the float toward the shore until Sybil got off it. He carried it the rest of the way.
“Goodbye,” said Sybil, and ran without regret in the direction of the hotel.
The young man put on his robe, closed the lapels tight, and jammed his towel into his pocket. He picked up the slimy, wet, cumbersome float and put it under his arm. He plodded alone through the soft, hot sand toward the hotel.
On the sub-main floor of the hotel, which the management directed bathers to use, a woman with zinc salve on her nose got into the elevator with the young man.
“I see you are looking at my feet,” he said to her when the car was in motion.
“I beg your pardon?” said the woman.
“I said I see you’re looking at my feet.”
“I beg your pardon. I happened to be looking at the floor,” said the woman, and faced the doors of the car.
“If you want to look at my feet, say so,” said the young man. “But don’t be a God-damned sneak about it.”
“Let me out here, please,” the woman said quickly to the girl operating the car.
The car doors opened and the woman got out without looking back.
“I have two normal feet and I can’t see the slightest God-damned reason why anybody should stare at them,” said the young man. “Five, please.” He took his room key out of his robe pocket.
He got off at the fifth floor, walked down the hall, and let himself into 507. The room smelled of new calfskin luggage and nail-lacquer remover.
He glanced at the girl lying asleep on one of the twin beds. Then he went over to one of the pieces of luggage, opened it, and from under a pile of shorts and undershirts he took out an Ortgies caliber 7.65 automatic. He released the magazine, looked at it, then reinserted it. He cocked the piece. Then he went over and sat down on the unoccupied twin bed, looked at the girl, aimed the pistol, and fired a bullet through his right temple.
2 notes · View notes