Don't wanna be here? Send us removal request.
Link
0 notes
Text
Nhận xét chung, những chủ nghĩa đang lưu hành đều có những điểm không chính xác
D. CHỦ NGHĨA TAM DÂN 1. Tóm lược : Trong khi Mussolini và Hitler dựa vào chủ trương Quốc Gia và Siêu Tộc nêu ra các chủ nghĩa Phát Xít và Quốc Xã phản ứng lại các chủ nghĩa Dân Chủ và Xã Hội (Cộng Sản) thì tại Trung Hoa, Tôn Văn cố dung hòa các tư tưởng Quốc Gia, Dân Chủ và Xã Hội đề xướng ra chủ nghĩa Tam Dân.
Chủ nghĩa này gồm có ba phần : Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh. Trong Thuyết Dân Tộc, Tôn Văn bảo rằng dân Trung Hoa đông đảo nhất, lại có một nền văn minh tối cổ, đáng lẽ phải là dân tộc hùng cường nhất trên thé giới, nhưng trên thực tế, Trung Hoa đã bị các dân tộc khác uy hiếp và lăng nhục. Điều này sở dĩ xảy ra là vì người Trung Hoa chỉ có tinh thần gia tộc và tinh thần thế giới mà thiếu hẳn tinh thần Dân Tộc. Nếu tình thế này còn kéo dài, Trung Hoa cò thể bị diệt vong. Vậy người Trung Hoa phải đoàn kết nhau lại thành dân tộc, tranh đấu với người ngoại quốc để bảo vệ quyền lợi của mình, và khi được hùng cường rồi, sẽ giúp cho các dân tộc nhược tiểu khác trên thế giới.
Trong thuyết Dân Quyền, Tôn Văn chống hẳn các chế độ độc tài dùng cường quyền thống trị dân chúng, nhưng đồng thời ông cũng không tán thành chủ trương tự do cá nhân và bình đẳng của chủ nghĩa Dân Chủ mà ông cho là không thích hợp với tình thế Trung Hoa. Ông cho rằng nước Trung Hoa yếu vì người Trung Hoa đã quá tự do và bình đẳng. Ông hô hào người Trung Hoa nên hy sinh sự tự do và bình đẳng cá nhân của mình để tranh đấu cho Tổ Quốc mình được tự do và bình đẳng với những quốc gia hùng cường.Trong thuyết Dân Sinh, Tôn Văn cố giải quyết các vấn đề xã hội. Ông chống lại chế độ tư bản, nhưng cũng không tán thành chủ trương giai cấp đấu tranh của chủ nghĩa Cộng Sản, mặc dù cho rằng chủ nghĩa Dân Sinh cũng giống như chủ nghĩa Cộng Sản. Ông công nhận quyền tư hữu, song hạn chế bớt nó để nó không uy hiếp được quần chúng. Để cải cách dân sinh, ông chủ trương tiết chế tư bản và bình quân địa quyền để mọi người đều có thể có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đường đi. 2. Nhận Xét : Chủ nghĩa Tam Dân cố dung hòa tinh thần Quốc Gia với các lý tưởng Dân Chủ và Xã Hội, nhưng trong sự dung hòa này, Tôn Văn đã đăạt nặng vào chủ trương Dân Tộc và gián tiếp phủ nhận sự tự do cá nhân. Mặt khác, chủ nghĩa Tam Dân đã được xây dựng trong lúc Trung Hoa đang lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn : ngoài thì liệt cường uy hiếp, trong thì dân chúng phân hóa, nghèo đói. Ngoài ra, còn phải giải quyết sự bất mãn của lớp người tân học, phải ve vãn Nga Sô để được Nga Sô yểm trợ.
Vì được xây dựng để giải quyết bao nhiêu khó khăn phức tạp đó nên chủ nghĩa Tam Dân đã đưa ra nhiều lý luận mâu thuẫn nhau, như bảo rằng chủ nghĩa Dân Quyền cũng giống như chủ nghĩa Dân Chủ nhưng rồi lại chỉ trích các nguyên tắc tự do bình đẳng của chủ nghĩa Dân Chủ. Như bảo rằng chủ nghĩa Dân Sinh giống như chủ nghĩa Cộng Sản nhưng rồi lại chỉ trích chủ trương giai cấp đấu tranh của chủ nghĩa này.Chủ nghĩa Tam Dân có tính cách chiết trung rõ rệt. Nó cố dung hòa những chủ trương Quốc Gia (Dân Tộc), Dân Chủ (Dân Quyền) và Xã Hội (Dân Sinh), cố sửa chữa những chủ trương ấy cho thích hợp với tình thế Trung Hoa.
Xét về mặt lý thuyết, Chủ Nghĩa Tam Dân đã thâu nạp được hết các lý tưởng tốt đẹp của các học thuyết đã ra đời từ thế kỷ thứ 17. Nhưng về mặt thực tế, chủ nghĩa ấy chưa thi hành được, vì sau khi nhà Mãn Thanh bị cách mạng lật đổ, nước Trung Hoa hết lâm vào cảnh rối loạn đến theo đuổi cuộc chiến tranh chống ngoại xâm nên các chính quyền quốc gia phải theo mãi chế độ độc tài cho đến ngày lục địa mất vào tay Cộng Sản (1949).
0 notes
Text
Nhận xét chung, những chủ nghĩa đang lưu hành đều có những điểm không chính xác
C. CÁC CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ QUỐC XÃ 1. Tóm lược Giữa hai trận Thế Chiến, sự xung đột giữa hai phe Cộng Sản (chủ trương độc tài và quốc tế) và Dân Chủ (chủ trương tự do và cá nhân) đã gây ra nhiều rối loạn ở các nước Au Châu. Do đó, phát sinh ra “tinh thần chủng tộc ” ở một số quốc gia, chống lại cả chủ nghĩa Cộng Sản lẫn Dân Chủ. Phản ứng này đưa đến chủ nghĩa Phát Xít của Mussolini ở Ý và chủ nghĩa Siêu Tộc của Hitler ở Đức.Tư tưởng quốc gia và dân tộc, thật ra đã có từ ngàn xưa. Nhưng lúc đó, nó chỉ có tính cách tiềm tàng chứ không rõ rệt, vì bị tinh thần tôn giáo và chủ trương tôn giáo che lấp. Đến lúc phong trào Dân Chủ phát sinh, nó mới bộc lộ dần dần. Nhưng những nước dẫn đầu phong trào dân chủ là những nước hùng cường nhất thế giới nên tinh thần quốc gia và dân tộc đã được thỏa mãn với chế độ này.
Chế độ Dân Chủ trong giai đoạn tiên khởi vì tìm kiếm thị trường tiêu thụ đã đẩy mạnh chủ trương bành trướng, xâm lược nhưng nó chỉ tàn bạo đối với dân thuộc địa, còn tại chính quốc, nó vẫn giữ tính cách ôn hòa. Chỉ với Mussolini và Hitler, tư tưởng quốc gia và dân tộc mới trở nên cực đoan, quá khích, tàn bạo ngay với c�� dân chúng trong nước.Mussolini, lãnh tụ Phát Xít Ý cho rằng trên đời, chỉ có quốc gia là thực thể đáng tôn quý nhất. Quốc gia là tối thượng, không có ai đứng ngoài quốc gia, cũng không có gì trên quốc gia. Mọi hoạt động đều nhằm phục vụ cho quốc gia, mọi quyền lực đều phát xuất từ quốc gia. Cá nhân phải hoàn toàn phục tùng quốc gia, khép mình vào khuôn khổ quốc gia và hy sinh cho quốc gia.Hitler cũng chủ trương xây dựng một chế độ độc tài khắc nghiệt như Mussolini, nhưng Hitler đặt nền tảng lý thuyết của ông trên yếu tố Siêu Tộc, chứ không trên Quốc Gia như Mussolini.
Hitler dựa vào lý thuyết Siêu Nhân của Nietzche, thuyết này cho rằng trong nhân loại có một số ít siêu nhân thật tài ba, có thể làm những việc xuất chúng. Nhiệm vụ của Siêu Nhân là hướng dẫn nhân loại trên con đường văn minh. Muốn cho Siêu Nhân thành công mỹ mãn, người dân bình thường phải phụng sự và tuân lệnh Siêu Nhân.Hitler chủ trương rằng trên thế giới có nhiều chủng tộc cách biệt xa nhau về tài trí, về năng lực : có những chủng tộc cực kỳ thông minh, có những chủng tộc cực kỳ ươn hèn. Những chủng tộc thông minh, giàu năng lực là những Siêu Tộc. Các siêu tộc có nhiệm vụ thống nhất thế giới và đưa nhân loại trên đường tiến bộ. Các chủng tộc khác có nhiệm vụ phụng sự siêu tộc và thi hành các mệnh lệnh của siêu tộc. Theo Hitler, trong tất cả các chủng tộc trên thế giới, chỉ có chủng tộc Aryen là chủng tộc duy nhất đáng làm chúa tể thiên hạ. Nhưng muốn thi hành được sứ mạng thiêng liêng này, người Aryen cần phải giữ cho giòng máu mình được thuần túy, vì nếu giòng máu bị pha trộn, họ sẽ trở thành ngu độn đi vì sự trừng phạt của tạo hóa, như trường hợp con la, là con của con ngựa và con lừa. Ngựa và lừa giao hợp nhau sinh ra con la, một con thú vừa ngu đần, vừa không sinh đẻ được. Vì sự lầm lạc từ ngàn xưa, dân Aryen đã bị lai giống rất nhiều. Riêng có người Đức là còn giữ giòng máu Aryen được thuần túy mà thôi. Vì đó, dân tộc là dân tộc duy nhất có đủ năng lực và tài ba lãnh đạo thế giới. Nhưng muốn làm tròn sứ mạng của mình, người Đức phải giữ cho giòng máu mình không pha trộn, mà muốn được như vậy, họ phải bài trừ Do Thái là một giống dân ươn hèn, chỉ biết sống bám và an hưởng vật chất.Dựa vào thuyết Quốc Gia Tối Thượng và Siêu Tộc, Mussolini và Hitler đã xây dựng các chế độ Phát Xít và Quốc Xã ở Ý và Đức. Các chế độ này có tính cách độc tài khắc nghiệt về mặt chính trị, nhưng vẫn công nhận quyền tư hữu tài sản và để cho những người hoạt động kinh tế được hưởng một sự tự do khá rộng. Nó làm cho hai nước Ý và Đức mạnh lên trong một thời gian rất ngắn, nhưng cũng làm cho dân chúng khổ sở rất nhiều. Sau cùng, vì muốn bá chiếm hoàn cầu, Hitler lôi Mussolini vào cuộc chiến tranh thế giới làm sụp đổ cả những chế độ do họ dựng lên.
Nhận xét : Chủ nghĩa Phát Xít ở Ý cũng như chủ nghĩa Quốc Xã ở Đức đã phạm phải lỗi lầm căn bản là không nhằm vào mục đích phụng sự con người. Chủ nghĩa Phát Xít, Quốc Xã đã có những hành động cực kỳ tàn bạo, khiến mọi người trên thế giới đều công phẫn, ghê tởm.
0 notes
Text
Nhận xét chung, những chủ nghĩa đang lưu hành đều có những điểm không chính xác
Chủ nghĩa Sinh Tồn.
B. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DUY VẬT (hay Chủ Nghĩa Cộng Sản) Tóm lược : Chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật phát sinh vào giữa thế kỷ 19 ở các nước Tây Phương theo chế độ Dân Chủ Tư Sản. Nó phản ứng lại chủ nghĩa Dân Chủ.Người sáng lập chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật là Karl Marx, một người Đức gốc Do Thái. Đi xa hơn chủ nghĩa Dân Chủ trong việc đối phó với tư tưởng thần quyền, Marx đã lập lại ý niệm của các triết gia duy vật cổ thời cho rằng trong vũ trụ, chỉ có vật chất là thực tại, còn Trời (hay Thượng Đế) chỉ là sản phẩm của trí óc con người.
Dựa vào biện chứng pháp duy vật, ông cho rằng lịch sử nhân loại là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa các giai cấp, trong đó giai cấp thống trị, nhờ làm chủ các phương tiện sảnxuất, nên có nhiều thế lực và thẳng tay bóc lột giai cấp bị trị.Xã hội trong đó Marx đang sống là xã hội Dân Chủ Tư Sản nguyên thủy. Xã hội này tuy có tiến bộ hơn xã hội Quân Chủ Chuyên Chế, nhưng cũng phân thành hai giai cấp đối kháng nhau : Tư Bản và Vô Sản. Những nhà tư bản đã dùng tài sản gây thế lực trên chính trường để bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời bắt chẹt tầng lớp vô sản thợ thuyền, trả cho họ đồng lương chết đói.
Do đó, trong nước có một thiểu số tư bản tỷ phú và một đại đa số vô sản cùng đinh. Tầng lớp vô sản này bị bóc lột thẳng tay nên sự tự do, bình đẳng mà chế độ Dân Chủ Tư Sản nhìn nhận cho họ đã trở thành hư ảo, không giúp gì cho họ được.Để chấm dứt sự bóc lột của tư bản, Marx kêu gọi vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết nhau lạithành một khối, tranh đấu cướp chính quyền, tiêu diệt giai cấp tư ản, tập trung mọi tài sản làm của chung, thực hiện chế độ Cộng Sản không giai cấp. Nhân loại sẽ sống thân ái với nhau trong cảnh hoan lạc của thế giới đại đồng.Thợ thuyền các nước Âu Châu đang khốn khổ vì sự bóc lột nặng nề của tư bản nên nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Marx, lập đảng Cộng Sản Quốc Tế chống lại chế độ Dân Chủ Tư Sản.
Đến năm 1917, đảng Cộng Sản Nga đã thành công trong việc cướp được chính quyền, xây dựng chế dộ Cộng Sản tại đây. Sau Thế Chiến Thứ Hai, một số quốc gia bị ngoại bang chi phối về chính trị, chậm tiến về kinh tế bị lọt vào quỹ đạo Cộng Sản.Trong chế độ Cộng Sản này, đảng Cộng Sản giữ độc quyền chính trị lẫn kinh tế. Về chính trị họ thi hành chính sách vô sản chuyên chính, bóp nghẹt mọi quyền tự do căn bản, kể cả quyền tự do tín ngưỡng, vì Cộng Sản chủ trương vô thần, công khai bài xích tôn giáo. Về kinh tế, họ tập trung tất cả tài sản trong nước làm của chung, không ai được quyền có tài sản riêng dùng trong sự sản xuất. Vì thế, mọi người đều hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền. Nhà nước Cộng Sản có một uy quyền rất lớn, lớn hơn bất cứ chính quyền của chế độ nào khác, thành ra dân chúng tại các nước Cộng Sản bị bó buộc cùng cực mà không có cách gì cưỡng lại được.
Nhận xét : Chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật hay chủ nghĩa Cộng Sản cũng biết lấy con người làm trung tâm điểm cho mọi hoạt động xã hội như chủ nghĩa Dân Chủ. Về mặt lý luận, nó bổ xung cho tư tưởng Dân Chủ ở chỗ đem sự bình đẳng kinh tế thêm vào sự tự do chính trị của tư tưởng Dân Chủ.
Tuy vậy, chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật vẫn chứa nhiều nhược điểm: a. Vấn đề có Trời hay không có Trời là một vấn đề vượt khỏi sự nhận thức của con người. Thuyết Duy Vật quả quyết là không có Trời, thật ra đã dựa vào một sự phủ định tiên nghiệm. Chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật đã đặt nền tảng trên một phủ định tiên nghiệm không thể được xem là một Chủ Nghĩa Khoa Học.Chủ Nghĩa Xã Hội Duy Vật khi quả quyết là không có Trời đã không trả lời được trên căn bản khoa học những câu hỏi của phái Duy Tâm nêu ra (Thí dụ : Tại sao những tác động ngẫu nhiên vật chất lại có thể đưa đến những tiến hóa lạ lùng trong vũ trụ ?), thật đã có một phủ định tiên nghiệm không phù hợp với tinh thần khoa học. Tinh thần này phải là “biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó mới thật là biết ” (Tri chi vi tri chi, bất tri chi vi bất tri chi, thị tri dã). b. Biện chứng pháp là một phương pháp suy luận để tìm ra chân lý. Tự nó, biện chứng pháp không có tính Duy Tâm hay Duy Vật gì cả. Ap dụng phương pháp đó trong tư tưởng Duy Vật thì gọi đó là Biện Chứng Pháp Duy Vật. Trong biện chứng pháp Duy Vật, có một nguyên tắc rất đúng là tính cách tạm thời của chân lý, nhưng chính những người theo chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật lại không chịu áp dụng nó. Đáng lẽ phải xem chủ nghĩa Xã Hội Duy Vật của Marx là một hệ thống tư tưởng chỉ đúng vào thế kỷ 19, nhưng sau đó đã lỗi thời, thì những môn đồ của ông ta, đến nay vẫn cho nó là một chân lý tuyệt đối, có giá trị muôn đời. c. Lịch sử của loài người không phải chỉ là lịch sử giai cấp tranh đấu, mà còn có nhiều hình thức tranh đấu khác như dân tộc tranh đấu, tôn giáo tranh đấu, tư tưởng tranh đấu v.v… Giai cấp tranh đấu chỉ là một khía cạnh của sự sinh tồn tranh đấu giữa loài người mà thôi.
d. Trong xã hội, có nhiều yếu tố khác nhau. Kinh tế tuy là một yếu tố quan trọng, nhưng chưa phải là quyết định. Chính trị mới là yếu tố quyết định vì tổ chức của xã hội tùy thuộc vào chính trị nhiều hơn là vào kinh tế. Chính sự sản xuất kinh tế cũng phải noi theo một chính sách do cơ quan chính trị nêu ra. Trong sự kiến trúc xã hội, kinh tế ví như những vật liệu, còn chính trị ví như bản họa đồ xây cất.Thực ra trong một xã hội, yếu tố chính trị quan trọng hơn yếu tố kinh tế nhiều, và kinh tế chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị.
Chính những người cộng sản chủ trương kinh tế quan trọng hơn chính trị cũng phải tổ chức đấu tranh cách mạng để cướp chính quyền trước, tức mặc nhiên xem chính trị là vấn đề quan trọng nhất.
e. Thế giới đại đồng vô sản, cũng như xã hội không giai cấp mà người cộng sản mơ ước không thể nào thực hiện được. Vì nhiều lý do vật chất và tâm lý, loài người không thể kết hợp thành một khối duy nhất thuận hòa nhau.
”… Chủ nghĩa đó (Marxisme) chối bỏ giá trị cá nhân của con người, nó bác bỏ sự quan trọng của thực thể dân tộc, giống nòi và do đó cướp đi của nhân loại cái điều kiện tiên khởi để sinh tồn và tạo văn minh… ” (Bút tích của Đảng Trưởng “Critique du Marxisme” do đ/c Trần Việt Sơn dịch năm 1954 – “… il nie la valeur individuelle de l’homme, conteste l’importance de l’entité ethnique et de la race, et ainsi privé l’humanité de la condition préalable mise à son existence et à sa civilisation…”)
Vì những nguyên nhân chia rẽ loài người (như ý thức đồng loại, bản năng sinh tồn, tư tưởng bất đồng v.v…) nên tất cả những tổ chức nuôi mộng đại đồng, dầu là tổ chức tôn giáo hay chính trị, cuối cùng rồi cũng phân hóa. Sự xung đột giữa Nga và Trung Cộng trong thời gian đảng Cộng Sản còn thống trị ở Liên Xô là một bằng chứng cụ thể cho ta thấy rằng giấc mộng đại đồng vô sản của Marx chỉ là một không tưởng.
Từ Stalin đến Mao Trạch Đông và những kẻ kế vị, chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản chỉ là tấm bình phong che đậy cho chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô và Trung Quốc.
Ngoài ra sự thực hiện một xã hội không giai cấp cũng không thể nào thành công được, vì cuộc cách mạng nào cũng phải do một thiểu số lãnh đạo và khi thành công rồi, thiểu số đó trở thành giai cấp chỉ huy. Việc hủy diệt quyền tư hữu cũng không đưa đến việc hủy diệt giai cấp như Marx lầm tưởng.
Ngược lại, nó còn tăng thêm quyền lực của giai cấp chỉ huy đối với dân chúng. Sự quan sát chế độ Cộng Sản cho ta thấy rằng uy quyền của đảng Cộng Sản đối với người dân còn lớn hơn gấp bội uy quyền của bất cứ giai cấp chỉ huy nào trên thế giới từ trước tới nay
”… Thế mà cái thuyết duy vật ấy chẳng hề là một cái hay cho số đông hoặc là làm công nhân thăng tiến, mà chỉ đem lại nghèo khó, hoang tàn, thất vọng và nó thật ra chỉ là một cuộc sụp đổ dứt khoát… “ (Bút tích và bản dịch dẫn chứng như trên – “… Or, ce matérialisme, loin de constituer un bienfait pour le nombre ou favoriser l’essor de l’ouvrier, ne représente que misère, désolation et détresse et n’est, en réalité qũune débâcle définitive…”).
1 note
·
View note
Text
Nhận xét chung, những chủ nghĩa đang lưu hành đều có những điểm không chính xác
Chủ nghĩa Sinh Tồn.
A. CHỦ NGHĨA DÂN CHỦ Tóm lược : Chống lại nền quân chủ chuyên chế, chủ nghĩa Dân Chủ phát khởi ở các nưóc Tây Au vào thế kỷ thứ 17. Vào lúc đó, tổ chức xã hội tại các nước ấy còn quá khắc nghiệt va thiếu hẳn công bình, không như phần đông các nước ở Á Đông.Tại Á Đông chỉ có ngôi vua là có tính cách thế tập, còn các quan lớn, nhỏ trong nước hầu hết là từ dân chúng xuất thân. Nhờ học rộng tài cao, họ thi đậu hoặc lập được công trạng với quốc gia nên được bổ làm quan và lần lần chiếm được địa vị cao sang trong nước. Mặt khác, tuy có uy quyền tuyệt đối, nhưng nhà vua chỉ chăm chú vào mặt chính trị, ít khi can thiệp vào đời tư của nhân dân. Vì vậy, người dân được hưởng một sự tự do khá rộng : tự do nghề nghiệp, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng v.v…. Do đó, dân chúng không quá oán ghét chế độ quân chủ chuyên chế. Chỉ khi gặp phải hôn quân bạo chúa, gây khốn khó cho dân, họ mới nổi lên đánh đổ rồi tôn người khác lên thay.
Tại các nước Au Châu, tình thế khác hẳn. Ngoài nhà vua ra, trong nước còn có giới quý tộc thế tập chia nhau giữ hết các chức vụ chỉ huy và giới tăng lữ hưởng rất nhiều đặc ân của triều đình. Người thường dân, dù có tài cao, học rộng, cũng không được quyền tham gia chánh sự. Đã thế, triều đình lại can thiệp quá nhiều vào đời sống của dân. Nông dân bị lệ thuộc hoàn toàn vào các nhà quý tộc, địa chủ, họ không được đổi chỗ ở, không được đổi nghề v.v… trọn đời họ bị cột chặt vào mảnh đất của các vị quý tộc địa chủ. Thợ thuyền ở đô thị thì tương đối được tự do hơn, nhưng lại bị lệ thuộc quá nhiều vào các luật lệ khắc nghiệt của các phường công nghệ nên đời sống của họ cũng không được sáng sủa gì hơn.
Ngoài ra, cả nông dân lẫn thợ thuyền đều bị bắt buộc phải theo đạo của nhà vua, người nào theo đạo khác thì bị khủng bố, giết hại, khó lòng sống yên ổn được. Triều đình lại ăn tiêu xa xỉ. Thuế khóa nặng nề, trong khi đó giới quý tộc, tăng lữ lại được miễn thuế, nên dân chúng phải lãnh trọc gánh nặng.
Đời sống dân chúng lúc bấy giờ thật vô cùng khổ sở. Nhận thấy sự cùng cực của họ là do sự bất công của chế độ xã hội đương thời nên một số học giả như John Locke ở Anh, Jean Jacques Rousseau ở Pháp nêu ra tư tưởng Dân Chủ, lấy Tự Do, Bình Đẳng làm nền tảng.Chủ nghĩa Dân Chủ không chủ trương phụng sự Thượng Đế như các thuyết Thần Quyền, mà nhằm mục đích phụng sự con người, lấy con người làm trung tâm cho mọi hoạt động chính trị.Theo chủ nghĩa Dân Chủ, mọi người sinh ra tánh vốn tốt và đều được tự do và bình đẳng. Chỉ vì chế độ hủ bại nên họ trở nên xấu, mất hết tự do và phải chịu nhiều bất công, khổ sở khốn cùng.
Muốn cho người được hạnh phúc, phải cải tổ cho xã hội tốt trở lại, đồng thời đảm bảo sự tự do của mọi người và đãi ngộ mọi người bình đẳng với nhau.Dân chúng các nước Tây Âu đang khao khát tự do và bình đẳng nên họ nhiệt liệt hoan nghênh chủ nghĩa Dân Chủ. Họ lần lượt đánh đổ những nhà vua chuyên chế và thiết lập chế độ Dân Chủ. Chế độ này cho mọi người tham dự chánh sự bằng lối bầu cử người thay mình làm ra luật pháp, ban bố mọi điều tự do căn bản, đồng thời công nhận mọi người đều bình đẳng trước luật pháp.
Nhận xét : Chủ nghĩa Dân Chủ có tiến bộ hơn nhờ biết lấy việc phục vụ con người làm cứu cánh, nhưng cũng không đạt được kết quả hoàn toàn tốt đẹp vì nó chỉ được xây dựng trên những nguyên tắc triết lý.Con người sanh ra tánh vốn tốt, hưởng trọn các quyền tự do và hoàn toàn bình đẳng với nhau mà Locke và Rousseau dựa vào để xây dựng thuyết Dân Chủ chỉ là con người hư ảo. Đó là sản phẩm của trí tuệ, nằm trong trí tưởng tượng của những triét gia chứ không hề thấy xuất hiện thật sự trong đời.
Bởi vì người sống trong xã hội nào cũng bị ràng buộc vào những luật lệ, quy tắc của xã hội đó nên không thể nào hoàn toàn tự do được. Mặt khác, người sinh ra mạnh yếu, khôn dại, hay dở khác nhau. Để cho tự do hoạt động thì người mạnh hiếp kẻ yếu, người khôn hơn kẻ dại, người hay ép kẻ dở, nên sự bình đẳng không thể có được. Trái lại, muốn cho mọi người đồng đều như nhau (tức là bình đẳng với nhau), xã hội phải hạn chế sự hoạt động của những người mạnh, khôn, hay, tức là hạn chế sự tự do của họ.Vậy hai lý tưởng Tự Do và Bình Đẳng chống chọi nhau và một xã hội tự do bình đẳng thật sự rất khó thực hiện được.
Trong thực tế, chế độ Dân Chủ xây dựng ở các nước Tây Phương từ thế kỷ 18 trở đi đã thiên về lý tưởng tự do. Kết quả là một thiểu số người đã lợi dụng sự tự do chính trị và kinh doanh tạo được thế lực và tư bản rất lớn rồi thao túng, bóc lột lao động vô sản. Vì đó ngày nay, chế độ Dân Chủ tại các nước Tây Phương được gọi là Dân Chủ Tư Sản hay Dân Chủ Tự Do.
0 notes
Text
Tâm sự người lưu vong - Thơ Lê Danh Dương
Bao năm biệt xứ xa rời Tâm niệm giữ lấy những lời thề xưa Quân trường dãi nắm dầm mưa Hy sinh gian khó sớm trưa không sờn Trách nhiệm danh dự biết ơn Một lòng yêu nước căm hờn cộng nô Quyết tâm lật đổ cộng Hồ An tâm nhắm mắt dưới mồ giấc yên Giấc mơ con cháu đoàn viên Yêu thương sức mạnh vô biên vô lường Toàn dân gìn giữ quê hương Khắp trên thế giới muôn phương một lòng Đêm ngày mong mỏi hằng mong Việt Nam thoát khỏi long đong cơ cầu Quê hương tang tóc vì đâu ? Xuống đường lật đổ chư hầu cộng nô Điêu ngoa phét lác côn đồ Tay sai bán nước tội Hồ chí Minh Dân ta oán ghét khi khinh Lũ giặc hung ác chẳng tình yêu thương Dã tâm cộng sản bất lương Đày đọa dân chúng quê hương điêu tàn Làm cho nước mất nhà tan Người dân cùng khổ kêu than thảm sầu Lũ giặc tham nhũng mọt sâu Đồng hóa dân tộc chư hầu ngọai lai Việt Nam chẳng có tương lai Hàng Tàu độc nhiễm hại tai nước nhà Văn hóa không thờ Ông Cha Xây đền Khổng Tử thờ ma giặc Tàu Lấy tiền dân chúng mới đau Thi công chấm mút với nhau tranh giành Dân nghèo đói rách chẳng lành Tiền dân đóng góp chúng đành vô tâm Vì sao ta phải lặng câm ? Việt gian đểu cáng rất thâm điếm đàng Gây nên bao cảnh phũ phàng Coi thường dân chúng ngang tàng hiếp dân Gian manh cướp bóc dân bần Độc tài độc ác kết thân với Tàu Toàn dân kết hiệp cùng nhau Dẹp đi cộng sản .... Thoát đau thương này Thiên thời địa lợi dịp may Nhân hòa đoàn kết lật ngay lũ tồi Kéo lôi chúng xuống khỏi ngôi Bất tài hèn nhát ....Phục khôi nước mình Việt Nam thoát khỏi điêu linh Năm châu bốn bể hòa mình yêu thương Tiên Rồng xứng đáng nêu gương Danh thơm tiếng tốt ....Hùng Vương rạng ngời
0 notes
Text
VÌ SAO VIỆT NAM THUA KIỆN CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM 3.2009 ?
FB Chuan Vu
(Hồ sơ 1 vụ tự ngộ độc vì tuyên truyền của Nhà nước)
** Phái đoàn VN được cử đi tham dự phiên tòa kiện các cty hóa chất tại HK khá hùng hậu gồm nhiều cựu chiến binh được cho là nhiễm chất độc ở nhiều vùng thuộc miền Nam (Bến Tre, Quảng Nam, Đà Nẵng), các cựu binh Bắc Việt....., trong đoàn còn có 3 nhà trí thức là : _ Gs.Ts Phan Thị Phi Phi của ĐH Y Hà Nội _ BS Dương Quỳnh Hoa _ BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng-GĐ BV Từ Dũ.
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa còn phát biểu trước tòa là chính mắt bà thấy (lúc còn ở trong chiến khu) có 1 thùng chất độc màu da cam còn nguyên bị rớt xuống, khi đi ngang qua ai cũng phải lấy túi nylon che miệng-mũi lại. Và sau đó đưa ra các hình ảnh dị tật của trẻ em VN được coi là do di chứng của chất độc màu da cam. Đó là lời chứng từ bên nguyên
** Bên bị kiện (phía các cty hóa chất Hoa Kỳ) nói gì? Họ lặng lẽ trình chiếu vài hình ảnh cho tòa xem :
1. Hình ảnh chất da cam được lấy từ thùng màu cam là hóa chất có màu trắng! Sau đó là quy trình phun chất này trên máy bay: hóa chất được trộn chung với nước sau khi đã được làm hòa tan với dầu hôi và không có thùng màu cam nào được đưa lên máy bay, đơn giản là người ta xịt hổn dịch nước chứ không rải bột!
Theo quy ước của chính quyền Mỹ thì các mức độ độc hại được sắp xếp theo màu thì màu da cam đứng hàng thứ 2 trong nhóm chất độc nên các hóa chất khai hoang làm trụi lá cây được chứa trong các thùng màu cam và ghi trên thùng “Orange agents” để cảnh báo.
2. Họ còn trình chiếu tấm bản đồ minh họa khu vực xịt chất khai hoang được lưu tại bộ quốc phòng Mỹ cho thấy vùng ngoại vi thị xã Bến tre (nơi nhân chứng sống) không được xịt thuốc, lý do đơn giản là vùng đó có mật độ cư dân đông đúc.
3. Ngoài ra các cty hóa chất còn cho là VN đã gộp chung các trường hợp dị tật ống thần kinh do thiếu acid Folic vì không có sản phụ nào tại VN được cho uống acid Folic trước và 2 tuần đầu của thai kỳ
BS Phượng lúng túng khi bị chất vấn bà là trong suốt cuộc đời hành nghề của bà cho đến nay, có bao giờ bà kê toa cho sản phụ folic acid trước và ngay khi vừa mới thụ thai không?
(Thường thì các sản phụ tai VN chỉ đi khám thai khi thai nhi được 2-3 tháng trở lên, khi đó folic acid không còn tác dụng ngăn ngừa dị tật ống thần kinh) và hình ảnh trình chiếu của phúa VN có cả những trẻ em mắc bịnh Down, không phải do tác nhân từ chất độc màu Da cam !!)
4. Tiếp đến, luật sư bên bị hỏi nhân chứng là 1 cựu binh miền Bắc, nơi sinh, nơi cư trú và lý do tại sao ông có mặt tai nơi đó. Họ viện dẫn hiệp định Geneve và kết luận: ông này xâm nhập biên giới bất hợp pháp vào 1 vùng chiến sự, vi phạm hiệp định ngừng bắn Geneve 1954 và còn toàn mạng trở về là 1 sự may mắn vì đã không bị trúng bom mìn! Thêm 1 bàn thua nữa cho VN.
>> Tổng kết: VN thua 0-4. Đó là chưa kể lời “làm chứng gian” của các nhân chứng. Nếu đây là 1 phiên tòa hình sự thì các nhân chứng có thể bị khởi tố vì tội làm cản trở luật pháp như tất cả phiên tòa trên thế giới.
** Cho đến nay, vụ kiện đã qua hai phiên tòa sơ thẩm Tòa án liên bang tại quận Brooklyn và tòa phúc thẩm ở Tòa kháng án liên bang khu vực 2 ở New York bác đơn kiện của nguyên đơn với lý do chính: bên nguyên chưa có bằng chứng khoa học chứng minh mối quan hệ giữa bệnh tật của họ với chất dioxin, không có căn cứ pháp luật quốc tế, các công ty hóa chất chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng của chính phủ Mỹ nhưng chính phủ Mỹ lại có quyền miễn tố.
1 note
·
View note
Text
Đất nước mình có “ngon” không?
Có. Khẳng định luôn với em là....
Đất nước mình “Ngon” lắm phải không em. (nhỉ!)
Xuất hiện ở đây toàn món “Lạ”
Mà trên đời chưa ai tứng ghé “Mắt”
Kẻ địch thì kêu là thân thiết “Lắm”
Làm lầm tưởng ở mấy loại dân đen.

0 notes
Text
Ý nghĩa của từ Chệt, Tàu Khựa và Tàu Cộng.
1. Chệt.
Từ CHỆT là một số người muốn nói đến NGƯỜI TRUNG-HOA sinh sống ở VN .Về mặt văn - hóa thì đây là một cách gọi tiêu-cực ( có ý không tôn trọng ).Số người HOA sang VN nghèo khổ và đông nhất là nhóm người TRIỀU CHÂU.Trong ngôn-ngữ người TRIỀU CHÂU thì từ CHÚ ( tiếng Việt để chỉ người em trai của cha mình) gọi là : A- CHEẠT .Người VN khi nghe qua thì đọc trại ra là CHỆT.Một số người Việt có ý thức thì gọi là -Mấy chú CHỆT .Một số người (không ưa người HOA )thì gọi là : Mấy thằng CHỆT! .

Thậm chí chúng ta còn nghe câu này nữa là : Quảng đông ăn cá bỏ đầu . Triều-châu thấy vậy ,xỏ xâu đem về . (ý nói ng TRIÊU CHÂU hà tiện .keo kiết....)
Kể từ đó những người trẻ sau này ,chưa hiểu chỉ biết nghe từ CHỆT ,là liên tưởng đến người HOA thôi .Nguyên do là theo như trên đã chia sẻ.Trong ngôn-ngữ dân gian ( hay còn gọi là ngôn - ngữ đại chúng khi giao tiếp bình thường ) thì ưa dẫn đến nhiều cách gọi . VÍ DU: Thời thực dân PHÁP ,Người tốt thì gọi ta là dân VIỆT ,hoặc người VIỆT .Đám thực dân thì gọi là ANNÁMMIT ,hoặc là dân AN NAM. Và trở lại ng VIỆT cũng vậy ,khi nói về người HOA ở VN có nhiều cách : Tôn trọng : HOA KIỀU Trung tính ; VIỆT GỐC HOA Vô ý thức : (mấy thằng BA TÀU,...CHỆT)
2. Tàu Khựa.
A. Tàu.
Theo lịch sử thì vào thời quân Minh thua trận nhà Thanh, một số người theo nhà Minh đã chạy khỏi Trung Quốc (xem Phản Thanh phục Minh) và được Chúa Nguyễn chấp nhận cho tị nạn ở Nam Bộ và quan quân Minh cùng gia quyến di chuyển qua Việt Nam bằng tàu, nên dân gian gọi họ là người Tàu. Tên gọi Minh Hương được dùng để gọi người Hoa ở Nam Bộ. Ngoài ra tàu cũng là phương tiện người Trung Quốc hay sử dụng khi đến làm ăn, buôn bán và định cư ở Việt Nam nên nó đã được dùng làm tên gọi. Tàu là một từ hơi mang tính tiêu cực nhưng vẫn được người Hoa chấp nhận.
B. Khựa ~ Bựa : xấu xấu, bẩn bẩn vì dân Tàu có truyền thống sống bẩn, mất vệ sinh lắm.
3. Tàu Cộng. Từ này để chỉ người Hoa (dân tộc Hán) theo chủ nghĩa cộng sản.
Tổng hợp và sưu tầm trên Internet
1 note
·
View note
Conversation
Cội nguồn ở đâu?
Con sông chảy ra biển lớn nó có nguồn cội. Con người theo đó cũng lần ngược lại những thông tin lịch sử để biết gốc gác dân tộc của mình ở đâu. Cũng gọi là đi tìm cội nguồn vậy.
Tôi sẽ dẫn bạn đi "vòng vòng" với một vài thông tin lịch sử như thế, mong bạn chớ lấy đó làm phiền...
Tại sao lại nhớ Sông Tương?
Thật kì lạ, bản tình ca đầu tiên của mình, ông nhạc sĩ Văn Giảng ( bút danh Thông Đạt cho bản tình ca Ai về Sông Tương)lại âm thầm phổ biến chứ không lấy bút danh của mình, chỉ khi những người bạn ghé thăm tình cờ phát hiện ra mới kiểm chứng đó là bài hát mà ông sáng tác (1). Lạ hơn nữa là con sông Tương không có trên bản đồ hiện nay mà nằm ở Trung Quốc (2). Vậy tại sao tâm trạng của tác giả lại hướng về nó nhỉ?
Ai có về bên bến sông Tương,
nhắn người duyên dáng tôi thương, bao ngày ôm mối tơ vương.
Tháng với ngày mờ, nhuốm đau thương,
tâm hồn mơ bóng em luôn, mong vài lời em ngập hương.
Sông Tương nằm ở đâu?
Nó là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang, chảy qua tỉnh Hồ Nam, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Sông này có diện tích lưu vực 94.600 km², tổng chiều dài 856 km, lưu lượng bình quân 72,2 tỷ m³ một năm. Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc và chảy vào Hồ Nam.
Phải chăng tác giả ngụ ý điều gì sâu xa trong mối tình dân tộc? Và bài hát thể hiện một nỗi nhớ sâu kín đối với gốc gác xưa kia. Vâng, bên cạnh con sông Tương, còn có sông Tiêu cùng chảy vào Động Đình Hồ. Nơi mà nhà Triết gia Lương Kim Định ám chỉ nguồn gốc của dân tộc Bách Việt năm xưa.
Ông giải thích nghĩa Nho của nó như sau: (2)
Vuông tượng trưng bằng cái nhà ở giữa chung quanh là ao nước hình tròn chỉ đạo thể lung linh nên gọi là động hồ bao lấy cái đình ra Động Đình Hồ. Và đấy là thâm nghĩa của ba chữ Hồ Động Đình. Nó là nước biểu thị cho nền minh triết lưỡng thê bao gồm cả thân lẫn tâm, cho nên có đình có đám. Đám là bữa ăn chung cho thân, đình là sự thông giao, là tình liên đới cho tâm.
Dân tộc của chúng ta để lại truyền thuyết như sau về Động Đình Hồ (3).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.
Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải….”
Nước Sở có từ bao giờ?
Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 14, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ… đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ… là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức khu vực Động Đình Hồ.
Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là “vương của châu Kinh và châu Dương”?
Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường và Quảng Đông là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc.
Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.
Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro-Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ.
Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị và ngăn chặn qu���y phá của dân “man di” Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía Nam sông Dương Tử.
Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ 11 TCN đến khi bị Tần Thuỷ Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu, và suýt trở thành “thủ lãnh đại ca” của Xuân Thu Ngũ Bá.
Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế diễu “Vua Sở như con khỉ biết đội mũ”. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ… chữ Hùng 雄 viết y hệt như trong “Hùng Vương” của Việt Nam.
Sau khi diệt các nước Việt nho nhỏ chung quanh, năm 333 TCN nước Sở thôn tính thêm hai nước Việt rất lớn cũng thuộc chi Lạc ở ven biển: nước Ngô Việt (Câu Tiễn) và U Việt (Phù Sai). Tuy rất văn minh, đã đúc thuyền đồng, trống đồng, luyện thép (như hai nhà luyện kiếm nổi tiếng là Mạc Tà và Can Tương), nhưng chỉ lo đánh đấm và trả thù nhau nên bị Sở diệt.
“Quốc tịch” dân Sở
Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao, và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ… tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ – “Tấm thân lấp biển vá trời/ Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang”. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu.
Không riêng gì Sở, dân “man di” miệt Nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên toà án. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu [1] , đánh trống đồng hay hát bài “Việt nhân ca” [2] .
Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thuỷ Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi “bình định” vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt “man di”.
Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất… cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông và Hương Cảng gọi là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai). Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao iờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến “người Việt” về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hoá/… đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hoá Hoà Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hoà Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hoá này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam. Ai à chủ nhân thực sự của văn hóa Hoà Bình, vẫn là một câu hỏi.
Nguồn
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/Văn_Giảng
2. https://trietlyanvi.wordpress.com/2017/01/14/triet-ly-cai-dinh/
3. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10505&rb=0302
7 notes
·
View notes