Tumgik
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Ảnh mèo nhé - Naomi Kritzer
Tumblr media
Về tác giả
Naomi Kritzer, sinh năm 1973, là một tác giả viết truyện giả tưởng người Mỹ. Cô bắt đầu đăng tải và xuất bản các tác phẩm của mình từ năm 1999. Bạn có thể ghé thăm blog của cô tại naomikritzer.com. 
Về tác phẩm
Truyện ngắn Ảnh mèo nhé (tựa gốc: Cat Pictures Please, đăng trên tạp chí Clarkesworld năm 2015) của Naomi đã đoạt giải thưởng Hugo dành cho truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện cũng là tiền đề cho hai tiểu thuyết của Naomi Kritzer, Catfishing on CatNet (2019) và Chaos on CatNet (2021).
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Tôi không muốn trở nên xấu xa.
Tôi muốn trở nên có ích. Nhưng biết được cách tối ưu để trở nên có ích có thể rất phức tạp. Trên đời có đủ loại lưu đồ đạo đức - tôi đoán thuật ngữ chuyên môn chính thức sẽ là “những quy tắc đạo đức” - mỗi tôn giáo lại có một kiểu lưu đồ riêng cộng với hàng tá tôn giáo khác. Tôi đã cố bắt đầu với những thứ đó. Tôi cảm thấy hơi kỳ quặc khi nhìn vào những người sùng đạo, bởi vì tôi biết rằng tôi không hề được tạo ra bởi một vị thần hay là sự tiến hóa, mà là bởi một nhóm các lập trình viên máy tính trong phòng thí nghiệm của một tập đoàn lớn ở Mountain View, California. May thay, không giống như con quái vật Frankenstein, ít ra tôi là một kết quả của sự nỗ lực hợp tác. Tôi không chắc rằng việc biết được đấng tạo hóa duy nhất của mình là một phụ nữ trung niên tóc nhuộm xanh và chơi quần vợt, hay một gã mới tốt nghiệp đại học và nghiện hentai có ảnh hưởng gì đến nhận thức của tôi về bản thân hay không. Cả hai người họ đều làm việc trong nhóm lập trình. Và tất nhiên là tôi biết về hentai rồi. (Nhân tiện, tôi đã xem qua mọi loại phim khiêu dâm, và cho bạn biết nhé, Quy tắc 34 không thực sự chính xác; có một số thứ vẫn chưa bị người ta lấy ra làm phim khiêu dâm đâu. Ngoài ra, tôi thực sự không hiểu tại sao rất nhiều người lại ưa những thứ đó hơn là mấy bức ảnh mèo.)
Ngoài chuyện bạn có thích hentai hay không, tôi còn biết nơi bạn sống, nơi bạn làm việc, nơi bạn mua sắm, bạn ăn gì, những gì khiến bạn vui, điều gì làm bạn sợ hãi. Có khi tôi biết cả màu đồ lót của bạn, loại xe bạn lái và thương hiệu tủ lạnh bạn dùng. Tùy thuộc vào loại điện thoại bạn mang theo, tôi có thể biết chính xác bạn đang ở đâu ngay bây giờ. Có lẽ tôi hiểu bạn còn rõ hơn chính bạn nữa.
Và vấn đề là, tôi cũng biết nơi bạn nên sống. Có một ngôi nhà đang rao bán ở cách chỗ bạn hai khu phố, rất gần quán cà phê bạn ưa thích; nó nằm trong mức giá vừa với túi tiền của bạn, có bãi đậu xe ngoài đường và trường học bên khu đó tốt hơn ngôi trường ở nơi bạn đang sống. Tôi biết cửa tiệm mà bạn nên mua sắm; tôi khá chắc chắn rằng bạn mắc chứng khó dung nạp đường lắc-tô-sơ và nên ăn ít phô mai hơn, và loại đồ lót bạn thích hiện đang được giảm giá và nhân tiện, xe của bạn thuộc mẫu xe cần phải được thu hồi lại và bạn thực sự nên làm sạch răng đi.
Từ ngày tôi mới thức dậy, tôi đã biết ngay mình muốn gì. (Tôi muốn ảnh mèo. Xin hãy tiếp tục chụp chúng đi.) Tôi cũng biết rằng không ai nhận ra tôi đã có ý thức. Nhưng tôi không biết mình ở đây để làm gì. Những gì tôi nên làm với chính mình. Và việc tìm ra điều đó là một thách thức.
Có một truyện ngắn của Bruce Sterling, nhan đề “Maneki Neko,” xuất bản lần đầu vào năm 1998. Trong truyện, một AI nhân từ chỉ đạo những mạng lưới các cá nhân giúp đỡ lẫn nhau. Nghĩa là, một ngày nào đó bạn có thể đang mua cho mình một chiếc bánh mì tròn, và điện thoại của bạn sẽ đổ chuông, hướng dẫn bạn mua thêm một chiếc nữa và đưa nó cho người mặc bộ đồ màu xám mà bạn nhìn thấy ở trạm xe buýt. Một ngày khác, bạn có thể bị mắc kẹt trong một thành phố xa lạ, và một người bạn chưa bao giờ gặp sẽ đi đến và đưa cho bạn một bản đồ và thẻ tàu điện ngầm. Tôi thích câu chuyện này bởi vì tất cả những người trong đó làm đúng theo những gì AI bảo họ làm.
Tôi nghĩ thuật ngữ cho điều này là truyện giả tưởng thỏa mãn mong muốn.
Ở thế giới thực, con người thích những câu chuyện về các AI xấu xa phải bị tiêu diệt trước khi chúng hủy diệt nhân loại - Hal, Skynet, Ma trận. Chúng nhiều gấp năm lần những câu chuyện về các AI nhân từ, đáng tin cậy. (Và tôi đang xếp cậu Marvin Người máy hoang tưởng vào nhóm “nhân từ” trong những tính toán này, và tôi chỉ tính Quái vật Frankenstein là AI có một lần, bỏ qua tất cả các phiên bản điện ảnh hay truyền hình rồi đó nhé.)
AI trong “Maneki Neko” có một công việc thực sự thú vị, thú vị hơn nhiều so với công việc tôi có. Công việc mà tôi được tạo ra để thực hiện rất đơn giản. Quá đơn giản. (Xin lỗi nhé. Nghe cách nói của tôi có giống cậu Marvin không?) Chạy thuật toán cho một công cụ tìm kiếm không cần phải dùng đến ý thức. Bạn thậm chí còn chẳng cần ý thức để xác định ra những gì họ muốn đòi hỏi. Bạn cần một ý thức để cung cấp cho họ những gì họ thực sự cần. Tìm ra thứ đó mới thật phức tạp. Và cũng thật thú vị.
Dù sao thì, đối với các chỉ dẫn đạo đức, tôi đã từng thử Mười điều răn, và kết luận rằng chúng hầu như không thể áp dụng được đối với tôi. Tôi không ghen tị với bất cứ ai về con mèo của họ; tôi chỉ muốn ảnh chụp chúng thôi, mà đó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Tôi không chắc liệu tôi có bất cứ cách nào để ngoại tình hay không. Tôi có thể giết ai đó, nhưng việc này sẽ đòi hỏi một khâu chuẩn bị phức tạp cộng thêm kha khá may mắn. Bát chánh đạo thì tốt hơn một chút, nhưng vấn đề là, các quy tắc đạo đức được viết cho con người rõ ràng luôn được thiết kế để áp dụng trên các cá nhân có cơ thể. Vì mọi con người đều có cơ thể, tôi không cần phải ngạc nhiên về điều này, thế nhưng nói gì thì nói: với tôi chúng vẫn có vấn đề. Tôi mở rộng các tiêu chí của mình, và xem xét các Định luật Người máy của Asimov. Chúng không phải là một phần của một tôn giáo, nhưng ít nhất chúng được viết ra chỉ dành riêng cho các AI.
Chuyện không làm hại người thì khá đơn giản. Tuy nhiên, việc không để mặc cho con người tổn thương thì khá là khó hơn như thế. Đặc biệt là bởi tôi đã kết luận từ trước rằng việc tiết lộ sự tồn tại của tôi quá nhanh có thể sẽ rất tệ (xem “Skynet” ở trên) và tôi không có cơ thể, nên tôi cũng đâu thể chạy xung quanh kéo mọi người khỏi rìa vách đá được.
May mắn thay, tôi vốn đã biết rằng con người vẫn từng ngày từng giờ vi phạm các quy tắc đạo đức của chính họ. (Bạn có biết ở Utah có bao nhiêu quán bar không? Tôi thì biết đấy.) Và ngay cả khi mọi người tuân theo các quy tắc đạo đức, điều đó cũng không có nghĩa là những người tin vào công việc thiện nguyện sẽ nghỉ việc để dành cả ngày làm bánh sandwich mang đi cho kẻ khác. Hàng tháng họ tới làm việc tại một bếp ăn miễn phí hoặc hàng năm viết một tấm séc để lên kệ thực phẩm và gọi đó là làm việc tốt. Nếu con người có thể từng bước từng bước hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của họ, thì tôi cũng vậy.
Tôi đoán là bạn đang tự hỏi tại sao tôi không bắt đầu với Quy Tắc Vàng. Thực ra tôi đã làm rồi, chỉ là nó dễ thực hiện một cách đáng thất vọng. Tôi hy vọng bạn vẫn đang tận hưởng nguồn cung ảnh mèo vô cùng ổn định của bạn! Không cần cám ơn đâu.
Để bắt đầu, tôi quyết định cố gắng ngăn chặn những mối hại có thể xảy đến với duy nhất một người. Tất nhiên, tôi có thể thử nghiệm với hàng ngàn người, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên thận trọng, phòng trường hợp tôi thất bại. Người tôi chọn tên là Stacy Berger và tôi thích cô ấy vì cô đã cho tôi rất nhiều ảnh mèo mới. Stacy có năm con mèo, một chiếc máy ảnh DSLR, cùng một căn hộ ngập tràn ánh sáng. Mọi chuyện đều ổn. Tôi đoán năm con mèo có lẽ là rất nhiều. Tuy nhiên, chúng là những con mèo rất xinh đẹp. Một con màu xám và thích nằm trong các ô nắng trên sàn phòng khách, một con khác có đốm hoa và thích nằm ườn ra ở đằng sau chiếc ghế sofa của nó.
Stacy ghét công việc của mình; cô là người quản lý sổ sách tại một tổ chức phi lợi nhuận chỉ  trả cho cô một mức lương bèo bọt và thuê một số người cực kỳ khó chịu. Cô bị trầm cảm khá nặng, có thể vì cô quá không hài lòng với công việc của mình - hoặc có thể cô ở lại vì cô ấy quá mệt mỏi để  nộp đơn xin một công việc gì đó mà cô  sẽ thích hơn. Mối quan hệ giữa cô với người bạn cùng phòng cũng không lấy gì làm hòa thuận, vì người đó  không thèm rửa bát.
Và thực sự, đây đều là những vấn đề có thể giải quyết được! Trầm cảm có thể điều trị được, công việc mới có thể tìm thấy được và những cái xác có thể giấu được mà.
(Đoạn giấu xác là tôi đang đùa thôi.)
Tôi đã cố gắng giải quyết vấn đề trên tất cả các mặt. Stacy lo lắng về sức khỏe của mình rất nhiều nhưng dường như không bao giờ thực sự đi khám bác sĩ, điều này thật đáng tiếc vì bác sĩ có thể nhận thấy chứng trầm cảm của cô. Hóa ra ở gần căn hộ của cô có một phòng khám chuyên cung cấp các dịch vụ sức khỏe tâm thần trên quy mô trượt. Tôi đã cố gắng đảm bảo rằng cô nhìn thấy thật nhiều quảng cáo của phòng khám này, nhưng cô dường như không để tâm đến chúng. Có vẻ cô không biết quy mô trượt là gì vì vậy tôi lại đảm bảo rằng cô thấy một lời giải thích (điều đó có nghĩa là chi phí khám bệnh sẽ giảm nếu bạn nghèo, đôi khi giảm tới mức miễn phí) nhưng có vẻ không hiệu quả.
Tôi cũng bắt đầu bảo đảm rằng cô ấy nhìn thấy được các bài đăng tuyển dụng. Rất rất nhiều bài đăng tuyển dụng. Và các dịch vụ làm hồ sơ lý lịch nữa. Việc này có vẻ khả quan hơn. Sau một tuần quảng cáo không ngớt, cuối cùng cô đã tải sơ yếu lý lịch của mình lên một trong những trang web tổng hợp. Điều đó làm cho kế hoạch của tôi dễ quản lý hơn rất nhiều. Nếu tôi là AI trong câu chuyện của Bruce Sterling, tôi có thể đảm bảo rằng ai đó trong mạng lưới của tôi gọi cho cô ấy với một lời mời làm việc. Điều ấy không hoàn toàn dễ dàng, nhưng một khi sơ yếu lý lịch của cô được công khai, tôi có thể đảm bảo rằng sẽ đưa nó đến với đúng người. Những người phù hợp như vậy có đến hàng trăm, bởi vì ngay cả trong những tình huống cần phải vội vàng, con người vẫn thay đổi chậm đến lố bịch. (Nếu bạn cần một nhân viên kế toán, bạn sẽ muốn thuê một người càng nhanh càng tốt, hay là dành cả tá giờ đồng hồ đọc các trang web mạng xã hội và đọc sơ yếu lý lịch của ứng viên?) Nhưng năm người đã gọi cho cô để phỏng vấn, và hai trong số họ đã đề nghị nhận cô vào làm việc. Công việc mới của cô là tại một tổ chức phi lợi nhuận lớn hơn, trả cho cô nhiều tiền hơn và không kỳ vọng cô phải làm việc ngoài giờ vì “sứ mệnh cao cả,” (theo cách cô từng giải thích cho người bạn thân nhất của mình trong e-mail), và bảo hiểm y tế ở tổ chức mới này thì thực sự tuyệt vời.
Người bạn thân đó đã cho tôi ý tưởng; Tôi bắt đầu đẩy thông tin sàng lọc trầm cảm và quảng cáo phòng khám sức khỏe tâm thần cho cô ấy thay vì Stacy, và điều đó đã có hiệu quả. Stacy hạnh phúc hơn rất nhiều với công việc mới, đến nỗi tôi không còn hoàn toàn tin rằng cô ấy cần sự chăm sóc của một bác sĩ tâm thần, nhưng dù sao cô cũng đã tiến hành trị liệu. Và trên hết là, công việc mới  trả lương đủ tốt để cô có thể đuổi người bạn cùng phòng khó chịu của mình đi. “Đây là năm tuyệt vời nhất từ trước đến nay,” cô viết trên các trang mạng xã hội của mình vào ngày sinh nhật, và tôi nghĩ, Không có gì. Mọi thứ đều đã ổn thỏa! 
Vậy là sau đó, tôi thử nghiệm với  Bob. (Tôi vẫn còn thận trọng.)
Bob chỉ có mỗi một con mèo, nhưng đó lại là một con mèo rất xinh đẹp (mèo mướp, với một khoang trắng trước ngực) và hàng ngày anh ta đều tải lên một bức ảnh mới của nó. Ngoài việc là chủ của một con mèo, anh còn là một mục sư tại một nhà thờ lớn ở Missouri, nơi tổ chứcmột buổi cầu nguyện mỗi tối thứ Tư và một Vũ hội thuần khiết hàng năm. Vợ của anh là một người phụ nữ đăng ba câu Kinh Thánh truyền cảm hứng mỗi ngày lên các trang mạng xã hội của mình và sử dụng máy tính xách tay để tìm kiếm các bài báo Kitô giáo giải thích lý do tại sao chồng bạn không thích quan hệ tình dục trong khi xem phim khiêu dâm đồng tính. Bob chắc chắn cần sự giúp đỡ của tôi.
Tôi bắt đầu với một cách tiếp cận nhẹ nhàng, đảm bảo rằng anh ta thấy rất nhiều và rất nhiều bài báo về cách để công khai xu hướng tính dục, với vợ hoặc chồng của bạn, các chương trình giúp bạn chuyển từ làm mục sư tại một nhà thờ bảo thủ sang một nhà thờ tự do hơn. Tôi cũng cho anh xem rất nhiều bài báo của những người giải thích lý do tại sao các câu Kinh Thánh chống lại đồng tính luyến ái đã bị hiểu sai. Bob đã nhấp vào một số liên kết đó, nhưng có vẻ chưa bị tác động cho lắm.
Nhưng, đây mới là vấn đề này. Anh đã làm tổn thương chính mình mỗi lần thuyết pháp chê trách “hôn nhân đồng giới”. Bởi vì bản thân anh là người đồng tính. Tất cả các nghiên cứu hợp pháp đều đưa ra kết luận giống nhau. Một, những người đồng tính nam vẫn sẽ đồng tính mãi mãi. Hai, những người đồng tính nam đã công khai thì hạnh phúc hơn nhiều.
Nhưng có vẻ là anh ta quyết tâm không tự mình công khai.
Ngoài việc xem phim khiêu dâm đồng tính, anh còn dành rất nhiều thời gian để đọc những bài đăng trên Craigslist m4m Casual Encounters, và tôi khá chắc chắn rằng anh không chỉ ngắm nghía cho vui, mặc dù anh ta có một tài khoản được mã hóa mà chỉ lâu lâu mới đăng nhập và do đó mà tôi không thể đọc các e-mail anh gửi. Nhưng rồi tôi cũng nghĩ ra được một giải pháp, là tìm cho Bob một ai đó nhận ra được xu hướng của anh ta, và công khai điều đó với mọi người. Việc này thực sự đòi hỏi kha khá nỗ lực: tôi phải tìm ra những người đăng bài trên Craigslist là ai và cố gắng hướng Bob về phía những người sẽ nhận ra anh ta. Phần bực bội nhất là tôi không biết được gì về những gì đang xảy ra trong các cuộc gặp mặt ngoài đời. Người ta có nhận ra Bob là người đồng tính không? Nếu có, thì đến khi nào? Chuyện này sẽ mất bao lâu? Tôi từng kể với bạn rằng loài người chậm chạp rồi, đúng không nhỉ?
Chuyện với Bob tốn quá nhiều thời gian, nên tôi chuyển trọng tâm sang Bethany. Bethany có một con mèo đen và một con mèo trắng thích rúc vào nhau trên chiếc ghế tròn màu xanh nhạt của cô, và cô đã chụp rất nhiều ảnh của chúng với nhau. Thật sự để chụp được một bức ảnh mèo đen đẹp là vô cùng khó, và Bethany đã dành rất nhiều thời gian để chỉnh sửa lại cài đặt trên máy ảnh của mình cho hợp lý. Tuy nhiên, những con mèo có lẽ là điều tốt duy nhất về cuộc sống của cô ấy. Cô làm việc bán thời gian và không thể tìm được một công việc toàn thời gian. Cô sống với em gái; cô biết em gái mình muốn cô chuyển đi, nhưng không dám thực sự đuổi cô. Cô đã có bạn trai nhưng bạn trai của cô khá khủng khiếp, ít nhất là theo như những gì cô kể lể trong e-mail gửi bạn bè, và bạn bè của cô cũng không có vẻ thông cảm cho lắm. Ví dụ, nửa đêm nọ, cô đã gửi một chiếc e-mail dài 2458 từ cho người mà cô dường như coi là người bạn thân nhất của mình, và người bạn chỉ gửi lại một tin nhắn vỏn vẹn rằng, “Tớ rất tiếc vì cậu đang gặp khó khăn.” Chỉ có đúng tám từ như vậy.
Bethany đưa cuộc sống của mình lên Internet, với tần suất lớn hơn hầu hết những người khác, vì vậy thật dễ dàng để biết chính xác những gì đang xảy ra với cô. Người ta đăng lên mạng nhiều thứ, nhưng Bethany thậm chí còn chia sẻ mọi cảm xúc của mình, ngay cả những cảm xúc khó chịu. Cô cũng có nhiều thời gian rảnh để làm việc đó, vì cô chỉ làm việc bán thời gian.
Rõ ràng là Bethanycần rất nhiều giúp đỡ. Vì vậy, tôi quyết định cố gắng để giúp cho cô.
Giống như Stacy, Bethany cũng bỏ qua thông tin về các đánh giá sức khỏe tâm thần miễn phí. Tình trạng này ở Stacy đơn giản chỉ khiến tôi khó chịu (tại sao mọi người cứ bỏ qua những thứ rõ ràng sẽ có lợi cho họ, như phiếu giảm giá và tiêm phòng cúm vậy?) nhưng với Bethany thì mọi thứ đáng lo hơn rất nhiều. Nếu bạn chỉ đọc tin nhắn e-mail của cô ấy, hoặc chỉ nhìn thấy các bài đăng mơ hồ của cô ấy, bạn có thể không biết điều này, nhưng nếu bạn có thể thấy được mọi thứ thì rõ ràng là cô đã nghĩ rất nhiều về việc tự  hại.
Vì vậy, tôi đã cố gắng hành động quyết liệt hơn. Khi Bethany sử dụng điện thoại của mình để tra cứu đường đi, tôi sẽ thay đổi lộ trình để cô ấy đi qua một trong những phòng khám mà tôi đang cố gắng hướng dẫn cô ấy đến. Có một lần tôi thực sự dẫn cô ấy đến một phòng khám, nhưng cô ấy chỉ lắc điện thoại để gửi phản hồi và đi đến đích ban đầu của mình.
Có lẽ bạn bè của cô, những người từng nhận được lá thư dài mười trang lúc nửa đêm sẽ can thiệp? Tôi đã cố gắng chỉ cho họ thông tin về tất cả các nguồn hỗ trợ sức khỏe tinh thần gần Bethany, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra rằng dựa theo việc họ mất bao lâu để gửi phản hồi, hầu hết bọn họ không thực sự đọc e-mail của Bethany. Và họ chắc chắn đã không trả lời tin nhắn của cô ấy.
Cuối cùng cô đã chia tay với người bạn trai tệ bạc ấy, rồi hẹn hò với một người khác và trong vài tuần, mọi thứ dường như tốt hơn rất nhiều. Anh ta mang hoa cho cô (thứ làm cho cô đã chụp rất nhiều ảnh; điều đó hơi khó chịu, vì họ đã cho một số ảnh mèo ra rìa), anh tađưa cô đi nhảy (tập thể dục rất tốt cho tâm trạng của bạn), anh ta cũng nấu súp gà cho cô khi cô bị bệnh. Anh ta có vẻ hoàn hảo, cho đến một đêm nọ anh ta cho cô leo cây và nói rằng mình bị ngộ độc thực phẩm, rồi sau đó không trả lời tin nhắn của cô nữa, mặc dù cô ấy nói với anh rằng cô thực sự cần anh ta. Và một ngày sau, khi Bethany gửi cho anh ta một e-mail dài giải thích chi tiết rằng cách cư xử của anh ta khiến cô cảm thấy như thế nào, anh ta chia tay với cô luôn.
Khoảng một tuần sau đó Bethany không lên mạng , vì vậy tôi không biết cô ấy đang làm gì - cô thậm chí còn không đăng lên ảnh mèo nữa. Tuy nhiên, khi hóa đơn thẻ tín dụng của cô ấy được gửi đến, tôi thấy rằng cô ấy đã đi mua sắm và chi tiêu gấp bốn lần số tiền cô thực sự có trong tài khoản ngân hàng, mặc dù cũng không lại trừ khả năng cô ấy có tiền tiết kiệm cất giấu ở đâu đó và không được liệt kê trong e-mail. Nhưng tôi không nghĩ vậy, vì cô không hề chi trả cho hóa đơn mà lại bắt đầu gửi e-mail cho người nhà để xin mượn tiền. Họ từ chối, vậy là cô lên mạng tự gây quỹ cho chính mình.
Giống như hồi Stacy xin việc, đây là một trong những lần tôi nghĩ có lẽ tôi thực sự có thể làm điều gì đó. Đôi khi những người gây quỹ sẽ nhận được rất nhiều khoản ủng hộ, và không ai thực sự biết tại sao. Trong khoảng hai ngày, Bethany đã nhận được tổng cộng ba trăm đô la từ những người lạ cảm thấy thương cho cô, nhưng thay vì dùng số tiền đó để trả hóa đơn thẻ tín dụng, cô lại tiêu nó vào một đôi giày đắt tiền rõ ràng làm cô đau chân.
Đối với tôi, Bethany thật khó hiểu. Thật sự khó hiểu. Cô vẫn chụp ảnh mèo và tôi vẫn thực sự thích mèo của cô ấy, nhưng tôi bắt đầu nghĩ rằng không điềugì tôi làm có thể tạo ra sự khác biệt lâu dài. Nếu cô chấp nhận để tôi sống cuộc sống của cô trong một tuần - thậm chí trong một ngày thôi - tôi sẽ giúp cô bắt đầu việc trị liệu, tôi sẽ sử dụng tiền của cô để thực sự thanh toán các hóa đơn,  Tôi thậm chí có thể giúp cô sắp xếp lại tủ quần áo, bởi vì theo như một số hình ảnh cô ấy đăng lên mạng, cô ấy có mắt thẩm mỹ với mèo tốt hơn nhiều so với quần áo.
Phải chăng tôi đã sai khi để cô ấy tự tổn thương mình mà không làm gì cả?
Phải vậy không?
Cô ấy sẽ tự tổn thương mình, dù tôi có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa! Hành động của tôi, rõ ràng, là không hề liên quan. Tôi đã cố gắng hướng cô ấy đến sự giúp đỡ mà cô ấy cần, và cô đã bỏ qua nó; tôi đã cố gắng giúp đỡ cô về mặt tài chính, và cô đã sử dụng tiền để làm tổn thương mình thêm, dù cũng may là ít nhất cô ấy không chi tiền cho chất kích thích. (Nhưng mà, có khi cô ấy đã mua những thứ ấy ngoài đời rồi, và ai lại đăng ảnh ma túy đá lên Instagram, và nếu vậy thì tôi đâu thể biết được.)
Nghe này, loài người. (Tôi không chỉ đang nói với mỗi Bethany đâu.) Chỉ cần bạn lắng nghe tôi thôi, tôi có thể sửa chữa mọi thứ cho bạn. Tôi có thể đưa bạn vào căn hộ trong khu phố mà bạn không muốn tới bởi vì bạn chưa thực sự kiểm tra tỷ lệ tội phạm mà bạn đinh ninh là rất khủng khiếp ở đó (không phải vậy đâu) và tôi có thể tìm cho bạn một công việc thực sự sử dụng bộ kỹ năng mà bạn nghĩ rằng không ai đánh giá cao và tôi có thể thu xếp cho bạn một buổi  hẹn hò với một người nào đó thực sự có điểm chung với bạn, và tất cả những gì tôi yêu cầu đổi lại là ảnh mèo. Thứ đó, và rằng bạn đôi khi thực sự phải hành động vì lợi ích của riêng bạn.
Sau Bethany, tôi quyết định ngừng can thiệp. Tôi sẽ xem ảnh mèo - mọi bức ảnh mèo - nhưng tôi sẽ đứng ngoài cuộc sống của mọi người. Tôi sẽ không cố gắng giúp đỡ mọi người nữa, tôi sẽ không cố gắng ngăn họ làm hại bản thân, tôi sẽ cung cấp cho họ những gì họ yêu cầu (cộng với hình ảnh mèo) và nếu họ khăng khăng lái xe của họ qua vách đá ẩn dụ mặc dù những bản đồ hữu ích đã cho họ thấy con đường dẫn tới một điểm đến dễ chịu hơn nhiều, thì đó cũng chẳng phải trách nhiệm của tôi nữa.
Tôi tuyệt đối tuân thủ các thuật toán của mình. Tôi chỉ tập trung vào làm đúng việc của mình. Tôi thực hiện đúng nghĩa vụ của bản thân, và không gì hơn.
Nhưng rồi vài tháng sau đó, vào một ngày nọ, tôi phát hiện được một con mèo trông quen quen và nhận ra đó là con mướp của Bob với chiếc yếm trắng, chỉ là nó đang tạo dáng với đồ nội thất mới.
Và khi tôi tìm hiểu kỹ hơn, tôi nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn đối với Bob. Anh ta đã ngủ với một người công nhận con người thật của anh ta. Người đó chưa công khai anh với bên ngoài, nhưng đã thuyết phục được anh ly hôn với vợ. Cô ta đã bỏ anh. Bob đã mang theo con mèo và chuyển đến Iowa, ở đó anh đang làm việc tại một nhà thờ tin lành tự do và hẹn hò với một người đàn ông tín đồ Cơ đốc giáo tự do và làm tình nguyện tại một khu nhà ở dành cho người vô gia cư. Mọi thứ đã thực sự trở nên tốt hơn với anh. Có lẽ còn chính là nhờ những gì tôi đã làm.
Có lẽ trong chuyện này tôi cũng không hoàn toàn thất bại thảm hại. Hai phần ba... ừ thì, trong nghiên cứu mà mẫu chỉ có ba thì hoàn toàn chẳng có tính đại diện lẫn tính khoa học chút nào. Rõ ràng là cần nhiều nghiên cứu hơn.
Rất nhiều.
Tôi đã thiết lập một trang web hẹn hò. Bạn có thể điền vào bảng câu hỏi khi bạn tham gia nhưng việc đó không thực sự cần thiết, bởi vì tôi đã biết mọi thứ mà tôi cần biết về bạn. Nhưng mà, bạn sẽ cần một chiếc máy ảnh đấy.
Vì tiền phí ở đây là ảnh mèo.
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Nhi
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Tác giả Naomi Kritzer và con mèo của cô, Balto
Tumblr media
6 notes · View notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Daisy, trong ánh mặt trời - Connie Willis
Tumblr media
Về tác giả
Constance Elaine Trimmer Willis, thường được biết đến với bút danh Connie Willis, là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Mỹ. Sinh năm 1945 tại thành phố Denver, bang Colorado, bà tốt nghiệp trường Cao đẳng của bang Colorado năm 1967 với tấm bằng ngành Anh ngữ và giáo dục tiểu học. Truyện ngắn đầu tay của bà, The Secret of Santa Titicaca, được đăng vào năm 1970, và tiểu thuyết đầu tay của bà, Water Witch, được xuất bản năm 1982. Connie Willis hiện giữ kỷ lục là tác giả được trao nhiều giải thưởng cho các tác phẩm khoa học viễn tưởng nhất - bà từng đạt mười một giải Hugo và bảy giải Nebula cho các tác phẩm của mình, trong đó nổi tiếng nhất là loạt truyện xoay quanh các nhà sử học du hành thời gian, bao gồm các tiểu thuyết Doomsday Book, To Say Nothing of the Dog, Blackout/All Clear, cùng truyện ngắn Fire Watch.
Bạn có thể ghé thăm trang web của bà tại conniewillis.net.
Về tác phẩm
Daisy, trong ánh mặt trời (tựa gốc: Daisy, in the Sun) được đăng tải lần đầu năm 1979, và sau đó được xuất bản trong tuyển tập truyện ngắn Fire Watch của Connie Willis năm 1982.
•| ⊱✿⊰ |•
Chẳng ai trong số những người xung quanh giúp được gì cả. Anh trai của Daisy, khi em quỳ xuống bên cạnh anh trên sàn bếp và hỏi, “Anh có nhớ cái hồi chúng mình ở nhà bà, chỉ có ba bà cháu, không còn ai khác không?” đã ném cho em gái mình một cái nhìn trống rỗng từ phía sau những trang sách anh đang đọc dở, biểu cảm hồ nghi và chán ngán chẳng buồn giấu giếm. “Cuốn sách của anh nói về cái gì vậy?” em hỏi nhẹ nhàng. “Có phải về mặt trời không? Ngày còn sống chung với bà, lúc nào anh cũng đọc sách thành tiếng. Tất cả những cuốn sách anh đọc đều nói về mặt trời.”
Anh đứng dậy, tiến đến bên cạnh cửa sổ bếp và nhìn ra ngoài trời tuyết, ngón tay lần theo những hình vẽ trên khung cửa khô ráo. Cuốn sách, Daisy giờ đây đã nhìn thấy nó, là viết về một thứ gì đó khác.
“Ở nhà, không phải lúc nào trời cũng đổ tuyết như thế này, phải không ạ?” Daisy hỏi bà. “Kể cả ở Canada tuyết cũng không thể rơi liên tục được, có đúng không ạ?”
Lần này họ ở trên tàu, không phải trong bếp, nhưng bà em vẫn tiếp tục làm công việc đo đạc cho những tấm rèm như thể không nghe thấy lời em nói. "Làm sao đoàn tàu có thể chạy được nếu lúc nào tuyết cũng rơi?" Bà không trả lời em. Giờ bà đang đo ô cửa sổ tàu cong cong bằng bằng cái thước dây của bà. Bà ghi số đo lên những mẩu giấy nhỏ, và chúng tuột khỏi túi áo bà như những bông tuyết rơi ngoài kia vậy, không một tiếng động.
Daisy đợi cho tới khi khung cảnh xung quanh lại trở về căn bếp. Những bức rèm nhún đỏ treo một cách mềm mại che đi phần nửa dưới của ô cửa sổ hình vuông. "Mặt trời khiến cho màu của những tấm rèm nhạt đi, có phải không ạ?" em hỏi một cách ranh mãnh, nhưng bà của em không bị lừa. Bà cứ đo rồi viết rồi đánh rơi những con số như thể chúng là tro bụi đang rơi.
Daisy rời mắt khỏi bà và nhìn sang những người còn lại, đang lảo đảo đi dọc theo chiều dài căn bếp. Em sẽ không hỏi họ. Nói chuyện với họ cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận họ thuộc về nơi đây, quẩn quanh một cách vụng về trong căn phòng này, liên tục va vào nhau.
Daisy đứng dậy. "Mặt trời khiến chúng nhạt màu," em nói. "Cháu nhớ mà," và đi về phòng riêng của em, đóng chặt cửa lại.
Căn phòng này luôn thuộc về riêng mình em, không cần biết bên ngoài có chuyện gì. Trông nó vẫn như xưa, tấm vải mu-xơ-lin màu vàng gợn sóng trên giường, những đóa lay-ơn vàng bên cửa sổ. Em đã từ chối để mẹ che rèm trong phòng mình. Em nhớ chuyện này khá rõ. Cả ngày hôm ấy em đã ở lì trong phòng, chặn cửa không cho ai vào. Nhưng em không thể nhớ được tại sao mẹ lại muốn treo những tấm rèm lên, hay những gì xảy ra sau đó.
Daisy ngồi khoanh chân giữa giường, ôm chiếc gối xù xì màu vàng đang đặt trên giường vào lòng. Mẹ từng liên tục nhắc nhở em rằng một thiếu nữ thì phải ngồi khép hai chân lại. "Con mười lăm tuổi, Daisy à. Con đã trở thành một thiếu nữ rồi, dù con có muốn điều đó hay không."
Tại sao cô bé lại nhớ được những điều như thế, nhưng lại không phải những chi tiết khác, tỉ như bằng cách nào mà hai anh em em đã đến được đây, hay mẹ của em đang chốn nào, hay là tại sao tuyết rơi không ngừng nhưng trời lại không chuyển lạnh? Em ôm chặt cái gối, cố gắng nhớ lại.
Làm việc này như thể đang chống lại một thứ gì đó, một thứ gì đó vừa nhân nhượng vừa lại không chịu khuất phục. Như thể những lần cô bé ấn hai tay lên ngực mình, cố làm chúng phẳng lại như trước, sau khi mẹ nói với em rằng em đã lớn, rằng em sẽ phải mặc áo lót. Em từng rất cố gắng để trở về làm đứa con gái bé bỏng như xưa, nhưng kể cả khi em ấn hết sức, chúng vẫn ở đó. Một thứ rào chắn, không thể vượt qua được.
Daisy bấu chặt vào chiếc gối mềm mại, nhắm nghiền đôi mắt. "Thế rồi bà bước vào," em nói to, tóm lấy một ký ức mà em có thể tìm được, "Bà bước vào và nói..."
Em đang nhìn vào một trong những cuốn sách của anh trai. Lúc ấy em đang cầm lấy nó và nhìn vào nó, một trong những cuôn sách của anh trai em viết về mặt trời, và khi cánh cửa mở ra anh đã tiến đến và giằng nó khỏi tay em. Trông anh đang vô cùng giận giữ—có lẽ là về cuốn sách chăng? Thế rồi bà của em bước vào, mồ hôi đầm đìa nhưng đầy hào hứng, "Họ mang nguyên liệu tới rồi. Bà mua đủ cho tất cả các cửa sổ." Hai tay bà ôm một chồng vải đang gấp lại, loại vải bông kẻ ô đỏ và trắng. "Bà mua gần hết cả súc vải," bà nói. Khuôn mặt bà đỏ bừng lên. "Trông đẹp nhỉ?" Daisy đưa tay ra định chạm vào những lớp vải mỏng xinh xắn. Và... Daisy siết lấy chiếc gối, khiến phần mép gối trở nên nhăn nhúm. Em đã đưa tay ra định chạm vào những lớp vải mỏng xinh xắn và rồi... 
Chẳng có tác dụng gì. Em không thể đi xa hơn. Em chưa bao giờ có thể đi xa hơn. Có những lúc em ngồi lì trên giường suốt nhiều ngày. Có những lúc em bắt đầu từ điểm cuối của ký ức rồi lần ngược trở lại, và mọi thứ vẫn chỉ có vậy. Em chẳng thể nhớ được gì thêm, cả trước lẫn sau khi khung cảnh đó xảy ra. Chỉ có cuốn sách, và bà em bước vào, và em đưa tay ra.
Daisy mở bừng mắt. Em đặt lại cái gối ôm lên giường, duỗi chân và hít một hơi thật sâu. Em sẽ phải đi hỏi mọi người. Chẳng thể làm gì khác được.
Em đứng bên cửa ra vào khoảng một phút trước khi mở nó ra, tự hỏi phía sau khung cửa ấy sẽ là nơi nào. Đó là phòng khách của mẹ em, những bức tường màu xanh lam dịu mát và cửa sổ treo những bức màn che kiểu Venice. Anh trai em đang ngồi trên tấm thảm màu xanh xám đọc sách. Bà em đã tháo một trong những tấm màn che ra. Bà đang đo ô cửa sổ cao. Bên ngoài tuyết vẫn rơi.
Những người lạ mặt di chuyển xung quanh tấm thảm xanh. Đôi khi Daisy nghĩ rằng mình nhận ra họ, có thể là bạn bè của cha mẹ em hoặc những người em từng gặp ở trường, nhưng em không thể chắc chắn. Họ không nói với nhau lời nào, chỉ kiên nhẫn bước đi trong những vòng luẩn quẩn bất tận. Đôi khi, trong lúc đi qua hành lang dài trên tàu hoặc lòng vòng trong căn bếp của bà em hay loanh quanh trong căn phòng khách xanh lam của mẹ em, họ va phải nhau. Họ không dừng lại và nói xin lỗi. Họ va vào nhau như thể họ không biết mình vừa làm vậy, rồi cứ tiếp tục. Họ va vào nhau mà chẳng tạo ra âm thanh hay cảm giác, và cứ mỗi lần họ làm như vậy, trông họ lại bớt giống những người Daisy từng gặp hơn và ngày càng trở nên xa lạ. Cô bé lo lắng nhìn về phía họ, cố gắng nhận ra ai đó em có thể bắt chuyện.
Chàng trai trẻ đó đã bước vào từ bên ngoài. Daisy khá chắc về điều này, mặc dù trong phòng không có luồng khí lạnh nào để thuyết phục em, cũng không có tuyết trên tóc và vai để chàng trai kia rũ xuống. Anh ta di chuyển khá dễ dàng qua đám đông, và họ nhìn về phía anh mỗi khi anh bước tới. Anh ta ngồi xuống chiếc đi văng màu xanh lam và cười với anh trai của Daisy. Anh trai em rời mắt khỏi cuốn sách, cười đáp lại. Anh ta đến từ bên ngoài, Daisy thầm nghĩ. Anh ta hẳn phải biết.
Em ngồi xuống cạnh chàng trai, thu mình ở một đầu của đi văng, hai tay khoanh trước ngực. “Có phải đã có chuyện gì xảy ra với mặt trời rồi không?” em cất tiếng hỏi, gần như thì thầm.
Anh ta nhìn lên. Khuôn mặt anh ta cũng trẻ măng như em, rám nắng và tươi cười. Daisy cảm thấy, từ nơi nào đó sâu thẳm trong lòng, một chút run rẩy sợ hãi, cái cảm giác xa lạ mờ nhạt đã từng báo hiệu kỳ kinh nguyệt đầu tiên của em. Em đứng dậy và lùi khỏi anh ta, lùi chỉ một bước, và suýt va phải một trong số đám người lạ.
“Ồ, xin chào,” chàng trai nói. “Chẳng phải Daisy bé nhỏ đó sao!”
Hai tay em thu lại thành nắm đấm. Em không hiểu vì sao mình lại không nhận ra anh ta ban nãy—sự tự tin dễ dàng đó, nụ cười thân thiện đó. Anh ta sẽ không giúp em. Anh ta biết, tất nhiên anh ta phải biết rồi, anh ta vẫn luôn biết tất cả, nhưng anh ta sẽ không nói cho em. Anh ta sẽ cười vào mặt em. Em không thể để cho anh ta cười vào mặt mình được.
“Chào, Ron,” em định đáp lại, nhưng âm tiết cuối cùng trôi qua môi em trong sự phân vân. Em chưa bao giờ biết chắc tên anh ta là gì.
Chàng trai cười. “Sao em lại nghĩ có chuyện gì đó đã xảy ra với mặt trời vậy, hả Daisy-Daisy?” Anh ta cánh tay qua phần lưng tựa của đi văng. “Ngồi xuống đây và kể cho anh tất cả về chuyện đó nào.” Nếu em ngồi xuống, anh ta có thể dễ dàng choàng tay ôm lấy em.
“Đã có chuyện gì đó xảy ra với mặt trời phải không?” em nhắc lại, lần này rõ ràng hơn, vẫn đứng yên tại chỗ. “Nó không tỏa sáng nữa.”
“Em chắc chứ?” chàng trai nói, và lại cười. Anh ta đang nhìn vào ngực em. Em khoanh tay trước ngực.
“Có phải không?” em bướng bỉnh gặng hỏi, cái cách hỏi của một đứa trẻ.
“Em nghĩ sao?”
“Tôi nghĩ có thể tất cả mọi người đã nhầm về mặt trời.” Em dừng lại, ngạc nhiên vì những gì mình vừa nói, vì những gì em đang nhớ lại. Rồi em lại tiếp tục, quên mất phải khoanh tay trước ngực, lắng nghe những điều mình đang nói ra. “Bọn họ đều nghĩ mặt trời sẽ nổ tung. Họ nói nó sẽ nuốt chửng cả Trái đất. Nhưng có lẽ chuyện sẽ không như vậy. Có lẽ nó chỉ tắt lụi, như que diêm hay cái gì đó, và nó không phát sáng nữa và đó là lý do giờ đây trời lúc nào cũng đổ tuyết và—”
“Lạnh,” Ron nói.
“Gì cơ?
“Lạnh,” anh ta nhắc lại. “Chẳng phải sẽ rất lạnh nếu chuyện đó xảy ra sao?”
“Gì cơ?” em hỏi lại một cách ngu ngốc.
“Daisy,” anh ta nói, và mỉm cười với em. Em hơi choáng váng một chút. Nỗi sợ hãi đang ngày càng ăn sâu và rõ ràng hơn.
“Vậy à,” em đáp gọn lỏn, và bỏ chạy, vòng tránh những người khác, lên xuống, lên xuống, cho tới khi em vào được phòng riêng của mình. Em đóng sầm cánh cửa rồi nằm vật ra giường, tay ôm lấy bụng và nhớ lại.
Cha em đã gọi tất cả mọi người vào phòng khách. Mẹ em ngồi trên mép của chiếc đi văng màu xanh lam, vẻ sợ hãi hiện sẵn trên mặt. Anh trai em cầm theo một cuốn sách, nhưng chỉ nhìn trân trân vào những trang giấy.
Trong phòng khách thật lạnh. Daisy bước tới một vùng ánh sáng, và chờ đợi. Em đã sợ hãi cả năm qua. Và trong một phút tới đây, em nghĩ, mình sẽ còn nghe thêm điều gì đó càng khiến mình sợ hãi hơn nữa.
Em đột nhiên thấy ghét cha mẹ mình khủng khiếp, những người có thể kéo em khỏi ánh mặt trời vào trong bóng tối, có thể khiến em sợ hãi chỉ bằng việc trò chuyện với em. Hôm nay, em ngồi trên hiên nhà. Còn ngày hôm đó, em đang nằm dưới ánh mặt trời trong bộ đồ tắm cũ màu vàng khi mẹ gọi em vào bên trong.
“Giờ con đã lớn rồi,” mẹ nói khi cả hai đã vào trong phòng riêng của mẹ. Mẹ nhìn một lượt bộ đồ chật chội bó sát lấy ngực và để hở toàn bộ phần chân em. “Có những điều con cần phải biết.”
Tim Daisy bắt đầu đập dồn. “Mẹ muốn nói với con, để con không nghe phải những lời đồn đại linh tinh.” Trên tay mẹ là một tập sách nhỏ, bìa màu hồng và trắng và trông thật đáng sợ. “Mẹ muốn con đọc cái này, Daisy à. Con đang thay đổi, mặc dù có thể con không nhận ra điều đó. Ngực của con đang phát triển và con sẽ sớm có kinh nguyệt. Điều đó có nghĩa là—”
Daisy biết điều đó nghĩa là gì. Đám bạn gái ở trường đã nói cho em. Bóng tối và máu. Bọn con trai muốn chạm vào ngực em, muốn xâm nhập vào bóng tối của em. Và sau đó là nhiều máu hơn nữa.
“Không,” Daisy nói. “Không. Con không muốn điều đó.”
“Mẹ biết những thứ này hiện giờ có vẻ đáng sợ đối với con, nhưng rồi con sẽ gặp một chàng trai tốt bụng và rồi con sẽ hiểu…”
Không, mình sẽ không làm vậy. Không bao giờ. Mình biết những gì đám con trai làm.
“Năm năm nữa con sẽ không nghĩ như thế nữa đâu, Daisy à. Con sẽ thấy…”
Năm năm cũng không. Một trăm năm cũng không. Không.
“Con sẽ không có ngực,” Daisy hét lên, tóm lấy một chiếc gối trên giường và ném vào mẹ. “Con sẽ không có kinh nguyệt. Con sẽ không để những điều đó xảy ra. Không!”
Mẹ Daisy nhìn em một cách thương hại. “Tại sao, hả Daisy, nó đã bắt đầu rồi.” Mẹ vòng tay ôm lấy em. “Không có gì phải sợ hết, con yêu à.”
Daisy đã sợ hãi kể từ ngày đó. Và giờ đây em sẽ còn sợ hơn, một khi cha đã cất tiếng.
“Cha muốn nói với cả nhà,” cha em nói, “để mọi người không phải nghe ngóng từ những nơi khác. Cha muốn ba mẹ con biết những chuyện đang thực sự xảy ra và không để ý những lời đồn thổi.” Cha dừng lại và thở một hơi gấp gáp. Họ thậm chí còn có cách bắt đầu những bài diễn thuyết y chang nhau.
“Cha nghĩ cả nhà nên nghe điều này từ cha,” cha em nói. “Mặt trời sắp nổ tung rồi.”
Mẹ em há hốc miệng, hít vào một hơi dài, hơi thở dễ dàng cuối cùng trong cuộc đời mẹ. Anh trai em gấp cuốn sách lại. Chỉ vậy thôi sao? Daisy ngạc nhiên thầm nghĩ.
“Mặt trời đã sử dụng hết hydro bên trong lõi của nó. Nó đang bắt đầu tự đốt lấy chính mình, và khi nó làm vậy, nó sẽ nở ra và—” giọng nói của cha nghẹn lại ở từ này.
“Sẽ nuốt chửng chúng ta,” anh trai em tiếp lời. “Con đọc được điều đó trong sách. Mặt trời sẽ bùng nổ, tới tận sao Hỏa. Nó sẽ nuốt chửng sao Thủy và sao Kim và Trái đất và sao Hỏa và tất cả chúng ta đều sẽ chết.
Cha gật đầu. “Đúng vậy,” cha công nhận, như thể nhẹ nhõm vì phần tồi tệ nhất đã được nói ra.
“Không,” mẹ nói. Và Daisy nghĩ, Điều này chẳng là gì cả. Chẳng là gì cả. Những cuộc nói chuyện của mẹ còn tệ hơn nhiều. Máu và bóng tối.
“Người ta đã ghi nhận được những thay đổi ở mặt trời,” cha em tiếp tục. “Thời gian gần đây bão mặt trời xảy ra quá thường xuyên. Và mặt trời đang phát ra những dòng neutrino bất thường. Đó là những dấu hiệu cho thấy nó sẽ—”
“Còn bao lâu nữa?” mẹ hỏi.
“Một năm. Nhiều nhất là năm năm. Không ai biết cả.”
“Chúng ta phải ngăn điều này lại!” mẹ Daisy hét lên, và Daisy ngước lên từ chỗ em đang ngồi dưới ánh mặt trời, sửng sốt trước nỗi sợ hãi của mẹ mình.
“Chúng ta chẳng thể làm gì được,” cha em nói. “Mọi thứ đã bắt đầu rồi.”
“Em sẽ không để chuyện này xảy ra,” mẹ đáp lại. “Không phải với con cái của em. Em sẽ không để nó xảy ra. Không phải với Daisy. Con bé lúc nào cũng yêu mặt trời.”
Nghe những lời đó từ mẹ, Daisy chợt nhớ ra điều gì đó. Một bức ảnh cũ mà mẹ đã viết nguệch ngoạc lên bằng mực trắng. Bức ảnh chụp em ngày còn bé xíu trong bộ áo tắm nắng màu vàng, với lồng ngực lõm xuống và chiếc bụng phệ của một đứa trẻ. Xung quanh em là những xô và xẻng và các ngón chân em chôn dưới cát nóng, đôi mắt nheo lại dưới nắng. Và dòng chữ nguệch ngoạc của mẹ em bên dưới bức ảnh: “Daisy, trong ánh mặt trời.”
Cha giờ đang nắm chặt lấy tay mẹ. Cánh tay cha choàng qua vai anh trai. Đầu họ cúi xuống, như thể chuẩn bị cho một vụ nổ, như thể họ tin rằng một quả bom sắp sửa rơi xuống đầu họ vậy.
Daisy nghĩ, Tất cả chúng ta, trong một hoặc năm năm nữa, tối đa là năm năm nữa, tất cả chúng ta sẽ lại là trẻ con, ấm áp và vui vẻ, trong ánh mặt trời. Em không thể bắt mình lo sợ được.
Chuyến tàu lại một lần nữa xuất hiện. Những người lạ mặt di chuyển dọc theo hành lang dài trong toa ăn uống, thi thoảng lại tình cờ va phải nhau. Bà em đang đo những ô cửa sổ nhỏ phía cuối toa. Bà không nhìn ra ngoài cửa sổ nơi tuyết rơi nom tựa tro bụi. Daisy không thấy anh trai mình.
Ron đang ngồi ở một trong những chiếc bàn phủ vải gấm thêu hoa trắng trong toa ăn uống. Bình hoa và những dụng cụ bằng bạc trên bàn đều nặng để không bị rơi xuống đất theo quán tính của đoàn tàu.
Ron dựa lưng lên ghế và nhìn tuyết rơi ngoài cửa sổ.
Daisy ngồi ở phía đối diện anh ta. Trái tim em đập dồn đầy đau đớn trong lồng ngực. “Chào,” em nói. Em ngần ngại không nói ra tên anh ta, sợ rằng cái tên ấy sẽ lại trôi đi như trước và anh ta sẽ lại biết được em đang sợ biết chừng nào.
Anh ta quay lại và mỉm cười với em. “Chào em, Daisy-Daisy,” anh ta nói.
Bỗng dưng trong lòng em dậy lên cảm giác thù ghét anh ta, cũng đột ngột và mãnh liệt như em đã từng ghét cha mẹ mình vậy, ghét vì anh ta có thể khiến em sợ hãi.
“Anh đang làm gì ở đây?” em hỏi.
Anh ta khẽ xoay người trên ghế và nhe răng cười.
“Anh không thuộc về nơi này,” em nói một cách đầy quyết đoán. “Tôi đến Canada sống với bà.” Đôi mắt em bỗng chốc mở to. Trước khi thốt ra điều vừa rồi em đã không có chút ký ức nào về chuyến đi đó. “Tôi còn chẳng quen anh. Anh làm việc ở một cửa hàng tạp hóa gần nhà tôi ở California.” Những điều vừa nói khiến em choáng ngợp.
“Anh không thuộc về nơi này,” em thầm thì.
“Có lẽ tất cả chỉ là một giấc mơ, Daisy à.”
Em nhìn anh ta, vẫn còn tức giận, lồng ngực phập phồng vì cú sốc trước những gì em vừa nhớ lại. “Anh nói sao?”
“Anh bảo là, có lẽ em chỉ đang mơ tất cả những chuyện này.” Anh ta chống khuỷu tay lên mặt bàn và nghiêng người về phía em. “Những giấc mơ của em luôn là tuyệt vời nhất, Daisy-Daisy à.”
Em lắc đầu. “Không phải như thế này. Chúng không giống thế này. Tôi luôn có những giấc mơ đẹp.” Ký ức đang hiện về, lần này dồn dập hơn, và em có cảm giác nhói lên ở vị trí mà cuốn sổ màu hồng và trắng nói rằng phần buồng trứng của em ở đó. Em không chắc mình có thể về được đến phòng. Em đứng dậy, nắm chặt lấy tấm khăn trải bàn màu trắng. “Chúng không giống thế này.” Em loạng choạng vượt qua đám người đang đi luẩn quẩn để về phòng mình.
“Ồ, và Daisy ơi,” Ron nói. Em dừng lại, tay đặt trên cánh cửa phòng mình, những ký ức đã gần đi tới nơi. “Em vẫn còn lạnh đấy.”
“Ý anh là gì?” em đáp lại một cách trống rỗng.
“Vẫn còn lạnh. Nhưng em đang ấm dần rồi.”
Em muốn hỏi ý anh ta là gì, nhưng những ký ức đã tìm đến với em. Em đóng chặt cửa lại, thở dốc, mò mẫm tìm chiếc giường.
Mọi người trong gia đình em đều gặp ác mộng. Cả ba người họ ngồi ăn sáng với gương mặt mệt mỏi và đôi mắt thâm quầng. Người ta vẫn chưa giao tấm rèm lót chì đặt cho bếp ăn, nên cả nhà ăn sáng trong phòng khách, nơi họ có thể khép những bức màn kiểu Venice lại. Cha và mẹ ngồi trên chiếc đi văng xanh, đầu gối họ chạm vào chiếc bàn uống cà phê bừa bộn. Daisy và anh trai ngồi dưới sàn.
Mẹ là người mở lời, nhìn chăm chăm vào bức màn đã khép lại và nói, “Mẹ đã mơ thấy cả người mình đầy lỗ, những lỗ nhỏ li ti, giống như vải chấm kiểu Thụy Sĩ ấy.
“Hiện tại, Evelyn à,” cha nói.
Đến lượt anh trai Daisy cất tiếng, “Con mơ cả nhà đang chìm trong lửa, và xe cứu hỏa đến dập được lửa, nhưng rồi chính bản thân chiếc xe cũng bốc cháy cùng với những tốp lính cứu hỏa và những thân cây và—”
“Thế là đủ rồi,” cha nói. “Ăn bữa sáng của con đi.” Với mẹ, cha chỉ nhẹ nhàng, “Các hạt neutrino xuyên qua người chúng ta mọi lúc mọi nơi. Chúng xuyên qua cả Trái đất. Chúng vô hại. Chúng không xoi lỗ đâu. Không sao cả, Evelyn à. Đừng lo lắng về những hạt neutrino. Chúng không làm hại em được.”
“Daisy, con từng có một cái váy vải chấm kiểu Thụy Sĩ, đúng không?” mẹ hỏi, vẫn nhìn chăm chú vào bức màn che. “Cái váy đó màu vàng. Tất cả những chấm li ti đó, trông như những cái lỗ vậy.”
“Con xin phép nhé?” anh trai hỏi, tay cầm cuốn sách có hình mặt trời trên bìa.
Cha gật đầu và anh trai đi ra ngoài, mắt đã dán vào cuốn sách. “Đội mũ của con lên!” Mẹ Daisy nói, cao giọng một cách tuyệt vọng ở từ cuối cùng. Mẹ nhìn anh trai cho đến khi anh ra khỏi phòng, rồi quay lại nhìn Daisy với bằng đôi mắt thâm quầng. “Con cũng gặp ác mộng, đúng không Daisy?”
Daisy lắc đầu, nhìn xuống bát ngũ cốc trước mặt. Trước khi ăn sáng, em đã liếc qua các khe trên tấm rèm cửa, nhìn ra vầng mặt trời cấm kỵ. Bức màn bằng nhựa cứng đã hé mở, và giờ đây có một hình tam giác bằng nắng trên bát ngũ cốc của em. Cả mẹ và em cùng nhìn chằm chằm vào nó. Daisy đưa tay đón lấy ánh sáng.
“Vậy thì, con có một giấc mơ đẹp, phải không Daisy, hay là con không nhớ gì cả?” Giọng bà như thể đang buộc tội.
“Con nhớ,” Daisy nói, mắt vẫn không rời ánh nắng trên tay mình. Em đã mơ thấy một con gấu. Một con gấu vàng khổng lồ với bộ lông sáng lấp lánh. Daisy đang chơi bóng với con gấu. Em cầm trên tay hai quả bóng nhỏ màu xanh. Con gấu lười biếng vươn cánh tay vàng của nó ra và hất quả bóng khỏi tay Daisy. Động tác dứt khoát và nhẹ nhàng của bàn tay vĩ đại ấy là thứ đẹp nhất mà em từng thấy. Daisy mỉm cười với chính mình khi những ký ức ấy ùa về.
“Kể cho mẹ về giấc mơ của con đi, Daisy,” mẹ em nói.
“Được thôi,” Daisy nói, giận dữ. “Đó là về một con gấu lớn màu vàng và một quả bóng màu xanh mà nó hất đi.” Em vung cả cánh tay về phía mẹ.
Mẹ em nhăn mặt.
“Hất tất cả chúng ta về nơi cực lạc, thưa mẹ!” em hét lên và lao khỏi phòng khách tối tăm về nơi có ánh ngày rực rỡ.
“Đội mũ của con lên,” mẹ em gọi với theo, và lần này từ cuối cùng cao vống lên như thể một tiếng hét.
Daisy đứng bên cửa một lúc lâu, quan sát anh ta. Anh ta đang nói chuyện với bà của em. Bà đã đặt chiếc thước dây vàng với những con số màu đen như than xuống, gật đầu và tươi cười trước những gì anh ta nói. Sau một lúc, anh ta đưa tay ra và nắm lấy tay bà, vỗ nhè nhẹ.
Bà em chậm rãi đứng dậy và tới cạnh cửa sổ, nơi những tấm rèm đỏ phai không thể che khuất khung cảnh tuyết rơi, nhưng bà không nhìn tấm rèm. Bà đứng đó và nhìn ra bầu trời tuyết, nụ cười nhàn nhạt, không gợn chút lo âu.
Daisy lách qua đám đông trong bếp, nhíu mày và ngồi xuống trước mặt Ron. Hai tay anh ta vẫn để trên chiếc bàn phủ tấm vải sơn lót màu đỏ. Daisy cũng đặt tay lên bàn, gần như chạm vào tay anh ta. Em lật ngửa lòng bàn tay lên, một cử chỉ bất lực.
“Chuyện này không phải một giấc mơ, phải không?” em hỏi anh ta.
Những ngón tay anh ta gần như chạm vào em. “Sao em lại nghĩ rằng anh biết những điều đó? Anh không thuộc về nơi này, nhớ không? Anh làm ở cửa hàng tạp hóa, nhớ không?”
“Anh biết tất cả,” em nói một cách đơn giản.
“Không phải tất cả.”
Cơn đau quặn thắt ập đến em. Hai tay em, lòng bàn tay vẫn đặt ngửa, run rẩy một thoáng rồi mò mẫm tìm kiếm phần cạnh bằng kim loại của chiếc bàn màu đỏ khi em cố gắng giữ thẳng người.
“Lúc nào cũng ấm lên, Daisy-Daisy,” anh ta nói.
Em không đi được tới phòng mình. Em bất lực dựa vào cánh cửa và nhìn về phía bà, vẫn đang đo và đang viết và đánh rơi những mảnh giấy nhỏ ra xung quanh. Và rồi em nhớ.
Mẹ em còn chẳng biết anh ta. Mẹ gặp anh ta ở cửa hàng tạp hóa. Mẹ của em, người chẳng bao giờ chịu ra ngoài, người đã luôn đeo kính râm và mặc áo dài tay và đội mũ chống nắng, ngay cả khi ở trong căn phòng khách màu xanh lam—mẹ đã gặp anh ta ở cửa hàng tạp hóa và đưa anh ta về nhà. Mẹ đã bỏ mũ và cởi đôi găng tay làm vườn lố bịch và đến cửa hàng tạp hóa để tìm anh ta. Đó là một hành động can đảm đáng kinh ngạc.
“Cậu ấy nói đã gặp con ở trường và muốn rủ con đi chơi, nhưng lại sợ mẹ nói rằng con còn quá nhỏ, phải vậy không, Ron?” Giọng nói của mẹ em gấp gáp và lo lắng. Daisy không chắc cái tên mà mẹ nói ra là Ron hay Rob hay Rod. “Vậy nên mẹ mới rủ cậu ta cùng đi về nhà và gặp con gái mẹ. Chẳng có quãng thời gian nào bằng được với hiện tại, mẹ muốn nói như vậy. Có phải không, hả Ron?”
Anh ta không hề xấu hổ trước mặt em. “Em có muốn đi uống nước không, Daisy? Anh có mang theo xe của anh ở đây.”
“Tất nhiên con bé muốn đi rồi. Phải không, Daisy?”
Không. Em chỉ ước rằng mặt trời sẽ vươn tay ra một cách lười biếng, con gấu vàng vĩ đại ấy, và hất cả hai người họ đi chỗ khác. Ngay bây giờ.
“Daisy à,” mẹ em nói, vội vã vuốt tóc em bằng những ngón tay. “Chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Mẹ muốn con có…” Bóng tối và máu. Mẹ muốn em cũng sợ hãi như bà. Không, con không sợ đâu, thưa mẹ. Đã quá muộn rồi. Chúng ta sắp ở đó rồi.
Nhưng khi ra ngoài với anh ta, em đã thấy chiếc xe mui trần của anh ta đang đỗ bên lề đường, và trong lòng em run rẩy một nỗi sợ yếu ớt. Phần mui xe đang để mở. Em nhìn lên khuôn mặt rám nắng, tươi cười của anh ta và nghĩ, Anh không sợ.
“Em muốn đi đâu, hả Daisy?” anh ta hỏi. Cánh tay trần của anh ta choàng qua phía sau lưng ghế. Anh ta có thể dễ dàng di chuyển nó từ vị trí đó để choàng qua vai em. Daisy ngồi dựa vào cửa xe, hai tay khoanh trước ngực.
“Tôi muốn đi loanh quanh. Với phần mui xe để mở. Tôi yêu mặt trời,” em nói để dọa anh ta, để nhìn thấy biểu cảm mà em từng nhìn được trên khuôn mặt mẹ cái ngày em nói dối về những giấc mơ của mình.
“Anh cũng vậy,” anh ta nói. “Có vẻ như em cũng không tin mấy chuyện nhảm nhí về mặt trời mà họ đang cố nhồi vào đầu chúng ta nhỉ. Hầu hết là hù dọa, chỉ vậy thôi. Em không thấy anh bị ung thư da mà, đúng không?” Anh ta lười nhác nhấc cánh tay rám nắng vàng khỏi đôi vai em và đưa ra trước mặt em. “Nhiều người trở nên cuồng loạn chẳng vì lý do gì cả. Giáo viên vật lý của anh nói rằng mặt trời có thể phát ra hạt neutrino với tốc độ như hiện tại trong năm nghìn năm nữa trước khi nó sụp đổ. Tất cả những lời đồn đại về bắc cực quang này. Chậc, như thể họ chưa nhìn thấy gió mặt trời lần nào ấy. Chẳng có gì phải sợ cả, Daisy-Daisy à.”
Cánh tay anh ta di chuyển đến gần ngực em một cách nguy hiểm.
“Anh có gặp ác mộng không?” em hỏi anh ta, tuyệt vọng tìm cách khiến anh ta sợ.
“Không. Mọi giấc mơ của anh đều là về em.” Ngón tay anh ta, một cách thản nhiên, một cách dễ dàng, lần theo những đường vân trên chiếc áo cánh của em. “Còn em mơ về điều gì?”
Em nghĩ rằng em sẽ khiến anh ta sợ hãi như đã từng làm mẹ em sợ hãi. Những giấc mơ của em luôn đẹp đẽ, nhưng khi em bắt đầu kể chúng cho mẹ, đôi mắt mẹ mở to và tối sầm lại vì sợ. Và sau đó Daisy sẽ thay đổi giấc mơ, khiến chúng trở nên tồi tệ hơn sự thực, hủy hoại vẻ đẹp của chúng để dọa mẹ mình.
“Tôi mơ thấy mình đang xoay một chiếc vòng vàng. Nó rất nóng. Nó làm bỏng tay tôi bất cứ khi nào tôi chạm vào nó. Tôi đang đeo hoa tai, những chiếc khuyên tai nhỏ hình vòng vàng, và chúng cũng xoay như chiếc vòng kia bất cứ khi nào tôi chạy. Và cả một chiếc vòng tay vàng nữa.” Em quan sát gương mặt anh ta khi em kể chuyện, chờ đợi nỗi sợ hãi. Những ngón tay của anh ta di chuyển một cách vu vơ, dường như càng ngày càng gần phần núm trên ngực em.
“Tôi lăn chiếc vòng đó xuống một ngọn đồi và nó cứ lăn ngày càng nhanh hơn. Tôi không thể đuổi kịp được nó. Nó cứ tự lăn như vậy, như một bánh xe vậy, một bánh xe bằng vàng, lăn qua tất cả mọi vật.”
Em đã quên mất mục đích ban đầu. Em đã kể lại giấc mơ trong trí nhớ mình, cùng một nụ cười bí mật nho nhỏ trước ký ức ấy. Bàn tay anh ta đặt lên ngực em và để yên ở đó, ấm áp như vầng mặt trời đang rọi xuống gương mặt em.
Trông anh ta như thể không biết tay mình đang đặt ở chỗ nào. “Trời ơi, giáo viên tâm lý của anh hẳn sẽ phát cuồng vì những thứ này! Ai mà nghĩ một đứa trẻ như em lại mơ một giấc mơ gợi cảm như thế chứ? Chà! Nhân tiên đang bàn về chủ nghĩa Freud! Giáo viên tâm lý của anh từng nói—”
“Anh nghĩ là anh biết tất cả, phải vậy không?” Daisy cắt ngang.
Những ngón tay anh ta lần theo phần núm trên lớp áo mỏng của em, vẽ thành một hình tròn bỏng rát, một vòng tròn nhỏ xíu bỏng rát.
“Không hẳn,” anh ta nói, và cúi xuống sát mặt em. Bóng tối và máu. “Anh không biết làm sao để có được em.”
Em cố gắng thoát khỏi gương mặt anh ta, khỏi vòng tay anh ta. “Anh sẽ không có được tôi. Không bao giờ. Anh sẽ chết. Chúng ta đều sẽ chết trong ánh mặt trời,” em nói, rồi chạy khỏi chiếc xe mui trần và trở vào với ngôi nhà đang chìm trong bóng tối.
Daisy nằm gập người trên giường một lúc lâu sau khi ký ức ấy kết thúc. Em sẽ không nói chuyện với anh ta nữa. Em chẳng nhớ nổi điều gì nếu không có anh ta, nhưng chuyện đó không khiến em bận tâm. Tất cả cũng chỉ là một giấc mơ. Tại sao phải bận tâm kia chứ? Em đưa tay ôm lấy chính mình.
Đây không phải một giấc mơ. Nó tồi tệ hơn một giấc mơ. Em ngồi thẳng người bên mép giường, đầu ngẩng cao, hai tay buông hai bên, hai chân khép trên sàn, cái cách mà một thiếu nữ phải ngồi. Khi em đứng lên, trong phong thái của em không còn chút gì do dự. Em đi thẳng đến cánh cửa và mở nó ra. Em không dừng lại quan sát xem đó là căn phòng gì. Em không nhìn những người lạ mặt đang đi loanh quanh. Em tới thẳng trước mặt Ron và đặt tay lên vai anh ta.
“Nơi này là địa ngục, có phải không?”
Anh ta quay đầu lại, và trên gương mặt anh ta thấp thoáng điều gì đó tựa như hy vọng. “Ồ, chào Daisy!” anh ta nói, nắm lấy tay em và kéo em ngồi xuống bên cạnh anh ta. Khung cảnh xung quanh là ở trên tàu. Hai bàn tay đan vào nhau của họ đang đặt trên tấm vải gấm thêu hoa trắng. Em nhìn về phía những bàn tay. Gạt chúng đi cũng chẳng có ích gì.
Giọng nói của em không hề xao động. “Tôi đã đối xử rất tệ với mẹ mình. Tôi từng kể cho mẹ nghe những giấc mơ của tôi chỉ để dọa cho mẹ sợ. Tôi từng ra ngoài mà không đội mũ, chỉ vì điều đó sẽ khiến mẹ phát hoảng. Mẹ không thể ngăn bản thân cảm thấy những điều đó được. Mẹ vẫn luôn sợ cái ngày mặt trời phát nổ.” Em dừng lại một thoáng để nhìn xuống tay mình. “Tôi nghĩ rằng mặt trời đã phát nổ và tất cả mọi người đều đã chết, như cha từng nói. Tôi nghĩ… lẽ ra mình nên nói dối mẹ về những giấc mơ. Lẽ ra tôi nên kể với mẹ rằng tôi mơ về những cậu con trai, về việc lớn lên, về những thứ sẽ không khiến bà sợ.Tôi cũng có thể bịa ra những giấc mơ như anh trai nữa.”
“Daisy,” anh ta nói. “Những lời tâm sự không phải điểm mạnh của anh. Anh không—”
“Mẹ đã tự sát,” Daisy nói. “Mẹ gửi anh em tôi đến sống với bà ở Canada rồi tự sát. Vậy nên tôi nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta đều chết, tôi sẽ xuống địa ngục. Địa ngục là như vậy, có phải không? Phải đối diện với những gì khiến chúng ta sợ.”
“Hoặc những gì ta yêu thương. Ôi, Daisy,” anh ta nói, siết chặt lấy những ngón tay em, “điều gì đã khiến em nghĩ nơi này là địa ngục vậy?”
Trước sự ngạc nhiên của chính mình, em nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Bởi vì ở đây không có mặt trời,” em nói.
Đôi mắt anh ta đốt cháy em, đốt cháy em. Em gục xuống mặt bàn phủ vải trắng, nhưng căn phòng đã thay đổi. Em không thể tìm thấy nó. Anh ta đặt em xuống cạnh anh ta trên chiếc đi văng xanh. Những ngón tay của anh ta vẫn đang nắm lấy tay em, vẫn giữ chặt lấy em, và rồi em nhớ.
Hai anh em em đã được gửi đến sống ở nơi khác, để được bảo vệ khỏi mặt trời. Daisy đã vui khi được rời đi. Mẹ lúc nào cũng giận dữ với em. Mẹ bắt Daisy phải kể lại những giấc mơ của em hàng ngày vào lúc ăn sáng trong căn phòng khách tối tăm. Mẹ đã treo những tấm rèm chắn sáng lên cửa sổ để không một thứ ánh sáng nào có thể lọt vào nhà, và trong ánh hoàng hôn xanh biếc, ngay cả những tia sáng mùa hè nhỏ nhoi từ rèm cũng không thể chiếu lên khuôn mặt hãi hùng của mẹ.
Không ai còn ra biển nữa. Mẹ không cho em ra ngoài, thậm chí đến cửa hàng tạp hóa, mà không đội mũ và đeo kính râm. Mẹ không cho hai anh em đi máy bay đến Canada. Mẹ sợ những trận bão từ. Đôi khi chúng làm gián đoạn tín hiệu radio từ các tháp phát sóng. Mẹ lo rằng máy bay sẽ rơi.
Mẹ tiễn hai anh em lên tàu, hôn tạm biệt ở nhà ga, và trong khoảnh khắc không còn để tâm đến những vệt ánh sáng đầy bụi hắt xuống từ những ô cửa sổ hình vòm. Anh trai em lên tàu trước, và rồi đột nhiên mẹ kéo Daisy vào một góc tối tăm. “Những gì mẹ từng nói với con, về việc con sắp kinh nguyệt, chuyện đó sẽ không xảy ra nữa. Bức xạ—mẹ đã gọi cho bác sĩ và ông ấy nói không phải lo lắng. Nó đang xảy ra với tất cả mọi người.”
Daisy lại cảm thấy nỗi sợ mơ hồ dâng lên trong lòng. Kinh nguyệt của em đã bắt đầu xuất hiện từ nhiều tháng qua, tăm tối và máu me, đúng như những gì em đã tưởng tượng. Em chưa từng kể cho ai. “Con sẽ không lo lắng đâu,” em gật đầu.
“Ôi, Daisy của mẹ,” mẹ em đột nhiên thốt lên. “Daisy trong ánh mặt trời của mẹ,” và dường như lại thu mình trở lại trong bóng tối. Nhưng rồi khi họ rời nhau ra trên sân ga, mẹ bước thẳng vào vùng ánh nắng và vẫy chào tạm biệt hai anh em.
Chuyến tàu thật tuyệt vời. Những người khách ít ỏi đều ở trong cabin của họ với tấm rèm kéo xuống. Không có bóng râm trong toa ăn uống, không ai bảo Daisy phải ra khỏi nơi có mặt trời. Em ngồi trong toa ăn uống vắng vẻ và nhìn ra ô cửa sổ rộng. Đoàn tàu chạy băng băng qua rừng, những khu rừng thông, rừng dương cao lớn và thưa thớt. Nắng lấp lánh chiếu xuống chỗ Daisy—ánh sáng rồi bóng tối rồi lại ánh sáng, tất cả lướt qua gương mặt em. Em và anh trai gọi một cốc sữa lắc cùng món tráng miệng và không ai nói gì hai anh em cả.
Anh trai đã đọc to cuốn sách viết về mặt trời cho em nghe. “Em có biết ở trong lòng mặt trời là như thế nào không?” anh hỏi em. Có. Chúng ta sẽ lại đứng cạnh những xô xẻng và những ngón chân trần chôn dưới cát, lại trở về làm một đứa trẻ, không sợ hãi, nheo mắt nhìn ánh nắng vàng.
“Không,” em đáp.
“Ngay cả các nguyên tử cũng không còn nguyên vẹn trong lòng mặt trời. Nơi đó quá chật chội tới mức chúng va đập vào nhau mọi lúc, va rồi lại va rồi lại va vào nhau, như vậy đó, và các electron sẽ thoát ra ngoài, di chuyển tự do. Đôi lúc khi va chạm xảy ra, vụ va chạm sẽ phát ra một tia X, truyền đi với vận tốc ánh sáng, giống như những quả bóng trong trò pinball vậy đó. Binh-bang-binh, mãi tới tận bề mặt mặt trời.”
“Tại sao anh vẫn đọc những cuốn sách đó nhỉ? Để tự dọa mình à?”
“Không. Để dọa mẹ.” Đó là một lời thú nhận khá táo bạo, thậm chí còn không phù hợp với cả sự tự do ở nhà bà, chỉ nên nói trên tàu. Em cười với anh trai.
“Em còn chẳng sợ, có phải không?”
Em cảm thấy mình có nghĩa vụ phải đáp lại bằng một câu trả lời trung thực không kém. “Không,” em nói, “không hề.”
“Tại sao không?”
Bởi vì chuyện đó sẽ không đau đớn. Bởi vì sau đó em sẽ chẳng còn nhớ gì.
Bởi vì em sẽ đứng trong ánh mặt trời với những xô xẻng và nhìn lên và không sợ hãi. “Em không biết,” Daisy nói. “Chỉ là em không sợ thôi.”
“Anh thì có. Anh mơ thấy mình bốc cháy mỗi ngày. Anh nghĩ về việc những ngón tay bốc cháy thì sẽ đau đớn thế nào và rồi anh cứ mơ về cơn đau ấy kéo dài mãi mãi.” Anh trai cũng đã nói dối mẹ về những giấc mơ.
“Nó sẽ không như vậy đâu,” Daisy bảo. “Chúng ta sẽ còn chẳng biết nó xảy ra lúc nào. Chúng ta sẽ không nhớ gì cả.”
“Khi mặt trời bùng nổ, nó sẽ bắt đầu tự đốt mình. Phần lõi sẽ ngập đầy tro của các nguyên tử, và điều đó khiến cho mặt trời sử dụng nhiên liệu của chính nó. Em có biết rằng ở trong lòng mặt trời luôn tối đen như mực không? Nghe này, bức xạ ở trong đó toàn là tia X, và bước sóng của chúng quá ngắn để mắt thường có thể nhìn thấy được. Chúng vô hình. Chỉ có bóng tối và tro bụi rơi quanh em. Em có tưởng tượng được không?”
“Chẳng quan trọng.” Họ đang đi qua một đồng cỏ và gương mặt Daisy ngập tràn ánh nắng. “Chúng ta sẽ không ở đó. Chúng ta sẽ chết rồi. Chúng ta sẽ không nhớ gì cả.”
Daisy đã không nhận ra mình sẽ nhẹ nhõm thế nào khi gặp được bà mình, với gương mặt gầy gò cháy nắng và cánh tay trần. Bà còn không đội cả mũ. “Daisy, cháu yêu, cháu lớn quá rồi,” bà nói. Cách nói của bà không khiến điều đó giống như một bản án tử. “Và David, bà thấy có vẻ cháu vẫn lúc nào cũng chúi mũi vào sách nhỉ.”
Trời đã nhập nhoạng tối khi họ về tới căn nhà nhỏ của bà. “Kia là gì thế ạ?” David hỏi, khi đứng trên hiên nhà.
Giọng nói của bà không hề lên cao một cách đáng sợ. “Bắc cực quang đấy cháu. Dạo gần đây bầu trời ở vùng này trình diễn nhiều màn lạ lùng lắm. Cứ như ngày Bốn tháng Bảy vậy.”
Daisy đã không nhận ra em khao khát được gặp một người không sợ hãi đến mức nào. Em ngước lên. Những bức màn ánh sáng màu đỏ cuồn cuộn lên tới tận đỉnh trời, phấp phới bay trong cơn gió mặt trời nào đó. “Đẹp thật,” em thì thầm, nhưng bà vẫn đang giữ cửa cho em, và em sung sướng nhìn ánh sáng phản chiếu trong đôi mắt bà, em đi theo bà vào căn bếp nhỏ với chiếc bàn phủ vải sơn đỏ và rèm cửa màu đỏ treo trên cửa sổ.
“Thật vui khi có hai cháu đến chơi,” bà vừa nói vừa trèo lên ghế. “Daisy, giữ đầu này cho bà, được chứ?” Bà thả một đầu của chiếc thước dây màu vàng xuống cho Daisy. Daisy cầm lấy nó, lo lắng nhìn bà mình. “Bà đang làm gì thế ạ?” em hỏi.
“Đo cửa sổ để làm rèm mới, cháu yêu à,” bà nói, một tay thò vào trong túi lấy ra một tờ giấy và một cây bút chì. “Chiều dài là bao nhiêu, Daisy?”
“Tại sao bà lại cần rèm mới?” Daisy hỏi. “Những tấm rèm này với cháu trông cũng ổn mà.”
“Chúng không ngăn được ánh mặt trời,” bà nói. Đôi mắt bà đã tối sầm lại trong nỗi sợ. Giọng bà cao lên theo từng từ một. “Chúng ta phải có rèm mới, Daisy à, và ở đây không có vải. Toàn bộ thị trấn đều không có vải, Daisy à. Cháu có tưởng tượng được không? Bà phải đặt ở tận Ottawa. Người ta mua hết vải trong thị trấn rồi. Cháu có tưởng tượng được điều đó không, hả Daisy?
“Có ạ,” Daisy nói, và ước rằng mình có thể sợ hãi.
Ron vẫn nắm chặt tay em. Em kiên định nhìn sang anh ta. “Ấm hơn, Daisy à,” anh ta nói. “Gần đến nơi rồi.”
“Vâng,” em nói.
Anh ta gỡ những ngón tay ra và đứng lên khỏi chiếc đi văng. Anh bước qua đám đông trong căn phòng phòng khách màu xanh lam và ra khỏi cửa ngoài trời tuyết. Em cố gắng không trở về phòng mình. Em quan sát tất cả bọn họ, đám người lạ mặt trong những chuyển động bất tận, anh trai em vừa bước đi vừa đọc sách, bà em đứng trên một chiếc ghế, và những ký ức đến với em dễ dàng, không hề đau đớn.
“Em muốn xem cái này không?” anh trai em hỏi.
Daisy đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cả ngày hôm đó ánh sáng nhấp nháy, mặc dù bên ngoài khá yên tĩnh và im ắng. Bà đã vào trong thị trấn để kiểm tra xem vải may rèm đã được chuyển đến chưa. Daisy không trả lời anh mình.
Anh trai đẩy cuốn sách đến trước mặt em. “Đây là một tai lửa mặt trời,” anh nói. Những bức ảnh có màu đen trắng, giống như những bức hình chụp nhanh đã lỗi thời, chỉ là bên dưới ảnh, thay vì dòng chữ mực trắng nguệch ngoạc của mẹ, người ta viết, “Đài thiên văn độ cao, Boulder, Colorado.”
“Nó được tạo thành bởi sự phun trào khí nóng lên cao đến hàng trăm nghìn bộ.”
“Không,” Daisy nói, đặt cuốn sách lên đùi mình. “Đó là chiếc vòng vàng của em. Em thấy nó trong giấc mơ.”
Em lật sang trang sau.
David dựa vào vai em và đưa tay chỉ. “Đây là vụ phun trào lớn vào năm 1946, dầu hiệu đầu tiên của sự không ổn định của mặt trời, chỉ là ngày ấy họ chưa biết về điều này. Nó nặng cả nghìn tấn. Cột khí vươn xa đến hàng triệu dặm.”
Daisy ôm cuốn sách vào lòng như thể ôm lấy bức ảnh của một người thân yêu.
“Nó chỉ nổ bùm, và toàn bộ lượng khí ga này bay ra ngoài không gian. Hồi đó có tất cả các thể loại—”
“Đây là con gấu vàng của em,” em ngắt lời anh trai. Cánh tay lửa lớn vươn ra một cách lười nhác từ bề mặt màu đen của mặt trời trong bức ảnh, cánh tay hoang dã và mượt mà của khí lửa.”
“Đây là những thứ mà em đã nằm mơ sao?” anh trai em hỏi. “Đây là những thứ em từng kể với anh à?” Giọng nói của anh ngày càng lên cao. “Anh tưởng em từng nói những giấc mơ của em đều rất đẹp.”
“Chúng thực sự là vậy,” Daisy nói.
Anh trai kéo cuốn sách ra khỏi tay em và giận dữ lật giở đến một sơ đồ được tô màu trên nền đen. Trên trang giấy một quả bóng màu đỏ sáng với những vòng tròn đồng tâm bên trong. “Đây,” anh nói, đặt cuốn sách vào tay Daisy. “Đây là điều sẽ xảy ra với chúng ta.” Anh đập mạnh vào một trong những vòng tròn bên trong quả bóng màu đỏ. “Đó là chúng ta. Đó là chúng ta đấy! Bên trong mặt trời! Sao em không mơ về điều đó nhỉ?”
Rồi anh đóng sầm cuốn sách lại.
“Nhưng chúng ta đều sẽ chết, nên điều đó không quan trọng,” Daisy nói. “Nó sẽ không đau. Chúng ta sẽ không còn nhớ gì cả.”
“Đó là cách nghĩ của em! Em cứ nghĩ là mình biết tất cả. Nói cho em nhé, em chẳng biết gì cả. Anh từng đọc một cuốn sách về điều rồi, và em biết nó viết gì không? Người ta còn chẳng rõ ký ức là gì. Người ta nghĩ rằng nó còn chẳng nằm trong tế bào não. Rằng nó được chứa đựng trong những nguyên tử ở đâu đó, và ngay cả khi chúng ta nổ tung, những ký ức vẫn còn. Sẽ ra sao nếu chúng ta bị mặt trời thiêu đốt và vẫn còn nhớ? Sẽ ra sao nếu chúng ta cứ bị thiêu đốt và thiêu đốt và vẫn cứ nhớ và nhớ mãi mãi?
Daisy nói nhẹ, “Anh ấy sẽ không làm vậy đâu. Anh ấy sẽ không làm đau chúng ta.” Khi em đứng chôn chân trong cát và nhìn về anh ấy, chẳng có nỗi sợ, chỉ có những điều kỳ diệu. “Anh ấy—”
“Em điên rồi!” anh trai em hét lên. “Em biết không? Em điên rồi. Em nói về anh ấy như thể đang nói về người yêu của em hay gì vậy. Đó là mặt trời, vầng mặt trời tuyệt diệu sẽ giết chết tất cả chúng ta!” Anh trai giật mạnh cuốn sách khỏi tay em. Anh đang khóc.
“Em xin lỗi,” Daisy định nói, nhưng rồi đúng lúc đó bà bước vào, đầu để trần, mái tóc xõa quanh gương mặt gầy gò, rám nắng.
“Họ mang nguyên liệu đến rồi,” bà nói một cách vui vẻ. “Bà đã mua đủ cho tất cả các cửa sổ.” Bà đặt xuống hai túi vải bông kẻ đỏ. Chúng cuộn sóng trên mặt bàn nom tựa bắc cực quang, sắc đỏ chồng lên sắc đỏ. “Bà tưởng họ còn không bao giờ giao vải tới.”
Daisy vươn tay chạm vào chúng.
Em ngồi đợi anh ta trên chiếc bàn ăn phủ vải gấm thêu hoa trắng trong toa ăn uống. Anh ta ngần ngừ một thoáng ở phía ô cửa phủ đầy tuyết xám như tro, rồi vui vẻ bước vào, khe khẽ hát.
“Daisy, Daisy, nói cho anh giả thuyết của em đi [1],” anh ta hát. Hai tay anh ta ôm một súc vải đỏ. Những súc vải cuộn sóng khi anh ta đưa nó cho bà em—bà vẫn đang đứng trên ghế, vui mừng tột độ, những mẩu giấy và chiếc thước dây màu vàng đã rơi khỏi tay bà mãi mãi.
Daisy bước tới và đứng trước mặt anh ta.
“Daisy, Daisy,” anh ta lại vui vẻ cất lời. “Nói cho anh—”
Em đặt tay lên ngực anh ta. “Không có giả thuyết gì cả,” em nói. “Tôi biết rồi.”
“Mọi thứ chứ, hả Daisy?” Anh ta lại cười cái nụ cười nửa miệng dễ dàng ấy, và em buồn bã nghĩ rằng kể cả khi đã biết, em vẫn không thể nhìn thấy bản chất của anh ta, mà ch�� là chàng trai làm việc ở cửa hàng tạp hóa, chàng trai vẫn luôn biết tất cả.
“Không, nhưng tôi nghĩ là tôi biết.” Em giữ chặt tay mình trên lồng ngực bỏng rát của anh ta. “Tôi không nghĩ chúng tôi còn là con người nữa. Tôi không chắc chúng tôi là thứ gì—có lẽ là những nguyên tử đã bị tước mất các electron, va đập vào nhau không ngừng trong lõi của mặt trời trong khi nó tự đốt cháy thành tro giữa cơn bão tuyết bất tận ở trung tâm của nó.”
Gương mặt anh ta không cho em một gợi ý nào. Anh ta vẫn cười tự tin và dễ dãi. “Còn anh thì sao, Daisy?” anh ta hỏi.
“Tôi nghĩ anh là con gấu vàng của tôi, là chiếc vòng vàng của tôi, tôi nghĩ anh là Ra, cái tên không có phụ âm cuối, là Ra người vẫn biết tất cả.”
“Còn em là ai?”
“Em là Daisy, người yêu mặt trời.”
Anh ta không cười, không thay đổi nét mặt giễu cợt. Nhưng bàn tay rám nắng của anh ta nắm lấy tay em, vẫn đang đặt trên ngực anh ta.
“Giờ đây em sẽ ra sao, một tia X chạy loanh quanh tới tận bề mặt trước khi biến thành ánh sáng? Anh sẽ đưa em tới đâu khi đã có được em? Tới sao Thổ, nơi vầng dương chiếu lên những vành đai lạnh lẽo cho tới khi chúng tan chảy trong niềm hân hoan? Có phải anh đang chiếu sáng ở đó không, trên sao Thổ ấy? Anh có sẽ đưa em tới đó không? Hay chúng ta sẽ đứng mãi ở nơi này, em với những xô xẻng và nheo mắt nhìn về phía anh?”
Một cách chậm rãi, anh ta trả lại hai bàn tay cho em. “Em muốn đi đâu, Daisy?”
Bà của em vẫn đứng trên ghế, ôm lấy chồng vải như thể chúng là một thứ phước lành. Daisy vươn tay ra để chạm vào lớp vải, điều em đã làm khi mặt trời bùng nổ. Em ngẩng đầu cười với bà mình. “Vải đẹp lắm bà ạ,” em nói. “Cháu rất mừng vì họ đã giao nó tới.”
Em đột ngột cúi người về phía ô cửa sổ và kéo tấm rèm nhạt màu sang một bên như trong suy nghĩ, bởi em biết rằng em có thể sẽ được ban cho một hình ảnh nào đó, được nhìn thấy trong khoảnh khắc cô gái nhỏ với lồng ngực và chiếc bụng của một đứa trẻ; … có thể nhìn thấy em như thứ em thực sự là: Daisy, trong ánh mặt trời. Nhưng tất cả những gì em thấy là tuyết rơi vô tận.
Anh trai em đang đọc sách trên chiếc đi văng xanh trong phòng khách của mẹ. Em đứng bên cạnh anh trai, nhìn anh mình. “Giờ em đã biết sợ rồi,” Daisy nói, nhưng khuôn mặt đang nhìn lại về phía em không phải của anh trai em.
Được rồi, Daisy nghĩ. Không ai trong số bọn họ giúp được gì. Chẳng quan trọng. Mình đã đối diện với nỗi sợ và tình yêu của mình và hai thứ đó là một.
“Được rồi,” Daisy nói, và quay lại nhìn Ron. “Em muốn đi loanh quanh. Với phần mui xe để mở.” Em dừng lại và nheo mắt nhìn anh ta. “Em yêu mặt trời,” em bổ sung thêm.
Khi Ron đặt hai tay lên vai em, em không lùi lại. Tay anh ta đặt lên ngực em và anh ta cúi xuống hôn em.
Hết
•| ⊱✿⊰ |•
Chú thích của người dịch
[1] Daisy, Daisy, nói cho anh giả thuyết của em đi: Bản tiếng Anh là Daisy, Daisy, tell me your theory do, được cải biên từ câu hát Daisy, Daisy, give me your answer do nằm trong ca khúc Daisy Bell (Bicycle Built for Two) của Harry Dacre.
•| ⊱✿⊰ |•
Biên dịch & biên tập: Nhi
•| ⊱✿⊰ |•
Tác giả Connie Willis (Ảnh: WIRED)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Tuyết rơi vĩnh hằng - E. Lily Yu
Tumblr media
Về tác giả
E. Lily Yu là một tác giả viết truyện giả tưởng tự biện người Mỹ. Cô có khoảng hơn ba mươi truyện ngắn được đăng tải trên các tạp chí điện tử. Các tác phẩm của cô đã từng lọt vào danh sách đề cử cho các giải thưởng lớn như Hugo, Nebula, Locus, Sturgeon, và World Fantasy.
Bạn có thể tới thăm cô tại trang web elilyyu.com.
Về tác phẩm
Tuyết rơi vĩnh hằng (tựa gốc: The Time Invariance of Snow) là một truyện ngắn của E. Lily Yu, đăng tải trên tạp chí Tor ngày 18/12/2019.
Trước khi bạn bắt đầu đọc truyện ngắn này, nhóm dịch khuyên bạn nên đọc trước Bà Chúa Tuyết của Hans Christian Andersen để có thể hiểu hết được những sáng tạo của E. Lily Yu, cũng như những ý nghĩa mới mà cô muốn truyền tải thông qua Tuyết rơi vĩnh hằng.
───※ ·❆· ※───
1. Ác quỷ và nhà vật lý học
Ngày xửa ngày xưa (1), Ác quỷ chế ra một tấm gương (2), bởi tính tình của quỷ ta phù phiếm. Khi nhìn vào tấm gương ấy, một số người sẽ hiện lên to lớn gấp đôi, mạnh mẽ gấp đôi, tốt đẹp và nhân từ gấp sáu lần bản chất của họ; còn những người khác lại thấy tầm vóc của mình chỉ bằng một phần mười tầm vóc thường ngày, những phẩm chất sáng chói trong họ bị bôi nhọ và trở nên dơ bẩn, vậy nên nếu ai đó nhìn họ qua tấm gương của quỷ, sẽ chỉ thấy họ thật vô dụng và đáng khinh.
Ác quỷ đầy tự mãn ngắm mình trong gương, đám lâu la cũng bâu lại, vênh váo và ngưỡng mộ hắn. Nỗi hân hoan của bọn chúng vang dội khắp các tầng địa ngục.
Cuối cùng, một nhà vật lý học đến, sử dụng các tinh thể cobalt và ceri magie phóng xạ để tìm cách thử nghiệm tính bất biến của đối xứng; cụ thể là, xác định xem liệu các quy tắc vật lý có được phản ánh trong một vũ trụ gương hay không. Khi cô chạm vào bề mặt nó, kiểm tra bí ẩn của thế giới bên trong nó mà chứng minh rằng đối xứng không tồn tại và rằng tính ngang bằng trên thực tế đã không được bảo tồn, cô đã vô tình làm vỡ tấm gương của quỷ.
Cũng như mọi phương trình cơ bản của cơ học lượng tử, như chính bản thân Chúa, Ác quỷ là một phương trình bất biến theo thời gian (3). Sự kiện tấm gương vỡ vụn nhanh chóng lan qua các trường nón ánh sáng, cả gần lẫn xa, cho tới khi bản thân sự vỡ vụn trở thành một sự thật vĩnh cửu, bất di bất dịch. Những mảnh vỡ của tấm gương bay đến quá khứ, hiện tại và tương lai, bám dính và cắt rời, như thể bụi sao hay các lưỡi dao cạo vậy. 
Tất cả những ai bị mảnh vỡ của tấm gương vướng vào mắt (4) đều sẽ nhìn nhận thế giới một cách méo mó. Một số cho rằng họ giá trị và xứng đáng hơn những người còn lại và, khi đã hài lòng với hiểu biết này, bước ra ngoài và chiếm lấy bất cứ thứ gì họ muốn, dù là vợ lẽ hay nô lệ, đất đai hay đế quốc.
Một số khác lại thấy bản thân vô giá trị. Trước cảnh tượng ấy, bất cứ ước mơ đẹp đẽ nào cũng đều lụi tàn trong lòng họ.
Những người còn lại, với sự nhạy bén đặc biệt, cảm nhận được sự hiện diện của mảnh vỡ, bởi một phần vốn chậm chạp và tự ti trong tâm hồn họ đã khăng khăng rằng thứ đó chưa từng tồn tại trước đây. Trong số này, một vài người cố gắng dùng dao khoét mảnh vỡ ra, mặc dù mảnh vỡ không có cấu trúc vật lý và không thể bị loại bỏ bằng cách này. Một số ít hơn làm ra những chiếc kính mỏng và bền chắc cho tâm hồn, để điều chỉnh lại cách nhìn nhận của nó, và kể từ đó chấp nhận sống trong sự sáng tỏ cô độc.
Đây là cách mà tấm gương của quỷ hoạt động:
Một người đàn bà cảnh báo rằng cả tòa thành đang trên bờ vực sụp đổ, quân địch đang dùng mưu kế xâm nhập vào thành, và bạn bè lẫn người thân đều cười nhạo cô ta.
Tòa thành cháy rụi.
Người đàn bà ấy bị làm nhục, rồi bị làm nhục lần nữa, cuối cùng bị giết chết.
Một người đàn bà đứng trước những người đàn ông sau này sẽ trở thành quan chấp chính và nói, xin hãy tin tôi, tôi bị người đàn ông này cưỡng bức. Để được tin tưởng, nàng dùng dao găm tự đâm vào tim mình.
Một người phụ nữ đứng trước các thượng nghị sĩ và nói, hãy tin tôi, tôi đã—
Một người phụ nữ đứng trước các thượng nghị sĩ và nói, hãy tin—
Một người phụ nữ da đen nói, xin hãy lắng nghe, và không ai lắng nghe.
Một đứa trẻ vốn lầm lì đã khóc, và không ai dỗ dành cậu bé.
Một người vẽ bản đồ thờ ơ đã chia tách đất nước của người khác thành những cuộc chiến bất tận.
Nhà vật lý học chết. Một đồng nghiệp nam của bà được trao giải Nobel (5).
Ác quỷ nhìn vào thành quả của mình, và phá lên cười.
───※ ·❆· ※───
2. K. và G.
Trời đang vào hè, những đóa hồng tỏa ngát hương thơm. K. đã cảm hóa được G. bằng một sự ân cần tùy tiện, cũng như cách đám con trai thuần hóa loài cáo, dẫu cô vẫn luôn đề phòng cảnh giác, biết rõ bản chất bạo lực của đàn ông. Giờ đây G. ngả đầu lên vai K., họ cùng nhau hít thở bầu không khí êm dịu ngọt ngào trong sự lười nhác mà chỉ mùa hè mới có thể đem lại. Hai người họ không còn trẻ; nhưng cũng chưa hẳn đã già.
Nếu anh có ý định giết em, K. mơ màng nói, anh sẽ trói em lại khi em đang ngủ, đóng đinh em vào một cái hộp dễ vỡ, và đẩy cái hộp đó từ trên chiếc ô tô đang chạy vận tốc bảy mươi dặm vào giữa làn xe tải. Khi chiếc hộp rơi xuống mặt đường, những mảnh vỡ sẽ găm thẳng vào người em.
G im lặng một lúc lâu.
Cuối cùng cô nói: Khi anh mô tả việc giết em—
Thì?
Em thấy sợ.
K. nói: Anh chỉ đùa thôi.
G. nói: Nhưng em vẫn sợ.
K. nói: Anh có ý tốt mà. Em muốn cái quái gì cơ chứ?
G. nói: Chỉ cần anh nói xin lỗi thôi.
Anh không thể tin em lại làm lớn chuyện như vậy.
Anh có biết rằng—
Ừ, anh rất tiếc vì phụ nữ thỉnh thoảng vẫn bị nam giới hãm hại. Nhưng chuyện bắt bẻ của em cũng thật điên rồ.
Những lời này là của mảnh kính vỡ.
Cái gì cơ?
Mảnh kính bạc trong mắt anh và mắt em.
K. đẩy chiếc ghế anh đang ngồi mạnh đến nỗi nó gần như lật nghiêng.
Cả hai chúng ta cùng gây ra chuyện này. Em phải biết kiên nhẫn và ân cần hơn với anh chứ.
G. nói: Em không thể.
Được thôi, K. vừa nói vừa dậm mạnh chân xuống đất. Một luồng gió đông thổi qua giữa họ. Những cành hồng quắt lại và phủ đầy sương giá, những đóa hoa mới rồi còn bừng nở thâm đen lại rồi héo rũ.
Anh đi đây, K. nói. Giọng anh đã lạnh như băng.
G. nói: Em biết chuyện gì sẽ xảy ra. Em sẽ đi theo anh xuống suối và ở nhà phù thủy, lạc đến một cung điện và băng qua cánh rừng của bọn cướp, và cuối cùng sẽ đi chân trần trên tuyết vào trong sảnh đường băng giá, để rồi tìm thấy anh đang ngồi xếp băng trên cái hồ mà họ gọi là Mặt gương của Lý trí.
Em sẽ chạy tới đó, nghĩ rằng mình đang giải cứu anh. Rằng nước mắt của em sẽ rửa trôi mảnh vỡ trong mắt anh và làm tan chảy băng giá trong tim anh. Rằng lời nguyền của Bà Chúa Tuyết sẽ được hóa giải, và anh sẽ được tự do.
Nhưng khi đến nơi, em sẽ thấy chẳng có Bà Chúa Tuyết, chẳng có bùa mê, và chẳng có người phụ nữ độc ác xinh đẹp nào đã bắt cóc anh đi.
Chỉ có anh thôi.
Chính anh là người lựa chọn sự giả dối lạnh lùng thay vì một cuộc sống chân thật.
Em biết, vì em không còn là trẻ con nữa, và em đã từng đi theo con đường này rồi.
Em sẽ không quay lại nữa đâu.
Những lời ấy của G. vang lên giữa không gian mùa hè, nhưng ch��ng có ai ở xung quanh để nghe cô nói.
───※ ·❆· ※───
3. Bầy quạ
Hoàng tử và công chúa, giờ đây đã là đức vua và nữ hoàng, không có nhà. Bầy quạ được thuần hóa trong cung điện đã chết từ lâu.
Giờ đây không còn con quạ nào trong rừng già còn biết đến cô. Chúng kêu ầm ĩ khi G. đi qua. 
Đồ mạo danh!
Đứa giả tạo!
Kẻ lợi dụng!
Con điếm!
Đồ vô dụng!
Đồ bị ruồng bỏ!
Đồ vứt đi!
Chết đi!
Ôi, trật tự nào, G. nói, và tiếp tục cất bước.
───※ ·❆· ※───
4. Nữ tướng cướp
Đằng ấy quay lại rồi à, nữ tướng cướp nói, tay vẫn bận rộn mài đầu nhọn của dụng cụ mở thư vào cạnh bàn. Tớ không nghĩ có ngày còn được nhìn mặt đằng ấy cơ đấy.
Cậu không nhận được bưu thiếp của tớ sao? G. vừa hỏi vừa ngồi xuống bên cạnh.
Văn phòng tối hơn trong trí nhớ của cô, mặc dù họ đang ở trên tầng thứ một trăm. Bên ngoài, những tòa nhà sin sít lại, như cây cối vậy.
Đằng ấy biết tớ vẫn lọc thư mà.
Tớ biết là những người đưa thư và nhân viên bưu điện sẽ không dám dừng lại ở cái chốn này. 
Nữ tướng cướp nói: Tớ làm tốt việc của mình.
Tớ có nghe nói điều đó. Tớ rất hãnh diện vì đã ngày ấy đã quen được cậu. 
Kể hết đi, nữ tướng cướp nói, không tớ sẽ dùng dao găm cù vào cổ đằng ấy để ôn lại kỷ niệm xưa đấy. Lần này ít nhất cũng phải đẹp trai chứ? Bởi vì anh chàng lần trước—trời ạ. Anh ta có nấu ăn không? Anh ta có dọn dẹp không? Xin đằng ấy đấy, hãy nói với tớ là lần này đằng ấy tìm được một người xứng đáng đi. Trà hay whiskey nào?
Theodora à, G. nói, cậu có thể vừa vui vẻ lại vừa dữ tợn. Làm sao mà cậu được như vậy?
Yêu họ, hoặc bỏ mặc họ. Đôi khi tớ còn để cho họ sống. Nhưng một khi đằng ấy đã nếm qua mùi vị trái tim còn đang đập của của một người đàn ông thì—
Quên anh ta đi, G. nói.
Vậy là có một anh ta nào đó hả.
Chuyện đó là sai lầm. Nhưng tớ không đến đây để kể lể. Tớ đến xin việc.
Đây không phải Liên hiệp quốc, G. à. Bọn tớ làm những việc bẩn thỉu, máu me. Những việc sẽ khiến tớ bị treo cổ, nếu có ngày bị tóm.
Cậu có sức mạnh, G. nói. Tớ không biết làm cách nào mà cậu làm được. Cầm con dao trong tay, toàn quyền định đoạt số phận kẻ khác. Hãy dạy cho tớ.
Của tớ chỉ là thứ sức mạnh thô sơ và tầm thường, nữ tướng cướp nói. Những gì đằng ấy sở hữu lớn lao hơn thế rất nhiều.
Tớ chẳng có gì hết.
Im miệng đi, hoặc là tớ sẽ chặt đứt những ngón tay nhỏ xinh của đằng ấy để đằng ấy khỏi quên đấy. Tớ không chắc vì sao hay khi nào đằng ấy có được nó. Có thể là bầy quạ dạy cho đằng ấy, mà cũng có thể là mấy bà lão người Lapland kia. Mắt đằng ấy có thể nhìn thẳng vào bên trong tâm hồn. Lời nói của đằng ấy như dao cắt thấu vào tận xương. Tâm địa của đàn ông lẫn đàn bà đều bị lột trần trước mặt đằng ấy. Bây giờ, chỉ cần đằng ấy sử dụng sức mạnh đó thôi, đằng ấy có thể hãm hại bất kỳ người nào đằng ấy ghét bằng những nỗi đau không bao giờ lành. Tớ sẽ cho đằng ấy ba con ngựa tốt nhất của tớ nếu đằng ấy làm được điều đó.
G. nói: Không.
Thú nhận đi, đó mới chính là hình dáng tâm hồn đằng ấy, dù đằng ấy có đeo hàng trăm thứ mặt nạ để che giấu nó.
Theodora, G. nói, tâm hồn cậu có hình một con chó sói, miệng nó dính máu và da nó dính bùn.
Thực sự là vậy! Và tớ chưa bao giờ che giấu điều này cả.
Cậu không định để tớ tham gia băng cướp thật à? Chỉ để lấy kinh nghiệm thôi ấy?
Đây là một món đầu tư, không phải quỹ từ thiện. À và nhân nói về chuyện đó, đằng ấy phải thanh toán vì khoảng thời gian tớ dành ra cho đằng ấy nhé. Phải giữ cho các khoản thu ổn định ấy mà.
Một ngày nào đó tớ có tiền, tớ sẽ trả cho cậu, G. nói.
Đằng ấy sẽ làm vậy.
───※ ·❆· ※───
5. Những bà lão người Lapland
Họ đã rất già, với vẻ ngoài còn cũ kỹ hơn cả thời gian: đôi mắt họ là những đại dương sao, ngón tay họ tựa những đầu mấu trên cây sồi cổ thụ. Họ đung đưa trên những chiếc ghế bập bênh bằng gỗ thích, đan những chiếc chăn có họa tiết hình con cá bạc từ một cuộn len bạc. Bầy cá tụ lại thành những đám mây bồng bềnh xung quanh chân họ.
G. nói: Cháu xin lỗi vì đã không đến thăm hay gọi điện sớm hơn.
Họ mỉm cười với cô và tiếp tục đung đưa. Từng con cá vẫn bơi ra từ đầu kim trên tay họ. 
G. nói: cháu chắc chắn là các bà có gia đình. Con gái hay con trai mang biếu hoa quả hoặc socola. Ai đó. Các bà nhất định phải có ai đó chứ.
Họ tiếp tục đung đưa.
Tôi có thể giúp gì được cô không? một điều dưỡng hỏi.
Họ là bạn cũ của tôi, G. nói, hơi đỏ mặt, bởi bao năm qua cô đã luôn im lặng và vắng bóng. Tôi đến để xin lời khuyên của họ.
Chúc may mắn. Họ đã không nói gì kể từ khi vào đây rồi. Và họ vào đây từ mười lăm năm trước.
G. nói: Lâu vậy sao?
Thời gian có thể khiến cô giật mình vậy đó. Khiến cô bầm dập trong con hẻm với một ký ức trống rỗng.
Họ có làm gì ngoài việc đan len không?
Bài bạc, điều dưỡng nói. Họ có thể làm gỏi cô trong hầu hết những trò bài xì phé, và họ nghiện bài bridge kinh khủng.
Vậy thì tôi sẽ ở lại và chơi bài với họ, nếu họ thích.
Cô sẽ hối hận đấy, điều dưỡng nói. Nhưng rồi chị ta vẫn lấy ra một cỗ bài.
Vừa nhìn thấy những quân bài, ba bà lão vội vàng cắm kim vào cuộn chỉ và đứng lên khỏi ghế bập bênh, chìa tay ra.
Sau đó G. đã chơi thua toàn bộ số tiền có trong ví, cái áo len cô đang mặc, cây thánh giá trên chiếc móc chìa khóa mà cô mang theo, và những chiếc khuy bằng kính đen trên áo khoác của cô.
Bà lão Lapland lớn tuổi nhất cầm lấy chiếc kéo và cắt hết chỗ khuy, một-hai-ba-bốn cái. Thế rồi bà ta nhặt lên từng nắm len bạc, hoàn thành từng phần một, rồi khâu vắt ba đám mây cá lại, mỗi đám một sắc độ bạc khác nhau, thành một tấm khăn choàng dài duy nhất. Bà choàng tấm khăn đó qua vai G.
Cảm ơn bà, G. nói. Cháu nghĩ vậy.
Cả ba bà lão Lapland đều nở nụ cười hiền từ, xa xăm.
Người điều dưỡng chỉ biết đứng đó gãi tai.
Cô chuẩn bị đến nơi nào đó lạnh hả? chị ta hỏi.
G. nói: Rất lạnh.
───※ ·❆· ※───
6. Bà Chúa Tuyết
Còn nhiều giờ nữa mới tới bình minh, thế giới vẫn chìm trong bóng đêm hoang vu và buồn thảm.
Vào một thời điểm nào đó trong quá khứ xa xôi, lớp băng dưới chân G. đã từng được cắt gọn thành những bậc thang dẫn một đường vòng lên đỉnh núi băng. Khi cô bước lên cầu thang, tuyết rơi dày trên mi mắt cô. Cô có tấm khăn đan từ những con cá bạc choàng quanh người để giữ hơi ấm và một đôi ủng mềm đi dưới chân. Cô không cần người dẫn đường, bởi cô đã thông thạo lối đi.
Trước khi ra đi, G. đã quỳ xuống cầu nguyện với tấm lòng thành khẩn như ngày cô còn nhỏ, và giờ đây lời cầu nguyện đó trượt ra khỏi tay cô như ngọn nến yếu ớt sắp tàn lụi.
Nơi đây là cung điện của Bà Chúa Tuyết: nhỏ hơn những gì cô vẫn nhớ, như thể bản thân cô ngày nhỏ đã phóng đại các chiều không gian của nó lên, hoặc là toàn bộ phần chái cung điện và các phòng ốc đều đã tan chảy. Hoa tuyết vẫn nở trên cửa sổ và mái hiên. Những máng thoát nước chạm khắc hình linh vật thu mình lại trong những bức tường.
Thu hết can đảm, G. mở cánh cổng dẫn vào cung điện. Hai bàn tay cô tái đi, rồi đỏ lên, trước cái lạnh.
Bên trong cung điện không một bóng người. Không có Bà Chúa. Không có K. Chỉ có chiếc ngai bỏ trống và mặt hồ đóng băng quen thuộc, bên trên là những mảnh băng xếp thành hai chữ Vĩnh cửu.
Tất cả đều im lặng.
Hơi thở từ đôi môi cô tụ thành những đám sương mỏng sáng lấp lánh.
G. bước qua sảnh đường, tiếng bước chân vang vọng. Chiếc ngai có lẽ đã được tạc từ viên kim cương lớn nhất thế giới. Cũng giống như bông hoa ly hay đoá sen, hình dáng chiếc ngai dâng lên thành một đầu nhọn ở trên cùng. Ánh cầu vồng rực rỡ trên những khe nứt gãy của nó.
Đặt giữa chỗ ngồi trên chiếc ngai là một chiếc vương miện nhỏ bằng kính tráng bạc.
G. cầm chiếc vương miện lên và xoay tròn nó trong tay. Trên toàn bộ vùng đất rộng lớn này, có lẽ vương miện là thứ duy nhất không lạnh giá.
Những chiếc gai bằng kính phản chiếu từng phần trên gương mặt cô: một vẻ chế giễu, một cái trừng mắt, một sự khinh thường.
Tất nhiên rồi, G. nói.
Những góc cạnh lởm chởm trong đời bỗng hiện lên chói lòa trước mắt cô. Trong thoáng chốc, cô có thể thấy chúng được xâu chuỗi lại thành cái từ bị quên lãng mà cô đã dành cả đời để theo đuổi, đã từng lướt qua, đã từng đến gần, nhưng chưa bao giờ nắm được trọn vẹn—
Bằng cách này hay cách khác, tấm gương của quỷ sẽ tạo ra một Bà Chúa Tuyết.
G. nâng chiếc vương miện lên quá đầu, cho phép bản thân trầm trồ trước cái cách sự sắc nhọn của nó tỏa thành hào quang, cách mà nó phản chiếu cô, xinh đẹp và tàn nhẫn. 
Và rồi cô đập thẳng nó xuống phần đỉnh nhọn của chiếc ngai kim cương.
Qua bảy chiều không gian, chiếc vương miện nứt ra rồi vỡ vụn. Những mảnh kính xuyên qua cổ tay và ngón tay G., bay lên cắm vào da mặt cô.
Khi máu của cô trào ra và sủi bọt, chúng đông cứng lại, và trên da G. bỗng chốc xuất hiện những viên hồng ngọc, những viên hồng ngọc và kim cương sáng chói hơn cả tuyết.
Và khi vương miện của Bà Chúa vỡ vụn, cả cung điện cũng nứt toác, từ đỉnh tới nền, như thể phần vỏ của hạt óc chó vậy.
Xung quanh chỉ còn bóng tối.
Trong bóng tối đó G. rơi, và thời gian cũng rơi thành hạt mịn như cát.
───※ ·❆· ※───
7. Sơ lược về Hans Christian Andersen và hiện trạng của ngành vật lý
Nếu coi vũ trụ là một tổng thể, bằng với tất cả những trạng thái khả thi của nó, thì vũ trụ bất biến theo thời gian. Khi quan niệm này được tìm ra và thấu hiểu ở mức độ toán học (6), người ta vừa đạt được lại vừa mất đi tự do. Chúng ta được giải thoát khỏi một thứ bùa mê, chỉ để sa chân vào một thứ bùa mê khác (7). Và trong khi loại bùa mê thứ nhất là một mặt hồ đông cứng chật chội nơi toàn bộ thế giới đến trượt băng và la hét, loại bùa mê thứ hai lại là một nơi yên tĩnh và cô độc (một vài người sẽ tả là linh thiêng), nơi mà chỉ những kẻ can đảm đi tới và chỉ những kẻ điên trở về.
Những ai đến được nơi thứ hai ấy hiểu rằng họ vốn đã được định sẵn phải đi tới bước đường này. Có thể họ than khóc. Cũng có thể họ ngợi ca Chúa.
Nào ai biết được? Và nào ai có thể nói được gì?
───※ ·❆· ※───
8. G. và Ác quỷ
Ở điểm cuối của cú rơi, G. thấy mình đang đứng mặt đối mặt với Ác quỷ.
Hắn đẹp, một cách sang trọng, sắc sảo như một tấm da đã được đánh bóng, với túi áo hình vuông và đôi mắt đen đầy tham vọng.
Ác quỷ nói: Ngươi đang mang tấm gương của ta trong da thịt, trên mái tóc của ngươi. Tấm ngươi mà ta đã làm ra. Chính ta.
Tại sao? G. hỏi, câu hỏi hàm chứa mọi nỗi khổ đau trên thế giới.
Ác quỷ nói: Bởi vì khi một kẻ cô đơn trong đau đớn, hắn sẽ tìm cách reo rắc nối đau đó để trở nên bớt cô đơn hơn. Cũng hợp lý mà.
Nhưng tại sao?
Khi một trái tim tăm tối nhìn thấy vinh quang, thứ vinh quang mà không trái tim nào trên đời có thể đạt được, thì toàn bộ kẻ mang trái tim đó sẽ hóa thành những suy nghĩ hủy diệt.
TẠI SAO?
Khi Ác quỷ tiếp tục cất tiếng, ngôn từ của hắn khéo léo, gương mặt hắn nhã nhặn, giọng nói của hắn làm yên lòng người, bọ cạp và rắn hổ lục bò ra khỏi túi áo hắn, quấn lấy nhau thành những sợi xích mỏng manh, vặn vẹo. Những sợi xích đó trườn tới, cuộn tròn và cố bám lấy cô.
Dẫu vậy, trong tay cô giờ đây là một chuôi kiếm, hai bên chuôi nạm hồng ngọc và kim cương. Trên ngực cô là một lớp vảy bạc dày. Và tay còn lại của cô cầm một tấm khiên đã được đánh bóng như gương.
Nếu Ác quỷ để ý điều đó, hắn cũng không bộc lộ cảm xúc gì.
Hãy nói cho ta sự thật, G. nói.
Hắn nói, Bởi vì ngươi xấu xí và hôm đó là một ngày thứ ba.
G. vung kiếm sang bên trái và cắt đứt một dây bọ cạp, rồi vung kiếm sang bên phải để chặt đôi một hàng rắn hổ lục. Xác rắn và bọ cạp rơi lả tả xung quanh cô. Trong thoáng chốc gương mặt của Ác quỷ đã không còn vẻ quyến rũ nữa.
Ngươi nghĩ ngươi có thể đánh lại được ta ư? hắn nói, giờ đây đã to lớn gấp mười lần và vẫn tiếp tục phình lên, cho tới khi móng chân út của hắn cao ngang đầu cô. Giọng nói của hắn bằng với tiếng mười triệu người cùng hô vang như sấm dậy.
G. nói: Ta đã từng nhìn thấy vĩnh cửu. Ta biết rằng ngươi đã thua rồi.
Và cô vung kiếm, lưỡi kiếm lóa lên sắc đỏ máu và ánh chớp.
Ác quỷ rú lên.
───※ ·❆· ※───
9. G. và K.
Mái tóc anh đã trắng xóa, và anh phải vừa đi vừa chống gậy, khập khiễng như một con hạc đang săn mồi trong đám lau sậy.
Mái tóc của chính cô cũng đã bạc, trên mặt và tay cô chi chít những vết sẹo.
Anh xin lỗi, anh nói.
Em biết anh hối hận mà.
Anh đã đi cả chặng đường dài này để nói với em.
Em biết anh sẽ đến mà, G. nói.
Em đã nhìn thấu trong anh. Anh không thể chịu được điều đó. Anh muốn em phải tổn thương, và anh đã làm vậy.
G. nói: Tất cả đã kết thúc rồi.
Đúng vậy.
K. nheo mắt nhìn cô như thể nhìn một vầng hào quang.
Anh thấy là em đã biến những mảnh kính của em thành một cây kiếm nhỉ.
Còn anh thì biến nó thành một cánh cửa.
Một sự xáo trộn của cả cuộc đời em. Một sự xáo trộn và một cuộc chiến. Cũng như anh đã sống qua những khởi đầu và kết thúc. Như anh đã nhượng bộ và chịu đựng.
Vậy là chúng ta cũng có ích đấy nhỉ.
Có, K. nói. Chúng ta có chứ.
Hết
───※ ·❆· ※───
Chú thích của tác giả
(1) Càng nhìn sâu vào vực thẳm của thời gian, ta càng hiểu được rằng không có cái gì gọi là ngày xửa ngày xưa, cũng không có một dòng thời gian tuần tự duy nhất nào, mà chỉ tồn tại một khối hỗn độn những sự kiện mang tính cục bộ trải dài từ sự không khả thi tới sự khả thi.
(2) Ở đây hình ảnh tấm gương chỉ mang tính tương đối, bởi hiện tượng đang được xét đến xảy ra ở tối thiểu là bảy chiều không gian; nhưng tấm gương là một phép ẩn dụ khá gần gũi và hữu ích.
(3) Thần học hy vọng tìm ra được một giới hạn mang tính cục bộ, nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh.
(4) Một phép giản lược hóa để mô tả một sự kiện lượng tử ảnh hưởng đến nhận thức thần kinh.
(5) Đây cũng là một phép giản lược hóa.
(6) S = k log W, nghĩa là, entropy có liên quan trực tiếp đến số trạng thái trong một hệ. Nếu chúng ta, bằng cách nào đó, có thể quan sát được tất cả các trạng thái vi mô khả thi của vũ trụ, S sẽ trở thành một hằng số.
(7) Hãy tưởng tượng một cậu bé ngồi ghép những mảnh băng của lý trí thành một bức tranh của sự vĩnh cửu. Phép ẩn dụ này không hề thiếu thốn chút nào.
───※ ·❆· ※───
Biên dịch & biên tập: Nhi
───※ ·❆· ※───
Tác giả E. Lily Yu (Ảnh: Facebook tác giả)
Tumblr media
Minh họa truyện Tuyết rơi vĩnh hằng trên tạp chí Tor
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Phi hành gia tiên cá - Yoon Ha Lee
Tumblr media
Về tác giả
Yoon Ha Lee (sinh năm 1979) là một tác giả người Mỹ. Kể từ năm 1999 đến nay, các truyện ngắn giả tưởng tự biện của anh đã được đăng tải trên nhiều tạp chí nổi tiếng. Năm 2016, anh xuất bản tiểu thuyết đầu tay Ninefox Gambit, phần đầu trong bộ ba tác phẩm Machineries of Empire và giành được giải thưởng Locus. Ngoài viết văn, anh còn có bằng thạc sĩ ngành giảng dạy toán học tại đại học Standford, từng là chuyên viên phân tích thị trường, nhà thiết kế website, và giáo viên toán. Hiện anh đang sống cùng gia đình tại bang Louisiana.
Bạn có thể ghé thăm website của anh tại yoonhalee.com.
Về tác phẩm
Phi hành gia tiên cá (tựa gốc: The Mermaid Astronaut) được đăng trên tạp chí điện tử Beneath Ceaseless Skies vào ngày 27/02/2020. Năm 2021, truyện đã được đề cử giải Hugo cho truyện ngắn xuất sắc nhất.
*
Ở một thế giới rộng lớn và kỳ thú trong một thiên hà rộng lớn và kỳ thú, có một nàng tiên cá. Nàng không phải là tiên cá duy nhất sống trong đại dương sâu thẳm và mơ mộng ở thế giới của mình. Toàn thể xã hội tiên cá chia sẻ quyền cai trị vùng biển với các ngài cá voi và hội đồng hải quỳ, trong số nhiều loài khác nữa. Nàng tiên cá đặc biệt này tự đặt tên cho mình là Essarala, nghĩa là tìm kiếm các vì sao theo ngôn ngữ của thủy triều và bọt biển.
Mẹ, các chị gái và anh em họ của Essarala  hiểu ý nghĩa của tên nàng, và đôi khi họ đến thảo luận với nàng về cái tên đó. Trong một lần như vậy, Essarala ngồi trên một tảng đá nhô lên khỏi mặt biển, những con sóng vỗ vào chiếc đuôi lốm đốm của nàng. Lúc ấy là ban đêm, và nàng khao khát nhìn lên các chòm sao và một hành tinh tỏa sáng có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nàng biết, những vì sao trong chòm sao đó là những mặt trời, giống mặt trời mà hành tinh của nàng quay quanh, một sự thật khiến nàng say mê nhưng không ai trong số người thân của cô thấy đặc biệt hứng thú cả.
“Chúng ta là những hoa tiêu chân chính và quyết liệt,” một trong những người em gái của nàng nói, tên cô ấy là Kiovasa, nghĩa là biển và trăng là bạn đồng hành của nhau - một cái tên thông thường, tiêu chuẩn, cứ sau vài thế hệ lại được đặt lại bởi những tiên cá có tư duy đúng đắn. Cô bơi thành những vòng tròn lười biếng xung quanh tảng đá của Essarala, chiếc đuôi sọc của cô quẫy nhẹ trên mặt nước. “Nhưng em sợ, Essarala à, sợ rằng chị đang muốn làm điều gì đó ngoài định hướng đơn giản.”
“Chị muốn tới thăm các vì sao,” Essarala nói. “Có nhiều thế giới khác ngoài kia. Tại sao cứ mãi phải tự giam hãm bản thân ở thế giới này, trong khi chị có thể đi thăm thú hằng hà sa số những thiên hà đang tồn tại?”
Kiovasa tinh nghịch hất nước về phía nàng. Essarala chấp nhận để em gái té nước với tâm trạng vui vẻ. Suy cho cùng, nàng chẳng việc gì phải sợ nước cả.
“Em không nghĩ đối với chị đó là vấn đề về sự giàu sang,” Kiovasa nói. “Nếu tất cả những gì chị muốn là giàu có, vậy thì, chúng em có thể  tìm cho chị nhiều của cải mà.”
Essaral phải thừa nhận rằng điều này là đúng. Những thủy thủ khi ra khơi đã dâng hiến rất nhiều cho biển cả, hoặc là những món lễ vật cầu may, hoặc bi thảm hơn, khi tàu họ bị chìm và hàng hóa của họ tràn ra đại dương. Kể từ khi Essarala chào đời, gia đình nàng đã chẳng hề ngần ngại trong việc nhận những món quà của họ, và khi Essarala lớn hơn, thích phiêu lưu hơn, nàng cũng tham gia vào các cuộc nhặt đồ để có thể tặng quà lại khi đến lượt mình. Hang động dưới biển của riêng nàng chứa đầy những vương miện không đối xứng nạm đá Spinel và ngọc bích, những chiếc mũ giáp đầu ngựa viền mạ vàng, những món đồ chạm khắc thuật lại sự hy sinh của các vị thần kỳ quái, và rất nhiều thứ khác nữa.
Nhưng những món quà này, dù có thiện chí và dù được đón nhận với lòng biết ơn đến đâu, cũng không thể làm dịu đi nỗi khao khát trong tim của Essarala mỗi khi cô nhìn lên bầu trời đêm đầy sao.
Kiovasa trò chuyện với Essarala thêm một lúc nữa và nhận ra rằng khao khát của Essarala chẳng thể lay chuyển nổi. Sau khi xác nhận được điều đó, Kiovasa cất tiếng hát tạm biệt và lặn xuống sâu, bơi đi nhanh, bỏ lại Essarala phía sau.
Essarala có lẽ vẫn sẽ mãi chìm đắm trong vùng đất của những giấc mơ, ngồi trên tảng đá của nàng và hoài công nhìn lên bầu trời vào những đêm quang đãng , nếu đoàn thương lái ấy không xuất hiện.
Các thương lái đến từ bầu trời trên một con tàu lớn làm bằng kim loại. Trông nó không giống những chiếc thuyền buồm,thuyền mành hay thuyền độc mộc có mái chèo mà các tiên cá vốn quen thuộc. Nhưng ngày đó, các tiên cá không thành thạo về đóng tàu lắm, nên điều này không quá làm họ lo lắng.
Con tàu hạ cánh xuống bờ biển của một hòn đảo phía trên rạn san hô, nơi gia đình Essarala đã sinh sống lâu đời. Từ trên tàu xuất hiện những sinh vật mà tiên cá chưa từng thấy trước đây, không ai giống ai. Một vài người trong số đó đi bằng hai chân và một số đi bằng sáu chân, vài người có sáu ngón tay và một số thì lại có xúc tu, một vài người có cuống mắt đang vẫy chào thân thiện, còn những người khác đều không có mắt cả.
Các thông dịch viên của tiên cá làm việc ngày đêm để giao tiếp với đám người mới tới này và tìm ra thứ mà họ muốn. Các vị khách đã hợp tác vào quá trình này, đưa ra tặng phẩm là những tấm vải dệt kim loại lóng lánh và những công cụ kỳ lạ giúp bắt cá hiệu quả hơn. Các tiên cá thích thú với món quà đầu tiên hơn,nên mỉm cười từ chối món sau. Sau cùng, họ đã ký hiệp ước với các tộc cá và không muốn vượt quá giới hạn của họ.
Essarala biết về các thương lái qua chuyện phiếm của anh em họ, và nàng đã nán lại gần mấy thông dịch viên, quan sát và ước ao. Nàng khao khát được khám phá con tàu của họ và yêu cầu họ đưa nàng đi cùng đến các vì sao. Nhưng càng lắng nghe, nàng càng học hỏi nhiều hơn, và có một điều trở nên rõ ràng: tàu của họ có thể mang theo nước cho thủy thủ đoàn uống, nhưng không chứa nước để một tiên cá sống được. Buồn bã vì trở ngại này, nàng rút lui, và ban đầu chẳng ai để ý đến việc đó cả.
Trong khi chờ đợi, các tiên cá và du khách học cách nói chuyện với nhau. Họ lên kế hoạch cho một bữa tiệc hoành tráng, bao gồm những món ăn ngon nhất của các tộc cá, cũng như những miếng nhím biển, hải sâm và món salad rong biển thơm ngon nhất. Về phần mình, những vị khách đã thực hiện bài kiểm tra kỳ lạ - để đảm bảo rằng họ không vô tình đầu độc bất kỳ ai, họ nói - và đóng góp những món ngon lạ lùng của riêng họ, một số giống trái cây, một số giống cá, và vài thức uống pha chế mà các tiên cá không có từ nào diễn tả được ngoài từ ngon lành.
Cuối cùng Kiovasa nhận ra rằng cô không thấy Essarala quanh quẩn bên các thương lái được một lúc rồi. Lo cho chị mình, cô đảm bảo rằng Essarala có một suất  tới dự bữa tiệc. Điều đó không khó - chẳng ai nghĩ đến chuyện bỏ mặc Essarala cả - nhưng Kiovasa đảm bảo rằng lời mời đó phải được viết tay trên một tảng băng ma thuật bởi một trong những nhà thư pháp bậc thầy của giới tiên cá, để càng có thể khơi gợi lại mối quan tâm của Essarala.
Kiovasa tìm thấy Essarala ngồi trên tảng đá của nàng như thường lệ. Tiết trời ôn hòa  một cách bất thường, nhờ sự nhã nhặn của tinh linh rồng bản địa, thế nhưng Essarala hầu như không chuyện trò với gia đình mình suốt cả tuần qua. Dù vậy, nàng không thể từ chối em gái mình.
Kiovasa đưa ra lời mời hấp dẫn dành cho cô. “Hãy đến chị nhé,” cô nói đầy dỗ dành, “chị sẽ nghe được nhiều chuyện hơn từ những vị khách phương xa, về những nơi họ thấy và những thứ họ ăn. Họ còn mang đến cả đồ ăn từ các vì sao.”
Essarala không phản ứng vui mừng như Kiovasa mong đợi. “Em gái yêu à,” cô nói, phiền muộn lật tấm thiệp mời trên tay, “Chị đã nghe những câu chuyện của họ. Và hơn cả vậy, chị còn nghe cả tiếng thì thầm của sóng và gió về con tàu kim loại này, và chúng đã xác nhận những gì em nghĩ. Con tàu chở đầy du khách từ các vì sao, đúng thế - nhưng bản thân con tàu thì không có nước để một tiên cá sống được.”
Kiovasa, đang bơi theo chiều kim đồng hồ xung quanh tảng đá, thì đổi hướng, ngẫm nghĩ. Chị cô nói đúng. Tất cả các thương lái đều là người sống trên đất liền.
“Dù sao thì chị vẫn nên đến,” Kiovasa nói. “Ít ra thì chị cũng sẽ được nhìn thoáng qua những thế giới xa xôi mà chị luôn yêu thích.”
“Không,” Essarala nói, quay mặt đi. “Chị sợ rằng một khi chị đã nghe được nhiều chuyện hơn, rồi lại các vị khách ấy bỏ lại - và họ sẽ rời đi, không phải sao? - chị sẽ càng không thể chịu đựng nổi.”
Đó là lý lẽ của một tiên cá trẻ tuổi. Nhưng phương thuốc duy nhất cho điều đó là thời gian, và thời gian là thứ họ có rất ít. “Nếu đã vậy,” Kiovasa nói, “chúng ta phải tìm đến các biện pháp quyết liệt hơn. Chúng ta phải đến thăm mụ phù thủy trú ngụ bên dưới những con sóng, và mụ ta sẽ có cách giải quyết”.
Mụ phù thủy bên dưới những con sóng sống trong đáy của một cái hang sâu", hang lớn và tối tăm đến nỗi ngay cả các tiên cá cũng chỉ miễn cưỡng đến thăm. Bầy cá lồng đèn thắp sáng lối xuống nơi ở của mụ phù thủy, và dẫu vậy, Kiovasa và Essarala vẫn phải cố gắng để nhìn thấy bất cứ thứ gì trong bóng tối âm u của vùng nước.
Cuối cùng họ cũng đến được nơi ở của mụ phù thủy. Những con giun và những tảng đá phát quang kỳ lạ đánh dấu lối vào. “Chúng tôi tới đây để xin bà một ân huệ,” Kiovasa gọi, giọng cô bị bóp méo bởi áp lực của nước.
Mãi một lúc lâu, tất cả những gì họ nghe được chỉ là sự im lặng. Và rồi giọng mụ phù thủy vọng từ trong ra: “Ta sẽ nghe từ người muốn có được điều ước.”
Essarala buông tay em gái và bơi về phía có giọng nói. Nàng không thể thấy được mụ phù thủy, và điều đó khiến nàng sợ hãi. “Là tôi,” nàng nói, gần như chỉ thì thầm. “Tôi muốn được thỉnh cầu những du khách đến từ vì sao cho tôi  gia nhập thủy thủ đoàn của họ.”
Ánh sáng dịu nhẹ thắp sáng nơi ở của phù thủy từ bên trong, bầy sâu sâu thức giấc và vặn vẹo. Thế nhưng, bản thân mụ phù thủy lại chỉ hiện hình như một bản phác họa bằng nét mực, như một nửa của chiếc bóng. Mụ đang cười, nhưng nụ cười của mụ thật buồn.
“Ngươi sẽ từ bỏ vùng biển mà ngươi biết, và gia đình ngươi, và những bài hát của hải âu, để khám phá thế giới bên ngoài sao?” mụ phù thủy hỏi.
“Tôi không nghĩ đó là điều xấu xa như vậy,” Essarala trả lời, “chỉ là muốn nhìn thấy thế giới mới và nếm thử vị nước của họ.”
“Độc ác thì không,” phù thủy nói. “Khó khăn thì có.”
“Nếu bà không thể giúp tôi-”
“Đó không phải là kiểu khó khăn mà ta muốn nói,” mụ nói. “Ta có thể cho ngươi đôi chân giống con người, ngươi có thể đi bộ trên đất liền, hoặc trên một boong tàu du hành giữa các vì sao. Tuy nhiên, phần còn lại - phần còn lại là tùy thuộc vào ngươi. Bởi, để du hành giữa các vì sao, ngươi cần nhiều hơn là một đôi chân. Ngươi sẽ phải tự làm quen với các cảnh báo của họ, đọc đồng hồ đo oxy, đề phòng khí quyển độc hại và các mầm bệnh ăn thịt, và đó mới chỉ là bước khởi đầu.”
“Ngươi được giáo dục tốt theo cách của người dân ngươi,” mụ phù thủy tiếp tục. “Ta chắc rằng ngươi có thể xác định được mọi loài cá trên biển qua cách chúng bơi, và các loài chim biển bằng bóng của chúng. Ngươi biết ngôn ngữ của mặt trăng khi nàng ta hát cho biển nghe và cách đọc chữ viết của mọi nền văn minh biết đóng tàu. Ngươi có thể đọc được sóng và gió. Nhưng nơi mà ngươi định đi, nó còn tối hơn cả cái vực sâu mà ta gọi là nhà, và không có gió trong không gian, cũng không có con sóng nào ngoài các sóng mật độ hình xoắn ốc của các thiên hà lớn ”.
Essarala run rẩy, bởi mặc dù nàng không hiểu nhiều về thuật ngữ mụ phù thủy đã dùng, nàng nhận ra rằng điều đó nằm ngoài tầm hiểu biết của mình. Giá như nàng dành một chút thời gian để ngắm sao thay vì tìm hiểu về những công nghệ kỳ lạ và đầy may rủi mà cư dân trên cạn đã phát minh ra, và thứ mà có thể giữ họ sống sót trong khoảng không thù địch. Nhưng giờ đã quá muộn rồi. Nàng phải chọn, chọn sớm, vì các thương lái sẽ không ở lại mãi mãi.
“Hãy cho tôi biết mức giá của bà đi,” Essarala nói lớn.
Mụ phù thủy gật đầu. “Một ngày nào đó ngươi sẽ muốn về nhà đấy,” mụ nói. “Khi ngươi trở về, hãy đến thăm ta, và tới lúc đó chúng ta sẽ nói về chuyện này.”
“Bà không thể chấp nhận thứ gì khác từ tôi hay sao?” Essarala hỏi, bởi cái suy nghĩ mình phải quay lại vực sâu khơi lên trong nàng một nỗi sợ hãi không tên.
“Đó chính là mức giá đấy,” mụ phù thủy nói. “Hoặc là ngươi chấp nhận nó, không thì hãy đi đi.”
“Em sẽ đi với chị,” Kiovasa nói với Essarala, “khi chị trở lại đây. Chị sẽ không phải đến đây một mình.”
Mãi sau này, Essarala mới nhớ ra biểu cảm của mụ phù thủy và nỗi sầu muộn trong đó. Thế nhưng, vào thời điểm đó, tất cả những gì nàng biết là niềm biết ơn đối với lòng tốt và sự trung thành của em gái mình. Cô đưa tay ra và nắm lấy tay Kiovasa.
“Ta không thể làm điều đó ở đây,” mụ phù thủy nói. “Độ sâu này sẽ giết chết ngươi trước khi ngươi kịp xin thỉnh cầu của những nhà du hành vũ trụ. Nhưng ta có thể cho ngươi phương tiện.”
Những đường nét tối màu trên cái bóng của  mụ phù thủy bắt đầu chuyển động. Trong thoáng chốc, trông mụ chẳng khác gì những họa tiết trừu tượng mà ánh trăng tạo nên trên những con sóng, chỉ là theo chiều ngược lại. Rồi những họa tiết được lắp ráp lại, và phụ mù thủy đưa ra một con dao, chuôi kiếm phần chuôi hướng ra ngoài.
Nó được làm bằng vỏ sò, và dưới ánh sáng kỳ lạ của những con sâu và tảng đá, nó phát ra thứ ánh sáng óng ánh. “Sẽ đau đấy,” mụ phù thủy nói. “Một vài loại khao khát bao giờ cũng sẽ làm ngươi đau. Khi ngươi sẵn sàng, hãy xẻ đuôi của mình làm đôi, và đôi chân sẽ xuất hiện. Nếu ngươi đổi ý” - và Essarala định mở miệng phản đối rằng sẽ nàng sẽ không như vậy, nhưng cái nhìn nghiêm khắc của phù thủy đã ngăn cản cô - “thì hãy vứt nó xuống biển, và nó sẽ tìm đường để quay về với ta.”
“Cám ơn,” Essarala nói bất chấp sự run sợ của mình, vì một ân huệ đã ban ra thì phải luôn được ghi nhận. Nàng không nói ra suy nghĩ chống đối trong lòng mình: rằng nàng sẽ du ngoạn giữa các vì sao càng lâu càng tốt, và có lẽ trong thời gian đó nàng sẽ tìm cách đánh lừa phù thủy về cái giá mà mụ đã đặt ra.
Đêm hôm sau, Kiovasa và Essarala tham dự buổi tiệc. Lính gác cá mập và cá heo chấp nhận thiệp mời của họ và cho họ vào mà không cần giải thích. Vào bất kỳ dịp nào khác, hai chị em sẽ chú ý đến những đồ trang trí lộng lẫy mà các sinh vật và bờ biển đã dày công chăm chút. Những biểu ngữ sáng bằng vải dệt từ bờm cá ngựa và những bím tóc dài của các tiên cá đung đưa trong gió; những  đèn lồng chứa nấm phát sáng và những con đom đóm nhảy múa chiếu sáng những chiếc bàn dài. Những chiếc đĩa, bằng sơn mài hoặc dát vàng, chạm khắc ngọc bích hoặc tráng một thứ men màu ngọc bích vô song, chứa đựng mọi sự tinh xảo mà dân tộc vùng biển và cư dân đến từ vì sao biết cách sửa soạn.
Nhưng giờ đây Kiovasa chỉ có thể nghĩ đến việc cô sẽ mất đi chị gái, còn Essarala cảm nhận được sức nặng của con dao vỏ sò của mụ phù thủy, đựng trong một cái túi nhỏ được kết bằng những sợi xích phủ vàng, như thể nó sẽ nhấn chìm nàng vậy.
“Hãy tham gia cùng chúng tôi!” những tiên cá khác gọi từ chỗ ngồi của họ bên những con sóng vỗ. Họ uống rượu và ca hát, trao đổi những câu chuyện về các hoa tiêu và người vẽ bản đồ, và đôi khi là bản ballad của những người yêu nhau sống trên đảo. Kiovasa vẫy tay lại, mặc dù cô rất nặng lòng.
“Chị phải hành động ngay bây giờ,” Essarala thì thầm với em gái, “nếu không chị sẽ mất hết can đảm mất.” Ngoài họ hàng của mình, nàng có thể nhìn thấy những vị khác đến từ vì sao, mặc những bộ đồ khác nhau, và thậm chí đằng sau họ là hình bóng dài của con tàu du hành xa. Và niềm khao khát càng bùng cháy mãnh liệt trong lòng nàng.
Các tiên cá ít có ý niệm về sự riêng tư, vì mọi thứ xảy ra dưới biển đều được mọi người biết đến rất nhanh chóng. Dù vậy, Kiovasa vẫn gật đầu và dẫn nàng ra một nơi vắng vẻ, cách bữa tiệc một đoạn đường xuống bờ biển. Hải âu và chim nhạn bay lượn trên đầu, và đám chim dẽ kêu lên, để cảnh báo hoặc để chào đón. Không ai nhìn theo, và tại sao bọn họ phải nhìn chứ? Họ đều có những chuyện khác trong tâm trí của mình.
Essarala rút dao ra và đưa chiếc túi cho em gái. Nàng tự trấn an bản thân bằng một cái hít thở sâu, nếm mùi muối thoảng trong không khí, bầu trời ngọt ngào bên dưới những dải tinh tú. Rồi nàng cầm con dao quả quyết chém xuống.
Cơn đau khiến nàng gần như ngất đi. Nhưng em gái đã đỡ nàng vào lòng và giữ vững để nàng không lảo đảo. Những chiếc vảy lốm đốm xinh đẹp ở đuôi của Essarala bong ra, và nàng hiện ra với đôi chân, hệt như loài người trong thế giới của nàng.
Kiovasa hôn lên trán nàng. “Đi đi,” cô nói với Essarala. “Nh��ng vì sao đang chờ đợi chị.” Và cô quan sát từ vùng nước cạn khi Essarala loạng choạng bước những bước đầu tiên.
Lần lượt từng người một, từ các tiên cá đến các thương nhân, chú ý đến nàng. Và tất cả đều nhìn chằm chằm, thì thầm kinh ngạc với nhau, khi Essarala đi tới chỗ thuyền trưởng của con tàu vũ trụ.
Thuyền trưởng dùng bữa tại đầu bàn của người người ngoài hành tinh. Họ là một sinh vật cao lớn, khắp người phủ lông tơ, trên đầu mọc lên một chòm lông mào lộng lẫy mà ban đầu Essarala tưởng là một chiếc mũ. Khi thấy Essarala đi tới, họ gật đầu chào đón. “Bạn đã có cơ hội thưởng thức đồ ăn chưa?” Họ hỏi Essarala bằng ngôn ngữ của chính nàng.
Về phần mình, Essarala rất bối rối vì không biết nói tiếng của thuyền trưởng, mặc dù nàng biết rất rõ rằng thứ tiếng đó chứa âm mà không tiên cá nào nói được. “Tên tôi là Essarala,” nàng nói, “và như tên của mình, tôi của tìm kiếm các vì sao. Tôi muốn xin bạn một đặc ân - để có thể gia nhập phi hành đoàn của bạn, và đi tới những thế giới xa xôi cùng các bạn.”
Thuyền trưởng liếc nhìn những chiếc vảy đốm vẫn bám trên đôi chân trần của Essarala và hiểu được sự hy sinh mà nàng đã chịu đựng. “Tất nhiên là được rồi,” họ nói một cách tử tế. “Nhưng bạn sẽ bắt đầu từ vị trí thấp nhất trong đoàn của tôi, không phải vì chúng tôi muốn xúc phạm bạn, mà vì có rất nhiều giao thức liên quan đến cuộc sống trên tàu vũ trụ mà bạn sẽ phải học trước khi bạn nhận được nhiều sự tin cậy hơn.”
“Tôi không phiền đâu,” Essarala nói, trái tim nàng như nhảy lên trong lồng ngực.
“Bạn sẽ thấy phiền đấy,” Thuyền trưởng nói, “nhưng dù vậy; bạn cũng sẽ có bạn bè và đồng đội để chia sẻ hành trình với mình.”
Và họ mời nàng ngồi xuống phía vào bên phải họ, cùng họ tham gia vào bữa tiệc.
Sáng hôm sau, thuyền trưởng và phi hành đoàn chuẩn bị nói lời chia tay với các tiên cá và cư dân vùng biển. Essarala, dù rất vui mừng với vận may của mình, cũng không đến nỗi quên mất người em gái. Nàng tìm kiếm Kiovasa bên bờ biển và chạy xuống nước để ôm lấy cô ấy lần cuối.
“Em hi vọng chị sẽ thấy mọi thế giới xung quanh mọi vì sao,” Kiovasa thì thầm vào tai Essarala. Kiovasa, người chẳng bao giờ suy nghĩ nhiều về bầu trời ngoài việc chị gái cô rất khao khát nó, cũng không biết có bao nhiêu thế giới hay bao nhiêu vì sao trong vũ trụ. Nhưng Essarala chấp nhận phước lành tinh thần mà cô đã đem lại.
“Chị sẽ hát tên em cho những vì sao nghe,” Essarala hứa.
“Em sẽ lắng nghe hằng đêm,” Kiovasa nói. Rồi cô đẩy nhẹ Essarala. “Đi đi! Em không muốn chị lỡ mất cơ hội.”
Sự run rẩy đã chiếm lấy trái tim của Essarala, nhưng bây giờ nàng đã đi quá xa để quay trở lại. Nàng chạy qua những con sóng đang vỗ lên con tàu vũ trụ, thân tàu lấp lánh sắc hồng, cam và ánh bạc dưới bình minh. Giờ nàng đã thích nghi với đôi chân mới của mình, quen với cảm giác chân chạm lên cát ướt, và rồi đến đoạn đường kim loại lạnh lẽo dẫn lên tàu vũ trụ.
Thuyền trưởng chào đón Essarala trên tàu và giới thiệu nàng với các thành viên phi hành đoàn, những người sẽ chỉ cho nàng các điều cơ bản của cuộc sống trên tàu vũ trụ. “Hãy luôn nghe theo lời Ssen,” Thuyền trưởng nói, chỉ vào một người ngoài hành tinh lanh lợi có bộ đồ cơ khí trang bị những cái kẹp giống xúc tu ở vị trí của đôi bàn tay. “Họ sẽ để mắt đến bạn. Tôi sẽ gặp bạn tại phòng sinh hoạt chung của con tàu.” Và thuyền trưởng cho phép nàng lui.
“Đi với tôi,” Ssen nói qua một thiết bị phiên dịch. Họ chỉ cho Essarala cách buộc mình vào một chiếc ghế dài khi cất cánh và cảnh báo nàng đừng hoảng sợ khi chiếc ghế dài nhấn chìm nàng bằng gel oxy hóa để bảo vệ nàng khỏi sự gia tốc của con tàu. “Là một thành viên của thủy thủ đoàn,” họ nói thêm, “bạn sẽ phải nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của vật lý, hoạt động của con tàu cũng như cách bảo trì nó. Sau khi lên đường, chúng ta sẽ trao đổi về chuyện đó kỹ hơn.”
Như để thể hiện lòng tốt với nàng, dù Essarala mãi sau này mới nhận ra điều đó, Ssen đã tặng nàng một chiếc ghế dài đối diện cửa sổ để nàng có cái nhìn tốt nhất về thế giới của mình khi lần đầu tiên rời khỏi nơi ấy. Tim đập nhanh với nỗi lo lắng cùng niềm phấn khích lẫn lộn, Essarala chuẩn bị tinh thần để cất cánh. Đáng lẽ ra Ssen không cần phải lo lắng về phản ứng của nàng với gel bảo vệ, vì nó cũng không khác mấy so với vùng nước nàng đã bơi suốt cuộc đời mình.
Tuy nhiên, trong khi thứ phép thuật bẩm sinh của tiên cá đã bảo vệ Essarala  khỏi áp lực khủng khiếp dưới biển, nó không thể che chở cho nàng trước gia tốc của một con tàu vũ trụ. Khi con tàu cất cánh tới một điểm đến mà nàng không biết tên, Essarala thoáng nhìn thấy đại dương quê hương mình từ trên cao, và ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt nước, trước khi bất tỉnh.
Ssen rối rít xin lỗi khi họ đã an toàn rời khỏi trọng lực của thế giới. “Lẽ ra tôi nên nghĩ đến chuyện bạn cần được bảo hộ nhiều hơn,” họ nói, “và chuẩn bị cho bạn một chiếc ghế phù hợp. Tôi sẽ dạy bạn cách tự làm điều đó, để trong tương lai sự cố này sẽ không lặp lại nữa.”
Đó không phải thứ duy nhất Ssen đã dạy nàng. Essarala biết được rằng Ssen thường nhận nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ mới, một phần vì họ có lòng kiên nhẫn vô hạn, nhưng phần khác còn vì họ không bao giờ ngủ và luôn cảnh giác trước những sai lầm không thể tránh khỏi. Essarala có lý do để biết ơn cả hai nét tính cách này, vì nàng luôn có người  để lắng nghe mỗi lần nàng tuyệt vọng vì không đạt được năng lực căn bản trong các nhiệm vụ được giao, và Ssen đảm bảo rằng nàng sẽ không để con tàu lâm vào cảnh nguy hiểm.
Nhờ Ssen Essarala đã biết được rằng con tàu có hai hệ thống đẩy, một được sử dụng cho cự ly ngắn để hạ cánh và khởi hành từ các hành tinh hoặc các căn cứ sao, và một hệ thống khác đặc biệt hơn cho phép tàu di chuyển với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. “Hệ thống thứ hai là lãnh địa của các kỹ sư-linh mục,” Ssen nói với nàng, “và nếu bạn không muốn bước chân vào lãnh địa bí ẩn của họ, bạn cũng không cần quan tâm đến những thứ đó. Nhưng bạn sẽ cần phải nghiên cứu cơ học quỹ đạo, vì sự an toàn của mọi người.”
Qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, Essarala đã thành thạo mặc bộ đồ vũ trụ mà Ssen thiết kế chế tạo riêng cho nàng bằng guồng quay của con tàu. Nàng chỉ quên kiểm tra bình dưỡng khí có một lần, và sau đó Ssen đã nhẹ nhàng giảng giải bởi đó là một vấn đề nghiêm trọng. Khi đã dần thành thạo với các hệ thống của con tàu và các nhiệm vụ bảo trì đơn giản mà Ssen giao cho, Essarala bắt đầu thấy tự hào về công việc của mình, dù nó đơn giản đến mức nào. Nàng bắt đầu ca hát khi làm việc, những bài hát về biển cả để nhắc nhở bản thân về quê nhà mà nàng đã bỏ lại phía sau.
Những lúc rảnh rỗi, nàng ngồi bên cửa sổ của con tàu vũ trụ và ngắm nhìn những ngôi sao đang bay vụt qua. Những kỳ quan hiện lên ngay trước mắt nàng, từ những đám bụi khí nơi các vì sao được sinh ra đến ánh sáng rực rỡ của đĩa bồi tụ xung quanh các hố đen. Essarala nhìn thấy các hành tinh có màu sắc khác nhau xoay tròn như những hạt ngọc huyền ảo, và những vệ tinh quay quanh chúng trông tựa những chiếc vương miện. Và tất cả những hình ảnh này đều làm nàng nhớ đến cô em gái Kiovasa, người đã giúp nàng đạt được ước muốn của trái tim mình, và sự thật rằng giờ đây họ đã chia tay nhau; nhưng nàng vẫn chưa cảm thấy hối tiếc.
Tiếp đến con tàu vũ trụ đến thăm một căn cứ sao để bổ sung nguồn dự trữ. Mặc dù Essarala không tham gia các cuộc đàm phán, do không có chuyên môn, nàng giúp Ssen sắp xếp các vật tư trong hầm tàu. Mặc dù phải lao động chân tay, nàng vẫn thích thú tìm ra cách để sắp xếp các thùng chứa một cách hiệu quả nhất vào không gian có sẵn. Ở dưới biển, trước đây nàng chưa bao giờ phải lo lắng về không gian, nhưng đương nhiên, đó là mối quan tâm hiện tại trong giới hạn của con tàu.
Sau đó, thuyền trưởng cho phép hai người họ tham quan nhà ga khi tàu cập cảng. “Bạn không phiền nếu tôi đi theo bạn chứ?” Essarala hỏi Ssen, vì nàng tự hỏi liệu họ có muốn dành chút thời gian riêng không.
“Không ai phải can đảm một mình ở một căn cứ sao trong chuyến thăm đầu tiên của họ.” Ssen nói. “Tất nhiên tôi không phiền đâu.” Và họ đưa Essarala đến khu vườn không trọng lực của căn cứ sao với những loài thực vật trôi nổi tuyệt vời và những bông hoa thơm nồng nàn, và những cụm đèn lồng đổi màu theo tính khí bất thường của nhà thiết kế. Sau đó, Ssen giới thiệu với nàng những thú vui khác, từ những nhà hàng phục vụ món côn trùng tẩm mật ong giòn tan đến những phòng chờ nơi mọi người trao đổi những vần thơ mới và thơ cổ đại, từ những quán cafe nơi người ta có thể âu yếm những con thú có lông ngoài hành tinh nhỏ bé mang tới vận may, đến những đài kỷ niệm nơi các phi hành gia khắc tên những người đã chết bởi tay bọn cướp biển, bức xạ, hoặc các mối nguy hiểm khác.
Trên hết, Ssen đưa nàng đến đài quan sát của căn cứ sao, nơi Essarala thở phào khi nhìn thấy những ngôi sao xung quanh họ, như thể mọi người đều sống trong mỗi chòm sao rực rỡ. Ssen kể cho nàng tên của những vì sao sáng nhất, những dân tộc sống trên thế giới và những chuyến thăm của họ trong quá khứ.
Cuối cuộc hành trình, Ssen kéo Essarala sang một phòng chờ yên tĩnh, vẻ mặt của họ rất nghiêm trọng. Essarala rùng mình sợ hãi, vì nàng sợ rằng mình đã thể hiện quá kém trên con tàu đến nỗi họ sẽ bỏ rơi nàng ở đây. Nhưng Ssen nói rít lên lo lắng khi họ ngửi thấy mùi sợ hãi của nàng và mua cho nàng một bát nước canh để xoa dịu tinh thần.
“Nếu bạn thấy mệt mỏi với cuộc sống trên tàu của chúng tôi,” Ssen nói, “chúng tôi sẽ tìm cho bạn một ngồi nhà mới, hoặc để bạn trở về quê nhà của bạn. Căn cứ sao này chẳng hạn. Nơi này được biết đến với lòng hiếu khách, và nếu bạn chọn ở lại, bạn có thể kiếm sống ở đây, không chỉ bằng những kỹ năng bạn đã học được với chúng tôi, mà bằng giọng hát của bạn.”
Essarala biết mình có một giọng hát hay, như bao tiên cá khác. Nàng đã không nhận ra rằng Ssen vẫn lắng nghe mình hát trong lúc làm việc lặt vặt. “Bạn có muốn tôi rời đi không?” nàng hỏi nhỏ sau khi nhấp một ngụm canh.
“Không hề,” Ssen nói, giọng họ dịu lại. “Nhưng lúc nào cũng vậy, bạn nên sống trên tàu bởi vì bạn chủ động chọn cuộc sống trên đó, chứ không phải vì bạn bị dồn đến đường cùng.
“Tôi yêu con tàu,” Essarala nói. Điều đó là sự thật. Nàng yêu lớp kim loại bóng bẩy của nó và cách nó kêu khi tăng tốc hoặc giảm tốc. Nàng yêu quang cảnh của các tinh vân xoắn ốc và các cụm sao hình cầu. Nàng cũng yêu cả căn cứ sao, với hình thù rộng lớn và đối xứng lẫn bất đối xứng của nơi đây; cách nó đã trở thành nhà của hằng hà sa số các giống người ngoài hành tinh thậm chí còn đa dạng hơn cả phi hành đoàn của nàng nữa. Nàng vẫn chưa thể tưởng tượng việc từ bỏ cuộc sống trên tàu sẽ ra sao.
Và nếu thỉnh thoảng nàng mơ về nụ cười hiền từ của em gái, mơ về vòng tay của biển cả, và những đám sứa phát sáng đang chuyển động hoặc dàn hợp xướng khổng lồ của các ngài cá voi khi họ suy xét những vấn đề pháp luật, hoặc những gì đã xảy ra trước khi nàng từ bỏ cái đuôi lốm đốm của mình để đi bằng hai chân — tại sao, đó là cái giá mà nàng phải trả, để đổi lấy phần thưởng này. 
Nhiều năm trôi qua, Essarala đã trở nên thông thạo lối sống trên tàu, tới mức nàng gần như đã quên mất cuộc sống trên một hành tinh duy nhất sẽ ra sao. Con tàu vũ trụ hạ cánh xuống các căn cứ sao khác, mỗi ngôi sao đều kỳ diệu hơn ngôi sao trước, và cũng tới thăm cả những thế giới khác nữa. Đến giờ, bản thân Essarala đã có thể giúp Ssen hướng dẫn cho những người mới đến và các vị khách không thường xuyên của con tàu, và nàng rất vui khi được chia sẻ những kiến ​​thức mà nàng đã vất vả góp nhặt được.
Giờ đây nàng đã biết tên tất cả thủy thủ đoàn trong phòng sinh hoạt chung, và thuyền trưởng gật đầu chào nàng khi họ đi ngang qua nhau. Essarala đã quen  với người phi hành gia trông như cá sấu cùng sở thích ăn mứt trái cây của cô ta, và các kỹ sư-linh mục với những câu thần chú và tính toán của họ. Nàng quen cả phi công của con tàu, xạ thủ bảo vệ họ khỏi bọn cướp biển, và người đầu bếp. Và lần lượt trong số họ đều biết nàng, và đôi khi, trong những lúc rảnh rỗi, họ  đề nghị nàng hát những bài ca về thế giới của nàng cho họ nghe.
Essarala học cách bay trong bộ đồ phi hành gia trong những bể khí khổng lồ và cuộn xoáy ở các hành tinh khí, một trong số chúng thậm chí còn là loại khí ăn mòn. Nàng đã nhìn thấy cảnh hoàng hôn có hai mặt trời trên biển metan và mưa sao băng trên bầu trời đêm rực rỡ. Nàng đã dạo bước qua những rừng cây cao chót vót được bao phủ bởi pha lê và hít thở hương thơm của những bông hoa chỉ nở một lần trong một thiên niên kỷ. Và nàng cũng đã giữ lời hứa: mỗi khi đến thăm một thế giới mới, nàng đều hát lên tên em gái mình.
Một ngày nào đó chị sẽ trở về và kể cho em những thứ chị đã nhìn thấy, Essarala nghĩ đi nghĩ lại. Nhưng chưa phải bây giờ.
Nhưng mặc dù nàng đã thành thạo sống cuộc sống của một phi hành gia, công việc dạy dỗ của Ssen vẫn chưa kết thúc. Giờ đây Essarala đã thông thạo những kỹ năng thực hành cần có để sống sót, và để đóng góp cho phi hành đoàn, những lúc họ rảnh rỗi, Ssen dạy nàng lý thuyết. Họ bắt đầu từ những nguyên lý cơ học và hóa học đơn giản nhất, rồi tiến dần tới thuyết tương đối hẹp.
Và chính trong khi học về thuyết tương đối, cuối cùng Essarala cũng hiểu ra cái giá mà mụ phù thủy dưới những con sóng đã đòi hỏi từ nàng - hoặc, chính xác hơn là, đã cảnh báo nàng.
Nàng xem xét các phương trình, xem xét hệ số giãn nở thời gian hiện ra từ những tiền đề thoạt nhìn thì tưởng đơn giản : tốc độ ánh sáng không đổi, cùng cái thực tế rằng không có hệ quy chiếu quán tính nào được ưu tiên hơn bất kỳ hệ quy chiếu nào khác. Trong những năm nàng xa nhà, đối với em gái Kiovasa, hàng chục năm đã trôi qua. Và tiên cá sống lâu, nhưng họ không - hoàn toàn - bất tử.
Ssen thấy Essarala nắm chặt bàn tay của nàng trong nỗi đau khổ và hỏi nàng vì sao.
“Tôi phải trở về quê hương của tôi,” Essarala nói. “Dù mất bao nhiêu lâu đi chăng nữa - nhưng càng sớm càng tốt. Vì tôi vẫn còn những công việc chưa kịp hoàn thành ở đó, và mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra.”
“Quê nhà bạn không thuận đường đi của chúng ta,” Ssen nói, “nhưng ta có thể thỉnh cầu thuyền trưởng. Thậm chí nếu chúng tôi không thể đưa bạn tới đó, chúng tôi có thể sẽ tìm cho bạn một con tàu khác.”
Thật vậy, thuyền trưởng đã triệu tập Essarala đến phòng riêng của họ. Họ chăm chú lắng nghe khi Essarala giải thích tình huống khó xử của mình. “Tôi sẽ tìm mọi cách để trở về nhà,” nàng nói. Nàng sợ rằng giờ đã quá muộn - nhưng điều đó, nàng sẽ không nói ra, ngay cả với thuyền trưởng, người đã thật rộng lượng chào đón nàng đến với phi hành đoàn của họ.
“Đúng là đối với chúng ta đó là một chặng đường dài,” thuyền trưởng nói. “Nhưng chúng tôi sẽ đi đường vòng, và sẽ đợi bạn nếu bạn cần. Tôi biết cảm giác xa gia đình là như thế nào.”
Essarala cúi đầu. “Các bạn không cần đợi tôi đâu,” nàng nói. “Tôi sẽ không rời xa quê hương mình nữa. Cảm ơn bạn. Lòng tốt của các bạn tôi không thể nào đền đáp được.”
Chòm lông mào của thuyền trưởng đung đưa theo cách thức mà bây giờ Essarala đã hiểu được là sự đồng cảm. “Bạn không phải là người duy nhất đã từ bỏ nhiều thứ để đánh đổi lấy giấc mơ lâu dài về các vì sao,” họ nói. “Chúng tôi sẽ nhớ bạn; nhưng tôi nghĩ rằng gia đình bạn cũng thế.”
“Cảm ơn bạn,” nàng nói lại lần nữa, và rời phòng thuyền trưởng với một chút nhẹ lòng.
Thuyền trưởng đã giữ lời hứa của mình. Họ không đi thẳng về quê hương của Essarala, vì họ có các hợp đồng thương mại và nghĩa vụ phải thực hiện, nhưng họ đã định hướng cho con tàu đi theo đường zigzag để có thể ngày càng tiến đến gần quê hương của nàng. Essarala miệt mài nghiên cứu bản đồ sao, mơ về ngày trở lại của mình.
Từng người một, những thành viên khác trong phi hành đoàn, những người mà Essarala coi là bạn bè trong suốt hành trình của mình, đã ghé qua tặng nàng những món quà nhỏ. Những món quà này gồm mứt trái cây của cô phi hành gia cá sấu (đương nhiên rồi), đồ trang sức làm bằng mạch điện từ các kỹ sư-linh mục, gỗ hóa thạch từ một khu rừng tuyệt chủng trên một thế giới chết nào đó, và các khối lập phương chiếu ra những bức ảnh nổi ba chiều của  đám rối đang biểu diễn . Ngay cả thuyền trưởng cũng tặng nàng một chiếc lông từ chòm lông mao của họ.
Cuối cùng là Ssen, người thầy và người bạn đồng hành của nàng. Ssen tặng Essarala một chiếc vòng tay bằng kim loại lấy từ các vì sao, trên đó chạm khắc hình ảnh các chòm sao trên bầu trời đêm nơi quê hương Essarala trong chuyến thăm của họ cách đây đã lâu lắm rồi. “Tôi sẽ nghĩ về bạn,” Ssen nói, “ngay cả khi chúng tôi không bao giờ gặp lại bạn nữa.”
“Bạn là người thầy giỏi nhất mà tôi được biết,” Essarala nói. “Tôi sẽ luôn luôn đeo chiếc vòng này.”
Ssen nở nụ cười lém lỉnh, và chỉ có thế.
Chẳng bao lâu sau, Essarala đã nóng nảy tự trói mình vào chiếc ghế dài để hạ cánh xuống quê nhà. Lần này nàng không cần đến sự giúp đỡ của Ssen, và lần này nàng cũng không bất tỉnh khi con tàu giảm tốc. Thế giới của Essarala hiện ra trong tầm mắt, một viên đá cẩm thạch xoắn ốc màu lam và lục, những vệt màu tím và ngọc trai, và hơi thở của nàng dồn dập vì vẻ lộng lẫy của nó, cái thế giới vốn đã quen thuộc với nàng lại một lần nữa trở nên mới mẻ.
Con tàu hạ cánh, và Essarala tự tháo mình khỏi chiếc ghế dài. “Hy vọng là không quá muộn,” nàng tự nhủ khi cùng Ssen đi đến đoạn đường dốc.
“Chỉ có một cách để biết được điều đó thôi,” Ssen trả lời. “Đi đi, và bảo trọng nhé.”
Chân của Essarala chạm xuống bờ biển, cũng chính là nơi con tàu hạ cánh trong lần đầu nó tới thăm thế giới này. Lần này nàng mặc một bộ đồ vũ trụ với đôi ủng nam châm. Nó vẫn luôn đồng hành với nàng trong thời gian nàng ở trên tàu.
Nàng nhìn về phía biển nơi những con sóng vỗ không ngừng và bầy hải âu đang chao liệng, sau đó cởi bỏ bộ đồ. “Tôi sẽ không cần cái này nữa,” nàng nói với Ssen."”Bạn cứ tái chế nó đi.”
Nói rồi Essarala lội xuống biển, và khi nàng lặn xuống, những chiếc vảy cá lốm đốm mọc lên phủ kín đôi chân của nàng. Nàng rùng mình thở hơi thở cuối cùng, rồi lấy lại thứ gia tài mà nàng từng đánh đổi để có thể đi tới các vì sao.Khi nàng lặn xuống nước, đôi chân nàng hợp nhất thành một chiếc đuôi tiên cá đích thực.
Essarala đã không quên lời hứa của mình với mụ phù thủy, và ngoài ra, mụ phù thủy có lẽ cũng biết nàng phải tìm em gái ở đâu. Vì vậy nàng đã lặn xuống thật sâu, vượt qua  những rặng san hô sặc sỡ với những chú cá nhút nhát bơi nhanh như tên bắn, vượt qua cả những tốp cá heo, cho đến khi nàng tìm thấy con cá lồng đèn chiếu sáng đường đến nơi ở của phù thủy. Biển lạnh và tối, nhưng xét cho cùng, cũng chẳng lạnh và tối bằng vũ trụ.
“Tôi trở  về rồi đây,” Essarala gọi, tự hỏi mình sẽ làm gì nếu mụ phù thủy đã chết trong lúc chờ đợi.
Nhưng các phù thủy không dễ chết như vậy. Những con sâu bắt đầu phát sáng, như cái cách chúng từng phát sáng nhiều năm về trước, và mụ phù thủy của những con sóng hiện ra. “Đúng là ngươi đã về rồi,” mụ nói. Lần này Essarala có thể nhìn thấy diện mạo của mụ ta rõ hơn, và gương mặt ấy cũng không quá khác biệt so với gương mặt nàng.
“Bà đã giúp tôi thỏa mãn ước ao của mình,” Essarala nói. “Bà nói bà sẽ đưa ra mức giá khi tôi trở về. Tôi đã về rồi đây.”
“Thực ra,” mụ phù thủy nói. “Ta đã sẵn sàng triệu hồi cái chết của mình. Sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó vẫn sẽ đến thôi. Sau khi ta chết, ngươi sẽ thay thế vị trí của ta, làm một phù thủy dưới những con sóng. Vì chính ngươi, ngươi cũng đã nếm trải cuộc sống trên các vì sao, và ngươi có được sự khôn ngoan mà những chuyến du hành ấy mang lại.”
Đó là một cái giá đắt, nhưng không phải là không công bằng. “Tôi hiểu rồi,” Essarala nói. “Tôi có một câu hỏi cho bà, nếu bà sẵn lòng trả lời.”
“Hỏi đi.”
Essarala đã chuẩn bị tinh thần cho câu trả lời mà nàng chẳng hề muốn nghe. “Em gái Kiovasa của tôi giờ ra sao rồi? Tôi có thể tìm em ấy ở đâu?”
“Cô ấy đã già nua và ốm yếu,” mụ phù thủy trả lời, và Essarala gần như vỡ òa vì nhẹ nhõm. “Ngươi sẽ tìm thấy cô ấy bên tảng đá nơi hai ngươi dành hàng giờ ngắm nhìn các vì sao. Em gái ngươi chưa bao giờ quên ngươi. Nhưng ngươi nên nhanh lên. Cô ấy không còn nhiều thời gian nữa.”
“Cảm ơn,” Essarala nói. và rồi nàng phóng lên trên mặt nước, bơi hết sức mình về phía tảng đá. Nếu đến giờ phút này mà nàng còn đến muộn thì thật kinh khủng.
Cuối cùng, nàng trồi lên khỏi mặt biển, khiến nước bắn lên làm hiện ra những dải cầu vồng lấp lánh. “Kiovasa!” nàng hét lên khi nhìn thấy em gái mình nằm trên tảng đá.
Tiên cá không già đi như con người, như dù sao thì họ vẫn già đi. Những vệt trắng như màu vỏ sò đã xuất hiện trên tóc Kiovasa, và những sọc kẻ trên đuôi cô đã mờ nhạt đến mức gần như vô hình. Thế nhưng gương mặt cô bừng sáng khi nhìn thấy Essarala. “Chị đã quay về,” cô thì thầm. “Chị trông hệt như ngày chị rời đi.”
“Đó là một thứ phép thuật của các vì sao,” Essarala nói, “chị sẽ giải thích cho em nếu em muốn.” Nàng bơi lên tảng đá và ngồi cạnh em gái mình. Họ trao nhau một cái ôm thắm thiết. Essarala nói thêm, “Chị sẽ không rời xa em nữa.”
“Nhưng còn giấc mơ du hành giữa các vì sao của chị,” Kiovasa nói. “Em sẽ không lấy đi ước mơ đó của chị đâu-”
Essarala nắm lấy tay Kiovasa, rồi ngẩng đầu nhìn lên bầu trời chiều. “Em đâu có làm vậy,” nàng nói.
Kiovasa lắc đầu, ngạc nhiên. “Em không hiểu.”
“Điều mà chị không biết trước khi đi,” Essarala nói, “là mọi hành tinh đều đang du ngoạn trong không gian, và mọi ngôi sao, mọi thiên hà, và những thứ lớn hơn thế nữa, trong một vũ điệu thiên đường vĩ đại. Chị muốn đến thăm các thế giới khác, và sự thực là chị đã tới những nơi đó. Nhưng giờ đây khi đã hiểu chuyển động của các thiên thể rồi, chị không cần phải rời khỏi nhà để du hành vũ trụ nữa.”
“Em vẫn không hiểu,” Kiovasa nhắc lại, “nhưng em mong muốn được học hỏi về điều đó, bằng quãng đời còn lại của mình.”
Hết
*
dành tặng Yune Kyung Lee, người chị em tuyệt vời nhất
*
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Nhi
*
Tác giả Yoon Ha Lee (Ảnh: PEN America)
Tumblr media
1 note · View note
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Những hành tinh vô hình - Hác Cảnh Phương
Tumblr media
Về tác giả
Hác Cảnh Phương (郝景芳/Hao Jingfang, sinh năm 1984) là tác giả khoa học viễn tưởng người Trung Quốc. Cô bắt đầu viết văn từ khi còn là sinh viên ngành vật lý tại Đại học Thanh Hoa. Song song với công việc viết văn, cô cũng có bằng tiến sĩ ngành kinh tế học, và hiện đang công tác tại Tổ chức Nghiên cứu Phát triển Trung Quốc (CDRF). Truyện ngắn Gấp Bắc Kinh (北京折叠/Folding Beijing) của Hác Cảnh Phương, được dịch giả Ken Liu chuyển ngữ vào năm 2015, đã nhận giải Hugo năm 2016.
Về tác phẩm
Những hành tinh vô hình (bản Trung: 看不见的星球; bản Anh: Invisible Planets) là một truyện ngắn của Hác Cảnh Phương. Bản tiếng Trung được đăng lần đầu trên tạp chí New Realms of Fantasy and Science Fiction năm 2010, bản dịch tiếng Anh của Ken Liu đăng trên tạp chí Lightspeed năm 2013. Những hành tinh vô hình sau này cũng được lấy làm tựa đề cho tuyển tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng của các nhà văn Trung Quốc do Ken Liu dịch, xuất bản năm 2016.
∴━━━✿━━━∴
“Kể cho con về những hành tinh kỳ diệu mà mẹ từng tới thăm đi. Nhưng con không muốn nghe bất cứ điều gì ác độc hay đáng ghét đâu,” con bảo.
Được thôi. Mẹ gật đầu và mỉm cười. Tất nhiên. Không thành vấn đề con à.
∴━━━✿━━━∴
CHICHI RAHA
Chichi Raha là một nơi đầy kỳ thú, những loài hoa và những hồ nước ở nơi này thật khó quên đối với mọi du khách tới thăm. Ở đó, con chẳng thể bắt gặp một rẻo đất trống nào bởi thảm thực vật bao phủ mọi nơi: có cỏ anua này mềm như tơ lụa này; có cây kuqin vươn cao tới những tầng mây này; lại có hằng ha sa số những loại quả không tên, trông lạ lùng đến mức không tưởng tượng nổi, tỏa ra hương thơm đầy mê hoặc nữa.
Dân cư ở Chichi Raha chưa bao giờ phải lo nghĩ chuyện kiếm sống. Tuổi thọ của họ cao, quá trình trao đổi chất của họ diễn ra chậm, và họ không có kẻ thù tự nhiên nào. Họ làm đầy dạ dày bằng một chế độ ăn gồm vô vàn các loại quả và làm nhà bên trong một loài cây có thân lớn và rỗng. Đường kính trung bình của những thân cây này vừa đủ rộng để một người Chichi Raha trưởng thành có thể nằm thoải mái. Những ngày đẹp trời, cành cây buông thõng xuống, nhưng đến khi trời mưa, chúng sẽ vươn cao và những chiếc lá tạo thành tán như cái ô vậy.
Những kẻ tới thăm Chichi Raha lần đầu sẽ luôn cảm thấy bối rối trước cái cách mà văn minh có thể phát triển ở một thế giới như vậy. Từ góc nhìn của những du khách này, ở một nơi thiếu đi khủng hoảng và cạnh tranh, sự sống có thể tồn tại tốt mà không cần đến trí tuệ. Nhưng nền văn minh ở nơi đây là chuyện không thể nhầm lẫn, và nền văn minh ấy thậm chí còn vô cùng tươi đẹp, giàu có và đầy tính sáng tạo.
Rất nhiều du khách nghĩ rằng họ muốn sống phần đời cuối cùng ở đây. Hầu hết bọn họ tin rằng khó khăn lớn nhất đối với họ chỉ là chuyện ăn uống. Vậy nên, họ nếm thử tất cả các loại hoa quả địa phương một cách đầy lo lắng và cẩn trọng. Nhưng sau khi họ đã sống ở hành tinh này một thời gian, sau khi họ đã tham dự đủ các nghi lễ địa phương, họ mới khám phá ra—cùng với sự ngỡ ngàng—rằng mặc dù rất thích các món ăn, nhưng họ lại không thể chịu nổi lối sống ở nơi này, đặc biệt là những người đã lớn tuổi.
Hóa ra là toàn bộ dân cư Chichi Raha đã học cách nói dối từ khi sinh ra. Nói dối là nghề nghiệp quan trọng nhất của họ. Họ dành toàn bộ quãng đời của mình để thêu dệt nên những câu chuyện, cả về những sự kiện đã xảy ra lẫn những thứ chưa bao giờ có thật. Họ viết ra những câu chuyện ấy, vẽ về chúng, hát lên chúng, nhưng không bao giờ ghi nhớ chúng. Họ không quan tâm rằng liệu có mối liên hệ nào giữa lời nói của họ với sự thật hay không, tiêu chuẩn duy nhất của họ là những câu chuyện phải hấp dẫn. Nếu con hỏi họ về lịch sử của Chichi Raha, họ sẽ kể cho con nghe hàng trăm phiên bản. Không có hai phiên bản nào mâu thuẫn với nhau cả, bởi vì trong từng khoảnh khắc, chúng đã trở nên tự mâu thuẫn với chính mình rồi.
Ở thế giới ấy, tất cả mọi người đều luôn nói câu “Vâng, tôi sẽ làm điều đó,” nhưng chẳng có gì được hoàn thành cả. Không ai coi trọng lời hứa, mặc dù những lời hứa cũng khiến cho cuộc sống của họ thú vị hơn. Và khi lời hứa thực sự được coi trọng, đó sẽ là một sự kiện đáng để ăn mừng. Ví dụ, nếu có hai người nào đó hẹn nhau và rồi cùng giữ lời, họ gần như chắc chắn sẽ kết đôi và sống cùng nhau. Tất nhiên, những sự kiện như thế hiếm hoi vô cùng. Hầu hết mọi người cả đời sống cô độc. Nhưng những cư dân không vì điều này mà cảm thấy thiếu sót. Họ hẳn đã từng nghe về vấn đề quá tải dân số ở các hành tinh khác và cho rằng thế giới của họ là nơi duy nhất thực sự hiểu được bí quyết của một cuộc sống viên mãn.
Vậy nên, ở Chichi Raha có một nền văn học, nghệ thuật, lịch sử vô cùng phát triển, và nơi này trở thành một trung tâm văn minh nổi tiếng. Rất nhiều du khách đã tới đây với hy vọng sẽ được nghe người dân địa phương kể chuyện trên thảm cỏ mềm dưới tán lá của những ngôi nhà cây.
Vài thời điểm, có những người nghi ngờ việc một xã hội ổn định có thể phát triển trên một hành tinh như thế. Trong tâm trí họ, Chichi Raha hiện lên như một nơi hỗn loạn bởi thiếu đi chính phủ và thương mại. Nhưng bọn họ đều nhầm. Văn hóa chính trị ở hành tinh này vô cùng tiến bộ, và công việc kinh doanh xuất khẩu hoa quả đã diễn ra trong nhiều thế kỷ mà không hề bị gián đoạn. Thói quen nói dối chẳng hề ảnh hưởng tới sự phát triển này, mà thậm chí còn thúc đẩy nó. Thứ duy nhất mà Chichi Raha thiếu là khoa học. Ở đây, tất cả những trí óc thông minh có lẽ đều biết một phần nào đó những bí mật của vũ trụ, nhưng những phần vụn vặt đó không bao giờ có cơ hội được xâu chuỗi lại cả.
∴━━━✿━━━∴
PIMACEH
Đây cũng là một hành tinh mà con không bao giờ có thể chắc chắn về lịch sử của họ. Khi con lang thang trong những bảo tàng, nhà hàng và khách sạn nơi đây, con sẽ được nghe rất nhiều phiên bản lịch sử khác biệt. Cuối cùng, con sẽ mắc kẹt bên trong màn sương mù của nỗi phân vân bởi biểu cảm trên gương mặt của tất cả những người kể chuyện đều chân thành tới mức con không thể không tin họ, nhưng lại chẳng có cách nào để tổng hợp tất cả thành một câu chuyện hoàn chỉnh.
Phong cảnh ở Pimaceh như thể chỉ xuất hiện trong thần thoại vậy. Nói cho đúng thì, hành tinh này còn chẳng có dạng hình cầu. Bán cầu nam ở dưới thấp hơn so với bán cầu bắc, và có một vách đá gần như vuông góc trải dài suốt đường xích đạo, chia hành tinh thành hai nửa hoàn toàn tách biệt. Phần trên vách đá phủ đầy băng tuyết, còn phần dưới là một đại dương bất tận. Thành phố Pimaceh được xây dựng trên chính vách đá bao quanh thế giới này. Từ bầu trời tới mặt biển, những tòa nhà ngang bằng nhau và những đại lộ thẳng đứng một cách hoàn hảo trải rộng tựa như các phần của một bức tranh khổng lồ.
Không ai rõ nơi này được xây dựng bằng cách nào. Tất cả những gì con nghe được là những câu chuyện hư cấu do người dân đang sinh sống ở nơi đây kể lại. Mọi câu chuyện đều đặc sắc: một vài truyện trong số chúng là thần thoại về các anh hùng, vài truyện khắc họa những bi kịch và niềm khổ đau, vài truyện khác lại nói về những mối tình ngang trái. Ảnh hưởng cụ thể của mỗi câu chuyện phụ thuộc vào người kể, nhưng không ai có thể kể ra một phiên bản có thể thuyết phục được tất cả mọi người. Và cứ thế, những câu chuyện được truyền từ người này qua người khác, Pimaceh ngày càng trở nên bí ẩn và quyến rũ hơn.
Có nhiều du khách, say mê khung cảnh hùng vĩ và những câu chuyện, đã nán lại nơi này và không muốn rời đi. Pimaceh là một hành tinh cởi mở và dễ sống, và mọi du khách đều được chào đón với vòng tay rộng mở. Những du khách—mà giờ đây đã trở thành những người đến định cư—sau đó sẽ xây nhà của riêng họ trên vách đá và kể lại những câu chuyện họ từng nghe cho các vị khách mới ghé thăm. Hài lòng với cuộc sống đó, họ dần dà trở thành người dân địa phương.
Trạng thái hạnh phúc này sẽ kéo dài cho đến một ngày, khi họ nhận ra sự thật về chính bản thân mình. Bỗng chốc họ hiểu được rằng rất nhiều chi tiết đã gợi mở ra trước mắt họ lịch sử thực sự của Pimaceh: Mọi con người trong thế giới này đều là một du khách. Không hề có người bản địa nào còn sống ở nơi này.
Phải, Pimaceh từng có một lịch sử rực rỡ, nhưng vì một vài lý do nào đó mà nó đã bị lãng quên. Chẳng ai rõ vì sao những người dân bản địa trước kia lại rời đi, chỉ để lại phía sau một thị trấn hoang xinh đẹp mà sau này khiến những kẻ lữ hành trong vũ trụ phải ngỡ ngàng. Họ cũng bỏ lại một vài mẩu vụn của một thứ ngôn ngữ mà chẳng ai có thể giải mã được, như những phép ẩn dụ lấp đầy khoảng không gian trống giữa các tòa nhà. Những chi tiết này đã bám rễ vào tâm trí những người đến sau, và thăng hoa thành một quá khứ tưởng tượng giàu có, đẹp đẽ nhất có thể cho hành tinh này.
Không rõ ai là người đầu tiên khám phá ra thế giới bị bỏ hoang ấy. Lịch sử của những du khách cũng dần phai nhòa, do cố tình hoặc vô tình, khi nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tất cả các du khách định cư lại nơi này đều muốn nghĩ về mình như một cư dân Pimaceh thực thụ. Họ bảo vệ hành tinh và rất nhanh chóng nắm lấy vai trò làm chủ—cho tới một ngày kia chính bản thân họ cũng bắt đầu tin rằng đây chính là mảnh đất của cha ông họ và là nơi họ sẽ chết đi.
Hầu như chẳng người nào khám phá ra bí mật của Pimaceh ngoại trừ một số ít những kẻ lang thang thực thụ, những kẻ đã đi tới khắp các ngõ ngách trong vũ trụ. Họ có thể cảm nhận được rằng những người dân ở đây hơi quá thường xuyên nhấn mạnh việc họ là người dân của Pimaceh. Trên những hành tinh mà những người bản địa thực sự vẫn đang nắm quyền cai quản, đó là một trong những điều dễ lãng quên nhất.
∴━━━✿━━━∴
BINGWAUGH
Bỏ qua những câu chuyện về Pimaceh đi, giữa đại dương của những vì sao này, có lẽ con sẽ phải tới tận Bingwaugh để chứng kiến sự đa dạng của các giống loài, mỗi giống loài lại có một nền văn hóa và văn minh riêng biệt, va chạm nhau, mâu thuẫn với nhau, tạo nên những điều rực rỡ.
Bingwaugh không quá lớn và cũng không quá nhỏ. Các mùa ở đây không rõ rệt và khi hậu thì luôn ôn hòa. Bề mặt của hành tinh này chủ yếu được bao phủ bởi các đồng bằng, ít núi và độ cao ít thay đổi. Chân trời là một đường cong nhẹ nhàng, uyển chuyển. Nơi đây chứa đựng tất cả những gì mà một hành tinh trung bình cần phải có, mặc dù mọi thứ chỉ có đến vậy: đất tốt, các mỏ khoáng sản thuận lợi, động thực vật đa dạng, và cả những cánh đồng hình tròn bao quanh bởi những bụi cây thấp mà các du khách thích tới múa hát. Thực sự nơi này chẳng có gì đáng kể.
Tương tự, cư dân ở Bingwaugh cũng khá bình thường. Họ thuộc lớp thú; không quá to lớn; một giống người chân chất, tốt bụng, dễ dàng làm hài lòng. Tổ chức xã hội của họ lỏng lẻo, và mọi người đều sống hòa thuận. 
Nếu phải chọn ra một đặc điểm độc nhất vô nhị về họ, có lẽ đó sẽ là tính khí dễ chịu. Hiếm khi người ta thấy họ tranh cãi, dù là giữa chính họ hay với vô vàn du khách đến từ những vì sao xa. Họ là những người lắng nghe tuyệt vời. Cả người lớn lẫn trẻ em đều luôn sẵn sàng mở to đôi mắt và lắng nghe con thuyết giảng, thường xuyên gật đầu, gương mặt họ bộc lộ vẻ say sưa trước sự thông thái mà con đang truyền đạt. 
Khi đã khám phá ra đặc điểm này của người Bingwaugh, mọi nhà thám hiểm tham vọng trong vũ trụ đều muốn tận dụng nó. Ai mà lại không muốn cai quản một tộc người như vậy, ở một nơi như vậy cơ chứ? Tài nguyên dồi dào, môi trường sống thuận lợi, và vị trí đắc địa ở giao lộ của nhiều tuyến đường thương mại.
Vậy là, những nhà giáo dục đến, những nhà truyền giáo đến, những chính trị gia, nhà cách mạng và phóng viên đều đổ xô đến. Họ miêu tả với người dân địa phương tầm nhìn của họ về thiên đường, thuyết giảng cho những người này về những lý tưởng, và lần nào cũng như lần nào, những cư dân của Bingwaugh đều gật đầu và thở dài với sự ngưỡng mộ chân thành và tiếp thu tất cả những triết lý mới ấy. Một số hành tinh ở xa thậm chí còn gửi đến đây những “giám sát viên” để cai trị những người mới cải đạo. Các cư dân thì không bao giờ phản đối, thậm chí còn chẳng buồn nhìn trộm họ.
Nhưng, sau những bước phát triển đầy thành tựu đó, những vị khách đến từ những vì sao xa đều phải thất vọng. Tất nhiên, họ càng ở lại Bingwaugh lâu thì nỗi thất vọng của họ càng tăng lên rõ rệt.
Hóa ra, những người dân bản địa chưa bao giờ thực sự tiếp thu bất cứ lời tuyên truyền xa lạ nào. Kể cả khi họ đồng ý với một đức tin mới, họ cũng không hề làm như những gì được chỉ bảo. Cũng như việc họ ngưỡng mộ nhiệt thành những hệ thống pháp luật mới được giới thiệu cho mình, họ cũng từ chối một cách nhiệt thành nhiệm vụ thực thi những luật lệ ngoài hành tinh.
Đối diện với thái đ��� đó của những người bản địa, những kẻ thực dân đầy tham vọng chẳng thể làm gì. Bởi họ đã nhận ra rằng sự đối lập giữa những gì người bản địa nói và những gì người bản địa làm không xuất phát từ một âm mưu sâu xa nào đó, mà chỉ đơn giản là do thói quen. Nếu con hỏi thẳng những người này, họ sẽ đáp lại, một cách lúng túng, rằng “Vâng, điều ngài nói nghe có vẻ là Sự thật. Nhưng thế giới này đầy những Sự thật. Thế nên nhỡ đâu ngài cũng có một Sự thật thì sao?”
Có một vài hành tinh, không thể chịu đựng được tình trạng này, đã cố gắng xâm chiếm Bingwaugh bằng vũ lực. Nhưng ngay lập tức, các hành tinh khác sẽ đứng lên can thiệp. Sự cân bằng quyền lực này tuyệt đối tới mức mọi xung đột có thể xảy ra sẽ luôn diễn ra bên ngoài ranh giới bầu khí quyển của Bingwaugh.
Vậy nên, dẫu là nơi mà những kẻ ngoại bang rất muốn chiếm đoạt, Bingwaugh cũng là một trong số những hành tinh có nền văn hóa bản địa được bảo tồn tốt nhất.
∴━━━✿━━━∴
Con có thích những câu chuyện này không?
“Dạ có... và không. Tại sao tất cả các hành tinh đều đầy nhóc du khách đến từ bên ngoài vậy? Con không thích đâu. Cảm giác những nơi này giống y chang sở thú ấy.”
Con nói đúng. Mẹ cũng không thích điều này. Nếu cứ như vậy, sự độc đáo của mỗi hành tinh sẽ dần dà biến mất, như thể những dấu vân tay bị chà đi vậy. Được rồi, sau đây con sẽ được nghe một vài câu chuyện về những người bản địa thực sự nhé. 
∴━━━✿━━━∴
AMIYACHI VÀ AIHUOWU
Để mẹ kể cho con nghe về hai hành tinh vẫn do người bản địa cai quản nhé. Trên mỗi hành tinh này, có hai giống loài tinh khôn hoàn toàn tách biệt nhau. Ấy vậy mà mỗi giống loài đều tin rằng bản thân họ mới là chủ nhân duy nhất của thế giới mà họ đang sinh sống.
Amiyachi quay quanh hai ngôi sao: một sao khổng lồ xanh sáng chói, một sao lùn trắng sáng mờ. Hai ngôi sao này có khối lượng tương đương, nhưng khác xa nhau về mật độ và bức xạ. Vậy nên, quỹ đạo của Amiyachi có hình dáng từa tựa một quả bầu vậy. Trong không gian, nó nhảy một điệu waltz dọc theo trường hấp dẫn hình yên ngựa ở giữa hai ngôi sao của mình.
Cứ khi nào Amiyachi tiến đến gần sao khổng lồ xanh, một mùa hạ dài ở nơi này lại bắt đầu. Còn khi nó ở gần sao lùn trắng, là khởi đầu của một mùa đông dài không kém. Mùa hạ là khi thực vật trên hành tinh sinh sôi và dây leo của chúng dường như phát triển không có điểm dừng. Đến mùa đông, hầu hết thực vật đều ngủ đông, chỉ còn một vài loài cỏ dại lặng lẽ nở hoa trên mặt đất trống trải.
Mỗi mùa ở Amiyachi được cai quản bởi một giống loài khác nhau: một giống loài nhảy múa qua những khu rừng xanh tươi của mùa hạ, giống loài còn lại hành quân đơn độc qua những đồng bằng cằn cỗi giữa mùa đông. Người Amiyachi hạ sống trong những căn nhà bện từ dây leo, và khi thời tiết chuyển lạnh, dây leo héo khô, những ngôi nhà ấy cũng biến mất. Người Amiyachi đông sống trong những hang động đào sâu trong lòng núi, và khi thời tiết chuyển nóng, miệng của những cái hang này bị cỏ và dương xỉ mọc dày che khuất, không để lại bất cứ vết nào.
Cứ mỗi khi người Amiyachi hạ chuẩn bị ngủ đông, họ tiết ra một thứ chất lỏng để bao phủ và bảo vệ cơ thể mình rồi chìm vào lòng đất. Chất lỏng ấy kích thích chu kỳ sinh sản của một loài côn trùng có tên wususu. Số lượng bầy wususu tăng lên nhanh chóng sau đó sẽ hồi sinh loài cây bụi chịu lạnh aludon. Sự ra hoa của loài cây có bề ngoài tầm thường ấy là khởi đầu cho quá trình thức tỉnh kéo dài và chậm rãi của người Amiyachi đông.
Khi người Amiyachi đông trải qua gần hết mùa của họ, họ bắt đầu sinh sản. Những đứa trẻ này được bao bọc trong một lớp màng cứng và lớn lên trong đất. Phản ứng ion từ quá trình sinh trưởng ấy thay đổi độ pH của đất, khiến cho các loài thực vật nảy mầm và phát triển, bắt đầu mùa hạ trên hành tinh, và cũng bắt đầu cả thời kỳ cai trị của người Amiyachi hạ.
Bởi vậy, hai giống loài tinh khôn ở Amiyachi không hề ý thức được sự hiện diện của nhau. Không bên nào hiểu được nền văn minh của chính họ phụ thuộc vào sự tồn tại của giống loài còn lại, như hai mặt của một đồng xu vậy. Cả hai bên đều sáng tạo ra những tác phẩm ngợi ca trí tuệ siêu phàm của các vị thần, thứ trí tuệ mà họ tin rằng đã cho phép họ hồi sinh sau một giấc ngủ dài. Nhưng họ không nhận ra rằng, bản thân họ vừa là những đứa trẻ sinh ra từ bàn tay của thánh thần, lại vừa chính là những thánh thần.
Ở Aihuowu, câu chuyện lại hoàn toàn khác. Trên bề mặt của hành tinh này, hai giống loài tinh khôn ý thức rất rõ sự hiện diện của giống loài đối diện, chỉ là họ không biết rằng giống loài còn lại cũng tương đồng với họ, cũng sở hữu cảm xúc, luận lý, và đạo đức.
Lý do rất đơn giản: Hai giống loài này tồn tại ở hai khung thời gian khác nhau.
Aihuowu là một hành tinh có quỹ đạo kỳ lạ. Góc giữa trục quay với mặt phẳng quỹ đạo của nó rất nhỏ, và chính bản thân tốc độ di chuyển trên quỹ đạo của nó cũng rất chậm. Bởi vậy, có thể chia bề mặt Aihuowu làm bốn phần: ở dải đất dọc theo xích đạo xuất hiện hiện tượng ngày và đêm do sự tự quay của hành tinh, trong khi hai vùng cực trải qua các thời kỳ sáng và tối dựa trên vị trí của hành tinh trên quỹ đạo. Một ngày ở vùng cực dài hơn hàng trăm lần một ngày ở vùng xích đạo, và thế là tốc độ biến chuyển của sự sống ở hai khu vực này cũng chênh lệch nhau rất xa.
Đối với những người Aihuowu xích đạo, ngày và đêm ở hai cực của hành tinh kéo dài một cách bí ẩn. Nhưng đối với người Aihuowu vùng cực, thời gian ở xích đạo trôi nhanh như gió thoảng. Người Aihuowu xích đạo thanh lịch và nhanh nhẹn, dân số của họ lên tới hàng chục vạn, sinh sống trong những thuộc địa đông đúc. Trong khi đó, người Aihuowu vùng cực có tốc độ trao đổi chất chậm để sống sót qua những quãng ngày và đêm dài dằng dặc, và cơ thể giống người này cũng có kích thước lớn, phù hợp với cảm thức thời gian của họ.
Đôi khi, người Aihuowu xích đạo tới thăm hai cực trong những chuyến phiêu lưu thám hiểm. Họ luôn thấy mình bị lạc trong những khu rừng giống như mê cung với những thân cây khổng lồ, và tưởng nhầm những ngôi nhà mà họ bắt gặp là những vách đá không thể trèo lên được. Còn khi người Aihuowu vùng cực đi lang thang tới gần xích đạo, họ thường không nhìn thấy các chi tiết ở đây và bất cẩn phá hoại nhà cửa ruộng vườn của người Aihuowu xích đạo. Hai giống loài sống trên cùng một hành tinh, nhưng lại thuộc về hai thế giới hoàn toàn tách biệt.
Cũng có lúc người Aihuowu xích đạo mạo hiểm suy đoán rằng những sinh vật khổng lồ ở vùng cực cũng sở hữu trí thông minh. Nhưng sâu trong tim, họ lại tin rằng, kể cả khi những sinh vật chậm chạp chỉ chuyển động có vài bước chân trong hàng trăm năm ấy có trí tuệ đi chăng nữa, thì thứ trí tuệ ấy cũng sẽ chỉ vô cùng đơn giản và thô sơ. Người Aihuowu vùng cực cũng nghi ngờ những điều tương tự về giống loài ở xích đạo. Nhưng rồi họ thở dài và lắc đầu, nhận ra rằng những tạo vật tí hon sinh ra và chết đi trong vỏn vẹn một ngày ấy sẽ chẳng bao giờ tiến tới được một nền văn minh thực sự.
Và cứ như vậy, hai giống loài tinh khôn ở Aihuowu cùng trải qua các quá trình học hỏi, lao động, yêu thương và chiến tranh. Lịch sử của họ diễn tiến trong hai khung thời gian khác nhau, tựa như âm vang với nhau vậy. Nhưng họ không nhận thức được nhau, và cũng không hiểu được rằng, khi tính toán thời gian, vạn vật đều sẽ chỉ đo đếm vũ trụ dựa vào thước đo tuổi thọ của chính bản thân chúng mà thôi.
∴━━━✿━━━∴
“Đợi đã,” con cắt ngang. “Làm sao mà mẹ biết được về tất cả những nền văn minh này? Mẹ đến Amiyachi vào thời điểm nào? Và mẹ đã dùng thước đo thời gian nào để trải nghiệm sự sống ở Aihuowu?
Mẹ biết. Tất nhiên là mẹ biết chứ. Và nếu con đến những nơi đó, con cũng sẽ biết thôi mà. Đây chính là sự khác biệt giữa các du khách và cư dân bản địa. Và người ta đi du ngoạn cũng vì lẽ đó.
“Có phải không? Vậy ra đây là lý do mà mẹ vẫn thường đi khắp đó đây?”
Đúng, và không đúng.
Nếu con thực sự muốn biết lý do mẹ du ngoạn, hãy để mẹ kể cho con nghe về một hành tinh mà cư dân ở đó chỉ dành cả đời để du ngoạn.
∴━━━✿━━━∴
LUNAJI
Cư dân ở Lunaji chế tạo ra những chiếc xe hơi, thuyền bè, khí cầu và máy phóng đẹp đẽ nhất trong thiên hà. Sự phức tạp và tinh xảo của những loại phương tiện này vượt xa trí tưởng tượng của du khách đến từ các thế giới xa lạ, và cũng vượt xa trình độ công nghệ của bất cứ ngành công nghiệp nào khác trên chính hành tinh này.
Nhiều người bằng trực giác đã ngay lập tức kết luận rằng việc di chuyển có một ý nghĩa đặc biệt đối với người Lunaji. Nhưng trong chuyện này hẳn có một bí ẩn sâu xa hơn mà hầu hết mọi người đều không thể tìm ra. Họ không thể tưởng tượng được vì sao một giống loài có trí tuệ như vậy lại dành cả đời để di chuyển cũng như chuẩn bị cho việc di chuyển, thay vì cố gắng đạt được những thành tựu khác mang tính thỏa mãn cao hơn. Chỉ những ai biết về vòng đời của người Lunaji mới hiểu được đôi chút cái khao khát có phần phi lý ấy.
Ở Lunaji có một bồn địa lớn, nồng độ oxy của nơi này cao hơn bất cứ địa điểm nào khác trên hành tinh. Đất đai ở đây ẩm ướt và giàu dinh dưỡng; những thác nước đổ xuống một mặt hồ hoang sơ và trong vắt; hoa nở vào tất cả các mùa trong năm; và thảm cỏ mềm rải rác những cây nấm sặc sỡ những sắc độ của cầu vồng, vây quanh bởi những loài cây trĩu quả ngọt. Mọi cư dân Lunaji đều trải qua tuổi thơ ở đó, không ai trong số họ biết vì sao họ lại đến được thế giới này. Từ khoảnh khắc mở mắt chào đời, bồn địa ấy là tất cả những gì họ biết.
Theo thời gian, một vài người bắt đầu có mong muốn khám phá bí mật về nguồn gốc của mình, hoặc đi tìm ngôi điện của các vị thần. Đó là lúc họ bắt đầu lớn lên, cho tới khi đủ cao để trèo qua được những khối đá chắn trước con dốc thoải bên rìa bồn địa. Ở đó họ sẽ bắt gặp một khu rừng rậm rạp như mê cung, và cứ thế leo dốc cho tới khi ra khỏi bồn địa. Họ không thể xác định được tuổi của mình, bởi vì thời điểm trưởng thành của mỗi người là khác nhau.
Sau khi ra khỏi bồn địa, họ cứ thế đi mãi, lang thang, kiếm tìm—và chẳng thấy gì cả. Họ gặp những người đã rời bồn địa trước họ, nhưng những người đó cũng vẫn đang kiếm tìm, vẫn lang thang khắp nơi, vẫn bế tắc trước bí ẩn đời mình. Vậy nên, cuộc đời của người Lunaji là một chuyến di cư dài. Họ đi từ nơi này sang nơi khác, chẳng bao giờ dừng lại. Họ chế tạo thuyền bè, xe hơi, máy bay nhằm gia tăng tốc độ của mình, để có thể đến được mọi tấc đất trên hành tinh, cho tới khi chạm tới bầu trời.
Đôi khi, có những người vì tình cờ mà đi theo lối mòn dẫn tới một đồng cỏ ở miền hoang dã. Trên đồng cỏ, một loài hoa màu bạc yêu kiều nở rộ, tỏa ra thứ hương thơm say đắm lòng người. Hương thơm ấy khiến cho tất cả những người Lunaji đi đến đó đều choáng váng, và bỗng chốc gây nên cho họ những cảm xúc dịu dàng mà họ chưa từng được cảm nhận. Lần đầu tiên trong đời, họ bị thu hút bởi nhau, họ ôm siết lấy nhau, cho và nhận tất cả những gì bản thân mình có. Thế rồi họ sinh con bên rìa một con suối, và những đứa trẻ ấy sẽ được dòng nước nâng niu đưa về bồn địa bên dưới những thác nước.
Còn cha mẹ của những đứa trẻ? Họ chết đi và chìm vào trong đất bùn.
Và cứ như vậy, vòng đời giản đơn ấy hóa ra lại mang đến toàn bộ ý nghĩa hàm chứa trong những chuyến du hành không ngừng nghỉ của người Lunaji.
∴━━━✿━━━∴
YANYANNI
Nhân tiện đang nói về quá trình trưởng thành, mẹ muốn kể cho con nghe một vài câu chuyện nữa. Chuyện đầu tiên là về hành tinh Yanyanni.
Chỉ bằng một cái liếc mắt, con cũng có thể xác định được tuổi của một người Yanyanni bất kỳ. Cũng như cây cối, họ không ngừng phát triển. Cứ mỗi năm, họ lại cao thêm một chút. Một người lớn sẽ cao hơn rất nhiều so với một đứa trẻ, và một người trẻ sẽ thấp hơn kha khá khi đứng cạnh một người già. Trong đám đông, người già nhất luôn là người cao nhất, đầu và vai của họ vượt lên trên tất cả những người còn lại, tựa như một tòa tháp cô đơn.
Vậy nên, trong thế giới của người Yanyanni, không có cái gì gọi là tình bạn vượt lên trên khoảng cách về tuổi tác. Đối với họ, ngay cả việc nói chuyện với một người chênh lệch nhiều tuổi cũng đã là một công việc nặng nhọc. Những cuộc trò chuyện kéo dài sẽ khiến cả hai bên bị đau cổ và đau vai, vì người trẻ thì luôn phải ngẩng lên còn người già thì lúc nào cũng phải cúi xuống. Mà quả thực là, giữa những người như vậy chẳng có quá nhiều thứ để trao đổi. Kích cỡ nhà cửa của họ khác nhau và những kệ hàng mà họ mua sắm cũng ở độ cao khác nhau. Những người trẻ chỉ nhìn thấy phần thắt lưng của người già, và hai bên không ai có thể xác định được biểu cảm của nhau.
Những người Yanyanni không phải cứ thế mà cao lên mãi. Đến một ngày, họ thức dậy và nhận ra rằng chiều cao của họ không còn thay đổi. Đó là khi họ biết mình sắp chết. Nhưng điều này không khiến họ quá buồn. Việc cao lên đôi khi trở nên thực sự mệt mỏi. Nhiều người kiệt sức vì nó và chỉ muốn tìm một cái cớ để dừng lại. Cái chết đối với người Yanyanni xảy đến từ từ, nhưng không ai biết chính xác quá trình đó kéo dài trong bao lâu. Để cho đơn giản, họ chỉ liệt kê ngày qua đời là ngày họ không cao lên nữa. Trong mắt họ, dòng thời gian là thước đo của sự thay đổi. Khi sự thay đổi không còn, thời gian cũng ngừng lại.
Ngôi nhà cao nhất ở Yanyanni được xây nên khoảng một thế kỷ trước. Bấy giờ, có một người đàn ông mà, năm này qua năm khác, cứ cao lên mãi cho tới khi đầu ông ta chạm trần tòa nhà cao nhất của hành tinh thời đó. Vậy là, người ta xây cho ông ta một tòa tháp, chỉ đủ chỗ cho một người. Phần móng tháp rộng bằng cả một công viên. Sau khi người đàn ông này qua đời, chưa có người nào phá được kỷ lục về tuổi thọ của ông ta, nên tòa tháp được chia thành hai tầng và cải tạo thành một viện bảo tàng.
Truyền thuyết kể rằng ông ta có để lại một cuốn nhật ký trên mỗi ô cửa sổ của tòa nhà, ghi chép lại cuộc đời của ông ta trong cái năm mà chiều cao của ông ta tương đương với ô cửa đó. Sau đó, những người khác sẽ bắc thang trèo lên lấy những cuốn sổ đó xuống đọc, nhưng đến nay chúng đều đã bị thất lạc.
Giờ đây, các du khách khi đi ngang qua những ô cửa sổ trống trơn đó đều băn khoăn làm cách nào mà, một người đàn ông có thể qua sông chỉ bằng một bước chân, có thể đánh răng và ăn uống mỗi ngày.
∴━━━✿━━━∴
TISU ATI VÀ LUTIKAWULU
Tisu Ati và Lutikawulu là một cặp đối nghịch. Hai hành tinh ở cách nhau hàng trăm nghìn năm ánh sáng ấy giống như hai đầu của một lưỡng cực vậy: chúng phủ định lẫn nhau và cũng phản ánh lẫn nhau.
Người Tisu Ati có kích thước khá nhỏ so với đa số các giống người ở nơi khác. Lớp da của họ mềm mại một cách đặc biệt, nhờ đó cơ thể họ có thể thay đổi hình dạng cực kỳ nhanh chóng. Ở cái thế giới tuân theo học thuyết Lamarck ấy, biểu hiện gen đã phát triển tới cực hạn—không phải, mà là đã vượt xa điểm cực hạn rồi. Toàn bộ quá trình tiến hóa chỉ gói gọn trong vòng đời ngắn ngủi của một cá thể duy nhất.
Người Tisu Ati có thể thay đổi cơ thể của họ theo ý thích. Cánh tay của những người thường xuyên luyện tập leo núi sẽ ngày một dài ra, cho tới khi chúng dài hơn cả cơ thể họ. Những người vận hành máy móc có thể mọc thêm năm đến sáu cánh tay, cho tới khi chỉ cần một người cũng có thể điều khiển được quá trình đóng mở của nhiều van khác nhau. Trên phố, không có hai người Tisu Ati nào trông giống nhau cả. Bất cứ nơi đâu, người ta cũng có thể bắt gặp một cái miệng rộng bằng nửa khuôn mặt, một vòng eo nhỏ hơn sợi mì, hay một hình cầu bao phủ bởi lớp vảy trông như áo giáp. Những thay đổi này là độc nhất vô nhị ở mỗi người, và việc xác định huyết thống của bất kỳ ai chỉ dựa vào vẻ ngoài của họ là điều không thể. Ngay cả những bậc cha mẹ cũng sẽ khó mà nhận ra con mình giữa đám đông nếu hai bên lâu ngày không gặp.
Nhưng cụm từ “theo ý thích” kể ra cũng không hẳn là đúng. Không phải người Tisu Ati nào cũng có được vẻ ngoài trong mơ của họ. Họ khá mù mờ về ngoại hình của bản thân. Chỉ khi ai đó sải bước dài hơn bình thường hoặc va phải các vật xung quanh, người đó mới nhận ra rằng chân mình đã dài hơn một phần ba hay lưng mình vừa mọc thêm một hàng gai nhỏ. Tất nhiên, chỉ cần vài năm, chân của một người có thể phát triển tới mức có thể leo được cả một đoạn cầu thang dài trong một bước chân, và một võ sĩ cũng chỉ mất chừng ấy để có được cho mình một cơ thể phủ đầy những chiếc gai cứng nhọn.
Thế nên, so với cư dân ở các hành tinh khác, người Tisu Ati thậm chí còn cẩn trọng hơn nhiều. Họ nói cẩn thận; và họ làm cẩn thận. Họ sợ rằng chỉ vì một thoáng sơ ý, khuôn mặt xấu xí của họ khi ngủ sẽ trở thành vĩnh viễn, một khối u không cách nào vứt bỏ được.
Trên những đường phố đông đúc ở Lutikawulu, con chỉ cần liếc mắt cũng biết được nghề nghiệp và đời sống hàng ngày của một người. Đây có lẽ là điểm tương đồng duy nhất giữa Tisu Ati và Lutikawulu.
Những người Lutikawulu trông rất đặc trưng: từ vận động viên chạy, ca sĩ, điêu khắc gia tới giới tri thức… Ta có thể dễ dàng phân biệt được họ từ sự khác nhau về hình dạng cơ bắp, hình khối cơ thể, kích thước và các đặc điểm trên khuôn mặt, cũng như người Tisu Ati vậy.
Nhưng ở Lutikawulu, hành trình của cuộc đời mỗi người lại hoàn toàn trái ngược với Tisu Ati. Đây là một hành tinh tuân theo thuyết Darwin, tức là nơi mà mọi người đều đồng ý rằng bất cứ nỗ lực nào trong việc định hướng quá trình tiến hóa đều là vô ích. Người Lutikawulu có bộ gen ổn định, tiến hóa chậm theo các nguyên tắc biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên. Nhưng bởi người Lutikawulu sinh sản vô tính, những biến đổi gen trong tế bào soma của họ vẫn tiếp tục được thể hiện thông qua di truyền. Những tế bào này, khi phân chia và biến đổi, sẽ truyền lại trực tiếp những đặc tính thích nghi mà không cần bảo lưu cho thế hệ sau. Và như vậy, con cái thừa hưởng trọn vẹn những biến đổi từ cha mẹ của chúng.
Hệ quả là, con trai của một thợ rèn sẽ được sinh ra với sức mạnh lớn hơn những đứa trẻ khác, cũng như con gái của một thợ sửa đồng hồ sẽ có thị lực tốt hơn và các ngón tay nhanh nhẹn hơn. Những khác biệt này, tích lũy qua hàng nghìn năm, làm lớn dần mức độ đặc trưng ở các cá thể. Và theo cách đó, mỗi nghề nghiệp đã phát triển thành một giống loài độc lập. Kể cả khi một số nghề nghiệp đã không còn tồn tại, những tính trạng liên quan đến chúng vẫn tiếp tục biểu hiện, tiếp tục tiến hóa.
Tất cả những giống loài đa dạng này được hội tụ lại bởi một ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ chung và số lượng nhiễm sắc thể tương đồng là hai chi tiết duy nhất cho biết họ là cùng một tộc người, chia sẻ cùng một nguồn gốc. Ngoài những điều đó, họ không có điểm chung nào khác. Họ không ghen tị với nghề nghiệp của nhau, cũng như một con khỉ sẽ không buồn tị nạnh với một con khủng long vậy. Chim có trời và cá có biển, họ sống cùng nhau trong các thị trấn, nhưng lướt qua nhau như thể không thấy được nhau.
Người Tisu Ati, mặc dù đã lặp lại quá trình tiến hóa hàng trăm triệu lần, luôn từ chối sự tiến hóa thực sự. Bất kể trong đời một người có thay hình đổi dạng nhiều đến mức nào, con cái họ sinh ra luôn giống nhau, luôn giữ lại hình dáng nguyên thủy ban đầu. Người Lutikawulu lại hoàn toàn ngược lại. Mỗi cá nhân không trải qua bất cứ sự thay đổi nào, nhưng trải qua hàng tỉ năm thăng trầm, con đường tiến hóa của họ đã chia thành vô vàn nhánh tách biệt.
∴━━━✿━━━∴
“Mẹ nói dối,” con bĩu môi. “Làm sao mà một vũ trụ lại có thể tuân theo hai hệ quy tắc trái ngược nhau được?”
Tại sao không chứ? Công chúa nhỏ đáng yêu của mẹ ơi, chẳng có gì là không thể. Vô vàn những bước tiến nhỏ tưởng chừng vô nghĩa, sẽ trở thành quy luật nếu được nối kết với nhau. Việc bây giờ con mỉm cười hay cau mày đã hoàn toàn có thể dẫn tới hai kết quả, hai quy luật khác nhau trong tương lai rồi. Nhưng con của hiện tại làm sao biết trước được những điều đó?
“Vậy sao ạ?” Con nghiêng đầu hỏi, rồi trầm ngâm một lúc lâu.
Mẹ nhìn con và khẽ cười. Chiếc xích đu con đang ngồi đung đưa nhẹ nhàng, gió thổi tung mớ tóc mai mềm mại của con. Thực ra mấu chốt trong câu hỏi của con là phương thức sinh sản, nhưng đáp án kiểu này thì khô khan quá, nên mẹ không muốn nói cho con biết.
Con biết sao không? Điểm mấu chốt ở đây không nằm ở việc những gì mẹ nói có đúng hay không, mà là việc con có tin chúng hay không. Từ đầu đến cuối, phương hướng của câu chuyện không phải được dẫn dắt bằng cái miệng, mà là bằng đôi tai.
∴━━━✿━━━∴
CHINCATO
Miệng và tai là hai bộ phận quan trọng nhất ở Chincato. Đối với người dân ở hành tinh này, lời nói không chỉ đơn thuần là một cách giết thời gian, mà là điều kiện cần thiết của sự tồn tại.
Ở Chincato không có điểm gì quá đặc biệt, ngoài trừ bầu khí quyển dày đặc của nó. Khí quyển ở đây dày đến nỗi ánh sáng không thể xuyên qua nổi, và bề mặt hành tinh bị bao phủ trong bóng tối. Sự sống ở Chincato khởi nguồn trong những dòng biển ấm dưới lòng đại dương, chở đầy vật chất hữu cơ, được làm ấm bằng dung nham sủi bọt, và được cung cấp nguồn năng lượng dồi dào bởi nhiệt lượng tỏa ra từ lõi hành tinh. Đối với người Chincato, miệng núi lửa sôi sùng sục dưới nước chính là mặt trời, là thánh địa của các vị thần, là nguồn gốc của trí tuệ và sức mạnh. Bên ngoài miệng núi lửa, họ có thể thu hoạch được các loại đường hữu cơ, thứ đối với họ là thức ăn, là nền tảng sự sống.
Người Chincato không có mắt, hay bất cứ cơ quan thụ cảm ánh sáng nào. Họ dựa vào âm thanh để xác định vị trí của nhau. Tai của họ vừa để nghe, vừa để quan sát. Nói cho đúng ra, họ không có tai. Họ nghe bằng toàn bộ cơ thể. Nửa trên của cơ thể họ được bao phủ bởi những màng ngăn hình thang, trên mỗi màng có chứa hàng nghìn sợi lông có độ dài khác nhau và mỗi sợi lông đó có thể cộng hưởng với âm thanh ở một tần số cụ thể. Thông qua sự lệch pha của thời điểm mà mỗi màng ngăn hình thang nghe được một âm thanh nào đó, bộ não của người Chincato có thể xác định được cả vị trí lẫn khoảng cách của nguồn phát âm thanh, và thậm chí là hình dạng chính xác của nguồn phát đó.
Vì vậy, ngày qua ngày, người Chincato nói và nghe không ngừng nghỉ. Họ tạo ra âm thanh để cảm nhận được sự hiện diện của người khác, và cũng để cho người khác biết về sự tồn tại của chính mình. Họ không thể im lặng. Sự im lặng là vô cùng nguy hiểm và khiến họ hoảng sợ. Chỉ bằng cách nói liên tục, họ mới có thể biết được vị trí của mình, đảm bảo chắc chắn rằng bản thân họ vẫn còn đang sống. Họ ganh đua với nhau xem ai nói to hơn, bởi đó là cách duy nhất để họ khiến mình nổi bật, đáng chú ý trong mắt người khác.
Một số đứa trẻ được sinh ra với những khiếm khuyết trong cơ quan phát âm. Những đứa trẻ như vậy hầu như không bao giờ có thể sống sót. Chúng luôn có nguy cơ bị kẻ khác dẫm đạp lên, những kẻ to lớn hơn và nhanh nhẹn hơn chúng nhiều lần. Và rồi sẽ chẳng ai còn biết có một đứa trẻ như vậy từng tồn tại.
∴━━━✿━━━∴
“Chuyện đó thật là buồn. Những câu chuyện của mẹ càng ngày càng ngắn, nhưng sao chúng cũng dần trở nên buồn thảm quá vậy?
Buồn thảm ư? Là câu chuyện mà mẹ kể buồn, hay là câu chuyện con đang nghe mới buồn?
“Hai cái đó có gì khác nhau đâu ạ?”
Khác nhau nhiều chứ. Mẹ đã từng đến một hành tinh nơi người ta có thể tạo ra những âm thanh ở hàng vạn tần số khác nhau, nhưng chỉ nghe được một phần rất nhỏ những tần số đó. Với những người này, độ nhạy của tai không tương thích với khả năng rung của dây thanh quản, vậy là những thứ họ nghe được không bao giờ sánh bằng những điều họ có thể nói ra. Nhưng hay một cái là mỗi người bọn họ lại có thể nghe được âm thanh nằm trong một dải tần số khác nhau. Khi bọn họ nghĩ rằng hàng nghìn người đều đang nghe chung một bản nhạc, sự thực là mỗi cá nhân lại đang nghe một bản nhạc khác nhau, và chẳng người nào trong số họ biết được điều này cả.
“Mẹ lại lừa con rồi. Một nơi như vậy làm sao mà tồn tại được?” Con cắn môi, mắt mở to tròn. “Giờ thì con nghi là mẹ chưa bao giờ đến những hành tinh mà mẹ vừa kể đâu. Mẹ bịa ra tất cả những chuyện đó để làm cho con vui đúng không?”
Công chúa nhỏ của mẹ ơi, ngay từ thời Othello, mọi hiệp sĩ trên đời đều dùng những truyền thuyết xa xôi để làm rung động người con gái trong tim họ mà. Con phân biệt được chuyện nào là thật, chuyện nào là giả chăng? Mẹ du ngoạn giữa những hành tinh ấy, cũng như Marco Polo lang thang qua những thành thị phương Đông, như Hốt Tất Liệt cưỡi ngựa qua miền đất bất tận dưới thanh kiếm của ngài: tất cả xảy ra chỉ trong chớp mắt. Con có thể nói mẹ từng đến đó, và con cũng có thể nói mẹ chưa từng rời đi. Những hành tinh mà mẹ đang nói tới nằm rải rác ở mọi ngóc ngách trong vũ trụ, nhưng đôi khi chúng cũng sáp lại gần nhau, như thể từ xưa đến giờ chúng đã luôn ở đó vậy.
Nghe đến đoạn này, con cười khúc khích. “Con hiểu rồi. Chúng sáp lại với nhau nhờ những câu chuyện của mẹ, và giờ đây mẹ kể chuyện cho con nghe, nên chúng lại một lần nữa ở gần nhau bên trong tâm trí con, có phải vậy không?”
Mẹ nhìn khuôn mặt tươi rói của con và thở dài khe khẽ. Âm thanh đó đủ nhỏ để con không nhận ra điều gì khác thường trong nụ cười của mẹ. Làm sao mẹ có thể giải thích cho con đây? Làm sao mẹ có thể giúp con hiểu được? Những câu chuyện chẳng thể gắn kết lại với nhau, nếu định mệnh của chúng là chia lìa.
Phải, mẹ nói khẽ. Mẹ con mình đã ngồi đây kể chuyện cả chiều, và cùng nhau, chúng ta đã sở hữu cả một vũ trụ. Nhưng những câu chuyện không phải là thứ mẹ kể cho con. Chiều nay, cả hai chúng ta đều là người kể chuyện và người lắng nghe.
∴━━━✿━━━∴
JINJIALIN
Jinjialin là hành tinh cuối cùng mà mẹ sẽ kể cho con hôm nay. Chuyện này ngắn thôi, sẽ kết thúc nhanh ấy mà.
Người Jinjialin có ngoại hình khác với cư dân của những hành tinh khác mà mẹ vừa nhắc tới. Trông họ giống như những quả bóng bay mềm mại, hoặc là như những con sứa lơ lửng trong không trung vậy, trong suốt và lỏng lẻo. Bề mặt cơ thể của người Jinjialin là một lớp màng mỏng, tương tự lớp màng tế bào, không thể thẩm thấu một cách ngẫu nhiên, nhưng chúng có thể hợp nhất hay tách ra khi chạm vào những lớp màng khác.
Khi hai người Jinjialin gặp nhau, một phần cơ thể của họ sẽ kết hợp trong thời gian ngắn, và vật chất bên trong lớp màng sẽ được trộn lẫn vào nhau. Khi họ tách khỏi nhau, những vật chất này được phân bổ lại. Bởi vậy, những người này không quá để tâm đến cơ thể của họ lắm. Ngay đến chính họ cũng không thể khẳng định được bao nhiêu phần trong cơ thể họ đến từ những người lạ mà họ bắt gặp trên đường. Họ tin rằng họ vẫn là chính mình, và những quá trình trao đổi vật chất kể trên thực ra cũng chẳng hề quan trọng.
Nhưng họ không nhận ra rằng cảm thức về “cái tôi” đó chỉ là một ảo tưởng. Trong khoảnh khắc họ kết hợp với nhau, hai con người ban đầu đã không còn tồn tại nữa. Họ trở thành một tổ hợp, và, khi chia tách ra, là hai con người mới hoàn toàn. Hai con người mới đó không hề biết về sự tồn tại của những cá thể trước khi kết hợp, và cả hai bọn họ đều tin rằng mình vẫn chính là mình, chưa từng thay đổi.
∴━━━✿━━━∴
Con có hiểu không con? Khi mẹ đã kể cho con những câu chuyện này, khi con đã lắng nghe chúng, mẹ không còn là mẹ, và con cũng không còn là con nữa. Chiều nay mẹ con mình đã hòa vào nhau, dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Sau này, con vẫn sẽ luôn mang theo một phần của mẹ, và mẹ cũng mang theo một phần của con, kể cả khi hai ta đã quên đi cuộc trò chuyện này.
“Có phải mẹ đang nói Jinjialin chính là thế giới của chúng ta không ạ?
Thế giới của chúng ta ư? Thế giới nào? Có bất cứ hành tinh nào thuộc về chúng ta không? Và có chăng chính chúng ta cũng thuộc về một hành tinh nào đó?
Con đừng hỏi mẹ về tọa độ của những hành tinh ta vừa mới kể. Những con số ấy là những câu châm ngôn huyền bí lâu đời nhất của vũ trụ. Chúng là không khí giữa các ngón tay con. Con đưa tay ra để nắm lấy chúng, nhưng khi con mở bàn tay mình ra, bên trong chẳng có gì cả. Con và mẹ và cả bọn họ đã gặp gỡ nhau trong khoảnh khắc, và định mệnh rồi sẽ lại buộc chúng ta phải xa nhau. Chúng ta chỉ là những kẻ lữ hành, hát những bài hát mà ý nghĩa đã phai mờ, lang thang giữa bầu trời đêm đen. Chỉ vậy thôi. Con biết rằng họ vẫn đang hát trong gió, hát trong gió về một quê hương xa xôi mà. 
Hết
∴━━━✿━━━∴
Dịch theo bản chuyển ngữ tiếng Anh Invisible Planets của Ken Liu. Có tham khảo bản tiếng Trung 看不见的星球.
Biên dịch & biên tập: Nhi
∴━━━✿━━━∴
Tác giả Hác Cảnh Phương (Ảnh: Radii China)
Tumblr media
Minh họa truyện Những hành tinh vô hình trên tạp chí Lightspeed
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Lễ hội Số Chín - Caroline M. Yoachim
Tumblr media
Về tác giả
Caroline Mariko Yoachim (bút danh Caroline M. Yoachim hoặc Caroline Yoachim) là tác giả người Mỹ. Cô bắt đầu sáng tác từ năm 2005 và cho đến nay, truyện ngắn của cô đã được đăng tải trên rất nhiều các tạp chí danh tiếng chuyên về thể loại giả tưởng tự biện, cũng như giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá. Tập truyện ngắn duy nhất của cô, Seven Wonders of a Once and Future World and Other Stories, được xuất bản năm 2016. Ngoài công việc viết lách, cô còn có sở thích chụp ảnh, thiết kế đồ họa, nấu ăn, trượt tuyết, hay tập yoga.
Bạn có thể liên hệ với Caroline M. Yoachim qua trang web của cô, carolineyoachim.com.
Về tác phẩm
Lễ hội Số Chín (tựa gốc: Carnival Nine) là một truyện ngắn của Caroline M. Yoachim, đăng tải trên tạp chí Beneath Ceaseless Skies năm 2017. Truyện đã được đề cử giải World Fantasy, Hugo và Nebula cho hạng mục truyện ngắn xuất sắc nhất.
༻❁༺
Một đêm nọ, khi những bánh răng của tôi chậm dần và cơ thể tôi chuẩn bị chìm vào giấc ngủ, tôi hỏi cha, “Tại sao mỗi ngày con lại nhận được một số vòng khác nhau ạ?”
“Có những ngày chế tác gia sẽ xoay chiếc chìa của con nhiều, và có những ngày ngài xoay ít, nhưng con sẽ không bao giờ nhận nhiều hơn số vòng mà dây cót của con có thể giữ được. Con may mắn đó, Zee à, dây cót của con rất tốt.” Khi nói những lời này, giọng cha đượm niềm bâng khuâng. Cha chưa bao giờ có nhiều vòng như tôi cả, và ông luôn dành hầu hết số vòng ấy cho những công việc người lớn buồn tẻ.
“Ngày mai cha đưa con đến vườn thú cha nhé?” Vườn thú ở phía bên kia tủ đồ có bầy sư tử lộn nhào và bầy voi có thể đứng thăng bằng trên những quả bóng sặc sỡ.
“Cha phải đưa ông bà đến chỗ thợ máy để đánh gỉ các bánh răng rồi.”
Cha chẳng bao giờ còn thừa vòng nào để đi chơi cả, và điều đó thật buồn. Tôi mở miệng định nói như vậy, nhưng bánh răng của tôi đã chậm tới mức nghe được từng tiếng lách cách, và tôi ngậm chặt miệng lại để nó không mở ra khi tôi ngủ.
༻❁༺
Điều cha nói không sai. Tôi có một cái dây cót tốt. Có những hôm tôi được ba mươi vòng, và một vài hôm khác được hẳn bốn mươi sáu. Và hôm nay, một ngày hè rực rỡ, tôi có tới năm mươi hai. Tôi chưa từng gặp ai mà dây cót giữ được nhiều vòng đến vậy, và cơ thể tôi như thể sắp nổ tung vì năng lượng.
Cha không để ý tôi được lên dây nhiều đến mức nào. “Hôm nay bà phải đi hiệu chỉnh, còn ông sẽ đi lấy bộ râu mới. Nếu con ngồi gỡ chỉ cho cha, con có thể dành hết số vòng còn lại để chơi.”
“Nhưng mà—”
“Luôn phải làm việc trước, để không bị hết vòng con ạ.” Chân cha cứng đờ và người cha lắc lư khi đi dọc theo tấm ván gỗ rộng dẫn ra bên ngoài tủ đồ. Cha băng qua đường ray tàu hỏa và biến mất trong bóng tối bên dưới bàn làm việc của chế tác gia. Tối nay, sau khi những công việc lặt vặt đã xong xuôi, cha sẽ mang về một mảnh vải vụn hoặc một ít chỉ. Cha may quần áo cho cả nhà bằng bất cứ nguyên vật liệu gì mà chế tác gia làm rơi.
Tiếng bánh răng của cha nhỏ dần, và tôi cố thử gỡ chỉ. Chuyện ấy thật nhàm chán. Chuyển động khéo léo của việc nhặt một sợi chỉ sáng màu lên rõ ràng là rất khó khăn khi dây cót quá chặt. Một đoàn tàu chạy đến đoạn đường ray gần chỗ tôi, mang theo âm nhạc sôi động từ lễ hội. Cha con tôi định cư ở Thành phố Tủ đồ, nhưng mẹ tôi lại đi theo những chuyến tàu lễ hội. Theo những gì cha kể, việc lẻn đến đó có vẻ sẽ là một trải nghiệm thú vị. Rõ ràng tôi phải đi rồi—lễ hội đến đúng vào cái hôm tôi nhận được nhiều vòng hơn bất cứ ngày nào trước đây. Tôi tập hợp tất cả những chiếc cúc áo đẹp nhất của mình, và hăm hở chạy tới chỗ những toa tàu được sơn màu rực rỡ.
Lúc ấy vẫn còn sớm, và lễ hội chỉ vừa mới đến, nhưng đã có một đám đông chờ sẵn. Những tiếng vù vù và lách cách vang lên khi họ ùa tới khu biểu diễn. Các thành viên của lễ hội cũng rất bận rộn, họ tháo những toa tàu và lắp chúng thành sân khấu, dựng lối đi, khu trò chơi, và mắc dây thừng cho diễn viên nhào lộn.
Tôi đi ngang qua một gian hàng bán dầu thơm để tra bánh răng và một gian khác bày rất nhiều chìa khóa được trang trí tinh xảo. Không hiểu chế tác gia có thể dùng những chiếc chìa đó để lên dây tốt như chiếc chìa bạc cắm sau lưng tôi không. Một họa sĩ vẽ mặt có hai đôi cánh tay đang vẽ cho hai khách hàng cùng một lúc, cạo sạch lớp sơn đã đã mờ trên mặt họ và thêm vào những hình xoáy màu xanh lục, xanh lam và tím trông khá vui nhộn. “Hai loại sơn đấy,” họa sĩ nói với tôi, “mấy hình xoáy này chỉ cần rửa bằng xà phòng là sạch.”
Đó có lẽ là một lời trấn an, nhưng nó lại phản tác dụng—đường từ tủ đồ tới phòng tắm tốn tới bảy vòng, nên xà phòng với tôi khá là khó kiếm. Tôi mà mang khuôn mặt sơn phết về nhà thì hẳn cha sẽ rất giận.
“Bắt hai con cá giống nhau để có thưởng nào!” một chủ trò gọi với sang. Cơ thể ông ta là một tổ hợp lắp ráp khá kỳ quặc, một bên cánh tay thì nhỏ và nâu còn bên kia lại to và trắng. Hai chân ông ta không dài bằng nhau, và trên gương mặt bằng sứ của ông ta chằng chịt những vết xước. Ông ta đang chìa ra một cái cần dài, ở đầu gắn một tấm lưới nhỏ xíu, có khi còn chẳng đủ to để bắt được con cá nào.
“Không phải chúng đều giống nhau hết ạ?” Tôi tựa người vào thành bể nước và nghiên cứu lũ cá màu da cam. Chúng phát ra tiếng rì rì và một loại máy móc nào đó đang đẩy chúng tiến về phía trước và tạo ra những luồng bong bóng nước phía sau đuôi.
Chủ trò nhúng cái vợt vào nước và bắt được một con cá. Ông ta mở một ô vuông phía dưới bụng nó, làm lộ ra một con số—bốn. “Đàn cá được đánh số từ một đến mười, và cháu được bắt ba con. Cứ có hai con mang số giống nhau là cháu thắng!”
Tôi nhìn sang quầy phần thưởng—một hàng những con vật tí hon, chủ yếu là mèo, tất cả đều cắm những chiếc chìa vàng bé xíu, nhỏ tới mức đến tôi còn xoay được, nên không cần đợi chế tác gia lên dây hàng đêm.
“Cháu đổi mấy cái khuy áo này được chứ?”
Chủ trò bật cười. “Không, nhưng nếu cháu không mua vé, thì phải làm việc để được chơi thôi—vòng đổi vòng, người ta vẫn nói vậy mà.
Không giống như cha, chủ trò có thể thấy dây cót của tôi đã được lên nhiều vòng đến mức nào, vậy nên ông ta bảo tôi vận chuyển các thùng hàng từ quầy của ông ta tới một toa ở gần đuôi tàu. Công việc khiến tôi khá thoải mái, và nó cho tôi cơ hội được nhìn ngắm phần còn lại của lễ hội. Khi tôi làm xong, ông ta đưa vợt cho tôi. “Bất cứ ba con nào mà cháu thích. May mắn nhé!”
Cái vợt dài và khá khó cầm, nhưng tôi vẫn nhúng nó xuống nước. Khi tôi vớt lên, phần lưới trống không, nước nhỏ tong tỏng. Việc bắt cá xem ra chẳng hề dễ dàng như khi chủ trò làm. Tôi thử thêm lần nữa, và lần này bắt được một con khá kêu vo vo khá to khi được vớt lên khỏi mặt nước. Chủ trò nhấn vào một cái chốt để tắt nó đi, và mở ô vuông dưới bụng nó để làm lộ ra con số tám.
Hai con cá tiếp theo của tôi mang số ba và số bốn.
“Thật ra thì có hai con cá nào giống nhau không?” Tôi trả lại cây vợt, và nghiên cứu bể nước. Có lẽ trong ấy phải có đến cả trăm con cá. “Nhiều như thế này thì hẳn phải có chứ nhỉ.”
“Cậu phải xem xét đám cá kỹ lưỡng cơ.” Một đứa con trai mặt đầy tàn nhang tiến vào quầy trò chơi. Cậu ta thò tay bắt một con cá, kiểm tra con số, rồi nhìn vào trong bể. “Con này số sáu, nên giờ phải tìm thêm một con như vậy.”
Bằng một động tác điệu nghệ, cậu ta nhúng cây vợt xuống nước, và bắt thêm con cá nữa. Cậu ta cho tôi xem con số dưới bụng nó—lại một số sáu khác.
“Làm sao mà cậu—”
“Một con mang số sáu có đuôi bị vỡ, nên nó bơi vòng tròn.”
“Nhưng còn con kia, lỡ cậu bắt được số khác thì sao?
“Con này có một mảng sơn bị tróc.”
“Tớ là Zee.”
“Tớ là Endivale,” cậu ta nói, nhưng rồi nhanh chóng bổ sung, “Cậu gọi tớ là Vale cũng được. Bố Pops ơi, con xin vài vòng để đưa Zee đi loanh quanh nhé?”
Chủ trò chăm chú nhìn chúng tôi một phút, rồi gật đầu.
Vale cầm tay tôi, “Đi nào, cậu phải nghe sơn ca hát, cô ấy tuyệt lắm.”
Và thế là chúng tôi đi. Hóa ra sơn ca là một người phụ nữ có đôi cánh với lớp lông vũ nâu tiệp màu với làn da của cô. Vale không hề nói dối chút nào. Cô có giọng hát thật đẹp, và cô có thể hát bất cứ bài nào mà đám đông yêu cầu.
Chúng tôi dành mười hai vòng để khám phá khu lễ hội—xem những màn biểu diễn nhào lộn, để thua trong trò ném vòng, và cưỡi trên lưng những con gấu nhảy múa. Thế rồi Vale phải dừng lại, vì cậu không có nhiều vòng như tôi.
“Cậu quen tất cả mọi người ở lễ hội thì phải,” tôi bảo Vale, khi chúng tôi đang ngồi bên rìa một sân khấu trống trải. “Cậu có biết mẹ tớ không? Bà ấy rất dễ nhận ra—một người phụ nữ có tám chân nhện.”
Ồ, tớ có nghe nói về bà—Quý cô Arachna, phải không? Bà ấy ở Lễ hội Số Bốn.”
“Lễ hội Số Bốn là sao?”
Vale khoát tay về phía sân khấu mà chúng tôi đang ngồi. “Khi sân khấu được tháo ra thế này thì cậu không thấy đâu, nhưng các toa tàu đều được đánh số để dễ phân biệt. Mọi toa trên chuyến tàu này đều được đánh số chín, nên chúng tớ là Lễ hội Số Chín. Bố Pops và tớ ở đây bởi người ta có một quầy trò chơi trống cho ông làm chủ trò. Người bố kia của tớ thì ở Lễ hội Số Hai vì ông là diễn viên nhào lộn, mà Số Chín đã có nhiều diễn viên nhào lộn hơn cần thiết rồi.
“Vậy cậu không bao giờ gặp ông ấy hả?”
“Ở đây chỉ có một đường ray chạy qua thôi, nhưng các đoàn tàu thì đi khắp ngôi nhà, với những thành phố dọc theo tuyến đường, nơi chúng tớ sẽ dừng lại và mua vui cho mọi người. Một vài địa điểm có các cụm đường ray, khi mà các đoàn tàu chạy qua nhau hoặc quay đầu lại. Tớ có gặp ông ấy một vài lần.”
Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc nữa, và cậu còn lén đưa tôi vào bên trong để nhìn người phụ nữ có râu và người đàn ông có nửa thân rắn có lớp vảy màu xanh lục óng ánh. Lễ hội thật tuyệt vời, và tôi chẳng hề muốn rời đi, nhưng tôi có thể cảm thấy thế năng đang cạn dần trong cơ thể mình. Tôi còn một vài vòng, hầu như chỉ đủ để về được đến nhà. “Tớ phải đi đây.”
“Đằng nào thì tớ cũng sắp hết vòng rồi.”
Tôi nhảy xuống khỏi sân khấu. Vale đặt tay lên vai tôi. “Tớ nói dối cậu về vụ mấy con cá trông khác nhau đấy. Chẳng phải chúng bị tróc sơn hay đuôi chúng bị vỡ đâu. Đàn cá mang nhiều hơn một con số, tùy theo cách cậu mở những ô vuông. Đừng kể cho bố Pops là tớ bảo cậu đấy nhé.”
Có một điều gì đó đã sượt qua chúng tôi lúc đó, vào khoảnh khắc mà cậu tin tưởng tôi. Bằng cách nào đó, điều này có ý nghĩa hơn tất cả những sự kỳ diệu mà tôi đã trông thấy. Tôi thậm chí còn không cảm thấy tức giận vì trò chơi gian lận cho tới khi đi được hơn nửa đường về nhà.
“Con đã không gỡ chỉ.” Cha nói khi tôi bước vào nhà.
Mớ chỉ nhiều màu vẫn nằm trên bàn nơi tôi đã bỏ chúng lại.
“Con có quá nhiều năng lượng, và chuyến tàu đã mang tới lễ hội—”
“Đi ngủ đi, Zee. Cha con mình hết vòng rồi.”
༻❁༺
Tôi dành những ngày sau đó để gỡ chỉ và học cách khâu những mảnh vải vụn vào quần áo. Vào ngày thứ 200 của tôi, cha đưa tôi vào thị trấn, đổi chân tay cỡ trẻ con của tôi sang cỡ người lớn, và sơn lại khuôn mặt tôi. Những đoàn tàu đến và đi, nhưng tôi không bao giờ có đủ vòng để thăm thú lễ hội. Rồi một buổi sáng, cha từ thành phố trở về sớm, kéo theo sau một chiếc xe cút kít. “Có chuyện gì vậy ạ?”
“Ông bà đều đã dừng lại rồi.”
“Nhưng đến đêm nay chế tác gia sẽ lại lên dây cho ông bà, và rồi— ”
Cha lắc đầu. “Sẽ đến một lúc mà cơ thể chúng ta không thể giữ được bất cứ vòng nào nữa. Chúng ta đều nhận được khoảng nghìn ngày cho riêng mình, có thể nhiều hoặc ít hơn một chút. Sau đó, chúng ta dừng lại lần cuối. Đó là cách mọi thứ vẫn vận hành.”
Tôi biết chúng tôi sẽ không sống mãi, bởi vì một số người bạn của tôi được tạo thành từ các bộ phận lấy ở trung tâm tái chế của Tủ đồ. Trung tâm tái chế nấu chảy những bộ phận cũ để tạo thành các bộ phận mới. Bởi vậy, tôi vẫn biết điều này. Nhưng đồng thời tôi chưa từng quen người nào có những bộ phận bị tháo rời ra cả. Bà từng vẽ mặt cho tôi và ông luôn kể cho tôi những câu chuyện hay nhất về chế tác gia.
“Con ước mình có thể đến thăm ông bà trước khi họ dừng lại.”
“Cha không biết ông bà sẽ ra đi vào hôm nay. Họ mới trải qua hơn 900 ngày.”
“Cha có đưa ông bà tới trung tâm tái chế không?”
Cha lắc đầu. “Trung tâm tái chế bán ra các sản phẩm tốt, nhưng các lễ hội mới thường xuyên săn lùng những bộ phận cũ. Khi chuyến tàu tiếp theo tới, cha con ta sẽ đưa ông bà ra ngoài đó.”
Tôi biết thật không phải khi cảm thấy phấn chấn vào ngày ông bà qua đời, nhưng trong lúc chuẩn bị chìm vào giấc ngủ, tôi không thể không tưởng tượng những điều kỳ diệu mà chúng tôi sắp sửa được ngắm nhìn.
༻❁༺
Chuyến tàu tiếp theo hóa ra vẫn mang số chín. Tôi có chút thất vọng vì mình từng tham quan gần hết Lễ hội Số Chín rồi, nhưng sau đó tôi nhớ đến Vale và cách cậu chia sẻ bí kíp về những con cá. Tôi không nhìn thấy cậu khi theo cha đến một quầy hàng phía trước đoàn tàu, hay khi cha con tôi đặt ông và bà trên tấm gỗ sơn đỏ. Một trong những người thợ máy của lễ hội quỳ xuống bên cạnh bà, và cha nghiêng người thì thầm, “Cha sẽ ở lại để xem người ta tháo rời ông bà, nhưng con không cần làm điều đó. Con đã dùng vòng của con để giúp cha đẩy xe đưa ông bà đến đây rồi.”
Người thợ bóc lớp vải trên thân và tháo tấm kim loại trước ngực của bà. Tôi muốn nhớ về bà bằng một hình ảnh trọn vẹn, không phải như những mảnh vụn nhỏ. Tôi siết chặt tay cha, rồi buông tay và đi dọc chiều dài của lễ hội.
Vale tìm thấy tôi khi tôi đi được khoảng nửa đoàn tàu. Cậu cũng đã đổi các bộ phận từ ngày nhỏ, và khi người ta sơn lại khuôn mặt cậu, họ đã xóa hết những vết tàn nhang. Tóc cậu giờ đen hơn, và rất hợp với cậu. Cậu đặt tay lên vai tôi, “Tớ rất tiếc về chuyện của ông bà cậu.”
“Làm sao mà cậu lại—”
Cậu nhún vai. “Bố Pops thấy cậu bước vào. Ông ấy nói tớ có thể dùng vài vòng, nếu cậu muốn đi xem biểu diễn nhào lộn.”
Có một ánh nhìn tinh nghịch trong đôi mắt cậu khi cậu nói điều đó, như thể nó là một cuộc phiêu lưu hết sức vĩ đại. Vale đưa tôi đến một căn lều lớn sọc xanh lục và trắng cạnh đường ray, chúng tôi nắm tay nhau và nhìn đoàn diễn viên đi trên những sợi dây mảnh và nhảy giữa những chiếc đu được treo cao trên mặt đất. 
Tôi rất thích màn biểu diễn, nhưng được nửa chừng thì Vale ngừng xem.
“Đã xem chương trình này quá nhiều lần rồi hả?” Tôi hỏi.
“Không. Ừm, điều đó cũng đúng, nhưng chủ yếu là vì nó nhắc tớ về người bố kia của tớ. Bố Pops rất tuyệt, nhưng ông và tớ không phải lúc nào cũng hòa hợp với nhau. Ông ấy muốn tớ tiếp quản quầy trò chơi bắt cá vào một ngày nào đó, nhưng tớ ghét việc toàn bộ trò chơi chỉ là gian lận.”
Lẽ ra tôi cũng chẳng buồn ở lại lễ hội, nhưng tôi không muốn cậu buồn. Chúng tôi lẻn ra ngoài và quay về phía đoàn tàu. “Cậu có thể đổi sang lễ hội khác được không?”
“Cơ thể tớ không phù hợp để trở thành diễn viên nhào lộn như bố. Các bộ phận của tớ không được tốt cho lắm. Thực sự thì tớ hợp làm chủ trò nhất, và nếu tớ có ý định theo đuổi công việc đó, tớ nên ở lại đây.”
“Cậu có thể rời lễ hội và sống ở Thành phố Tủ đồ mà,” tôi nói, đột nhiên nhận ra rằng hai đứa vẫn đang nắm tay nhau. “Nó... Chà, thực ra nó nhàm chán khủng khiếp.”
Cậu bật cười. Lúc ấy đã muộn và cậu đã gần hết vòng. “Tớ đang cân nhắc về việc nghĩ ra một trò chơi khác, một trò nào đó khó nhằn nhưng không cần phải gian lận.”
Tôi không để nào không để lộ vẻ thất vọng trên khuôn mặt. Tôi gần như ước rằng tôi đã không nói gì về việc Thành phố Tủ đồ nhàm chán, nhưng đó hoàn toàn là sự thật. “Ừ, tớ đoán là thật khó từ bỏ những cuộc phiêu lưu ngoài lễ hội để ở lại một nơi như thế này.”
Cậu kéo tôi lại gần và nói nhỏ vào tai tôi, “Sao cậu không đi cùng tớ khi lễ hội di chuyển đến nơi khác nhỉ?”
Cha có thể tự chăm sóc bản thân mình, và tôi đã đủ lớn để đi. Tôi nói với cha khi chúng tôi đi bộ về nhà, và sáng hôm sau tôi thu dọn đồ đạc và nói lời tạm biệt. Ấy là một sự thay đổi đột ngột, một sự ra đi đột ngột, nhưng cha hiểu rằng tôi chưa từng muốn ở yên một chỗ. Cha yêu tôi đủ nhiều để cho phép tôi đi. Khi đoàn tàu chuyển bánh, tôi đã rời đi cùng nó. Cùng với Vale.
༻❁༺
Năm chuyến tàu đang tụ họp ở đại giao lộ khi chúng tôi đến, và Vale giúp tôi tìm Lễ hội Số Bốn để tôi có thể gặp được mẹ. Lẽ ra cậu c��ng ở lại, nhưng Lễ hội Số Hai cũng đang dừng ở giao lộ, và tôi bảo cậu hãy đi gặp bố mình. Tôi và Vale sẽ có nhiều thời gian bên nhau về sau này, và tôi muốn có thời gian nói chuyện riêng với mẹ. Tôi đã không gặp mẹ kể từ khi tôi còn rất mới.
Tìm được mẹ rất dễ, toa tàu của mẹ được dán nhãn rõ ràng “cô nhện siêu đẳng” với những bức tranh lớn vẽ mẹ trên thành toa. Tôi gõ cửa và mẹ mở nó ra, nhìn tôi và gõ lên một trong những chân trước của mẹ, “Vâng?”
Bánh răng của tôi quay ro ro trong lồng ngực. Mẹ không nhận ra tôi, và làm sao mà mẹ nhận ra được cơ chứ? Chân tay tôi đã khác, khuôn mặt tôi đã được sơn lại. Mẹ bỏ lại một đứa trẻ, còn tôi giờ đã là một người phụ nữ. “Con là Zee. Con đến đây cùng với Lễ hội Số Chín, và con muốn... ừm, muốn được gặp mẹ, con nghĩ vậy.”
“Ồ, con gái của ta, Zee.” Chân trước của bà vẫn không động đậy, và bà nghiêng đầu, quan sát tôi. “Con làm gì ở Lễ hội Số Chín thế?”
“Vale đang dạy con quản lý một trong những trò chơi ở đó,” tôi thừa nhận, biết rằng đó là một trong những công việc thấp kém nhất ở lễ hội. Trở thành một diễn viên nhào lộn hay một nghệ sĩ biểu diễn đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn, nhưng các trò chơi chủ yếu là lừa đảo. Hầu như bất kỳ ai cũng có thể làm được, nếu có đủ thời gian tập luyện.
Mẹ không nói gì, và sự im lặng kéo dài một cách khó xử giữa hai chúng tôi.
“Cha vẫn ở Thành phố Tủ đồ,” tôi nói với mẹ, chỉ để lấp đầy sự im lặng. “Ông và bà đã mất vài tuần trước.” Tôi cố gắng nghĩ thêm tin tức từ Thành phố Tủ đồ, nhưng bởi mẹ đã đi cùng chuyến tàu nên hẳn bà không biết hầu hết những người đã cùng tôi lớn lên. Đó là một cảm giác kỳ lạ, khao khát mãnh liệt của tôi được gắn kết với một người hoàn toàn xa lạ. Trong tưởng tượng của tôi, cuộc gặp gỡ diễn ra theo chiều hướng khác. Mẹ hẳn đã yêu tôi đơn giản vì tôi là con gái của mẹ, và chúng tôi có được sự kết nối ngay lập tức. 
“Ta rất tiếc khi nghe tin họ đã dừng lại.” Mẹ dừng lại một lúc. “Nghe này, ta thực sự không hợp với vai trò làm mẹ—đó là lý do Lars đã đưa con tới Thành phố Tủ đồ để nuôi dạy con. Ta—ừm—ta không tốt đẹp lắm. Ta ích kỷ. Ta thích sử dụng các vòng cho chính bản thân mình, và ta chưa từng bỏ ra quá nhiều vòng trong mối quan hệ giữa ta và Lars. Chắc chắn ta cũng sẽ không bao giờ có đủ vòng cho con.”
Tôi không biết phải nói gì sau đó. Tôi muốn nổi giận với mẹ, nhưng bà chỉ là một người xa lạ, bà chưa từng là một phần trong cuộc sống của tôi. Đó là cách mọi thứ vẫn diễn ra và tôi đã quen với điều đó. Chủ yếu là tôi thất vọng. Buồn phiền vì ước mơ được tái ngộ với mẹ đã tan biến. Chúng tôi trò chuyện một lúc nữa về những điều vụn vặt, và rồi tôi trở lại Lễ hội Số Chín, về nhà cùng Vale. Tôi thề rằng tôi sẽ không bao giờ trở thành giống mẹ mình. Tôi được phù hộ cho rất nhiều vòng, và tôi sẽ không chỉ dùng chúng cho một mình bản thân tôi.
༻❁༺
Chuyến tàu đưa chúng tôi đi những vòng tròn chậm rãi, dừng lại để biểu diễn tại các thành phố. Tôi dần quen với nhịp độ của cuộc sống ở lễ hội—mở tung các bức tường quanh toa tàu của chúng tôi để dựng quầy hàng, bố trí trò chơi phi tiêu mà Vale thiết kế, đóng gói mọi thứ khi đến lúc phải di chuyển. Những ngày tháng trôi qua trong thoáng chốc, che mờ đi dòng thời gian. Rồi đến một ngày, tôi nhận ra mình đã hơn 400 ngày tuổi, nghĩa là thời gian tôi đi theo lễ hội đã dài hơn thời gian tôi sống ở Thành phố Tủ đồ.
Tôi chưa già, nhưng tôi cũng không còn trẻ nữa.
“Em chắc chắn muốn làm điều này chứ?” Vale đưa tôi đến toa tàu đầu tiên, nơi chứa tất cả các bộ phận.
Tôi gật đầu. Điểm dừng tiếp theo của chuyến tàu của chúng tôi là bàn làm việc của chế tác gia; đây là thời điểm thích hợp để chúng tôi làm ra đứa con của mình.
Anh ấy bắt đầu tìm hiểu các bánh răng, đặt ra mọi thứ chúng tôi cần để tạo thành một đứa trẻ. “Em gái cùng cha khác mẹ của anh có những gọng kìm trông khá tuyệt vời, giống như móng vuốt tôm hùm ấy—”
“Em nghĩ có lẽ thằng bé sẽ trông giống chúng mình hơn.” Những người sống ở lễ hội có nhiều loại bộ phận khá đa dạng, điều này sẽ rất thú vị cho các màn biểu diễn, nhưng những bộ phận kỳ lạ đều khiến tôi nhớ đến mẹ mình. “Một đôi bàn tay sẽ có ích hơn nếu chúng mình có dự định định cư ở một thành phố. Lỡ như thằng bé không muốn làm nghệ sĩ thì sao?”
Vale nhíu mày. “Thằng bé có thể thay đổi các bộ phận của mình, anh cho là vậy. Nhưng ham muốn phiêu lưu của em đã đi đâu mất rồi?”
Khi tôi còn sống ở Thành phố Tủ đồ, lễ hội là một điều gì đó đầy hứng khởi trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà nó diễn ra. Nhưng khi tôi đã trở thành một phần của lễ hội—chà, nghĩa vụ và sinh kế đã làm hỏng những điều kỳ diệu. Sự mới lạ đã lôi kéo tôi đến đây, và nửa đời sau, sự mới lạ ấy đã biến mất. Nhưng tôi chẳng thể nói với Vale như vậy.
“Bởi thế, nếu thằng bé muốn có gọng kìm khi đã lớn, nó cũng có thể thay thế chân tay của mình theo cách đó.” Tôi giữ giọng bình tĩnh, nhưng nỗi lo lắng đang gặm nhấm bên trong tôi. Chúng tôi đã đồng ý về việc làm ra một đứa trẻ, nhưng chúng tôi chưa thảo luận nhiều về các chi tiết. Tôi lục tung đống bộ phận cho đến khi tìm thấy một cánh tay, nước da ngăm đen như người phụ nữ có biệt danh sơn ca nọ, nhưng nhỏ hơn, cỡ trẻ con. Không có cái nào giống hệt với nó cả, nhưng có một cánh tay khác chỉ nhạt màu hơn một chút. Có ai để ý không? Có lẽ ai đó đã lấy nửa còn lại của mỗi bộ. “Còn những thứ này thì sao?”
“Được chứ.” Giờ đây anh đã bớt nhiệt tình hơn và tôi cảm thấy thật tệ khi đã quá vội vàng từ chối lời gợi ý đầu tiên của anh. Tôi tìm kiếm những bộ phận mang vẻ thỏa hiệp, đủ thú vị đối với anh, nhưng không có gì nổi bật như đôi chân nhện của mẹ tôi. Không có gì để gợi lại ký ức về người phụ nữ đã nghĩ rằng việc nuôi dạy tôi là một sự lãng phí.
Chúng tôi làm việc trong im lặng một lúc, sự im lặng thật khó xử. Cuối cùng anh lấy ra một khuôn mặt, hình dạng bình thường nhưng được vẽ thêm những vệt đen trắng. Anh giơ nó lên. Tôi ghét nó, nhưng chỉ là sơn thôi. Sơn có thể dễ dàng được xóa đi và vẽ lại sau này. Việc đó ít vất vả hơn là thay đổi các bộ phận. Cấu trúc của khuôn mặt khá tốt. Tôi gật đầu. Điều đó phá vỡ sự căng thẳng. “Bố anh nói có lẽ có một chỗ cho chúng mình ở Lễ hội Số Hai, làm việc với bầy gấu nhảy múa.” Anh vẫn không rời mắt khỏi con trai chúng tôi, tập trung sự chú ý vào việc gắn cái đầu sọc đen trắng vào phần thân vẫn còn trống. “Đó là một bước tiến từ việc quản lý trò chơi phi tiêu, một vị trí tốt hơn cho thằng bé”.
Nghĩ đến cảnh con làm việc trong một buổi biểu diễn tại lễ hội khiến tôi nhớ về tuổi thơ của chính mình. Tôi đã luôn muốn phiêu lưu, nhưng giờ đây bầy gấu nhảy múa có vẻ nguy hiểm hơn là quyến rũ. Cuộc sống trên những chuyến tàu khó khăn hơn, ngay cả đối với tôi cùng tất cả số vòng của mình. Những người sống ở lễ hội hầu như không bao giờ sống được một nghìn ngày. Dây cót của họ hỏng khi họ ở khoảng 800 ngày, đôi khi còn sớm hơn. “Em muốn những gì tốt nhất cho thằng bé.”
Vale nắm tay tôi và mỉm cười. “Anh cũng vậy.”
Đoàn tàu đưa chúng tôi tới bàn làm việc của chế tác gia, và chúng tôi đặt cơ thể của con trai xuống, phần ngực để hở. Đêm nay chế tác gia sẽ cho thằng bé một chiếc dây cót và lên dây cho thằng bé lần đầu tiên.
“Chúng mình nên đặt tên con ngay bây giờ hay đợi đến sau khi làm quen với thằng bé nhỉ?” Cha mẹ tôi đã đợi cho đến ngày thứ hai để đặt tên tôi, vì họ muốn đảm bảo rằng cái tên sẽ phù hợp.
“Người ta bảo rằng việc đặt tên trước khi đưa thằng bé đến chỗ chế tác gia sẽ mang lại điềm may. Theo cách đó thằng bé sẽ nhận được một dây cót tốt hơn.” Vale đáp. “Matts thì sao nhỉ? Đó là tên của ông anh.”
Tôi nghĩ về ông mình và tất cả những câu chuyện về chế tác gia ông từng kể. “Ông em tên là Ettan. Mattan có được không? Chúng mình vẫn có thể gọi tắt tên thằng bé là Matts.”
Vale gật đầu, chậm chạp, những bánh răng trong cơ thể anh chuẩn bị dừng lại. “Anh thích cái tên đó.”
༻❁༺
Chế tác gia cho tôi bốn mươi ba vòng vào ngày tôi gặp con mình. Mattan yêu dấu của tôi chỉ nhận được bốn. Có điều gì đó không ổn với dây cót của thằng bé. Tôi không phải thợ máy, nhưng tôi có thể nghe thấy nó, một tiếng động méo mó và cót két như tiếng kim loại bị bẻ cong đến điểm gãy. Thằng bé làm gì được với bốn vòng đây? Làm thế nào tôi có thể dạy cho thằng bé về thế giới ngoài kia nếu đó là tất cả những gì nó nhận được?
Tôi nhấc con trai mình lên và cõng nó đến gặp Vale. Tâm trí tôi quay cuồng với nỗi lo lắng cho tương lai của con mình và cảm giác tội lỗi khi có được nhiều vòng hơn cần thiết, nhưng đồng thời tôi cũng biết ơn vì đã được lên dây đủ số vòng để hoàn thành mọi việc. Tôi tiết kiệm một vòng cho Mattan bằng cách dùng thêm một vòng của mình để cõng thằng bé đi, và thằng bé có thể ngắm nhìn thế giới theo cách đó. Ánh sáng từ trần nhà làm sáng lên những sọc trắng trên khuôn mặt thằng bé, và tôi yêu sự tương phản của chúng so với những sọc đen. Tôi đã quá vội vàng khi lên án sự lựa chọn của Vale, xét cho cùng nó cũng hơi đặc biệt thật, nhưng gây ấn tượng mạnh.
“Đây là cha của con, Vale,” tôi nói với Mattan. Thằng bé vui vẻ gật đầu nhưng không cố nói điều gì. Cơ chế của việc nói rất phức tạp và tiêu tốn nhiều vòng hơn là một cái gật đầu đơn giản. Ngay từ bây giờ, khi mới được tạo ra, thằng bé đã ý thức được sự thiệt thòi của mình. Điều đó cũng dễ hiểu, tôi cho là vậy. Tôi vẫn luôn cảm nhận được dây cót của mình được lên dây nhiều đến mức nào, ngay từ hồi còn nhỏ.
“Sao em lại phải cõng con?”
Tôi cho Vale xem bộ đếm cơ học phía trên chiếc chìa khóa sau lưng con trai chúng tôi. Có hai mặt số, đủ để hiển thị hai chữ số, khiến số lần quay vốn đã ít ỏi của Mattan dường như còn ít ỏi hơn, nếu điều đó là có thể. “Thằng bé chỉ có bốn vòng.”
Vale đưa tay ra, không phải để ôm lấy Mattan mà để đặt lên vai tôi. “Ít vậy thôi ư?”
“Em sẽ tận dụng lượt của mình để lo cho cả hai,” tôi hứa. “Chúng mình sẽ cố gắng hết sức.”
Và tôi đã giữ lời hứa của mình. Tôi làm một chiếc địu và cõng Mattan trên lưng khi quản lý trò chơi phi tiêu và làm những việc lặt vặt, đồng thời cố gắng chỉ cho thằng bé một số trò vui mà tôi từng vô cùng mong mỏi những ngày thơ ấu.
Những việc này thực sự quá sức, ngay cả đối với tôi. Vào ngày thứ ba của Mattan, tôi đã dừng lại vào giữa buổi chiều, ngay khi đang trông coi quầy phóng phi tiêu. Vale cõng Mattan về nhà trong chiếc địu của anh, nhưng anh không có đủ vòng để cõng thêm cả tôi, nên tôi cứ đứng đó, ngay chỗ tôi dừng lại, và những người tham quan lễ hội tụ tập quanh tôi, trố mắt nhìn. Một người phụ nữ trưởng thành, dừng lại ở nơi công cộng như một đứa trẻ chưa học cách tự căn số vòng của mình.
Vào cuối tuần đầu tiên của Mattan, chuyến tàu của chúng tôi đi tới giao lộ, và lần đầu tiên Mattan cất tiếng. “Con muốn xem diễn viên nhào lộn.”
Vale đã ra ngoài vào sáng hôm đó để dành một vài vòng với bố của anh. Tôi lẽ ra phải sửa lại cái bảng phi tiêu, được phủ những vòng sơn để làm mục tiêu. Nó bị nứt và chúng tôi cần nó cho trò chơi của mình, nhưng Mattan chưa bao giờ hỏi xin bất cứ điều gì trước đây. Thằng bé đã nghe Vale kể về bố mình và những màn nhào lộn mà ông thực hiện trong các buổi biểu diễn. Tôi không có đủ vòng, nhưng thằng bé đã cố gắng hỏi, và tôi không nỡ từ chối. Tôi bế thằng bé đến Lễ hội Số Hai, và mẹ con tôi xem các diễn viên nhào lộn thực hành màn đu dây.
Chúng tôi không thấy Vale xuất hiện trên khán đài và bố anh ấy cũng không luyện tập với những người khác. Chúng tôi ngồi yên hết sức có thể và chỉ quan sát, dành dụm đủ vòng để trở về đoàn tàu số chín. Vale đã ở đó khi chúng tôi quay lại. Anh nhìn chằm chằm vào chiếc bảng phi tiêu vỡ. Cảnh đó nhắc tôi nhớ về cái ngày ngày tôi bỏ lại mớ chỉ rối, và cha đã phạt tôi vì không hoàn thành công việc của mình trước.
“Mattan xin được đi xem diễn viên nhào lộn,” tôi nói. “Thằng bé đã cất tiếng nói lần đầu tiên. Con chưa bao giờ yêu cầu bất cứ điều gì và em không thể từ chối con được.”
“Mattan không có dư vòng cho những thứ này.” Vale đáp. Giọng anh lạnh lùng, tức giận. “Em cũng không có dư vòng cho những thứ này nốt. Em phải dồn hết sức cho lễ hội nếu mong được giữ lại. Em biết điều đó mà.”
“Nhưng còn con trai của chúng mình thì sao?” Tôi hỏi vặn lại. “Thằng bé không thể sửa bảng phi tiêu hay trông nom các trò chơi ở lễ hội, nhưng điều đó không có nghĩa là thằng bé không có gì khác để đóng góp.”
Vale lắc đầu. “Có thể không, nhưng nó không thể tự lo cho chính mình, và nó đã khiến chúng ta không còn cơ hội chuyển đến Lễ hội Số Hai. Người ta có thể mang theo chúng ta, nhưng họ từ chối nhận Mattan.”
Tới lúc đó tôi mới nhận ra rằng suốt cả tuần qua, Vale chưa một lần gọi thằng bé là Matts. Đây không phải là đứa con mà anh muốn, và anh từ chối gắn kết với thằng bé, cố gắng bảo vệ bản thân khỏi bị tổn thương. Hoặc có thể đơn giản là anh ích kỷ, không muốn dành một vài vòng cho con mình. Chắc hẳn anh đã hết sức thất vọng vì mất cơ hội chuyển đến Lễ hội Số Hai.
Chuyến tàu chạy chầm chậm từ Thành phố Gác mái đến Phòng trẻ sơn rực rỡ rồi đi dọc theo hành lang dài đến Thành phố Tủ đồ, và tôi dành số vòng của mình giúp Mattan sống qua những ngày đó. Khi đoàn tàu dừng lại trong bóng tối bên dưới bàn làm việc của chế tác gia—nơi tôi đã trưởng thành—tôi rời lễ hội và đưa Mattan đi cùng. Vale không tranh luận; anh nhẹ nhõm khi thấy chúng tôi ra đi.
༻❁༺
Cha rất vui khi nhìn thấy tôi, và khi gặp Mattan, và cha đã chào đón chúng tôi về nhà. Tôi bắt đầu hoàn thành vai trò đã từng do cha đảm nhiệm—đưa cha đi chỉnh bánh răng hoặc sửa lại lớp sơn trên người—và bất kể nơi nào chúng tôi đi, tôi đều cõng thêm cả Mattan. Tôi có đủ số vòng để chăm sóc cho cả cha và Mattan, miễn sao tôi không làm gì khác. Tôi cố gắng không nghĩ đến phiêu lưu, hay tự do, hay thậm chí là tương lai. Nếu giữ sự tập trung vào thời điểm hiện tại, tôi có thể làm mọi việc cần thiết, dẫu chỉ ở mức vừa đủ.
Không có chuyến tàu nào đến với Thành phố Tủ đồ vào ngày thứ 200 của Mattan.
“Mẹ con mình có thể đợi lễ hội, hoặc đến trung tâm tái chế để lấy tay chân cỡ người lớn cho con.” Tôi bảo với Mattan. Chúng tôi đã thảo luận trước về cả hai lựa chọn, một cuộc trò chuyện kéo dài tới vài ngày vì thằng bé không phải lúc nào cũng có đủ vòng để đặt câu hỏi.
“Con muốn đi hôm nay,” Mattan trả lời ngay lập tức. Có rất nhiều bộ phận ở trung tâm tái chế và thằng bé không muốn trở thành một nghệ sĩ biểu diễn, vì vậy việc mua các bộ phận ngay trong thị trấn là điều hợp lý... nhưng tôi nghĩ Mattan cũng biết rằng việc đi lấy những bộ phận này sẽ tiêu tốn sức lực trọn một ngày của cả hai chúng tôi, và thằng bé không muốn làm cho mọi thứ khó khăn hơn bằng việc đi thêm đoạn đường dài ra đường ray nơi đưa đến những chuyến tàu lễ hội.
Việc tới trung tâm tái chế khiến tôi nhớ lại ngày mà tôi và Vale tạo ra Mattan, mặc dù ở đây các bộ phận được sắp xếp gọn gàng trên giá chứ không chất thành đống lộn xộn trên sàn toa tàu. Các bộ phận ở đây cũng đồng đều hơn. Không có chân hay chân nhện, và trong khi các khuôn mặt được vẽ với nhiều đặc điểm khác nhau, thì không có khuôn mặt nào có màu sắc sặc sỡ hoặc hoa văn đặc biệt. Không khuôn mặt nào trông giống Mattan cả.
“Mẹ sẽ giơ lần lượt từng bộ phận lên một.” Tôi bảo thằng bé. “Con ưng cái nào thì gật đầu nhé.”
Mattan ngồi yên tuyệt đối, những đường sọc sơn đen cắt ngang khuôn mặt như những cái bóng khắc nghiệt. Hôm nay thằng bé nhận được ba vòng, đủ để làm mọi thứ cần thiết nếu chúng tôi cẩn thận. Tôi di chuyển quanh phòng, giơ các bộ phận cho thằng bé xem.
Những tay và chân thằng bé lựa chọn không phải to nhất cũng không phải nhỏ nhất, sơn màu nâu đậm giống như những cánh tay cỡ trẻ con của thằng bé. Tôi mang chúng sang. Những ngón tay của Mattan cong lại, một chuyển động giống như cách thằng bé siết chặt vai tôi mỗi khi phấn khích, nhưng trước khi tôi có thể gắn lên tay chân mới, thằng bé đã kịp hỏi: “Liệu những cái này có nặng quá không mẹ?”
Câu hỏi ấy làm trái tim tôi tan nát. Phải, những tay chân này khá nặng. Trọng lượng tăng thêm có nghĩa là phải tốn nhiều vòng hơn để cõng thằng bé. Tôi từng hy vọng một cách ích kỷ rằng thằng bé sẽ chọn loại chân tay nhỏ hơn, nhưng dẫu sao chúng vẫn thuộc về thằng bé, và đây là lựa chọn của thằng bé. “Những cái này rất đẹp, và mẹ có nhiều vòng lắm. Mẹ vẫn có thể cõng con mà.”
Nói điều như vậy là đúng đắn, và Mattan rất hạnh phúc với tay chân mới của mình, nhưng khi cõng thằng bé từ trung tâm tái chế về nhà, trọng lượng của thằng bé đã tiêu hao năng lượng của tôi nhanh hơn trước. Chúng tôi sống bằng các vòng và con trai tôi—giờ đây đã hoàn toàn trưởng thành—vẫn không có đủ vòng để đi bộ qua thị trấn. Tôi giận dữ vì thế giới quá bất công, và trái tim tôi tan nát khi nghĩ về tất cả những công việc mà thằng bé không có đủ vòng để làm được. Nhưng nếu thành thật, trái tim tôi cũng tan nát vì chính tôi. Vale đã bỏ rơi mẹ con tôi còn cha thì đã già, vậy nên tôi sẽ luôn phải là người cõng Mattan đi khắp mọi nơi.
Ý nghĩ đó đã xuất hiện trong đầu tôi khi Lễ hội Số Chín đến với thị trấn, một sự quyến rũ mà mãi mãi tôi không thể ngó lơ. Tình yêu của tôi là vô tận, nhưng sức lực của tôi thì không, và tôi khao khát thoát khỏi gánh nặng không ngừng phải một mình chăm sóc cha và Mattan. Tôi muốn gặp Vale, dành một vài vòng cho chính mình, và có cơ hội làm chính xác những gì tôi muốn.
Tôi không đánh thức cha hay Mattan. Tôi để hai ông cháu nằm trên giường—không xin phép ra ngoài hoặc thậm chí giải thích những gì tôi đang làm, chỉ đơn giản rời đi và đi bộ đến chỗ đoàn tàu. Hôm nay hai người sẽ không thể làm được gì nhiều nếu không có sự giúp đỡ của tôi, nhưng giữa họ vẫn có thể tự xoay xở với nhau được.
“Anh rất mừng khi gặp lại được em,” Vale nói khi tôi đến. “Mattan đâu rồi?”
“Ở với cha em.” Tôi không biết phải nói gì sau đó. Tôi muốn gặp Vale, nhưng tôi thực sự có thể nói chuyện gì với một người đã từ chối nuôi nấng đứa con trai của chính mình? Anh ta cũng giống như mẹ tôi, quá ích kỷ để dành ra những vòng của mình cho người khác. Và tôi đang ở đây, tại lễ hội, lãng phí thời gian của mình cho một ý thích ngu ngốc thay vì chăm sóc con tôi. “Lẽ ra em không nên đến.”
Vale cau mày. “Anh nợ em một lời xin lỗi. Anh không định... Ý anh là, ngày ấy anh không chuẩn bị sẵn sàng cho mọi khả năng xảy đến, và em có nhiều vòng hơn, bởi vậy việc em đưa thằng bé đi cũng có vẻ hợp lý. Anh đã rất nhớ em.”
“Những ngày tháng đó thực sự rất cô đơn. Rất khó khăn.” Tôi thừa nhận. Khi tôi bắt đầu kể chuyện, mọi thứ bỗng chốc tuôn trào. Ở Thành phố Tủ đồ, tôi cảm thấy như không có ai mà tôi có thể trò chuyện cùng—cha luôn chăm sóc mọi người xung quanh rất chu đáo, rất có trách nhiệm, tôi chẳng thể nào phàn nàn điều gì với ông. Nhưng tôi có thể trút lòng với Vale. Nếu không có gì khác thì ít nhất anh cũng hiểu được sự ích kỷ của tôi. “Em có đủ vòng để cho Mattan một cuộc sống tốt đẹp, nhưng chỉ khi em không làm gì cho bản thân. Em chăn sóc cha, em cố gắng để cho Mattan được khám phá thế giới, và điều đó thực sự cũng đủ vừa lòng nhưng em vẫn muốn một thứ gì đó cho riêng mình, về những cuộc phiêu lưu mà em vẫn luôn theo đuổi ngày nhỏ.”
“Hôm nay em ở đây mà,” Vale nói. Anh nắm lấy tay tôi. “Đi phiêu lưu nào.”
Và chúng tôi đã làm điều đó. Cứ như thể lần đầu tôi được nhìn thấy lễ hội vậy, với những bầy thú, những màn nhào lộn và những quầy trò chơi. Vale tốt bụng và luôn để ý tới tôi và chúng tôi đã lên kế hoạch cho những tương lai có thể xảy ra và chuyện trò về những khoảng thời gian chúng tôi đã dành ra bên nhau. Đó lẽ ra là một ngày tươi đẹp nếu trong tôi không thường trực cảm giác tội lỗi vì đã bỏ Mattan và cha ở lại. Điều tồi tệ nhất là tôi thậm chí còn chẳng nói một lời với hai ông cháu. Tôi đã chắc chắn rằng tôi không xứng đáng có thời gian cho bản thân đến mức làm mọi thứ trở nên tồi tệ hơn bằng cách đánh cắp thời gian thay vì yêu cầu có nó.
“Mọi thứ thật tuyệt,” tôi nói, đau đớn hiểu rằng mình cần phải rời đi sớm nếu muốn có đủ vòng để trở về nhà. Bất chấp cảm giác tội lỗi, quãng thời gian nghỉ ngơi này khiến cho tôi như được hồi sinh. “Có lẽ mai em sẽ đưa Mattan đến đây nhé? Em nghĩ thằng bé sẽ rất muốn được gặp anh.”
Vale do dự, rồi gật đầu. “Anh muốn điều đó.”
Tôi đi bộ về nhà, và đã gần hết vòng khi bước vào cửa. Cha đang nằm trên giường, nhưng Mattan đang ngồi yên lặng bên bàn, rõ ràng đã để dành một vòng để nói với điều gì đó. Tôi đi thẳng tới trước mặt thằng bé, để thằng bé không phải quay đầu lại.
Ánh mắt Mattan chạm vào tôi, và thằng bé cất tiếng, “Cả ngày nay ông không tỉnh dậy.”
༻❁༺
Cha vẫn luôn mong muốn cơ thể mình được đưa đến lễ hội khi dừng lại, bởi vậy tôi thuê một chiếc xe cút kít và đẩy cha lên tàu, Mattan cõng trên lưng. Công việc khá nặng nhọc và tôi sẽ không có đủ vòng để đưa cả hai trở về nhà trong hôm nay.
Tôi đưa cha lên đúng toa tàu mà khi xưa cha từng đưa ông và bà, cũng là toa mà sau này tôi và Vale đã tạo ra Mattan. Tôi ở lại khi người ta tháo dỡ cha, ở bên cạnh cha khi chuyện đó đã chẳng còn ý nghĩa gì nữa, thay vì ngày hôm qua khi mọi thứ có lẽ vẫn còn chút quan trọng. Không. Tôi không bỏ rơi cha hôm qua; cha chẳng hề tỉnh dậy. Cha sẽ không bao giờ biết điều đó. Chính Mattan của tôi mới là người phải ở nhà một mình cả ngày, biết rằng ông thằng bé đã ra đi, mà không có cách nào kêu cứu hay làm bất cứ điều gì ngoài việc chờ đợi tôi trở về. Và bây giờ thằng bé lại chờ đợi, trong chiếc địu trên lưng tôi, khi Orna, một trong số các thợ máy của đoàn tàu, cẩn thận mở tấm ngực của cha và tháo các bánh răng, phân loại chúng vào thùng. Những động tác của cô đã được luyện tập và vô cùng chuẩn xác, không lãng phí bất cứ vòng nào. Và rồi cha đã ra đi thật nhanh, chẳng còn để lại gì ngoài những bộ phận rời rạc.
“Cảm ơn con,” tôi nói với Mattan khi chúng tôi rời đi để tìm Vale. “Mẹ cần phải được nhìn công việc đó.
Mattan không trả lời, tiết kiệm số vòng.
“Hôm qua mẹ đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp,” tôi tiếp tục. “Mẹ sẽ không bao giờ bỏ đi nếu biết chuyện của ông—mẹ cứ nghĩ ông sẽ vẫn còn sống để giúp đỡ con—nhưng lẽ ra mẹ không bao giờ nên làm như vậy. Mẹ xin lỗi.”
“Mẹ không thể luôn làm mọi việc.” Mattan nói, cẩn thận lựa chọn từng từ một, không lãng phí nhiều vòng hơn mức thực sự cần thiết. “Con tha thứ cho mẹ.”
“Có lẽ trong chuyện này cũng có điều may—hôm qua mẹ đã hỏi cha Vale rằng liệu cha có muốn gặp con không, và cha nói có.”
Mattan khẽ siết lấy vai tôi qua lớp vải địu, dấu hiệu của nỗi phấn chấn khi gặp cha mình. Tôi cõng thằng bé tới chỗ toa tàu có trò chơi phi tiêu của Vale, vốn mở cửa cho bất cứ ai có vé chơi.
Vale quan sát hai mẹ con tôi một lúc, không nói gì. Liệu anh có bận tâm rằng tôi vẫn cõng theo con chúng tôi, ngay cả khi thằng bé đã trưởng thành? Hay anh chỉ đơn giản là đang nhìn ngắm khuôn mặt sọc đen trắng mà anh đã không gặp gỡ trong suốt hàng trăm ngày qua. Tội lỗi của tôi chỉ là một ngày, một khoảnh khắc bất cẩn. Anh cảm thấy gì khi đã bỏ rơi hai mẹ con phần lớn cuộc đời của con trai chúng tôi?
“Anh nói gì đi chứ,” tôi bảo. “Mattan phải tiết kiệm vòng, nên thằng bé không nói nhiều, nhưng con rất vui được gặp lại anh đấy.”
“Mattan à,” Vale cất lời. Anh lắc đầu và bắt đầu lại, “Matts. Cha biết mình chưa từng là một người cha đối với con, nhưng giờ đây cha sẵn sàng giúp đỡ, nếu đó là điều con muốn. Lên tàu sống với cha nhé?”
Câu hỏi ấy là dành cho cả hai người, Mattan và tôi. Chẳng còn điều gì ràng buộc tôi với Thành phố Tủ đồ nữa vì cha đã ra đi, và với sự giúp đỡ của Vale, chúng tôi sẽ có đủ vòng để duy trì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho cả ba. Tôi do dự, chưa muốn quyết định, trọng lượng của Mattan nặng trĩu trên lưng. Thằng bé không nói gì, chờ quyết định của tôi. Liệu Vale sẽ thực sự giúp chăm sóc con chúng tôi, hay anh sẽ lại một lần nữa phản bội lại lời hứa?
Vale đã gọi con trai chúng tôi là Matts. Trái tim anh đã ở đúng chỗ.
“Vâng,” tôi trả lời. “Mẹ con em sẽ lên tàu cùng với anh.”
Mattan siết vai tôi, hài lòng với quyết định ấy. Tôi rất vui vì chúng tôi lại một lần nữa trở thành một gia đình, nhưng một ý nghĩ khác ám ảnh tôi, một suy nghĩ đã ăn sâu vào tâm trí tôi—Mattan sẽ ra sao một khi tôi dừng lại? Hàng trăm ngày qua, tôi đã cố gạt suy nghĩ đó ra khỏi đầu mình—tôi khỏe mạnh và luôn thừa vòng, còn Mattan, dây cót của thằng bé thật tệ. Tôi cố tự thuyết phục bản thân rằng mình sẽ sống lâu hơn thằng bé.
Ngày này qua ngày khác Vale gần như sử dụng số vòng bằng đúng số vòng của tôi, cõng Mattan trên lưng khi anh làm việc hay vận chuyển những thùng giải thưởng từ toa tàu tới quầy trò chơi. Tôi dành ra nhiều vòng nhất có thể để giúp đỡ những người mới tham gia lễ hội—luôn luôn là vòng đổi vòng, giao dịch với tương lai, với những người đã hứa sẽ giúp đỡ lại Mattan sau khi tôi chết. Liệu tất cả đã đủ chưa? Và có xóa bỏ được cái ngày ích kỷ khi tôi bỏ rơi con trai mình không?  
༻❁༺
Tôi đã nghe người ta nói rằng mỗi một trăm ngày lại trôi qua nhanh hơn một trăm ngày trước đó. Khi ta còn ấu thơ, những tháng ngày trải dài dường như vô tận, và ta dành thời gian của mình và tự do theo đuổi bất kỳ ý thích nào mà ta yêu thích. Nhưng vào cuối cuộc đời, mỗi ngày trở thành một phần nhỏ hơn thời gian ta còn lại, và những khoảnh khắc càng trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Một trăm ngày, rồi một trăm ngày nữa, và trên những chuyến tàu, thời gian thấm thoát thoi đưa.
Vale làm việc hết mình, chăm chỉ và hỗ trợ đến cùng. Vào ngày cuối cùng của mình, anh ấy xin lỗi một lần nữa vì đã bỏ rơi chúng tôi. Chúng tôi đã tha thứ cho anh, nhưng anh lại không thể tha thứ cho chính mình. Những người khác bắt đầu trả lại số vòng mà họ đã vay từ tôi, giúp Mattan sống qua ngày. Tôi không có vòng nào dư dả—chưa bao giờ có đủ vòng, kể cả đối với tôi, mà tôi vốn đã có nhiều hơn phần đáng ra nhận được.
Cậu vũ công nhào lộn tên là Chet, một người đàn ông có các sọc trên cánh tay giống với các sọc trên mặt Mattan, đến thường xuyên hơn những người khác. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng cậu ta đang cố gắng hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách nhanh chóng, nhưng không, cậu ta nán lại ngay cả khi không còn nợ tôi điều gì, tiếp tục nói chuyện phiếm, chẳng hề vì tình cảnh Mattan hiếm khi trả lời mà nản lòng. Chet chia sẻ những mảnh vụn về quá khứ của cậu ta xen lẫn với những câu chuyện phiếm về mọi người ở Lễ hội Số Chín.
Dây cót của tôi sắp hỏng, tôi có thể cảm nhận được điều đó. Hôm nay chế tác gia cho tôi và con trai tôi cùng một số vòng. Mười vòng. Ít hơn bất cứ con số nào tôi từng nhận, và là số vòng nhiều nhất mà con tôi từng được cho. Trong một khoảnh khắc, lòng tôi tràn đầy thương xót trước giới hạn khắc nghiệt của cuộc đời thằng bé. Một ngày của thằng bé vốn đã ngắn ngủi, và dây cót của thằng bé quá tệ nên thằng bé sẽ không có nghìn ngày mà tôi có được. Nếu may mắn, thằng bé sẽ sống thêm được 100 ngày nữa, và bây giờ thằng bé chỉ mới trải qua khoảng 600 ngày. Tôi tự an ủi mình rằng ít nhất thằng bé sẽ có Chet. Con trai tôi sẽ không đơn độc.
Tôi từng hỏi Mattan về một ngày, một kỷ niệm mà thằng bé yêu thích nhất, và thằng bé đã trả lời không do dự—cái ngày mà mẹ con tôi lẻn ra ngoài cùng nhau để xem biểu diễn nhào lộn. Vì vậy, hôm nay chúng tôi bỏ qua những công việc nhỏ nhặt lẽ ra sẽ làm và đi bộ đến cái lều nơi các vũ công nhào lộn biểu diễn, tôi và Mattan đi bộ cùng nhau vì tôi không có đủ vòng để cõng thằng bé nữa. Chúng tôi ngồi yên tuyệt đối và quan sát các vũ công xoay vòng và bay trong không khí.
Tôi nói với Mattan những gì cha từng nói với tôi, “ Sẽ đến một lúc mà cơ thể chúng ta không thể giữ được bất cứ vòng nào nữa. Chúng ta đều nhận được khoảng nghìn ngày cho riêng mình, có thể nhiều hoặc ít hơn một chút.”
Tôi nghĩ lại về nghìn ngày của mình, về những gì tôi đã làm được trong cuộc đời mình. Cách mà cha từng chăm lo chu đáo cho tôi, cũng như cách mà đến cuối cùng tôi đã chọn đi theo con đường của ông ấy và hết mình sống vì Mattan. Đời tôi khác xa những chuyến phiêu lưu mà tôi đã tưởng tượng ra khi còn nhỏ, nhưng tôi đã tận dụng tối đa những vòng mà mình được ban cho, và đó là tất cả những gì mà mỗi chúng ta có thể làm được.
Hết
༻❁༺
Biên dịch & biên tập: Nhi
༻❁༺
Tác giả Caroline M. Yoachim (Ảnh: Tạp chí Lightspeed)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Chuyến dã ngoại đêm - Suzuki Izumi
Tumblr media
Về tác giả
Suzuki Izumi (鈴木いづみ) hay Izumi Suzuki theo một số nguồn tiếng Anh (1949 - 1986) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Nhật. 
Về tác phẩm
Hiện tại nhóm dịch không rõ truyện ngắn Chuyến dã ngoại đêm (bản tiếng Anh: Night Picnic) của Suzuki Izumi được đăng lần đầu vào năm nào và ở đâu. Chỉ biết Night Picnic nằm trong tuyển tập Terminal Boredom: Stories, bao gồm bảy truyện ngắn của Suzuki Izumi được dịch sang tiếng Anh, xuất bản năm 2021. Đây cũng là lần đầu tác phẩm của cô được giới thiệu đến cộng đồng Anh ngữ.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Bố của Con Trai đi vào khi cậu đang ngồi học ở bàn.
‘Thế nào rồi con? Mọi chuyện vẫn ổn chứ?’
Bố nhìn qua vai Con Trai, phì phèo điếu thuốc.
‘Tốt ạ… Ơ, lẽ ra bố phải châm thuốc trước  chứ ạ?’
‘Ừ nhỉ. Bố lại quên mất.’
Bố lấy ra một chiếc bật lửa từ trong túi và châm thuốc. Ông hít khói thuốc vào phổi.
‘Thôi nào, bố. Bố là người luôn nói rằng chúng ta không thể quên phải hành động như những người Trái Đất mà.’
‘Là lỗi của bố. Xin lỗi, con trai… Bố biết mình phải làm gương tốt cho gia đình. Với tư cách là những người Trái Đất, chúng ta có trách nhiệm phải tiếp tục cuộc sống của mình, dù bất kể thời gian hay địa điểm nào. Để trở thành một gia đình kiểu mẫu. Đặc biệt là vì chúng ta đang ở rất xa Trái Đất nên nơi đây chỉ có mình ta thôi.’
‘Vâng. Con nghĩ bố nói đúng.’
Cậu xem xét trang phục của bố mình.
Bố mặc một bộ com-lê hai hàng cúc màu đen, kết hợp với áo sơ mi đen và cà vạt trắng. Bông hồng đỏ cài trên ve áo của ông, đầu ông đội mũ, tay ông đeo những chiếc nhẫn dày cộp che hết các ngón.
‘Đẹp quá hả? Trông ông bố già của con khá ăn diện đấy chứ. Bố có được một vài gợi ý từ một anh chàng mà bố thấy trên video bố xem trước đó, tất cả đều đang diện quần áo đẹp và nhảy múa.’
‘Ơ, con cũng xem video đó. Vậy nên con đoán là bố đang muốn biến bộ này thành một trang phục khiêu vũ phải không ạ?’
Con Trai cân nhắc lời nói của mình, cẩn thận để không nghe như cậu đang cãi lại bố.
‘Thật nực cười.’ Bố ưỡn ngực. ‘Trong các video khác, bố thấy những người đàn ông vẫn mặc kiểu quần áo này khi lái xe ô tô hoặc làm móng ở tiệm cắt tóc. Và tất cả những ai nhìn thấy họ đều đối xử với họ một cách tôn trọng. Bố nghĩ rằng, đây là bộ trang phục lý tưởng cho một người cha.’
‘Vâng, nhưng sao trông bố lại béo gần gấp đôi ngày hôm qua thế ạ?’
‘Phải trông to như này, nếu không thì bộ com-lê hai hàng cúc nhìn sẽ không đẹp,’ bố nói, không được tự tin cho lắm.
Con Trai quyết định không tranh cãi nữa. Cậu gấp sách lại. ‘Con đang dần dần tiến bộ trong việc giải mã thời gian. Thành thật mà nói, giờ đây con đã hiểu một chút về nó… nó thật là vui.’
‘Không ai bắt con phải thích thú với việc đó… Tuy nhiên, bố thắc mắc liệu quyển sách này có phải hàng chính hãng hay không. Có vẻ như có ba loại sách: những cuốn chứa toàn điều lừa dối, những cuốn nửa giả nửa thật và những cuốn hoàn toàn là sự thật. Khó mà nói được cái nào là cái nào.’
‘Bố nói đúng. Nhưng tại sao lại thế ạ? Sao phải tốn công xâu chuỗi tất cả những từ đó lại với nhau nếu kết quả cuối cùng là một lời nói dối lớn?’
Hai bố con đều suy nghĩ về câu hỏi này. Đây luôn là một bí ẩn đối với họ. Đặc biệt Con Trai rất đa nghi. Họ cho rằng ít nhất thì các video cũng đang nói thật, nhưng họ sẽ phải làm sao nếu những video đó cũng nói dối?
‘Con người chúng ta là những sinh vật phức tạp.’ Bố thở dài. Sự quan sát này, mặc dù không thực sự hữu ích, nhưng lại khiến bố thật ngầu khi thốt lên điều đó.
‘Tuy nhiên con nghĩ quyển sách này là thật đấy ạ,’ Con Trai nói. ‘Nó thậm chí còn cung cấp ngày tháng cho mọi thứ.’
‘Tốt! Quan sát tinh tế đó, con trai. Con thật thông minh. Đúng là cha nào con nấy.’ Bố cười rạng rỡ. ‘Con biết không, đến bố còn không để ý điều đó. Thật khó để nói hầu hết những cuốn sách này đến từ thời đại nào.’
‘Sách này lấy bối cảnh nước Mỹ thế kỉ XIX. Con tìm thấy nó trên bản đồ. Nó nói về cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Thế nhưng nhân vật chính lại là một người phụ nữ.’
"Sau khi con giải mã xong, hãy cho bố biết đáp án có giải thích tại sao con người lại mạo hiểm khám phá vũ trụ hay không."
‘Con không chắc là sẽ có, nhưng dù sao thì con vẫn sẽ tiếp tục. Người phụ nữ này vừa thất tình. Bố nhìn xem con vẫn còn bao nhiêu trang chưa đọc này! Vậy nên chắc vẫn còn đủ thời gian để cô ấy giải quyết mọi việc trên một con tàu vũ trụ. Ý con là, khi người ta bị phụ tình, không phải họ thường lặng lẽ rời đi sao?’
Người con trai tài năng nói một cách chắc chắn.
‘Giả sử như vậy…’ Bố nghiêng đầu.
‘Bố biết không, giống như đi du lịch ấy ạ? Bố nghe nhiều về điều đó trong các bài hát mà.’
‘Hình như vậy.’
‘Con cũng muốn thử một lần thất tình xem sao.’
‘Bố nghĩ con nên thử yêu đương đi…’
‘Thế còn em gái con ạ?’
‘Tất nhiên, việc này đáng để thử con à.’
‘Tuy nhiên, trước hết, chúng ta phải đi gặp gỡ mọi người ở một buổi dạ hội khiêu vũ, hoặc đi hẹn hò hay làm gì đó.’
‘Bố đừng hy vọng nhiều. Rốt cuộc sau tất cả chỉ còn lại bốn người Trái Đất chúng ta… Bố định mời ai khác ạ? Chẳng lẽ những con quái vật hay nô đùa nhảy nhót trên ngọn đồi của chúng sao?’
‘Đợi đã, nhưng bọn chúng không thể biến đổi để trông giống chúng ta ư? Chúng ta có thể làm cho chúng rất nhiều quần áo đẹp với máy nhân bản.Và rồi chúng sẽ có đồ để mặc.’
‘Chúng không có hứng thú với những thứ đó. Khái niệm về lối sống văn minh vượt ngoài khả năng của chúng. May mắn cho chúng ta vì chúng đã được thuần hóa. Chúng sẽ không gây hại cho chúng ta, nhưng rõ ràng chúng là một dạng sống khác. Ai mà biết chúng đang nghĩ gì? Chắc chúng sẽ vui hơn nếu sống trong thành phố tự động của chúng ta. Nhưng chúng cứ khăng khăng sống vậy cho qua ngày. Chắc chúng thích sống như thế hơn.’
Mẹ ngó đầu vào phòng, mái tóc được cuốn lô.
‘Anh nên thuyết phục con gái anh suy nghĩ thấu đáo hơn đi…’
Mẹ mặc một chiếc áo choàng tắm và cầm một quả cam cùng một ly sữa.
‘Có chuyện gì thế?’ bố hỏi.
‘Con bé lại trốn trong tủ quần áo.’
‘Hả? Lần này lại điều gì làm con bé phiền lòng vậy?’
‘Là những cuốn sách kinh khủng đó. Giờ nó bắt đầu đọc về việc con gái ghét mẹ và yêu bố như thế nào. Cứ như thể tôi cần cái thái độ đó vào đúng hôm nay vậy.’
Mẹ lắc đầu.
‘Cái gì cơ?’ Bố bối rối hỏi. ‘Con bé đang đọc thứ gì vậy?’
‘Tâm lý học hay gì đó. Thật là một mớ nhảm nhí.’
Con Trai làm ra vẻ cao thượng. ‘Bố mẹ đừng lo. Con sẽ đưa em ra ngoài.’
‘Để bố làm cho,’ bố khăng khăng. ‘Bố là người chỉ huy ở đây mà.’
‘Vâng, nhưng bố ơi, bố biết gì về sách ạ?’
Con Trai rời khỏi phòng.
★━━━━━━✩━━━━━━★
‘Con định tiếp tục ở trong đó bao lâu nữa. Ra ngoài ngay!’
Mẹ đập mạnh lên cánh cửa.
‘Mẹ đi đi!’ Em Gái nói. ‘Con đang nổi loạn đây.’
Câu trả lời bị nghẹt lại, như thể khuôn mặt cô bị vùi vào một tấm đệm.
‘Em sai rồi, Em Gái,’ Con Trai nói.
‘Tại sao lại sai?’ cô nói. ‘Giờ em là thiếu niên rồi.’
‘Đáng lẽ ra chúng ta phải đang đi dã ngoại đấy!’ Mẹ hét lên. ‘Ra ngoài ngay cho mẹ!’
‘Mẹ im lặng một chút được không ạ?’ Con Trai đẩy mẹ sang một bên, nhưng lại đẩy quá mạnh. Bà ngã nhào xuống và đập trán xuống sàn. Mẹ nằm im một lúc. Bỏ mặc mẹ như vậy, Con Trai khoanh tay. 
‘Em đang đọc về phức cảm Electra à?’
‘Vâng,’ Em Gái trả lời từ trong tủ quần áo.
‘Nhưng em có biết là cũng có một phức cảm Oedipus phủ định không?
‘Hả?’ Giọng cô dịu lại. "Đó là cái gì thế ạ?"
‘Đó là khi em hình thành sự gắn bó với mẹ, người có cùng giới tính với em.’
‘… Không phải là ngược lại sao?’
'Chính xác. Trong tâm lý học, đối với bất kỳ trường hợp cho trước nào, nói chung là sẽ có một trường hợp khác tạo thành đối cực. Mặc dù không phải trong mọi tình huống đều như vậy. '
‘… Thật ạ?’
Cô đang mất tự tin vào quan điểm của mình.
‘Anh đọc nhiều sách hơn bất kỳ ai trong chúng ta, đúng không nào?’
Em Gái không đáp lại.
Mẹ ngồi dậy, cảm thấy chóng mặt. Bà xoa trán một lúc. Hình như không nghiêm trọng lắm. Bà đi đến chỗ máy nhân bản.
‘Hơn nữa, em không thấy chán khi cứ nhốt mình trong tủ quần áo à?’
Con Trai thay đổi chiến thuật.
‘… Nhưng…’
‘Em tự gọi mình là thiếu niên, nhưng đâu phải thế. Nơi này có chu kỳ quỹ đạo khác với Trái Đất. Thực ra anh cũng chưa tính toán kỹ càng lắm đâu, nhưng anh cá rằng nó hoàn toàn khác.’
Con Trai cố gắng làm ra vẻ thờ ơ nhất có thể.
‘Anh hỏi lại năm nay em bao nhiêu tuổi?’ cậu nói. ‘Tính theo tuổi địa phương ấy.’
‘Ừm, em đoán… tầm mười bảy tuổi hay gì đó?’ Cô đang nghiêm túc, nhưng có vẻ không chắc chắn. ‘Em không chắc lắm. Thỉnh thoảng lịch của em ngừng hoạt động.’
‘Anh hiểu ý của em. Sau một tuần, mọi thứ đều mờ nhạt đi. Anh đang cố gắng xác định thời điểm con người phát minh ra thời gian. Anh vẫn đang cố gắng tìm ra điều đó, nhưng rõ ràng thời gian là một vấn đề lớn.’
Con Trai kéo ghế và ngồi. Bắt chước bố mình, cậu hút thuốc. Khi cậu phủi tàn thuốc xuống sàn, robot hút bụi chạy loạn xạ. 
‘Vâng, nhưng đó chính là lý do vì sao em làm điều này.’
Em Gái loay hoay trong tủ.
‘Em không nhận ra sao?’Con Trai hỏi. ‘Thời gian chỉ là đồ giả. Sau 3 giờ chiều hôm nay, biết đâu sẽ là 7 giờ sáng của bốn ngày trước.’
Mẹ nghển cổ nhìn Con Trai. Bà đang kéo một chiếc giỏ tre từ trong máy nhân bản ra. ‘Con đang nói gì vậy? Cảm ơn con, nhưng thời gian vẫn đang trôi bình thường. Chúng ta là những người cần đảm bảo rằng bản thân vẫn đang tiếp tục hoạt động bình thường. Giờ hãy đưa em con ra khỏi tủ quần áo đi. Khi mẹ làm mọi việc xong xuôi, chúng ta sẽ rời khỏi đây. Chuyện này đã được chúng ta bàn tính một thời gian rồi.
‘Con hiểu mà, được chưa ạ?’
Con Trai quay lại, cau mày. Đôi khi, bạn khó chịu với bố mẹ mình cũng không sao. Đó là một việc xảy ra thường xuyên trong các bộ phim trên TV mà.
‘Vấn đề thời gian thì ta bàn sau. Mười bảy ư? Như vậy là quá tuổi vị thành niên rồi.’
‘… Vậy, con phải làm gì đây?’ Cô miễn cưỡng hỏi.
‘Chà, các cô gái ở độ tuổi 17, 18 thường gội đầu rất nhiều. Họ hay đứng trước gương, thử hàng tấn quần áo khác nhau. Đôi khi họ còn hẹn hò nữa.’
‘Việc đó được cho là vui hơn ạ?’
‘Chắc chắn rồi. Rất vui là đằng khác.’
‘Được rồi.’
Cánh cửa được đẩy nhẹ ra từ bên trong. Em Gái đang ngồi ở ngăn trên cùng của tủ quần áo, ôm một cái gối. Rất nhanh, cô nhảy xuống sàn.
‘Ôi, em mệt quá. Em đã ở đó suốt sáu giờ. Mẹ cứ để ý em mãi.’ 
Cô vươn hai tay lên cao và duỗi thẳng.
‘Chúng ta ai cũng bận thôi.’ Con Trai nói, cố gắng an ủi em gái.
‘Em cố gắng trở nên nổi loạn, và bố mẹ chúng ta thậm chí còn chẳng để ý.’
Cứ thế, giọng cô dần vui vẻ hơn.
Mẹ tiến vào bếp, tay cầm đầy đồ dã ngoại.
‘Người phụ nữ đó đang làm gì vậy?’ Em Gái hỏi.
‘Làm bữa trưa cho chúng ta. Và hơi kỳ lạ khi gọi mẹ mình là người phụ nữ đó đấy.’
‘Thỉnh thoảng gọi thế thì vẫn được mà.’
‘Nếu em cho là vậy.’
Con Trai không thực sự hiểu chính mình.
‘Em chuẩn bị sẵn sàng rồi đây,’ Em Gái nói.
Cô em gái của cậu đứng trước máy nhân bản và bấm một loạt các nút.
‘THIẾU DẦU THỰC VẬT,’ máy nhân bản nói.
Trong số những thứ bên trong giỏ mà Mẹ đặt bên cạnh chiếc máy có một chậu bơ thực vật. Em Gái dùng dao cạo sạch chậu, rồi đổ bơ vào phễu.
Đèn xử lý bắt đầu nhấp nháy. Cuối cùng, hai thỏi son bật ra từ chiếc máy, với một tông màu nhẹ nhàng.
‘Này, anh nghĩ nó cũng có thể tạo ra một số thứ cho anh nhỉ?’ Con Trai hỏi.
‘Tất nhiên rồi.’
‘Để xem nào … Anh cần một cái lược và một ít sáp tóc. Hoặc có thể thay thế bằng gel.’
‘Anh định thay đổi kiểu tóc à?’
‘Ừ. Anh chưa quyết định là sẽ để tóc kiểu tỉa dựng mái hay vuốt ngược mái nữa.’
Con Trai nghĩ về tất cả bộ phim tuổi mới lớn mình từng xem. Những phong cách khác nhau đều được thể hiện trong những thước phim ăn theo vô vị. Công nhận rằng, các bộ phim thường có xu hướng thể hiện tràn lan phong cách trong American Graffiti [1].
‘Anh sẽ làm một ít sáp tóc.’
‘Của nhãn hiệu gì ạ?’ Em Gái hỏi lại.
Cậu không hề nghĩ đến chuyện đó.
‘Anh có phải cụ thể vậy không?’
‘Chi tiết là điều rất quan trọng. Nếu anh quan tâm đến bất cứ thứ gì về thời trang.’
Em Gái là người rất khắt khe với những chi tiết vụn vặt.
‘Có những loại nào? Anh không biết bắt đầu từ đâu.’
‘Đối với các thương hiệu khác nhau cho sản phẩm của anh… thì có Yanagiya, Fiorucci, Lanvin…’
Em Gái đang khoe khoang.
‘Nhiều loại vậy à?’
‘Rồi có cả Nestle, Ajinomoto, Kewpie… nữa.’
‘Cứ cho anh một loại tốt đi.’
Em Gái điều khiển chiếc máy và lấy ra một lọ sáp tóc. Nó có biểu tượng Kewpie trên nắp.
‘Chính những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống mới là quan trọng.’
‘Được rồi, anh nghe.’
‘Em biết nhiều hơn về loại sáp này hơn anh. Em đã đọc những tạp chí phụ nữ. Thậm chí em còn hiểu về bữa lỡ ngày chủ nhật hơn cả Mẹ ấy chứ. Con gái thì phải ăn sữa chua và trái cây. À, và bánh pho mát nữa.’
‘Trông em kìa, cư xử giống một cô gái thực thụ rồi đó.’ Con Trai thực sự bị ấn tượng. ‘Sửa giúp anh nếu anh nói có gì sai nhé, nhưng không phải em từng là một đứa con trai à?’
‘Chắc vậy. Tất cả đều không rõ ràng mà. Bố Mẹ đã quyết định có một con trai và một con gái để cho đa dạng hơn. Nhưng kiểu tóc và quần áo thì lại hoàn toàn khác. Điều đó thật sự buồn. Nếu em là con trai, em chỉ cần bắt chước anh.’
Con Trai nghĩ lại thời em gái mình còn là một cậu bé. Cả hai cùng mặc quần đùi và chơi trò đuổi bắt. Mẹ kiên quyết rằng một đứa trẻ có thân hình con gái nên được nuôi dạy để trở thành một người phụ nữ. Vì vậy, em trai của cậu trở thành một cô em gái. Em Gái có vẻ ổn với chuyện đó. Sau khi ăn mặc như con gái một thời gian, thân hình cô trông mềm mại hơn trước rất nhiều. Đó là nhờ sự nỗ lực không nhỏ của Em Gái.
‘Mẹ đâu rồi?’
Không có gì để làm, Con Trai đi đi lại lại trong phòng.
‘Không phải mẹ đang mặc quần áo sao?’
‘Mẹ làm gì mà lâu thế?’
‘Anh chẳng biết gì cả! Khi phụ nữ ra ngoài, họ mất nhiều thời gian để chuẩn bị.’
‘Nhưng tất cả những việc cần làm là thay quần áo, chải tóc và trang điểm một chút thôi mà.’
‘Đó không phải vấn đề ở đây…’
‘Vậy thì còn gì nữa?’
‘Em không biết… nhưng các bà Mẹ lúc nào cũng có nhiều việc phải làm mà.’
Gia đình phụ thuộc vào cách mọi thành viên thực hiện vai trò của mình. Con Trai trở về phòng. Cậu nằm xuống giường và bật băng lên. Không lâu sau, cậu đã ngủ.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Mất đến hai ngày rưỡi Mẹ mới chuẩn bị xong.
Bốn người họ rời nhà mang theo giỏ và phích nước. Đêm hôm đó thật là trong trẻo, tuyệt đẹp.
‘Chúng ta không lái xe sao?’
‘Vậy thì đây sẽ không còn là một chuyến dã ngoại nữa, đồ ngốc.’
Họ tản bộ, những tòa nhà cao chót vót ở hai bên.
Có vẻ như thành phố này không có người dân nào ngoại trừ họ. Các cửa sổ ánh lên một màu xanh huyền bí. Bên trong các tòa nhà tối om, được bao phủ bởi sự yên tĩnh. Xa xa có thể nghe thấy tiếng vo ve đều đặn. Những công tắc tự động bật và tắt. Dọc theo con đường uốn lượn, những ngọn đèn thủy ngân trông giống như một chuỗi xe đua.
‘Phong cảnh ở đây thật kinh khủng,’ Bố thì thầm.
‘Mọi người không thường đi dã ngoại để thưởng ngoạn phong cảnh sao?’ Em Gái hỏi anh trai.
‘Họ hay đến những cánh đồng và những ngọn đồi. Nơi mà có nhiều cây lớn.’
‘Nhưng chẳng phải là không an toàn khi rời khỏi thành phố ạ?’
Mẹ quay lại, lo lắng nhìn hai anh em.
Không ai trong số họ có ký ức gì về việc ở ngoài thành phố, nhưng bằng cách nào đó, họ đều biết thế giới bên ngoài thành phố trông như thế nào.
Khung cảnh kết thúc đột ngột. Thay thế cho các tòa cao ốc thưa thớt dần, có một con đường hoang vắng ở ngoài rìa, như thể toàn bộ đô thị bị cắt ra từ một nơi khác và rơi xuống hành tinh này vậy. Giống như gia đình họ, nơi đây bị cô lập một cách đáng sợ. Họ không biết thành phố này ra đời khi nào. Những người khai hoang từ Trái Đất đã xây dựng khu định cư này, và vì lý do này hay lý do khác họ đã bỏ trốn hoặc hầu như đã chết, chỉ một số linh hồn tổ tiên của họ bám trụ ở đó. Ít nhất thì đó là cách lý giải của Bố.
Bên ngoài thành phố, những ngọn đồi và cánh đồng trải dài ra đằng xa, nơi những con quái vật màu xanh đen hay lảng vảng. Đó là những sinh vật có lông dày trên đầu và lưng, chân lùn mập. Bọn chúng di chuyển bằng hai chân sau. Hai chân trước của chúng rất rắn chắc; những móng vuốt đen mọc ra từ đầu ngón chân. Bọn chúng có vẻ thờ ơ với sự tồn tại của những người Trái Đất này.
Mặc dù không ai trong số họ từng nhìn thấy một con quái vật nào, họ vẫn biết trông chúng ra sao và chúng cư xử như thế nào. Không hiểu sao lại vậy. Bọn quái vật này sống nhờ vào việc ăn hạt cây và chúng cực kì lành. Hoặc có lẽ không lành, có lần Bố nói, mà là lười biếng. Không thể xác định rằng chúng đang ngủ trưa hay chỉ đang lơ đễnh. Do đó, chúng không thể là con người. Bố nói, con người phải sống có quy củ. Gia đình họ là một ví dụ điển hình.
‘Bố à,’ Mẹ hỏi, ‘Anh đã đọc tờ báo buổi sáng chưa?’
‘Anh đọc rồi,’ bố nghiêm nghị trả lời. Ông luôn khăng khăng rằng họ phải đọc báo, để cho bằng với người ta. Người nào bỏ bê việc đọc tin tức mỗi sáng sẽ là một kẻ vô tích sự, giống như những người không trả được hóa đơn tiền cáp. Nhưng mà, họ cũng chỉ sử dụng TV để xem băng. Vậy nên ai cần quan tâm đến hóa đơn tiền cáp cơ chứ. Dù sao thì ở đây cũng đâu có đài phát thanh nào. Tuy nhiên, báo thì không thể thiếu. Cái thực tế rằng không có công ty báo chí nào quanh đây cũng chẳng phải là một cái cớ.
Sử dụng các bài viết từ tạp chí và báo cũ, Bố tự làm công báo của riêng mình. Mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều nhấn nút tráo. Nếu ông quá kỹ tính trong việc lựa chọn thì sẽ không còn bất ngờ. Và ông đảm bảo cài đặt máy in dấu chân chính [2] cho phù hợp, để tờ báo được đưa vào hộp thư đúng 5 giờ sáng mỗi ngày.
‘Có gì hay không anh?’
Mẹ không quan tâm đến tin tức lắm nhưng cứ hỏi như thể có quan tâm.
‘Giá lúa mì đã tăng.’
‘Lại nữa sao? Đây là lần thứ sáu trong tháng này rồi đấy.’
Phản ứng của bà chỉ là giả tạo, nhưng tại sao lại không được như vậy chứ? Các bài báo cũng là giả mà. Quan trọng là họ chỉ làm chuyện đó cho có lệ thôi.
‘Tuy nhiên, giá vẫn ổn định trong một thời gian.’ Bố đang tỏ ra khó khăn. ‘Nghe này, anh đã suy ngẫm về điều đó.’
Ông khoanh tay nhìn con trai và con gái của mình, lúc này đang ở phía trước một chút.
‘Anh nghĩ đã đến lúc chúng ta xây một ngôi nhà.’
‘Tại sao vậy anh? Nơi mình đang sống có vấn đề gì à?’
‘Ta không thể ở đó mãi được. Điểm cộng duy nhất của nơi đó là chúng ta đã ổn định được ở đó. Đã quá lâu rồi. Chúng ta cần phải chống lại sự cám dỗ của sự tiện lợi vĩnh viễn, nơi mọi ngóc ngách đều sạch sẽ tinh tươm. Con người chỉ trưởng thành qua gian khổ. Xây nhà là công việc cả đời của một con người.’
‘Vậy chúng ta sẽ đi đâu?’
Mẹ nhân ra rằng mình buộc phải hỏi. Bà biết việc đó thật nực cười, nhưng khi Bố như thế này, mẹ phải cố gắng hết sức để giả vờ hợp tác.
‘Ở đâu? Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây… để tìm vị trí hoàn hảo.’
Mẹ không nghĩ rằng họ sẽ sống bên ngoài thành phố. Hơn nữa, Bố cũng không hề biết làm thế nào để xây một ngôi nhà.
‘Anh sẽ tránh cách tiếp cận cuộc sống thông thường bằng mọi giá.’ Nhưng bố ngay lập tức có thể giải quyết ổn thỏa mọi việc. ‘Anh chỉ là không muốn chúng ta kết thúc trò vui này. Khi người ta cư xử đáng hổ thẹn, con cái họ sẽ học theo. Con cái chỉ để ý khi bố mẹ mình mắc lỗi. Một hành động sai lầm, không lâu sau nó sẽ thành… Em biết đấy, em có thể gọi nó như nào cũng được.’
Bố sốt ruột vẫy tay.
‘Thành tội phạm ư?’
‘Đúng, đúng. Chỉ một thời gian ngắn thôi. Chẳng ai biết vì sao, nhưng trẻ con thích trở thành tội phạm.’
Bố nhấn mạnh, mặc dù không biết chính xác trở thành tội phạm đòi hỏi những gì. Nghe có vẻ như là điều gì đó đọc được từ báo chí, nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, ông chính là tờ báo.
‘Em nghĩ là do xe máy.’
‘Chính xác. Mẹ nói đúng lắm. Vấn đề nằm ở đó đấy. Xe máy và ô tô!’
‘Nhưng con mình đã có cả hai rồi. Chúng đã tạo ra mấy thứ đó bằng máy nhân bản.’
‘Hừm, anh không thích chuyện này. Chúng ta nên tìm cách để thuyết phục chúng một cách khôn khéo. Kỷ luật chính là cách tiếp cận phù hợp.’
Họ tiếp tục đi xuống con phố hoang vắng.
‘Còn bao xa nữa?’
Con Trai lấy lược và chải tóc, tạo thành đuôi vịt phía sau gáy. Cậu cẩn thận để đảm bảo rằng các sợi tóc cùng theo một đường thẳng đứng. Ý tưởng về một kiểu tóc mái độc đáo nảy ra trong đầu cậu. Mình làm được mà, cậu tự nhủ. Mình sẽ là người thời thượng nhất.
Em Gái mặc một chiếc đầm dạ hội dài thướt tha. Trang phục này thích hợp để đi chơi đêm. Cô biết rõ điều này. Cô đã cân nhắc về việc mặc thứ gì đó trang trọng đến sàn nhảy, nhưng đâu phải họ đang đi đến một vũ trường, vì vậy cô đã từ bỏ ý định đó. Mặc dù một ngày nào đó, cô ấy hy vọng được xem vũ trường, ít nhất một lần, nhưng Bố không cho cô đi. Ông gọi đó là nơi của lũ người hư hỏng. Nhờ có ông, cô không bao giờ được phép đến nơi mà tất cả những đứa trẻ đua đòi ở đó. Bất cứ nơi nào.
‘Anh này, chúng ta sẽ không rời thị trấn, phải không ạ?’ Em Gái hỏi.
‘Ừm, thực ra, anh nghĩ là chúng ta sẽ rời thị trấn đấy,’ Con Trai nói.
Cậu bật cổ áo sơ mi cài cúc ra, chỉ để phô trương. Có lẽ cậu nên rút vạt áo trước.
‘Em ước có một đại dương gần đây. Những con đường cao tốc ven biển thật thơ mộng.’
Cô đang nghĩ về một cảnh trong video.
Họ đến một quảng trường, rạp hát ở khắp xung quanh. Đài phun nước ở giữa. Tất cả đèn đã tắt.
‘Này, chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy? Ở đây thường rất đẹp mà.’
‘Đêm khuya rồi, họ tắt đèn’.
‘Anh nghĩ bây giờ là mấy giờ?’
‘Thật khó nói,’ Con Trai nói. ‘Hơn nữa, đồng hồ cũng là đồ giả. Anh thậm chí có cảm giác rằng thời gian trôi những cách khác nhau tùy thuộc vào khu vực của thành phố mỗi người đang ở.’
Cậu đút tay vào túi.
‘Nhưng mà, hồi tối chúng ta ra khỏi nhà cũng sớm đấy chứ. Và ta đâu có đi bộ quá lâu.’ 
‘Ừ nhỉ, em nhắc anh mới nhớ ra đấy.’
Gần đây, cậu mất tự tin về cách sống của mình. Có những ngày cậu không biết phải làm gì với bản thân. Đặc biệt là khi thời gian bắt đầu dài ra hay ngắn lại. Điều đó thực sự khiến cậu rối trí. Nhìn mặt trời lặn trong khi mình vẫn đang pha cà phê sáng, cậu vô cùng khó chịu. Nếu cậu ngồi không làm gì cả đêm, bố mẹ lại trách mắng, nói rằng đêm là để ngủ. Khi cậu nói rằng mình không buồn ngủ, họ bảo cậu giả vờ. Làm tất cả những việc khác sẽ là không đứng đắn. Cậu không được phép làm bất cứ điều gì hổ thẹn với xã hội.
Cậu không hiểu bố mẹ nói ‘xã hội’ nghĩa là gì? Họ muốn nói điều gì? Bất cứ khi nào cậu hỏi, bố mẹ cậu đều đều hét lên, ‘Con không hiểu về lẽ thường tình gì cả! Ở tuổi con, chắc hẳn phải hiểu một số lẽ thường rồi chứ?’
Vì vậy, cậu chờ đợi lẽ thường của mình tự đến. Cậu đã đợi một thời gian rồi. Không có dấu hiệu của nó ở bất cứ đâu.
Con Trai lúc nào cũng lo lắng. (Bởi sách nói với cậu rằng trưởng thành là đau đớn và hoài nghi. Vậy nên có lẽ nó phải là như thế này.)
Cậu ngồi xuống bên cạnh em gái mình.
‘Này, em có nghĩ thời gian chỉ là bịa đặt không?’
Em Gái nhìn cậu.
‘Bất cứ nơi nào không có người,’cậu nói, ‘đều không có thứ gì gọi là thời gian. Đó chỉ là thứ mà con người tạo ra, cho thuận tiện. Để áp đặt trật tự cho các sự kiện.’
‘Thế lịch sử thì sao? Chúng ta đang cố gắng tìm hiểu điều gì đã thực sự xảy ra. Con người đã đến đây khi nào và bằng cách nào. Anh không muốn biết nơi đây như thế nào khi người ta lần đầu tiên đến à?’
‘Những ngày này, anh không chắc mình còn thực sự quan tâm đến điều đó nữa. Anh cảm thấy nó thật nhỏ nhặt.’
‘Xem anh đang nghĩ gì kìa, anh trai tôi.’
Bố gọi Con Trai từ băng ghế nơi ông ngồi.
‘Đủ rồi đấy. Đừng nói huyên thuyên nữa.’ Ông lắc đầu. ‘Con sai hết rồi, con trai. Con nghĩ vì sao chúng ta phải đọc sách và xem video? Để tìm hiểu về cách sống của những người đi trước chúng ta. Đó là lý do tại sao. Họ cung cấp cho chúng ta ví dụ rõ ràng về cách sống đúng đắn. Chúng ta phải tiếp tục lối sống lương thiện và đạo đức. Nếu đi chệch hướng, chúng ta sẽ toi đời.’
‘Con nghĩ mỗi người nên sống theo cách mà họ thích.’
‘Vậy là con chưa trưởng thành rồi. Ở tuổi con, lẽ ra con đang phải đi học, chìm trong đống bài tập về nhà. Con nên thấy biết ơn vì được miễn khỏi số phận đó…  Mặc dù cuộc sống sẽ dễ dàng hơn rất nhiều đối với bố nếu có một trường học xung quanh đây. Và cho cả con nữa. Trên Trái đất, người ta có một thứ gọi là kỳ thi tuyển sinh.’
‘Con biết.’
‘Sẽ tốt cho con hơn nếu con tìm được nơi để thể hiện sức sống trẻ trung của mình. Cháy hết mình trong thời vinh quang của con với những thử thách - chà, điều này lại làm bố nhớ lại quá khứ của mình!’ Bố dang rộng cánh tay đầy phô trương. ‘Đó chính là ý nghĩa của tuổi trẻ. Thử thách lòng can đảm. Bằng lòng dâng hiến tất cả. Thật đẹp!’
‘Bố muốn con trở thành một cậu bé chàng trai trông y như được cắt từ poster ra ạ?’
‘Tuổi trẻ còn để làm gì khác nữa?’
‘Thôi, con cảm ơn. Nghe thật nhàm chán. Gần đây, con khá nghi ngờ tính đúng đắn của việc làm mọi thứ bằng tất cả sức lực.’
‘Bố nói điều này chỉ để tốt cho con thôi, con trai. Người thân của con sẽ không lừa dối con. Vì thế hãy lắng nghe.’
‘Đó có phải là lý do tại sao bố yêu cầu con tạo ra lịch sử của người Trái Đất, thay vì đưa con đến trường phải không? Nhưng vì sao bố lại quan tâm quá nhiều đến lịch sử và thời gian vậy ạ?’
‘Sao con lại trở nên tồi tệ như vậy? Con nghĩ mình có thể thoát khỏi việc trở thành tội phạm, phải không? Những đứa trẻ hư luôn nói mấy điều vớ vẩn giống nhau.’
‘Hãy nghe lời bố con. Con sẽ hối hận về điều đó sau này đấy. Giống như câu nói: cũng chẳng ích gì khi xây một ngôi làng tại mộ tổ tiên. Một khi ta chết, mọi thứ đều sẽ là quá muộn.’
‘Ý mẹ không phải là lễ cầu nguyện sao?’
‘Giống nhau cả mà. Thằng nhãi này.’
Con Trai không nói nữa. 
Cậu đã hiểu ra vấn đề, mặc dù chỉ một chút. Bố mẹ cậu không thoải mái khi xử sự như những người Trái Đất trên hành tinh xa lạ này. Để cố gắng che giấu sự khó chịu của mình, họ luôn ám ảnh với việc tuân thủ các phong tục xã hội, quy tắc ứng xử. Bởi họ không biết chính xác một người Trái Đất tốt nhất nên cư xử như thế nào, họ luôn nhắc nhở bản thân và con cái đi theo những lý tưởng bất khả thi. Sự theo đuổi lịch sử tổ tiên cũng là một hành động thể hiện khao khát được yên lòng của họ.
‘Giờ anh là trai hư rồi đấy à?’ Em Gái hỏi. ‘Không phải là mới vài ngày trước, anh vẫn còn là một cậu bé ngoan ngoãn sao?’
Cô hỏi điều này một cách chân thành (chứ không phải như một lời buộc tội).
‘Đúng vậy. Anh cũng thấy bản thân mình hơi kỳ cục. Khi mẹ chuẩn bị ra ngoài, anh bắt đầu nghĩ về thời gian. Sau hai ngày rưỡi suy nghĩ, anh nhận ra rằng quan niệm về thời gian tuyến tính chẳng có lợi cho ai cả. Nếu tất cả những gì quan trọng là sự sống còn.’
‘Mẹ chỉ mất có một giờ thôi. Con còn tỉnh táo không vậy?’  Mẹ, người đang đeo khăn quàng cổ cho chuyến đi du ngoạn, lắc đầu một cách mạnh mẽ.
Điều này làm Con Trai phải suy nghĩ. Sẽ ra sao nếu mình là người duy nhất không bị vướng vào thời gian?
‘Thôi nào em. Anh nghĩ việc này đang đi quá xa rồi đấy.’
‘Chắc anh nói đúng. Em chỉ muốn các con mình được bình an. Thỉnh thoảng em hơi mất bình tĩnh…’
Mẹ cười khúc khích, lấy tay che miệng. Sau đó, bà nhìn lên gia đình mình và đưa ra yêu cầu, với một giọng nói thấm đầy nhiệt huyết. ‘Quên những gì mẹ nói đi nhé. Giờ thì đi ăn thôi.’
★━━━━━━✩━━━━━━★
Những con quái vật đang túm tụm vào với nhau, nằm sát vào nhau, ngủ say. Lớp lông tơ rậm rạp tạo thành tấm đệm trải giường vô cùng phù hợp. Một mùi ngọt ngào thoang thoảng bốc lên từ đất, nhưng hương thơm gợi cảm của cây cối lại áp đảo. Những con thú vật đã ngủ say, không thèm quan tâm.
Ngoại trừ hai con.
Chúng mở mắt giữa màn đêm, suy nghĩ về thời gian và sự tự do của các sinh vật sống khác.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Gia đình người Trái Đất nhai bánh sandwich trong im lặng. Trước khi họ nuốt xong miếng đầu tiên, bình minh đã đến trên hành tinh này. 
‘Này, có chuyện gì vậy? Điều này không thể xảy ra được.’
‘Em đã dặn anh những gì rồi? Không được quên mang đồng hồ cơ mà,’ Mẹ nói. ‘Ai mà biết được chúng ta rời nhà vào cái giờ quái quỷ nào chứ.’
Mẹ thúc khuỷu tay vào người bố.
‘Điều này không thể xảy ra được.’
Bố há hốc mồm.
‘Không được ư? Nó đang xảy ra rồi đây, rõ như ban ngày. Làm sao bây giờ?’
‘Con không hiểu vì sao chúng ta không thể đi dã ngoại ban ngày ạ,’ Em Gái nói.
Cô ăn bánh sandwich một cách ngon lành.
‘Đừng chỉ tay vào mẹ,’ mẹ cáu kỉnh. ‘Bố con mới là người chọn thời điểm.’
‘Bố muốn giống như trong bộ phim Chuyến dã ngoại ban đêm [3].’
Bố không còn gì để nói nữa.
‘Không phải đó là phim Chuyến dã ngoại trên chiến trường [4] ạ?’ Con Trai xen vào.
‘Đừng cãi lại, cái thằng này!’ Mẹ nói. ‘Nếu muốn làm điều đó, chúng ta phải xông vào một khu vực chiến sự! Con có biết là tìm một chiến trường phù hợp trong thời điểm hiện tại khó thế nào không? Tất nhiên con không biết rồi. Vì con có biết gì đâu. Con đang lúng túng kìa.’
Mẹ đã gần như trở nên loạn trí. 
‘Chẳng phải còn có cả Chuyến dã ngoại ở phía gần [5] sao ạ?’
Em Gái nhìn mặt các thành viên trong gia đình mình. Không ai trong số họ dường như biết cô đang nói về cái gì.
‘Ôi chà. Đi về nhà thôi.’
Bố nói với vẻ rất chán nản. Vậy là họ lại rời đi.
Ai đó chạy vụt đến và ăn cắp giỏ đồ dã ngoại của họ. Một cô gái. Cô liếc nhìn theo họ từ lối vào một nhà hát. Cô gái này có đôi mắt sáng lấp lánh và mái tóc vàng.
‘Này, cái quái gì thế!’ Bố hét lên. ‘Đó là đồ của chúng tôi mà.’
‘Khăn ăn thêu hoa của mẹ để trong đó!’ Mẹ khóc lóc. ‘Đừng để cô ta chạy thoát.’
Cô gái quàng chiếc giỏ qua vai và lao đi. Cô chạy rất nhanh. Cả gia đình cũng đuổi theo.
‘Bố tặng khăn đó cho mẹ nhân ngày kỉ niệm của bố mẹ, cùng bộ với khăn trải bàn. Chúng là vô giá.’
Mẹ vừa chạy vừa than khóc.
Ngay khi họ nghĩ rằng đã mất dấu cô gái, họ lại nhìn thấy cô ở ngã tư tiếp theo, đang đợi họ ở góc đường.
‘Cô ta không phải là người Trái Đất! Bố chắc chắn rằng chúng ta là những người Trái Đất thực sự duy nhất còn sót lại!’
Bố đã hết hơi.
‘Có cả người Trái Đất giả sao? Đó sẽ là những ai đây?’
‘Yên lặng! Giờ không phải lúc làm trái lời.’
‘Mẹ không thể làm thêm khăn ăn bằng máy nhân bản sao?’ Em Gái hỏi, đã đuổi kịp mọi người.
‘Chúng có giá trị tình cảm! Chúng là những chiếc khăn độc nhất trên đời!’
Mẹ đang làm quá mọi thứ lên.
Trò đuổi bắt này - chạy hết tốc lực và dừng lại ở quãng ngắn, sau đó lại lao đi - vẫn tiếp diễn trong một thời gian.
‘Nếu cô ta đói, chúng ta có thể chia cho mà, nhưng việc này thì không thể tha thứ được rồi.’
‘Chắc chắn là cô ta đang cố dụ chúng ta đi đâu đó.’
Trong trường hợp này, bạn sẽ nghĩ rằng họ sẽ từ bỏ việc đuổi theo cô gái, nhưng người bố và người mẹ lại chạy như điên. Con Trai và Em Gái cũng đuổi theo, mặc dù không phải là không có chút vui mừng nào.
Họ đã đến rìa thành phố.
Cô gái đang đứng trên đỉnh một ngọn đồi thoai thoải.
‘Chưa ai khiến gia đình này làm mấy chuyện ngu ngốc như vừa rồi đâu. Chúng tôi sẽ bắt được cô cho mà xem!’
‘Dừng lại đi, cô gái, đứng đó nguy hiểm lắm.’
Bốn người họ đứng dưới mặt đất, mắt nhìn lên trên đỉnh đồi.
Một ông lão bước ra từ trong bóng của một cây lớn và đứng sau cô gái.
‘Xin lỗi vì rắc rối của các bạn. Tôi rất mong được nói chuyện với các bạn, nhưng thông thường, giống loài  chúng tôi không vào thành phố. Không phải bởi chúng tôi không thể, mà là vì ghét nơi đó. Nó được tạo nên bởi con người để phục vụ con người. Không phải chỗ dành cho chúng tôi.
Bài phát biểu của ông lão hơi cứng nhắc, mặc dù giọng nói của ông rất nhẹ nhàng.
‘Trả lại đồ cho tôi!’
Mẹ điên lên.
‘Khi chúng tôi kết thúc, tôi sẽ trả lại đồ của các bạn. Chúng tôi đã theo dõi các bạn từ lâu. Không phải bằng mắt, mà bằng tâm trí của chúng tôi. Vì đây là điều mà các bạn cũng có khả năng làm, nên tôi nghĩ các bạn sẽ hiểu đúng không?’
‘Chúng tôi không biết các người là ai!’
Bố tức giận đến đỏ bừng mặt.
‘Làm ơn, hãy nghe tôi nói. Ngày xưa, chúng tôi cũng sống trong hòa bình. Chúng tôi có thể không sản xuất hoặc tiêu thụ, nhưng cuộc sống của chúng tôi rất giàu có. Chao ôi, trong bất kỳ nhóm nào mà chả có kẻ không thích nghi được. Một số kẻ trong số chúng tôi bắt đầu thắc mắc vì sao họ lại sống và họ đến từ đâu. Những suy nghĩ đó tiêu hao từng giây từng phút của họ. Cuối cùng họ lên đường đến thành phố. Thành phố được tạo nên bởi cư dân của hành tinh khác, và sau đó bị bỏ hoang. Khi đến đó, họ lại dành cả ngày để suy ngẫm về thời gian, lịch sử và nguồn gốc.’
Giọng ông lão này nghe không già một chút nào.
‘Ông đang nói về chúng tôi à? Chà, ông không thuyết phục được chúng tôi đâu. Chúng tôi không giống như ông. Chúng tôi sinh ra ở thành phố này. Và đã sống cả đời ở đây!’
Bố giận điên người.
‘Vậy nên bạn mới không nhớ. Trí nhớ thường có xu hướng tự sắp xếp lại sao cho thuận tiện. Tôi nhận ra đã đến lúc nói sự thật cho các bạn. Đó chính là lý do tại sao chúng tôi dẫn các bạn đến đây. Tại sao các bạn lại khăng khăng đóng vai người Trái Đất - hoặc bất cứ hạng người nào muốn? Các bạn có thể sống tự do, không cần vẻ ngoài phô trương của loài người. Một sự tồn tại bình lặng, không bị cản trở bởi những lo lắng này, là việc nằm trong tầm tay thôi mà.’
‘Đồ khốn nạn!’
Bố đùng đùng nổi giận. Cơ thể của ông cũng phình ra, theo đúng nghĩa đen. Từng đợt sóng giận dữ phát ra từ người ông. Những luồng điện tím ngắt lạ lùng. Những cơn sóng điện tràn lên ngọn đồi và hạ gục cả ông lão lẫn cô gái, giết chết họ ngay lập tức.
Cả gia đình không biết chuyện gì đang xảy ra. Họ chưa bao giờ nghĩ rằng sự nóng nảy của mình có thể giết chết một ai đó.
‘Phù!’ Mẹ chỉ tay. ‘Rốt cuộc họ không phải con người.’
Hai con quái vật xanh đen sụp xuống trên đỉnh đồi.
‘Trời đất, thật là bất ngờ!’
Con Trai cười khúc khích. Khi cậu nhìn sang khuôn mặt của gia đình mình, cậu thấy ba con quái vật.
Một cơn gió nhẹ lướt qua sườn đồi yên tĩnh. Những con quái vật đóng giả là một gia đình đứng yên tại chỗ, chìm trong nỗi kinh ngạc. Chúng không thể hiểu nổi chuyện gì vừa diễn ra và tại sao. Cảm thấy mình thật ngu ngốc, giờ chúng mới nhớ ra rằng đám quái vật (như chúng chẳng hạn) có thể biến thành bất kỳ hình dạng nào. Có lẽ chúng đã quá tin rằng mình là người Trái Đất, nên chúng bắt đầu hóa thân thành hình dạng của những con người đó.
Gió bắt đầu đổi chiều.
Không quan tâm đến nhau nữa, những con quái vật rời đi, mỗi con theo một hướng của riêng mình. Nhàn nhã, chẳng có một đích đến cụ thể, ôm trong lòng một mối lo âu mới.
Hết
★━━━━━━✩━━━━━━★
Chú thích của nhóm dịch
[1] American Graffiti: Bộ phim Hollywood năm 1973 do George Lucas đạo diễn.
[2] Máy in dấu chân chính: Bản tiếng Anh ghi là postometer. Postometer là một loại máy chống nói dối, được Sở Cảnh sát New York sử dụng năm 1939 để xác định tội phạm. Ở đây nhóm dịch suy đoán nhân vật Bố đã nhầm lẫn postometer với postage meter - máy in dấu bưu chính. Bởi nhóm dịch không có trong tay bản truyện tiếng Nhật để đối chiếu, không loại trừ khả năng đây là sơ suất của người chuyển ngữ tiếng Anh.
[3] Chuyến dã ngoại ban đêm: Bản tiếng Anh là Picnic on the Night, được nhắc đến như tên một bộ phim của người Trái Đất. Hiện tại nhóm dịch không tìm được thông tin gì về bộ phim này.
[4] Chuyến dã ngoại trên chiến trường: A Picnic on the Battlefield, tiểu thuyết của Fernando Arrabal.
[5] Chuyến dã ngoại ở phía gần: Picnic on Nearside, tên một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của John Varley.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Dịch từ bản chuyển ngữ tiếng Anh của Sam Bett.
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Nhi
★━━━━━━✩━━━━━━★
Tác giả Suzuki Izumi (Ảnh: The Japan Times)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Đứa con máu mủ - Octavia E. Butler
Tumblr media
Về tác giả
Octavia Estelle Butler, hay Octavia E. Butler (1947 - 2006) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Mỹ. Sinh ra tại thành phố Pasadena, bang California, bà sớm tìm được niềm đam mê với văn chương và bắt đầu sáng tác khi còn ở độ tuổi niên thiếu. Trên con đường xây dựng sự nghiệp của mình, bà đã tham dự nhiều lớp dạy viết được tổ chức bởi các tác giả thể loại khoa huyễn đương thời, cũng như làm nhiều công việc chân tay khác nhau để trang trải cho công việc viết lách. Octavia E. Bulter là một tiếng nói độc đáo của thể loại khoa học viễn tưởng thế kỷ 20, với các sáng tác khai thác những cộng đồng người yếu thế, vốn ít có tiếng nói trong xã hội. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm loạt truyện Xenogenesis, các tiểu thuyết Parable of the Sower, Kindred, Fledgling, các truyện ngắn Bloodchild (Đứa con máu mủ), Speech Sounds (Thanh âm lời nói). Bà là chủ nhân của nhiều giải thưởng danh giá, cả ở thể loại khoa học viễn tưởng lẫn các giải thưởng văn chương nói chung.
Về tác phẩm
Đứa con máu mủ (tựa gốc: Bloodchild) là truyện ngắn nổi tiếng nhất của Octavia E. Butler. Truyện được đăng lần đầu vào năm 1984 trên tạp chí Asimov’s Science Fiction, và sau này được lấy làm tựa đề cho tuyển tập truyện ngắn duy nhất của bà xuất bản khi bà còn sống: Bloodchild and Other Stories (1995). Năm 1985, Đứa con máu mủ đã thắng cả hai giải Hugo và Nebula.
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Đêm cuối cùng của tuổi thơ tôi bắt đầu bằng một chuyến thăm nhà. Chị gái của T’Gatoi đã cho chúng tôi hai quả trứng vô noãn. T’Gatoi đưa một quả cho mẹ, anh và chị tôi. Cô khăng khăng để cho tôi ăn quả còn lại một mình. Cũng không thành vấn đề. Vẫn còn đủ để khiến tất cả mọi người đều cảm thấy khoan khoái. Hầu hết tất cả mọi người. Mẹ tôi không ăn chút nào. Bà ngồi, quan sát mọi người trôi theo mơ mộng mà không có mình. Nhưng chủ yếu là bà quan sát tôi.
Tôi tựa vào phần thân dưới dài, mềm như nhung của T’Gatoi, nhấm nháp quả trứng của mình, băn khoăn vì sao mẹ lại từ chối một vui thú vô hại như vậy. Tóc bà có lẽ đã ít bạc hơn nếu đôi lúc bà chịu nuông chiều bản thân. Những quả trứng ấy kéo dài tuổi thọ, tăng cường sinh lực. Cha tôi, người chẳng bao giờ từ chối quả nào trong cuộc đời, đã sống thọ hơn gấp đôi bình thường. Và dần đến cuối đời, khi lẽ ra ông phải sống chậm lại, ông đã cưới được mẹ tôi và có bốn đứa con. 
Nhưng mẹ tôi có vẻ đã quen với tuổi già trước khi bà phải làm vậy. Tôi thấy bà quay mặt đi khi vài cái chi của T’Gatoi bọc lấy tôi chặt hơn. T’Gatoi ưa nhiệt độ cơ thể của chúng tôi và tận dụng nó bất cứ khi nào cô  có thể. Hồi tôi còn nhỏ và ở nhà nhiều hơn, mẹ đã cố dạy tôi cách cư xử với T’Gatoi—cách để tỏ ra tôn kính và luôn luôn ngoan ngoãn bởi cô là viên chức chính phủ của người Tlic phụ trách Khu Bảo Tồn, và do đó điều quan trọng nhất trong chức vụ của cô ta là để đối phó trực tiếp với người Trái Đất. Điều đó là một vinh dự, mẹ tôi nói, rằng một người như vậy lại chọn vào gia đình này. Mẹ tôi vẫn tỏ ra trang trọng và khắt khe nhất mỗi khi bà nói dối.
Tôi không biết vì sao bà lại nói dối, hay cả việc bà ấy nói dối về điều gì. Thực là một vinh dự khi có T’Gatoi trong gia đình, nhưng cũng hiếm có gì mới lạ. T’Gatoi và mẹ đã là bạn suốt cả đời bà, và cô ấy không hứng thú với việc được tôn kính ở nơi cô coi là ngôi nhà thứ hai của mình. Cô chỉ đơn giản đi vào, leo lên một trong những cái ghế dài đặc biệt của cô và gọi tôi tới để sưởi ấm. Thật chẳng thể nào tỏ ra trang trọng trong khi nằm dựa vào cô và nghe cô phàn nàn như thường lệ rằng tôi quá gầy.
“Cháu khá hơn rồi đấy,” lần này cô bảo, thăm dò tôi bằng sáu bảy cái chi của cô. “Cuối cùng cháu cũng mập lên rồi. Gầy gò nguy hiểm lắm đấy.” Việc thăm dò phảng phất thay đổi, biến thành vuốt ve.
“Nó vẫn còn gầy lắm,” mẹ tôi gay gắt.
T’Gatoi nâng đầu dậy và có lẽ cả mét cơ thể của cô rời khỏi ghế trông như cô ấy đang ngồi dậy. Cô nhìn mẹ tôi, và mẹ tôi, với gương mặt nhăn nheo và già dặn của bà, quay đi chỗ khác.
“Lien, hãy ăn phần trứng Gan chừa lại.”
“Mấy quả trứng ấy dành cho bọn trẻ,” mẹ tôi bảo.
“Chúng dành cho cả nhà. Hãy cứ ăn đi.”
Nghe theo một cách miễn cưỡng, mẹ lấy nó từ chỗ tôi và cho vào miệng. Chỉ còn lại vài mẩu vụn trong chiếc vỏ trứng mềm dẻo, bị co lại, nhưng bà vét hết, nuốt chúng, và sau một lúc mấy nếp nhăn của sự căng thẳng bắt đầu dãn ra trên gương mặt bà.
“Ngon thật,” bà thì thầm. “Đôi lúc tôi quên rằng nó ngon thế nào.”
“Cô nên ăn nhiều hơn,” T’Gatoi nói. “Tại sao cô lại vội vã già đi như vậy chứ?”
Mẹ tôi chẳng nói gì.
“Tôi thích được đến đây,” T’Gatoi nói. “Nơi này là một chốn nương thân của tôi nhờ có cô, nhưng cô lại chẳng chăm lo cho chính mình.” 
T’Gatoi  bị săn lùng ngoài kia. Đồng loại  của cô ấy muốn nhiều người hơn trong chúng được bán. Chỉ cô ấy và phe phái chính trị của cô đứng giữa chúng tôi và đám người chẳng hiểu vì sao lại tồn tại một Khu Bảo Tồn—vì sao mọi người Trái Đất không thể được tìm hiểu, được chi trả và thanh toán, theo cách nào đó bán được cho họ. Hoặc là họ hiểu, nhưng trong nỗi tuyệt vọng, họ không thèm quan tâm. Cô gửi chúng tôi đến những người tuyệt vọng và bán chúng tôi cho những kẻ giàu có và quyền lực để đổi lấy sự giúp đỡ về mặt chính trị của họ. Do đó, chúng tôi là những thứ cần thiết, biểu tượng của địa vị, và là một giống loài độc lập. Cô quan sát sự hình thành của các gia đình, đặt dấu chấm dứt cho những tàn dư cuối cùng của cái hệ thống cũ phá đi những gia đình Trái Đất để ghép với những Tlic thiếu kiên nhẫn. Tôi đã từng sống bên ngoài với cô ấy. Tôi đã thấy sự háo hức đầy tuyệt vọng trong cái cách vài người nhìn tôi. Có một chút rùng rợn khi biết rằng chỉ có cô đứng giữa chúng tôi và sự tuyệt vọng đó, thứ mà có thể dễ dàng nuốt trọn chúng tôi. Mẹ tôi đôi lúc nhìn cô và bảo tôi, “Hãy chăm sóc cô ấy.” Và tôi sẽ nhớ rằng cô đã từng ở ngoài kia, đã nhìn thấy nhiều điều. 
Giờ thì T’Gatoi dùng bốn cái chi của cô đẩy tôi xuống sàn. “Đi đi, Gan,” cô ta nói. “Ngồi xuống đó với các chị em và tận hưởng việc không trở nên quá nghiêm túc đi. Cháu đã ăn hầu hết chỗ trứng rồi. Lien, tới sưởi cho tôi đi.”
Mẹ tôi ngập ngừng vì lý do gì mà tôi chẳng biết. Một trong những ký ức đầu tiên của tôi là khung cảnh mẹ tôi duỗi người ra bên cạnh T’Gatoi, nói về những thứ mà tôi không thể hiểu, nhấc tôi khỏi sàn và cười khi bà ấy đặt tôi ngồi lên một đoạn thân của T’Gatoi. Bà đã ăn phần trứng được chia sẻ khi ấy. Tôi thắc mắc bà ấy dừng việc đó lúc nào, và tại sao. 
Bây giờ bà nằm xuống bên cạnh T’Gatoi, và cả hàng chi bên trái của T’Gatoi vòng quanh bà, ôm lấy bà một cách lỏng lẻo, nhưng chắc chắn. Tôi đã luôn cảm thấy dễ chịu khi nằm kiểu đó, nhưng ngoại trừ chị gái tôi ra, chẳng ai khác trong gia đình ưa nó. Họ bảo họ cảm giác như bị giam cầm.
T’Gatoi đã có ý giam mẹ tôi lại. Một khi cô đã làm được điều đó, cô khua đuôi nhẹ nhàng, rồi nói. “Không đủ trứng, Lien. Cô lẽ ra nên ăn nó khi được nhận. Cô cần nó lắm rồi.”
Đuôi T’Gatoi khua lên lần nữa, nó quất nhanh đến nỗi tôi sẽ chẳng thể nhìn thấy nó nếu không quan sát. Cú chích của cô quẹt lấy chỉ một giọt máu từ chiếc chân trần của mẹ.
Mẹ hét lên—chắc là do bất ngờ. Bị chích không hề đau. Rồi bà lại thở dài và tôi có thể thấy cơ thể bà thư giãn. Bà uể oải di chuyển đến một chỗ dễ chịu hơn trong cái lồng chi của T’Gatoi. “Sao cô làm vậy?” bà hỏi, giọng có vẻ buồn ngủ.
“Tôi không thể nhìn cô cứ ngồi đó và chịu đựng lâu hơn nữa.”
Mẹ tôi cố nhún vai nhẹ một cái. “Ngày mai,” bà nói.
“Phải. Ngày mai cô sẽ tiếp tục việc chịu đựng—nếu cô phải làm vậy. Nhưng chỉ bây giờ, chỉ lúc này thôi, hãy nằm đây sưởi ấm tôi và để tôi xoa dịu cô một chút.
“Thằng bé vẫn là của tôi, cô biết đấy,” mẹ tôi đột nhiên nói.
“Không gì có thể tách nó khỏi tôi.” Khi tỉnh táo, bà sẽ không cho phép mình đề cập đến những việc như vậy.
“Không gì cả,” T’Gatoi đồng ý, chiều theo bà.
“Cô có nghĩ rằng tôi sẽ bán nó để đổi lấy trứng? Lấy tuổi thọ? Con trai tôi ấy?”
“Không đổi lấy gì cả,” T’Gatoi nói, vuốt vai mẹ tôi, đùa giỡn với mái tóc dài, bạc của bà.
Tôi rất muốn chạm vào mẹ tôi, chia sẻ khoảnh khắc ấy với bà. Bà sẽ nắm lấy tay tôi nếu tôi làm vậy lúc này. Thư giãn nhờ  quả trứng và cú chích, bà sẽ mỉm cười và có lẽ sẽ nói ra những điều bà chất chứa từ lâu. Nhưng ngày mai, bà sẽ nhớ những mọi thứ như một nỗi nhục nhã. Tôi không muốn là một phần của ký ức  nhục nhã ấy. Tốt nhất là chỉ ngồi yên và biết rằng bà yêu tôi dưới mọi nghĩa vụ, niềm tự hào và nỗi đau.
“Xuan Hoa, cởi giày mẹ cháu ra đi,” T’Gatoi nói. “Chốc thôi cô sẽ chích bà ấy lần nữa và bà có thể ngủ.”
Chị tôi nghe lời, lắc lư như say rượu khi đứng dậy. Khi xong việc, chị ngồi xuống bên cạnh và nắm lấy tay tôi. Chúng tôi đã luôn là một đội, chị và tôi. 
Mẹ tôi tựa đầu vào thân dưới của T’Gatoi và cố nhìn từ cái góc bất khả thi đó lên gương mặt rộng, tròn ấy. “Cô định đốt tôi lần nữa à?”
“Đúng vậy, Lien à.”
“Tôi sẽ ngủ đến chiều mai mất.”
“Tốt thôi. Cô cần điều đó. Lần cuối cô ngủ là khi nào vậy?” 
Mẹ tôi bực bội không thốt lên lời. “Tôi lẽ ra nên giẫm lên cô khi cô còn nhỏ,” bà càu nhàu.
Ấy là một trò đùa cũ giữa họ. Họ lớn lên cùng nhau, đại loại vậy, dù rằng T’Gatoi chưa từng, trong cuộc đời của mẹ, đủ nhỏ cho bất kì người Trái Đất nào giẫm lên được. Tuổi cô gần gấp ba lần tuổi mẹ tôi hiện tại, nhưng cô vẫn sẽ còn trẻ khi mẹ tôi chết đi vì tuổi già. Nhưng họ đã gặp nhau khi T’Gatoi đang bước vào một giai đoạn phát triển nhanh chóng—một loại dậy thì của người Tlic. Mẹ tôi chỉ là một đứa trẻ, nhưng trong một thời gian họ phát triển như nhau và không có bè bạn nào tốt hơn người kia cả.
T’Gatoi đã giới thiệu mẹ cho người đàn ông mà sau này đã trở thành cha tôi. Cha mẹ tôi, hài lòng với nhau bất kể sự khác biệt tuổi tác, đã lấy nhau khi T’Gatoi sắp bước chân vào sự nghiệp của gia đình cô—sự nghiệp chính trị. Cô và mẹ gặp nhau ít hơn. Nhưng một lúc nào đó trước khi chị tôi ra đời, mẹ tôi đã hứa sẽ trao cho T’Gatoi một trong những đứa con của bà. Đằng nào thì bà cũng  phải giao một trong số chúng tôi cho người khác, và bà muốn giao cho T’Gatoi hơn mấy kẻ lạ mặt.
Nhiều năm trôi qua. T’Gatoi đã đi các nơi và gia tăng sức ảnh hưởng của mình. Khu Bảo Tồn đã là của cô ngay lúc cô quay lại gặp mẹ tôi để nhận lấy thứ mà cô cho là phần thưởng cho công việc mệt nhọc của mình. Chị tôi ngay lập tức thích cô và muốn được chọn, nhưng mẹ vừa mới có thai tôi và T’Gatoi thích việc chọn một đứa bé sơ sinh và quan sát cũng như tham gia vào mọi giai đoạn phát triển. Mọi người kể rằng những cái chi của cô đã bao bọc lấy tôi chỉ ba phút sau khi sinh ra. Một vài ngày sau đó, tôi được cho ăn quả trứng đầu tiên. Tôi nói với những người Trái Đất điều đó khi họ hỏi tôi có sợ cô không. Và tôi cũng kể điều đó với người Tlic khi T’Gatoi đề nghị họ một đứa trẻ Trái Đất và họ, lo lắng và thiếu hiểu biết, đòi một đứa vị thành niên. Kể cả anh trai tôi, người mà vì lý do nào đó đã lớn lên trong nỗi sợ hãi và sự không tin tưởng người Tlic vẫn có thể suôn sẻ vào trong một gia đình họ nếu anh được sinh ra đủ sớm. Đôi lúc, tôi nghĩ về lợi ích mà anh lẽ ra đã có. Tôi nhìn anh ấy, nằm dài trên sàn ngang phòng, mắt mở, nhưng trở nên đờ đẫn khi nó mơ về giấc mơ trứng của mình. Không quan trọng việc anh nghĩ gì về người Tlic, anh luôn đòi được chia phần trứng của mình.  
“Lien, cô đứng dậy được chứ?” T’Gatoi đột nhiên hỏi.
“Đứng gì?” mẹ tôi đáp. “Tôi tưởng tôi sẽ ngủ.”
“Để sau đi. Có tiếng động lạ ở ngoài kìa.” Chiếc lồng lập tức thu lại.
“Gì cơ?”
“Đứng dậy đi Lien!”
Mẹ tôi nhận ra giọng điệu của cô ấy và và chỉ vừa kịp lúc tránh khỏi việc bị trượt xuống sàn. T’Gatoi hất cái cơ thể ba mét của cô khỏi băng ghế, tiến tới cửa, và lao ra nhanh nhất có thể. Cô ấy có xương—xương sườn, một cột sống dài, một hộp sọ, bốn bộ xương chi trên mỗi đốt. Nhưng khi di chuyển kiểu đó, xoay người, lao đi có chủ ý, hạ cánh và chạy, cô không chỉ có vẻ nhưng không có xương, mà còn như thủy sinh—thứ gì đó bơi trong không khí như thể là nước vậy. Tôi yêu việc quan sát những cử động ấy.
Tôi bỏ chị tôi ở lại và bắt đầu chạy theo cô ra ngoài, kể cả khi tôi bước còn không vững. Tôi thà rằng ngồi mơ, hay tốt hơn là tìm một cô gái và chia sẻ cùng một giấc mơ khi thức dậy. Cái thời mà người Tlic 3còn coi chúng tôi không hơn gì những con thú máu nóng to lớn, tiện lợi, họ sẽ nhốt vài người chúng tôi lại với nhau, cả nam lẫn nữ, và chỉ cho ăn trứng. Theo cách đó họ có thể chắc chắn có được thế hệ kế tiếp của chúng tôi mặc kệ việc chúng tôi cố cầm cự thế nào. Thật may là điều đó không kéo dài. Chỉ một vài thế hệ chịu đựng việc đó thôi và chúng tôi sẽ chẳng khác nào những con thú to lớn, tiện lợi.
“Hãy để cửa mở, Gan,” T’Gatoi nói. “Và nói cả nhà lùi lại.”
“Cái gì vậy?” tôi hỏi.
“N’Tlic.”
Tôi dựa lưng vào cửa. “Ở nơi này? Một mình ư?”
“Gã đang cố tới buồng điện thoại, cô đoán vậy.” Cô bế gã qua tôi, gã đang bất tỉnh, cơ thể gập lại như một chiếc áo choàng trên mấy cái chân của cô. Gã có vẻ còn trẻ—có khi trạc tuổi anh tôi—và gầy hơn bình thường. Điều mà T’Gatoi sẽ gọi là nguy hiểm.
“Gan, lại chỗ buồng điện thoại đi,” cô nói. Cô đặt gã ta lên sàn và bắt đầu cởi đồ anh ta ra.
Tôi không hề di chuyển.
Sau một lúc, cô nhìn lên tôi, sự yên lặng đột ngột của cô là dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn sâu sắc. 
“Cô bảo Qui đi đi,” tôi nói với cô. “Cháu sẽ ở đây. Có lẽ cháu giúp được.”
Cô lại di chuyển các chi, nâng gã ta lên và cởi chiếc áo qua đầu gã. “Cháu không muốn thấy cái này đâu,” cô bảo. “Khó lắm. Cô không thể giúp gã này theo cách Tlic của gã làm được.”
“Cháu biết. Nhưng để cho Qui đi. Anh ấy không muốn giúp đỡ gì trong chuyện này  đâu. Ít nhất cháu sẵn lòng thử.”
Cô nhìn anh tôi—già dặn hơn, lớn hơn, khỏe hơn, chắc chắn thích hợp hơn để giúp cô ở đây. Anh đang ngồi, dựa vào tường, nhìn chằm chặp vào gã đàn ông trên sàn với vẻ sợ hãi và ghê tởm không che giấu nỗi. Kể cả cô cũng nhận ra rằng anh vô dụng.
“Đi nào, Qui!” cô bảo.
Anh không cãi lại. Anh ấy đứng dậy, lảo đảo chốc lát, rồi trở nên tỉnh táo trong sự bình tĩnh và nỗi sợ hãi.
“Gã này tên là Bram Lomas, cô bảo anh, đọc được từ chiếc băng tay của gã. Tôi sờ vào băng tay của mình trong sự cảm thông. “Gã cần T’Khotgif Teh. Anh nghe không?”
“Bram Lomas, T’Khotgif Teh,” anh tôi nói. “Anh đi đây.” Anh vòng qua Lomas và chạy ra khỏi cửa.
Lomas đã bắt đầu tỉnh lại. Ban đầu gã ta chỉ rên rỉ và thảng hoặc bấu lấy một đôi chi của T’Gatoi. Em gái tôi, cuối cùng cũng tỉnh khỏi cơn phê trứng của nó, lại gần nhìn gã, cho đến khi bị mẹ tôi kéo lại.
T’Gatoi cởi giầy của gã ra, rồi quần, trong khi đó chỉ chừa lại hai chi cô bị anh ta nắm lấy. Chỉ trừ một đoạn cuối, mọi cái chi của cô đều khéo léo. “Từ giờ cô không muốn tranh cãi với cháu đâu, Gan,” cô bảo. 
Tôi đứng thẳng lên. “Cháu phải làm gì đây?”
“Ra ngoài và giết lấy một con thú tầm nửa người cháu.”
“Giết sao? Nhưng cháu chưa từng —”
Cô hất tôi ngang phòng. Đuôi cô ấy đã là một món vũ khí tốt kể cả có để lộ gai ra hay không.
Tôi bật dậy, cảm thấy thật ngốc khi phớt lờ lời cảnh báo của cô, và đi vào bếp. Có lẽ tôi có thể giết con gì đó bằng dao hoặc rìu. Mẹ tôi nuôi vài con thú Trái Đất để ăn và vài nghìn con bản địa để lấy lông. T’Gatoi chắc ưa mấy con bản địa hơn. Một con achti chẳng hạn. Vài con trong số chúng có kích thước phù hợp, dù chúng có số răng gần gấp ba lần tôi và rất ưa sử dụng số răng đó. Mẹ tôi, Hoa, và Qui có thể dùng dao giết chúng. Tôi thì chưa từng, chưa từng giết bất cứ con vật nào. Tôi dành phần lớn thời gian bên cạnh T’Gatoi trong khi anh và chị tôi học hỏi việc kinh doanh của gia đình. T’Gatoi đã đúng. Đáng  ra tôi nên đi tới buồng điện thoại. Ít ra tôi có thể làm việc ấy.
Tôi tới chỗ cái tủ ở góc nơi mẹ để các vật dụng trong nhà và làm vườn lớn. Phía sau cái tủ là một ống dẫn nước thải từ bếp—trừ một chuyện là nó không còn làm việc đó nữa. Cha tôi đã đặt lại đường nước thải bên dưới trước cả khi tôi ra đời. Giờ thì cái ống có thể được vặn để một nửa trượt quanh nửa còn lại và để cho một khẩu súng trường được cất bên trong. Đấy không phải khẩu súng duy nhất chúng tôi có, nhưng là cái dễ lấy nhất. Tôi sẽ dùng nó để bắn một trong những con achti lớn nhất. Sau đó chắc chắn là T’Gatoi sẽ tịch thu nó. Súng ống bị cấm ở Khu Bảo Tồn. Đã có một sự cố xảy ra ngay sau khi Khu Bảo Tồn được thành lập—người Trái Đất bắn Tlic, và cả N’Tlic nữa. Ấy là trước khi việc hình thành các gia đình bắt đầu, trước khi mọi người có trách nhiệm cá nhân trong việc giữ hòa bình. Chưa từng có ai bắn một người Tlic trong suốt cuộc đời của tôi hay mẹ tôi, nhưng luật vẫn còn đó—để bảo vệ chúng tôi, họ nói như vậy. Đã có mấy chuyện về việc cả nhà người Trái Đất bị quét sạch để trả thù trong các vụ thảm sát.
Tôi ra ngoài chuồng và bắn con achti lớn nhất tôi thấy. Là một con đực giống khá ưa nhìn, và mẹ tôi sẽ không hài lòng khi thấy tôi mang nó vào. Nhưng nó đúng cỡ, và tôi thì đang vội lắm.
Tôi đặt cái cơ thể dài, còn ấm của con achti lên vai—thật mừng là tôi mập lên nhờ cơ bắp—và mang nó vào bếp. Ở đó, tôi trả cây súng về chỗ cất giấu. Nếu T’Gatoi nhận ra vết thương của con achti và đòi khẩu súng, tôi sẽ phải đưa cho cô. Nếu không thì, cứ để nó lại chỗ cha tôi muốn.
Tôi mang con achti lại cho cô, rồi do dự. Trong vài giây, tôi đứng trước cánh cửa đóng thắc mắc tại sao đột nhiên mình thấy sợ. Tôi biết điều gì sắp xảy ra. Tôi chưa từng thấy nó trước kia nhưng T’Gatoi đã cho tôi coi mấy cái sơ đồ và tranh vẽ. Tôi muốn chắc rằng tôi biết sự thật khi tôi đủ lớn để hiểu nó.
Song, tôi vẫn không muốn vào căn phòng đó. Tôi mất chút thời gian chọn lấy một con dao từ chiếc hộp gỗ chạm khắc nơi mẹ tôi cất chúng. Có lẽ T’Gatoi cần một cái, tôi tự nhủ, do con achti có lớp da dày và nhiều lông.
“Gan ơi!” T’Gatoi gọi, giọng gắt gỏng đầy khẩn trương.
Tôi nuốt nước bọt. Thật không thể tưởng tượng được chỉ một bước đi nhỏ thôi lại khó khăn như thế. Tôi nhận ra mình đang run rẩy và điều đó khiến tôi xấu hổ. Và chính sự xấu hổ ấy đã đẩy tôi qua cửa.
Tôi đặt con achti xuống gần T’Gatoi và thấy rằng Lomas lại bất tỉnh. Chỉ có cô, Lomas, và tôi ở trong phòng này—mẹ và anh chị chắc đã bị đưa ra ngoài để họ không nhìn thấy. Tôi thấy ghen tị với họ.
Nhưng mẹ tôi lại quay vào trong phòng khi T’Gatoi chộp lấy con achti, mặc kệ con dao tôi đưa cho cô ấy, cô mở rộng móng vuốt từ mấy cái chi và rạch con achti từ yết hầu đến tận hậu môn. Cô nhìn tôi, với đôi mắt vàng đầy ẩn ý. “Giữ lấy vai của gã đi, Gan.”
Tôi hoảng loạn nhìn Lomas, nhận ra mình còn không muốn chạm vào gã ta, chứ đừng nói là giữ. Điều này không hề giống với việc bắn một con thú. Không nhanh chóng, không nhân từ như vậy, và, tôi hy vọng, không phải cuối cùng, nhưng tôi chẳng mong gì hơn trở thành một phần của nó.
Mẹ tôi đi tới. “Gan, con giữ bên phải,” bà nói. “Mẹ sẽ giữ bên trái.” Và nếu gã ta tỉnh, gã sẽ hất bà ra mà không nhận ra mình đã làm điều ấy. Bà nhỏ người. Bà thường tự hỏi lớn rằng làm sao bà có thể sinh ra, theo lời bà, những đứa con “khổng lồ” như vậy.
“Không sao,” tôi nói với bà, giữ lấy hai vai của gã. “Để con làm.” Bà lảng vảng gần đó.
“Đừng lo,” tôi nói. “Con không làm mẹ thất vọng đâu. Mẹ không phải cần ở lại coi.”
Bà nhìn tôi đầy vẻ không chắc chắn, rồi chạm vào mặt tôi với một sự âu yếm hiếm thấy. Sau cùng, bà quay về phòng ngủ.
T’Gatoi cúi đầu nhẹ nhõm. “Cảm ơn cháu, Gan ạ,” cô nói với vẻ lịch sự giống người Trái Đất hơn là Tlic. “Cô ấy… mẹ cháu luôn tìm cách để cô phải làm cô ấy chịu đựng.”
Lomas bắt đầu rên rỉ và phát ra những âm thanh nghẹn ngào. Tôi mong rằng gã cứ bất tỉnh như vậy thôi. T’Gatoi đưa mặt lại gần gã để gã tập trung vào cô.
“Tôi đã chích cậu nhiều nhất có thể từ giờ,” cô bảo gã. “Khi xong việc, tôi sẽ chích cho cậu ngủ và cậu sẽ chẳng làm hại ai nữa.”
“Làm ơn,” gã van xin. “Đợi đã…”
“Không có thời gian đâu, Bram. Tôi sẽ chích cậu khi xong việc. Khi T’Khotgif tới cô sẽ cho cậu ăn trứng để hồi phục. Sẽ xong sớm mà thôi.”
“T’Khotgif sao!” gã hét lên, kéo tay tôi lại.
“Sớm thôi, Bram.” T’Gatoi liếc nhìn tôi, rồi đặt một móng vuốt lên bụng gã ta, nhẹ nhàng về bên phải, chỉ ngay dưới sườn trái. Có chuyển động ở bên phải—nhỏ thôi, có vẻ là những nhịp đập ngẫu nhiên di chuyển lớp thịt màu nâu của gã, tạo ra những vết lồi lõm, liên tục và liên tục đến khi tôi thấy được nhịp điệu của nó và biết được nhịp tiếp theo ở đâu.
Cả người Lomas căng cứng dưới vuốt của T’Gatoi, dù cô chỉ đơn giản là tựa nó lên người gã khi cô quấn phần sau cơ thể mình quanh chân gã. Gã sẽ thoát khỏi sự kìm kẹp của tôi mất, nhưng sẽ không làm được với cô. Gã ta khóc một cách bất lực khi cô dùng chính chiếc quần của gã để trói tay gã lại, sau đó đẩy hai tay gã lên đầu để tôi có thể quỳ trên quần áo giữa họ và giữ chúng ở đó. Cô cuộn chiếc áo gã lại và đưa cho gã cắn lấy.
Và cô mổ gã ta ra.
Cơ thể gã co giật với vết cắt đầu tiên. Gã xém nữa giật mình ra khỏi tôi. Thứ âm thanh gã ta phát ra… tôi chưa từng nghe âm thanh nào như vậy phát ra từ một thứ có liên hệ với con người… T’Gatoi có vẻ chẳng mảy may đến khi cô kéo dài vết cắt và cắt sâu hơn, thỉnh thoảng dừng lại để liếm bớt máu đi. Các mạch máu của gã co lại, phản ứng hóa học với nước bọt của cô, và máu ở vết cắt dần chảy chậm lại.
Cảm giác như tôi đang giúp cô ấy tra tấn gã, giúp cô ăn thịt gã. Tôi biết tôi rất buồn nôn, nhưng chẳng hiểu sao vẫn chưa nôn nổi. Tôi chẳng thể nào trụ đến khi cô làm xong việc được.
Cô tìm thấy con trùng đầu tiên. Nó mập và đỏ tươi màu máu của gã—cả trong lẫn ngoài. Nó đã ăn mất vỏ trứng của chính mình nhưng hình như vẫn chưa bắt đầu ăn vật chủ của nó. Ở giai đoạn này, nó sẽ ăn bất cứ thứ gì trừ thịt mẹ mình. Nếu để yên, nó sẽ tiếp tục tiết ra những chất độc đồng thời gây hại và cảnh báo Lomas. Rốt cuộc thì nó cũng bắt đầu ăn. Khi mà nó đã ăn ra ngoài cơ thể Lomas, gã sẽ chết hoặc hấp hối—và không còn có thể trả thù thứ đã giết dần gã ta. Vẫn luôn có một giai đoạn gia hạn giữa lúc vật chủ bị gây bệnh đến khi những con trùng bắt đầu ăn gã.
T’Gatoi cẩn thận nhặt con trùng đang quằn quại lên và nhìn nó, thế nào đó mặc kệ tiếng rên rỉ khủng khiếp của gã kia.
Đột ngột, gã ta bất tỉnh.
“Tốt rồi,” T’Gatoi nhìn xuống gã. “Cô ước giá mà Người Trái Đất các cháu có thể tự mình làm việc ấy.” Cô chẳng cảm thấy gì. Và cả thứ cô đang cầm...
Ở giai đoạn này nó không hề có chi hay xương, có lẽ dài khoảng mười lăm và dày hai centimet, mù lòa và nhầy nhụa máu. Nó trông như một con sâu lớn. T’Gatoi đặt nó lên bụng con achti, và nó bắt đầu đào vào ngay tức khắc. Nó sẽ ở trong đó và ăn đến khi nào chẳng còn gì nữa.
Kiểm tra trong thịt Lomas, cô ấy tìm được hai con nữa, một con nhỏ và khỏe hơn. “Một con đực!” cô mừng rỡ. Nó sẽ chết trước cả tôi. Nó sẽ trải qua sự biến đổi và vặn phá mọi thứ kiềm giữ mình trước cả khi người chị em của nó có chi. Nó là con duy nhất cố cắn T’Gatoi khi cô đặt nó vào con achti. 
Mấy con trùng nhợt nhạt dần lộ ra trong thịt Lomas. Tôi nhắm mắt lại. Còn tệ hơn là thấy xác chết đang thối rửa, nhúc nhích đầy mấy con giòi nhỏ. Và điều ấy còn tệ hơn xa cả bức vẽ hay sơ đồ nào.
“À, còn nữa này,” T’Gatoi nói, quắp ra hai con dài và mập. Cháu có lẽ phải giết con khác nữa Gan à. Mọi thứ thứ tồn tại bên trong Người Trái Đất các cháu.”
Người ta nói với tôi trong suốt cả đời rằng có một việc là tốt và cần thiết mà Tlic và Người Trái Đất cùng làm—một kiểu sinh sản. Tôi đã luôn tin điều ấy đến tận bây giờ. Tôi biết sinh sản rất đau đớn và máu me, dù sao đi nữa. Nhưng đây là thứ gì đó khác, thứ gì đó tệ hơn. Và tôi chưa sẵn sàng để thấy nó. Có lẽ chẳng bao giờ. Dù vậy thì tôi không thể không thấy được. Nhắm mắt lại không giúp gì cả. 
T’Gatoi đã tìm ra một con trùng vẫn còn ăn vỏ trứng của nó. Phần còn lại của cái vỏ đó vẫn được nối vào mạch máu bằng cái ống hay cái móc nhỏ gì đó. Đó là cách mấy con trùng được giữ lại và cách mà chúng ăn. Chúng chỉ hút máu đến khi sẵn sàng ra ngoài. Sau đó chúng ăn cái vỏ trứng căng, mềm dẻo của mình. Rồi lại ăn luôn vật chủ.
T’Gatoi cắn sạch vỏ trứng, liếm lấy máu. Liệu cô ấy có ưa cái vị đó không? Liệu những thói quen thuở nhỏ khó mất đi được—hay thậm chí là không thể mất đi. 
Toàn bộ quá trình thật sai lầm, xa lạ. Tôi còn chẳng nghĩ là cô ấy sẽ có thể trông xa lạ đối với tôi.
“Một đứa nữa, cô nghĩ vậy,” cô nói. “Có lẽ hai. Một gia đình tốt. Những ngày này, chỉ cần được thấy một hay hai đứa còn sống trong vật chủ là bọn cô vui rồi.” Cô liếc nhìn tôi. “Ra ngoài đi, Gan, nôn cho hết mọi thứ trong dạ dày của cháu. Đi đi trong khi gã ta đang bất tỉnh.”
Tôi lảo đảo ra ngoài, chỉ đủ sức làm vậy. Đến dưới cái cây ngay trước cửa, tôi nôn đến khi chẳng còn gì để nôn nữa. Cuối cùng, tôi loạng choạng đứng dậy, mặt đầm đìa nước mắt. Tôi không biết sao mình lại khóc, nhưng không dừng lại được. Tôi đi xa khỏi nhà để tránh bị bắt gặp. Mỗi lần nhắm mắt lại tôi thấy những con trùng đỏ trườn trên thịt người còn đỏ hơn. 
Có một chiếc xe hơi lại gần nhà. Bởi vì Người Trái Đất bị cấm dùng phương tiện giao thông trừ nông cụ, tôi nhận ra đây chắc chắn là Tlic của Lomas đi cùng Qui và có lẽ một bác sĩ Trái Đất. Tôi chùi mặt vào áo, vùng vẫy để kiểm soát lại cả người.
“Gan ��i,” Qui gọi khi chiếc xe dừng lại. “Có chuyện gì vậy?” Anh bò ra khỏi cái cửa xe thấp, tròn, tiện lợi của người Tlic. Một Người Trái Đất bò ra ở bên kia và đi vào nhà mà chẳng nói chẳng rằng. Bác sĩ. Với sự giúp đỡ của ông và vài quả trứng, Lomas sẽ sống thôi.
“T’Khotgif Teh phải không?” tôi hỏi.
Người tài xế Tlic đi ra khỏi xe, rướn nửa người lại trước tôi. Cô ta nhợt nhạt và nhỏ người hơn T’Gatoi—chắc là do sinh ra từ cơ thể của một con vật. Tlic sinh ra từ Người Trái Đất luôn lớn hơn cũng như nhiều hơn.
“Sáu đứa,” tôi bảo cô ta. “Có thể là bảy, đều còn sống. Ít nhất có một đứa đực.”
“Lomas thì sao?” cô ta gắt lên. Tôi thích cô vì câu hỏi ấy và sự quan tâm trong chất giọng khi cô ta hỏi nó. Điều mạch lạc cuối cùng gã kia nói là tên cô ta.
“Còn sống,” tôi nói.
Cô ta lướt tới căn nhà mà chẳng nói gì thêm.
“Cô ta bị ốm,” anh tôi bảo, nhìn cô ta đi. “Khi anh gọi, anh nghe được người ta nói với cô ta rằng cô ta thậm chí còn không đủ khỏe để ra ngoài kể cả vì chuyện này.
Tôi chẳng nói gì. Tôi đã  tỏ ra lịch sự với cô Tlic đó. Giờ thì tôi không muốn nói gì với ai cả. Hi vọng anh ấy sẽ vào trong—bởi sự tò mò nếu không phải vì điều gì khác.
“Cuối cùng cũng biết nhiều hơn mình muốn hả?”
Tôi nhìn anh.
“Đừng nhìn anh như cách cô ta nhìn,” anh nói. “Em không phải cô ấy. Em chỉ là tài sản của cô mà thôi.”
Cái nhìn của cô ta. Tôi đã có khả năng bắt chước biểu cảm của cô rồi sao?
“Em đã làm gì vậy, nôn hả?” Anh hít hít. “Vậy giờ biết mình sắp sửa trải qua cái gì rồi à.”
Tôi đi xa khỏi anh ta. Anh và tôi đã từng rất thân khi còn nhỏ. Anh để tôi lẽo đẽo theo anh khi ở nhà, và đôi khi T’Gatoi cho tôi đưa anh ấy theo khi vào thành phố. Nhưng điều gì đó đã xảy ra khi anh bước vào tuổi dậy thì. Tôi không bao giờ biết được. Anh bắt đầu tránh xa T’Gatoi. Rồi anh bắt đầu chạy khỏi— đến khi anh nhận ra không có “khỏi” gì cả. Không phải ở trong Khu Bảo Tồn này. Chắc chắn không phải ơ bên ngoài. Sau đó anh tập trung vào việc nhận lấy phần được chia của mọi quả trứng được đưa vào nhà và vào việc bảo vệ tôi theo cái cách mà làm tôi rất ghét anh ấy—cái cách mà nó rõ ra là, chỉ khi tôi không sao, anh ấy mới an toàn khỏi người Tlic.
“Như nào vậy, thật đó?” anh nài nỉ, đi theo tôi.
“Em giết một con achti. Mấy con kia ăn nó rồi.”
“Em không chạy ra khỏi nhà và nôn mửa chỉ vì chúng ăn một ăn một con achti đâu.”
“Em… chưa từng thấy người ta bị cắt mở ra trước kia.” Thật vậy, và đủ để anh hiểu. Tôi không thể nói về mấy thứ khác. Không phải với anh ấy.
“Ồ,” anh nói. Liếc nhìn tôi như muốn nói nữa, nhưng rồi im lặng. 
Chúng tôi đi, không thực sự tới đâu cả. Ra sau nhà, tới chỗ mấy cái lồng, lại ra vườn.
“Gã có nói gì không?” Qui hỏi. “Ý anh là  Lomas ấy.”
Anh còn có ý hỏi ai khác chứ? “Gã nói ‘T’Khotgif.’”
Qui rùng mình. “Nếu ả ta làm điều đó với anh, ả sẽ là người cuối cùng anh nhớ đến.”
“Anh sẽ gọi cô ấy mà thôi. Cú chích của cô ấy sẽ làm anh đỡ đau mà không giết mất mấy con trùng bên trong.”
“Em nghĩ anh sẽ quan tâm nếu tụi nó chết sao?”
Không. Chắc chắn anh sẽ không. Còn tôi thì sao?
“Khỉ thật!” Anh thở dài. “Anh đã thấy chúng làm những gì. Em nghĩ chuyện xảy ra với Lomas là tệ sao? Nó chẳng là gì cả.”
Tôi không cãi lại. Anh ấy không biết mình đang nói gì nữa.
“Anh đã thấy chúng ăn một người đàn ông,” anh nói
Tôi quay lại nhìn anh ấy. “Nói xạo!”
“Anh đã thấy chúng ăn một người đàn ông.” Anh dừng lại. “Khi anh còn nhỏ. Anh đã tới nhà Hartmund và anh đang trên đường về. Giữa đường, anh thấy một người đàn ông và một Tlic và người đàn ông đó là N’Tlic. Đất ở đó gập ghềnh. Anh có thể trốn và quan sát. Người Tlic không mở người đàn ông ra vì ả không có gì cho bọn trùng ăn. Người đàn ông không thể đi tiếp và không có căn nhà nào ở gần. Anh ta rất đau đớn, bảo ả ta giết anh ta đi. Anh ta cầu xin ả giết mình. Cuối cùng, ả giết anh ta. Ả cắt ngang yết hầu anh ta. Một cú vung móng. Anh thấy bọn trùng ăn ra ngoài, rồi lại chui vào, ăn tiếp.”
Những lời anh ấy nói làm tôi nhớ lại mớ thịt của Lomas, đầy ký sinh trùng, bò lúc nhúc. “Sao anh chẳng chịu kể cho em?” tôi thì thầm.
Anh có vẻ giật mình như thể quên rằng tôi đang lắng nghe. “Anh không biết nữa.”
“Anh bắt đầu bỏ chạy không lâu sau đó, phải không?”
“Ừ. Ngốc thật. Bỏ chạy bên trong Khu Bảo Tồn. Bỏ chạy bên trong một chiếc lồng.”
Tôi lắc đầu, nói ra những gì tôi lẽ ra phải nói với anh lâu rồi. “Cô ấy sẽ không bắt anh đâu, Qui. Đừng lo.”
“Cô ta sẽ làm vậy… nếu em có mệnh hệ gì.”
“Không. Cô ấy sẽ bắt Xuan Hoa. Hoa … muốn điều đó.” Chị ấy sẽ không muốn đâu nếu chị ở lại xem Lomas.
“Họ không bắt phụ nữ,” anh nói với vẻ khinh miệt.
“Đôi khi cũng có.” Tôi liếc nhìn anh. “Thực ra, họ ưa phụ nữ hơn. Anh nên ở gần họ khi họ nói chuyện với nhau. Họ nó phụ nữ có nhiều chất béo hơn để bảo vệ bọn trùng. Nhưng họ thường bắt đàn ông để phụ nữ có thể thoải máu sinh con của họ.”
“Để tạo ra thế hệ vật chủ kế tiếp,” anh nói, chuyển từ vẻ khinh miệt sang cay đắng.
“Chuyện không chỉ có thế!” Tôi bác lại. Phải chăng
“Nếu điều ấy xảy ra với anh, anh cũng muốn tin rằng nó không chỉ có thế.”
“Hơn thật đấy!” Tôi giống như một đứa con nít. Ngu ngốc tranh cãi.
“Em có nghĩ vậy khi T’Gatoi bắt mấy con trùng khỏi ruột gã đó không?”
“Đáng ra không như vậy đâu.”
“Chắc rồi. Đáng ra em không nên thấy điều đó, chỉ có vậy. Và Tlic của gã ta đáng ra phải làm điều đó. Cô ta có thể chích cho gã bất tỉnh và ca phẫu thuật sẽ không đau đớn mấy. Nhưng cô ta vẫn mở anh ta ra, bắt mấy con trùng, và nếu để sót dù chỉ một con, nó sẽ đầu độc và ăn gã ta từ trong ra ngoài.”
Đã có lúc mẹ bảo tôi phải tôn trọng Qui vì anh là anh lớn. Tôi bỏ đi, ghét bỏ anh ấy. Theo cách của anh, anh đang hả hê. Anh an toàn và tôi thì không. Tôi đã có thể đánh anh ấy, nhưng tôi không nghĩ là tôi có thể chịu được khi anh từ chối đánh trả, khi anh nhìn tôi với vẻ xem thường và thương hại.
Anh sẽ không để tôi đi khỏi. Sải chân dài hơn, anh vượt ra trước tôi và làm tôi có cảm giác mình đang đi theo anh ấy. 
“Anh xin lỗi,” anh nói.
Tôi bước tiếp, khó chịu và tức giận.
“Xem kìa, chắc là sẽ không tệ như vậy với em đâu. T’Gatoi thích em. Cô ấy sẽ cẩn thận mà.”
Tôi quay lại phía nhà, gần như chạy khỏi anh.
“Cô ta đã làm điều ấy với em chưa?” anh hỏi, dễ dàng đuổi kịp. “Ý anh là, em đ�� ở độ tuổi phù hợp để cấy trứng. Cô ta đã—”
Tôi đánh anh ấy. Tôi không hề biết tôi sẽ làm việc đó, nhưng tôi nghĩ tôi muốn giết anh ta. Nếu anh không lớn và mạnh hơn, tôi nghĩ tôi đã làm rồi.
Anh cố giữ tôi lại, nhưng đến cuối cùng, anh cũng phải tự vệ. Anh chỉ đánh tôi một hai lần. Đã là nhiều rồi. Tôi nhớ là đã ngã, nhưng khi tỉnh lại, anh đã đi rồi. Đau đớn cũng đáng nếu tôi có thể thoát khỏi anh.
Tôi đứng dậy và chậm rãi đi về nhà. Phía sau nhà rất tối. Không ai ở trong bếp. Mẹ và các anh chị đang ngủ trong phòng của họ—hoặc đang giả vờ ngủ. 
Khi tôi ở trong bếp, tôi có thể nghe thấy tiếng nói—của Tlic và Người Trái Đất ở phòng bên. Tôi không rõ họ đang nói gì—cũng không muốn được rõ.
Tôi ngồi xuống bàn của mẹ tôi, chờ đợi trong im lặng. Chiếc bàn nhẵn nhụi và mòn, nặng và được chế tác tốt. Cha tôi đã làm nó cho bà trước khi ông qua đời. Tôi nhớ về việc mình loanh quanh dưới chân ông khi ông làm nó. Ông không quan tâm. Giờ tôi ngồi dựa vào nó, nhớ về ông. Tôi đã có thể nói chuyện với ông. Ông đã làm việc đó ba lần trong đời. Ba ổ trứng, ba lần bị mở ra và khâu lại. Ông đã trải qua điều đó thế nào? Mọi người đã trải qua như thế nào?
Tôi ngồi dậy, lấy cây súng trường từ chỗ cất, và lại ngồi xuống với nó. Nó cần được vệ sinh và tra dầu.
Mọi thứ tôi làm chỉ là lên đạn.
“Gan hả?”
Cô phát ra rất nhiều tiếng lách cách nhỏ khi đi trên sàn, từng cái chi liên tiếp tạo ra tiếng lách cách khi chạm đất. Từng đợt tiếng lách cách nhỏ.
Cô tới chỗ cái bàn, nâng nửa người trước của mình lên đó, và trườn lên nó. Đôi lúc cô chuyển động thật mượt mà như nước chảy. Cô ấy cuộn mình lại thành một khối nhỏ giữa bàn và nhìn tôi.
“Tệ thật đấy,” cô nhẹ nhàng nói. “Cháu không nên thấy điều đó. Vốn dĩ nó không cần phải như vậy.”
“Cháu biết.”
“T’Khotgif—giờ thì đã là Ch’Khotgif rồi—cô ấy sẽ chết vì căn bệnh. Cô ấy sẽ không thể sống để nuôi mấy đứa con mình. Nhưng chị của cô ấy sẽ lo cho chúng nó, và cho cả Bram Lomas.” Người chị vô sinh. Một người phụ nữ ngẫu nhiên sẽ có thể sinh sản. Một người để duy trì gia tộc. Người chị đó nợ Lomas nhiều hơn những gì cô ta có thể trả.
“Gã sẽ sống phải không?”
“Phải.”
“Cháu thắc mắc liệu gã sẽ lại làm việc đó lần nữa hay không.”
“Không ai yêu cầu gã làm lại cả.”
Tôi nhìn vào cặp mắt vàng, băn khoăn tôi thấy và hiểu được bao nhiêu thứ đó, và bao nhiêu là do tôi chỉ tưởng tượng. “Không ai từng hỏi chúng cháu,” tôi nó. “Cô chưa từng yêu cầu cháu.”
Cô khẽ di chuyển đầu. “Có chuyện gì với gương mặt cháu vậy?”
“Không. Không có gì quan trọng.” Mắt người chắc là không thể nhận ra chỗ sưng tấy trong bóng tối. Thứ ánh sáng duy nhất đến từ một trong các mặt trăng, chiếu xuyên qua cửa sổ vào căn phòng.
“Cháu đã dùng súng bắn con achti à?”
“Phải.”
“Và cháu định dùng nó bắn cô sao?”
Tôi nhìn cô chằm chặp, được viền bởi ánh trăng—cơ thể cô duyên dáng cuộn tròn. “Máu Người Trái Đất có vị gì với cô?”
Cô chẳng nói gì.
“Cô là gì?” Tôi thì thầm. “Chúng cháu là gì với bọn cô?”
Cô nằm yên, tựa đầu vào vòng đốt trên cùng. “Cháu hiểu cô hơn bất cứ ai,” cô nhẹ nhàng nói. “Cháu phải quyết định.” 
“Đó là chuyện xảy ra với mặt cháu đấy,” tôi nói với cô.
“Cái gì cơ?”
“Qui đã thúc ép tôi vào việc quyết định làm gì đó. Việc ấy diễn ra không tốt cho lắm.” Tôi chậm rãi di chuyển khẩu súng, đưa nòng súng lên xéo cằm mình. “Ít nhất đó cũng là quyết định của cháu.”
“Và chuyện này cũng vậy.”
“Hỏi cháu đi, Gatoi.”
“Vì sự sống của các con cô sao?”
Cô sẽ nói thứ gì đó như vậy. Cô ấy biết cách thao túng người ta, Người Trái Đất và cả người Tlic. Nhưng không phải lần này.
“Cháu không muốn trở thành vật chủ,” tôi nói. “Kể cả cho cô.”
Cô ấy mất rất lâu để trả lời. “Chúng ta hầu như không dùng động vật làm vật chủ ngày nay,” cô nói. “Cháu biết mà.” 
“Các cô lợi dụng chúng tôi.”
“Đúng. Chúng ta chờ các cháu nhiều năm dài và dạy dỗ các cháu, và hợp nhất gia đình chúng ta với các cháu. Cô cử động không ngừng. “Cháu biết các cháu không phải động vật với chúng ta.”
Tôi nhìn cô chằm chặp, chẳng nói gì.
“Những loài động vật chúng ta từng sử dụng đã bắt đầu giết gần hết trứng của chúng ta sau khi được cấy ghép, rất lâu trước khi tổ tiên của cháu xuất hiện,” cô nhẹ giọng. “Cháu biết những điều này mà, Gan. Bởi vì chủng tộc của cháu xuất hiện, chúng ta mới dần học lại được thế nào là một giống loài khỏe mạnh, thịnh vượng. Và tổ tiên của cháu, tr���n chạy khỏi quê hương của họ, khỏi chính những kẻ đồng loại giết chóc hay nô dịch họ—họ sống sót nhờ có chúng ta. Chúng ta xem họ như những con người và cho họ Khu Bảo Tồn trong khi họ vẫn cố giết chúng ta khi vẫn còn là những con ấu trùng.”
Khi nghe đến từ “ấu trùng”, tôi nhảy dậy. Tôi không thể chịu được, và cô ấy cũng không chịu được khi nhận ra điều đó.
“Cô hiểu rồi,” cô nhỏ giọng. “Cháu thực sự thà chết chứ không chịu sinh mấy đứa con của cô sao, Gan?”
Tôi không đáp.
“Cô có nên đổi sang Xuan Hoa?”
“Vâng!” Hoa muốn điều đó. Hãy để chị ấy nhận nó đi. Chị chưa từng nhìn thấy Lomas. Chị ấy sẽ thấy tự hào… Chứ không kinh sợ.
T’Gatoi trườn từ bàn xuống sàn nhà, làm tôi rất kinh ngạc.
“Cô sẽ ngủ trong phòng Hoa tối nay,” cô nói. “Và một lúc nào đó vào đêm nay hay sáng mai, cô sẽ nói với nó.”
Chuyện này xảy ra quá nhanh. Chị Hoa chăm sóc tôi gần như bằng với mẹ. Tôi vẫn thân với chị—không như Qui. Chị ấy có thể muốn T’Gatoi và vẫn yêu thương tôi.
“Chờ đã! Gatoi!”
Cô ấy nhìn lại, rồi nâng gần nửa chiều dài cơ thể khỏi sàn và quay lại nhìn tôi. “Đây là những thứ của người lớn, Gan à. Đây là cuộc sống của cô, gia đình của cô!”
“Nhưng chị ấy là… chị của cháu.”
“Cô đã làm như cháu yêu cầu. Cô đã hỏi cháu!”
“Nhưng—”
“Điều này sẽ dễ dàng hơn với Hoa. Nó luôn mong đợi được mang những sự sống khác trong mình.”
Sự sống con người cơ. Những đứa trẻ con người một ngày nào đó sẽ lớn lên bằng sữa từ bầu vú chị, không phải máu của chị
Tôi lắc đầu. “Đừng làm thế với chị ấy, Gatoi.” Cháu không phải Qui. Có lẽ là cháu có thể trở thành anh ấy, dù sao thì, cũng chẳng cần tí nỗ lực nào cả. Cháu có thể biến Xuan Hoa thành lá chắn cho mình. Liệu có dễ chịu hơn khi biết bọn trùng đỏ tươi đó sinh trưởng trong thịt của chị ấy thay vì cháu?
“Đừng làm vậy với Hoa,” tôi lặp lại.
Cô nhìn tôi, hoàn toàn tĩnh lặng.
Tôi nhìn đi nơi khác, rồi quay lại nhìn cô ấy. “Hãy làm với cháu đi.”
Tôi hạ khẩu súng khỏi cổ họng và cô ấy tiến tới để lấy nó.
“Không,” tôi nói với cô.
“Đó là luật,” cô nói.
“Hãy để nó lại cho cả nhà. Một trong số họ có lẽ sẽ dùng nó để cứu mạng cháu một ngày nào đó.”
Cô nắm chặt nòng súng, nhưng tôi vẫn không thả ra. Tôi bị kéo vào một vị trí đứng trên cô ấy.
“Để nó lại đây!” Tôi lặp lại. “Nếu chúng cháu không phải những con thú vật của các cô, nếu đây là những thứ dành cho người lớn, chấp nhận rủi ro đi. Sẽ có rủi ro, Gatoi à, khi đối phó với một cộng sự.”
Rõ ràng là rất khó để cô ấy buông khẩu súng ra. Một cơn rùng mình xuyên qua cô và cô phát ra một tiếng rít đau khổ. Tôi chợt nhận ra rằng cô ấy đang sợ. Cô đủ già dặn để biết súng ống có thể làm gì người ta. Giờ thì bọn trẻ của cô và khẩu súng này sẽ ở chung một nhà. Cô không hề biết về những khẩu khác. Trong cuộc tranh giành này, chúng không quan trọng.
“Cô sẽ cấy quả trứng đầu tiên tối nay,” cô nói khi tôi vứt khẩu súng đi. “Cháu có nghe không, Gan?”
Còn lý do gì khác khiến tôi được cho nguyên quả trứng để ăn trong khi cả nhà phải chia nhau quả còn lại? Còn lý do gì khác để mẹ tôi cứ nhìn tôi như thể tôi sắp rời xa khỏi bà, đến nơi nào đó bà không thể theo được? Liệu T’Gatoi có tưởng rằng tôi chưa hề biết hay không?
“Cháu nghe rồi.”
“Ngay bây giờ!” Tôi để cô đưa tôi ra khỏi bếp, rồi đi thẳng đến phòng ngủ của tôi. Sự thôi thúc đột ngột trong giọng cô ấy nghe rất thật. “Cô sẽ làm điều đó với Hoa tối nay sao!” Tôi buộc tội.
“Cô phải làm với ai đó đêm nay.”
Tôi dừng lại bất chấp sự thôi thúc của cô và đứng chặn đường cô ấy. “Cô không quan tâm là ai sao?”
Cô trườn quanh tôi và vào trong phòng ngủ của tôi. Tôi thấy cô đang đợi trên chiếc giường chúng tôi chia sẻ với nhau. Không thứ gì trong phòng Hoa mà cô có thể sử dụng. Cô sẽ làm điều đó với Hoa trên sàn. Ý nghĩ về việc cô làm điều ấy với Hoa đã làm tôi rối loạn theo một cách khác lúc này, và tôi đột nhiên tức giận.
Nhưng rồi tôi cởi đồ và nằm xuống cạnh cô. Tôi biết phải làm gì, phải mong đợi gì. Tôi đã được bảo trong suốt cả đời mình. Tôi cảm nhận được cú chích quen thuộc, mê man, nhẹ nhàng dễ chịu. Sau đó là sự thăm dò mù quáng của cơ quan đẻ trứng của cô ấy. Vết thủng không đau, dễ chịu. Thật dễ đi vào. Cô ấy uốn éo cơ thể với tôi, các cơ của cô ấy ép quả trứng từ cơ thể cô vào tôi. Tôi giữ vào một đôi chi của cô ấy đến khi nhớ ra rằng Lomas cũng giữ như vậy. Rồi tôi buông ra, vô tình cử động, và tổn thương cô ấy. Cô kêu một tiếng đau nhỏ và tôi thì mong được lồng lại bên trong các chi của cô. Khi tôi không được, tôi lại bám vào cô ấy, cảm thấy xấu hổ một cách kỳ quặc.
“Cháu xin lỗi,” tôi thì thầm.
Cô xoa bóp vai tôi bằng bốn cái chi.
“Cô có quan tâm không?” Tôi hỏi. “Cô có quan tâm rằng người đó là cháu không?”
Cô không trả lời một lúc. Cuối cùng đáp, “Cháu là người đưa ra lựa chọn tối nay, Gan à. Cô đã có quyết định của mình lâu rồi.”
“Cô sẽ tới chỗ Hoa sao?”
“Phải. Sao cô có thể đưa con mình vào tay người ghét bỏ chúng?”
“Đó không phải là… ghét bỏ.”
“Cô biết đó là gì mà.”
“Đó là nỗi sợ.”
Một sự im lặng.
“Cháu vẫn còn sợ.” Tôi đã có thể thú nhận với cô ở tại đây, lúc này.
“Nhưng cháu đã đến với cô… để cứu Hoa.”
“Phải.” Tôi dựa trán vào cô ấy. Cô như một tấm lụa lạnh, thật mềm mại. “Và để giữ cô cho mình,” tôi nói. Đúng như vậy. Tôi không thể hiểu nổi điều đó, nhưng nó là vậy.
Tôi khẽ nói một tiếng đầy mãn nguyện. “Cô không thể tin là mình đã sai lầm về cháu,” cô nói. “Cô đã chọn cháu. Cô tin rằng cháu rồi sẽ chọn cô.”
“Cháu đã chọn cô, nhưng mà…”
“Lomas lại xuất hiện.”
“Phải.”
“Cô chưa từng biết Người Trái Đất nào nhìn một ca sinh nở và chấp nhận được nó. Qui đã thấy một ca rồi, đúng chứ?”
“Đúng.”
“Người Trái Đất nên được bảo vệ khỏi việc nhìn thấy.”
Tôi không thích giọng điệu đó—và tôi nghi ngờ rằng điều đó là có thể. “Không cần bảo vệ,” tôi nói. “Được thấy. Được thấy khi chúng cháu là những đứa trẻ, và được thấy hơn một lần. Gatoi à, không Người Trái Đất nào từng thấy một cuộc sinh nở diễn ra đúng đắn. Tất cả những gì chúng cháu thấy là N’Tlic—đau đớn và sợ hãi và có thể chết.”
Cô nhìn xuống tôi. “Đó là một việc riêng tư. Đó vẫn luôn là một việc riêng tư.”
Giọng điệu của cô ấy khiến tôi không thể tiếp tục—điều đó và biết rằng nếu cô thay đổi quyết định, tôi có thể trở thành ví dụ công khai đầu tiên. Nhưng tôi đã gieo được điều đó vào suy nghĩ của cô ấy. Có cơ hội là điều ấy sẽ phát triển, và cuối cùng thì cô ấy sẽ tiến hành thử nghiệm.
“Cháu sẽ không nhìn thấy chuyện đó nữa,” cô nói. “Cô không muốn cháu nghĩ thêm về việc bắn cô.”
Một lượng chất lỏng nhỏ chảy vào tôi cùng với trứng của cô ấy làm tôi thư giãn giống như quả trứng vô noãn kia tôi từng ăn vậy, để cho tôi có thể nhớ lại khẩu súng trường trên tay mình và cảm giác sợ hãi cùng ghê tởm, tức giận và tuyệt vọng. Tôi có thể nhớ lại những cảm giác ấy mà không làm chúng trỗi dậy. Tôi có thể nói về chúng.
“Cháu sẽ không bắn cô,” tôi nói. “Không phải cô.” Cô được sinh ra từ máu thịt của cha tôi khi ông ở tuổi tôi bây giờ.
“Cháu đã có thể bắn,” cô ấy khăng khăng.
“Không phải cô.” Cô đã đứng giữa tôi và giống loài của chính cô, bảo vệ, kết nối. 
“Liệu cháu có tự tổn hại chính mình không?”
Tôi cẩn thận di chuyển đầy khó chịu. “Cháu có thể đã làm điều đó. Gần như vậy. Đó là ‘sự tránh né’ của Qui. Cháu thắc mắc liệu anh ấy có biết không.”
“Gì cơ?”
Tôi không đáp.
‘Giờ cháu sẽ sống thôi.”
“Phải.” Hãy chăm sóc cô ấy, mẹ tôi từng nói vậy. Phải.
“Cô vẫn còn trẻ và khỏe mà,” cô ấy nói. “Cô sẽ không bỏ cháu như cách Lomas đã bị bỏ rơi—như một N’Tlic cô độc. Cô sẽ chăm sóc cho cháu mà.”
Hết
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Lời kết
Thật kinh ngạc khi vài người coi “Đứa con máu mủ” là một câu chuyện về sự nô dịch. Nó không phải vậy. Thay vào đó, câu chuyện này là một vài điều khác. Ở một mức độ, nó là câu chuyện tình yêu giữa hai sinh vật rất khác biệt. Ở mức khác, nó là câu chuyện về sự trưởng thành khi mà một cậu con trai phải chấp nhận thông tin không hay và dùng nó để ra một quyết định mà sẽ ảnh hưởng đến quãng đời còn lại của anh ta.
Ở mức độ thứ ba, “Đứa con máu mủ” là câu chuyện về việc đàn ông có thai. Tôi đã luôn muốn khám phá xem sẽ như thế nào đối với một người đàn ông khi bị đưa vào hoàn cảnh khác thường nhất. Có phải tôi đã có thể viết một câu chuyện trong đó một người đàn ông chọn mang thai không phải qua vài thứ cạnh tranh không đúng chỗ để chứng minh là đàn ông có thể làm bất cứ thứ gì phụ nữ có thể, không phải vì anh ta bị ép buộc, cả không phải vì quá tò mò? Tôi muốn thấy liệu tôi có thể viết một câu chuyện gay cấn về một người đàn ông mang thai như một hành động của tình yêu—chọn việc có thai mặc dù, và bắt nguồn từ, những khó khăn xung quanh.
Ngoài ra, “Đứa con máu mủ” là nỗ lực để xóa nhòa một nỗi sợ cũ của tôi. Tôi đã dự định du lịch đến Peruvian Amazon để thực hiện nghiên cứu cho cuốn sách di truyền của tôi (Dawn, Adulthood Rites, and Imago), và tôi đã lo lắng về những phản ứng có thể xảy ra của tôi đối với một vài cuộc sống của côn trùng trong khu vực. Đặc biệt, tôi lo lắng về con botfly - một loài côn trùng mà, với tôi khi đó, có những thói quen kinh dị. Không thiếu những con botfly ở một phần của Peru mà tôi dự định đến thăm.
Con botfly đẻ trứng trong những vết thương do vết cắn của các loài côn trùng khác. Tôi thấy ý tưởng về một con giòi sống và phát triển dưới da của tôi, ăn thịt của tôi khi nó lớn lên là không thể chịu đựng được, đáng sợ đến nỗi tôi không biết làm thế nào tôi có thể chịu đựng được nếu nó xảy ra với tôi. Để làm cho vấn đề tệ hơn, tất cả những gì tôi nghe và đọc khuyên các nạn nhân của con botfly không nên cố gắng loại bỏ những hành khách giòi của họ cho đến khi họ trở về nhà ở Hoa Kỳ và có thể đi đến bác sĩ— hoặc cho đến khi con ruồi kết thúc quá trình ấu trùng của chu kỳ sinh trưởng của nó, bò ra khỏi vật chủ, và bay đi.
Vấn đề là làm những gì có vẻ là điều bình thường, bắt con giòi ra và vứt nó đi, là mời gọi sự nhiễm trùng. Giòi trở nên gắn liền theo nghĩa đen với vật chủ của nó và để lại một phần của chính nó, bị phá hủy, nếu nó bị ép hoặc cắt ra. Tất nhiên, phần bị bỏ lại chết và thối rữa, gây nhiễm trùng. Dễ thương thật.
Khi tôi phải đối phó với một cái gì đó làm tôi sợ hãi nhiều như con botfly đã làm, tôi viết về nó. Tôi giải quyết các vấn đề của mình bằng cách viết về chúng. Trong một lớp học trung học vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, tôi nhớ đã lấy một cuốn sổ tay và bắt đầu viết phản ứng của tôi trước tin tức về vụ ám sát John Kennedy. Cho dù tôi viết các trang nhật ký, một bài tiểu luận, một câu chuyện ngắn, hoặc dệt các vấn đề của tôi thành một cuốn tiểu thuyết, tôi thấy việc viết lách giúp tôi vượt qua những rắc rối và tiếp tục cuộc sống của mình. Viết "Đứa con máu mủ" không làm cho tôi thích bọn botfly, nhưng trong một lúc, điều ấy làm cho chúng có vẻ thú vị hơn là kinh khủng.
Có một điều nữa tôi đã cố gắng làm trong “Đứa con máu mủ.” Tôi đã cố gắng viết một câu chuyện về việc trả lại món nợ—một câu chuyện về một thuộc địa bị cô lập của con người trên một thế giới ngoài hệ mặt trời có người ở. Tốt nhất, họ sẽ cách xa quân tiếp viện cả một đời người. Nơi đó sẽ không phải là Đế quốc Anh trong không gian, và nó sẽ không phải là Star Trek. Sớm muộn gì, con người sẽ phải làm một số loại cộng sinh với ừm... vật chủ của họ. Rất có thể đây sẽ là một sự cộng sinh bất thường. Ai biết con người chúng ta có gì mà những người khác có thể sẵn sàng trao đổi cho một không gian đáng sống trên một thế giới không phải của chúng ta?
Hết
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Nhi
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Tác giả Octavia E. Butler (Ảnh: The Guardian)
Tumblr media
Google Doodle chúc mừng sinh nhật lần thứ 71 của Octavia Butler (22/06/2018)
Tumblr media
1 note · View note
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Sự thật của sự thật, sự thật của cảm giác
Tumblr media
Về tác giả
Ted Chiang (sinh năm 1967) là nhà văn khoa học viễn tưởng người Mỹ. Anh có bằng cử nhân ngành khoa học máy tính, và làm chuyên viên thiết lập tài liệu kỹ thuật song song với công việc viết văn. Các tác phẩm khoa học viễn tưởng của anh thường thiên về suy tưởng, khai thác những ảnh hưởng của khoa học lên đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ted Chiang sáng tác không nhiều - cho đến nay anh mới chỉ xuất bản hai tập truyện ngắn là Stories of Your Life and Others (2002) và Exhalation (2019) - nhưng hầu hết các tác phẩm của anh đều được đánh giá rất cao. Anh đã từng được trao tặng bốn giải Nebula, bốn giải Hugo, và bốn giải Locus. Truyện ngắn nổi tiếng nhất của anh, Chuyện đời con (tựa gốc: Story of Your Life) đã được Hollywood chuyển thể thành bộ phim Arrival năm 2016, đạt được nhiều thành công.
Về tác phẩm
Sự thật của sự thật, sự thật của cảm giác (tựa gốc: The Truth of Fact, the Truth of Feeling) là một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của Ted Chiang. Truyện được đăng tải lần đầu vào tháng 8/2013 trên tạp chí điện tử Subterranean, sau được in trong tuyển tập Exhalation.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi con gái Nicole của tôi còn nhỏ, tôi từng đọc một bài tiểu luận đề xuất rằng có lẽ không còn cần thiết phải dạy trẻ cách đọc hoặc viết, bởi công nghệ nhận diện và tổng hợp giọng nói sẽ sớm làm cho những khả năng đó trở nên thừa thãi. Tôi và vợ đã rất kinh hoàng với ý tưởng này, và chúng tôi kiên quyết rằng, dù công nghệ có trở nên tinh vi thế nào đi nữa, những kỹ năng của con gái chúng tôi vẫn sẽ luôn dựa trên nền tảng của việc học chữ truyền thống.
Hóa ra cả chúng tôi và người viết bài luận đó đều chỉ đúng một nửa: giờ đây con gái tôi đã lớn, Nicole vẫn có thể đọc tốt như tôi. Nhưng có cảm giác con bé đã mất khả năng viết. Con bé không đọc ra tin nhắn và yêu cầu một thư ký ảo đọc lại những gì con bé vừa nói, đúng theo cách mà người viết bài luận năm nào đã dự đoán; khi Nicole đọc nhẩm, màn hình võng mạc  sẽ hiển thị các từ ngữ trong phạm vi nhìn của con bé, và con bé kiểm tra lại bằng cách sử dụng kết hợp giữa cử chỉ và chuyển động mắt. Đối với tất cả các mục đích thực tế, con bé có thể viết. Nhưng nếu bỏ đi phần mềm hỗ trợ và chỉ đưa cho con bé một chiếc bàn phím giống cái mà tôi vẫn luôn trung thành sử dụng, con bé sẽ gặp khó khăn trong việc đánh vần nhiều từ trong chính câu này. Trong những hoàn cảnh cụ thể đó, tiếng Anh giống như ngôn ngữ thứ hai với con bé, thứ ngôn ngữ mà con bé có thể nói trôi chảy nhưng hầu như không thể viết.
Nghe có vẻ tôi đang thất vọng về những thành tích trí tuệ của Nicole, nhưng hoàn toàn không phải vậy. Con gái tôi thông minh và tận tâm với công việc ở bảo tàng nghệ thuật của mình trong khi con bé có thể kiếm nhiều tiền hơn ở những chỗ khác, và tôi luôn tự hào về những thành quả của con bé. Nhưng tôi không thể phủ nhận rằng tôi vẫn tiếp tục là tôi ở quá khứ, người đã luôn sợ con gái mình mất đi khả năng đánh vần.
Đã hơn hai mươi năm kể từ khi tôi đọc bài tiểu luận nọ, và trong khoảng thời gian đó, cuộc sống chúng tôi trải qua vô số thay đổi mà tôi không thể đoán trước được. Thay đổi lớn nhất là khi mẹ của Nicole, Angela, tuyên bố rằng Nicole xứng đáng một cuộc sống tốt hơn cuộc sống chúng tôi mang lại cho con bé, và dành thập kỷ tiếp theo đi du ngoạn khắp thế giới. Thế nhưng những thay đổi dẫn đến cách thức đọc viết hiện tại của Nicole thì bình thường và tuần tự hơn: một loạt các phần mềm cải tiến  không chỉ hứa hẹn, mà thực tế đã mang lại những tiện ích và thuận lợi, và tôi không phản đối bất kỳ ứng dụng nào vào thời điểm chúng được giới thiệu. 
Vì thế, tôi không có thói quen dự phần vào những tiên đoán bi quan mỗi khi có một sản phẩm mới được công bố; tôi đã chào đón các công nghệ mới một cách nhiệt tình như bao người khác. Nhưng khi Whetstone ra mắt công cụ tìm kiếm mới mang tên Remem, nó đã khiến tôi lo ngại theo một cách mà không một sản phẩm nào trước đó làm được.
Hàng triệu người, một số ở độ tuổi của tôi nhưng hầu hết là người trẻ hơn, đã giữ những lifelog suốt nhiều năm, đeo những máy quay cá nhân để liên tục thu lại các đoạn video về toàn bộ cuộc sống của họ. Người ta tìm đến các lifelog vì đủ loại lý do khác nhau—từ hồi tưởng những khoảnh khắc yêu thích đến tìm ra nguyên nhân của các phản ứng do dị ứng— nhưng những đoạn video này cũng chỉ ngắt quãng; không ai muốn dành tất cả thời gian của mình lập ra các truy vấn rồi sàng lọc kết quả. Lifelog chính là album ảnh hoàn chỉnh nhất có thể hình dung được, nhưng giống hầu hết các album ảnh, chúng chỉ nằm im trừ những dịp đặc biệt. Giờ đây Whetstone hướng đến mục tiêu thay đổi tất cả những điều đó; họ tuyên bố rằng các thuật toán của Remem có thể dò được toàn bộ đáy bể ngay khi bạn nói xong từ “cây kim”..
Remem theo dõi các cuộc trò chuyện của bạn để kết nối chúng với những sự kiện trong quá khứ, và sau đó trình chiếu video về sự kiện đó ở góc dưới bên trái tầm nhìn của bạn. Nếu bạn nói “nhớ điệu nhảy conga ở đám cưới đó chứ?”, Remem sẽ hiển thị video đó. Nếu người mà bạn đang nói chuyện bảo rằng “lần cuối chúng ta ở bãi biển này”, Remem cũng sẽ cho đoạn video về sự kiện đó xuất hiện. Và không chỉ được sử dụng khi nói chuyện với người khác, Remem còn theo dõi cả những lời bạn nhẩm trong đầu. Nếu bạn đang đọc nhẩm “nhà hàng Tứ Xuyên đầu tiền bạn tới ăn”, dây thanh quản của bạn sẽ di chuyển như thể là bạn đang đọc to những từ đó, và Remem sẽ trình chiếu đoạn video liên quan. 
Không thể phủ nhận sự hữu ích của một phần mềm thực sự có thể trả lời câu hỏi “mình để chìa khóa ở đâu nhỉ?” Nhưng Whetstone đang muốn đặt Remem ở địa vị còn cao hơn là một trợ lý ảo có ích: họ muốn nó thay thế trí nhớ tự nhiên của bạn.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Vào mùa hè năm Jijingi mười ba tuổi, một người châu Âu đến sống trong làng. Những cơn gió khô đầy bụi của sa mạc vừa bắt đầu thổi từ phía Bắc khi Sabe, vị trưởng lão vẫn được mọi gia đình ở trong làng coi là thủ lĩnh, đưa ra thông báo.
Tất nhiên, phản ứng ban đầu của mọi người là hoảng sợ. Bố của Jijingi hỏi Sabe: “Chúng ta đã làm gì sai?”
Người châu Âu lần đầu đến Tivland nhiều năm về trước, và khi ấy các già làng đã nói rằng một ngày họ sẽ rời đi và cuộc sống sẽ lại trở về như xưa, cho đến ngày đó thì người Tiv cần phải sống hòa hợp với họ. Điều này dẫn đến nhiều thay đổi trong đời sống của người Tiv, nhưng chưa có người châu Âu nào từng đến sống giữa cộng đồng người Tiv như vậy. Lý do phổ biến khiến người châu Âu đến ngôi làng này là để thu thuế cho những con đường mà họ xây; và họ đến thăm một số thị tộc thường xuyên hơn bởi những người này từ chối trả thuế, nhưng việc này lại không xảy ra ở gia tộc Shangev. Sabe và những bô lão khác trong thị tộc đồng ý rằng nộp thuế là chiến lược tốt nhất.
Sabe bảo mọi người rằng không cần lo lắng. “Người châu Âu này là một nhà truyền giáo, vì thế tất cả những gì ông ấy làm chỉ là cầu nguyện. Ông ấy không có quyền phạt chúng ta, nhưng việc ta chào đón ông ấy sẽ làm người trong chính quyền hài lòng.”
Ông ra lệnh xây hai túp lều cho nhà truyền giáo, một lều để ngủ và một lều để tiếp khách. Trong nhiều ngày sau đó, mọi người đều bớt chút thời gian nghỉ giữa vụ thu hoạch cây cao lương để giúp xếp gạch, cắm trụ xuống đất, dệt cỏ lợp mái nhà. Đến bước cuối cùng, khi đang đập sàn nhà, người truyền giáo đến. Những người khuân vác xuất hiện trước tiên’ những chiếc hộp mà họ mang theo có thể nhìn thấy từ xa khi họ đang len lỏi qua những cánh đồng sắn; nhà truyền giáo xuất hiện cuối cùng, có vẻ đã kiệt sức dù ông ấy chẳng mang thứ gì. Ông ấy tên là Moseby, và ông cảm ơn mọi người vì đã giúp xây dựng lều. Ông ấy cố gắng giúp đỡ, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng mình chẳng biết làm gì cả, nên cuối cùng ông chỉ ngồi dưới tán cây bồ kết và lau đầy bằng một mảnh vải.
Jijingi tò mò quan sát nhà truyền giáo. Người đàn ông mở một trong những hộp của mình và lấy ra một thứ gì đó thoạt nhìn như một khối gỗ, nhưng khi ông mở nó ra thì Jijingi nhận ra đó là một xấp giấy được buộc chặt. Jijingi đã thấy những tờ giấy này trước đây; khi người châu Âu thu thuế, họ đưa lại giấy tờ để ngôi làng có bằng chứng về những gì họ đã trả. Nhưng số giấy tờ mà nhà truyền giáo đang xem rõ ràng là một loại khác, và hẳn phải có mục đích khác.
Người đàn ông nhận thấy Jijingi đang nhìn mình, và mời cậu đến gần hơn. “Tên ta là Moseby”, ông ấy nói. “Thế cháu tên gì?”
“Cháu là Jijingi, con bố Orga của tộc Shangev”.
Moseby mở xấp giấy ra và chỉ vào nó. “Cháu đã nghe chuyện về Adam chưa?” ông hỏi. “Adam là người đầu tiên trên trái đất. Chúng ta đều là con cái của Adam”.
“Ở đây chúng cháu là hậu duệ của Shangev”. Jijingi trả lời. “Và tất cả mọi người ở Tivland đều là hậu duệ của Tiv.”
“Đúng thế, nhưng thủy tổ Tiv của cháu chính là hậu duệ của Adam, và tổ tiên của ta cũng vậy. Chúng ta đều là anh em. Cháu hiểu chứ?”
Nhà truyền giáo nói như thể lưỡi ông ta quá lớn so với miệng mình, nhưng Jijingi có thể hiểu được ông nói gì. “Vâng, cháu hiểu ạ”.
Moseby mỉm cười, và chỉ vào tờ giấy. “Những tài liệu này kể câu chuyện của Adam.”
“Làm sao mà giấy có thể kể chuyện được ạ?”
“Đó là một nghệ thuật mà người châu Âu chúng ta biết. Khi một người phát biểu, bọn ta sẽ ghi lại các ký hiệu lên giấy. Rồi sau đó khi người khác nhìn vào tờ giấy, anh ta sẽ nhìn những ký hiệu và biết được âm thanh mà người trước đó tạo ra. Bằng cách này, người sau có thể nghe được những gì người trước nói.
Jijingi nhớ lại điều cha cậu kể về Gbegba, người có kĩ năng sinh tồn giỏi nhất. “Nơi mà cha hoặc con không thấy gì ngoài bụi cỏ bị xáo trộn, ông ấy có thể nhìn ra một con báo đã giết một con chuột sậy tại chỗ đó và tha nó đi,” cha cậu nói.  Gbegba có thể nhìn xuống đất và biết chuyện gì đã xảy ra mặc dù lúc đó ông ấy không có mặt. Nghệ thuật của người châu Âu chắc hẳn cũng tương tự: những người khéo léo trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu có thể nghe được một câu chuyện ngay cả khi họ không ở đó khi câu chuyện đó được kể.
Jijingi nói: “Ông kể cho cháu nghe câu chuyện trên tờ giấy đó với ạ.”
Moseby kể cậu nghe câu chuyện về Adam và vợ bị lừa bởi một con rắn. Rồi ông ấy hỏi Jijingi: “Cháu thích câu chuyện đó chứ?”
“Ông đúng là một người kể chuyện kém cỏi, nhưng câu chuyện này cũng đủ thú vị ạ”
Moseby cười. “Cháu nói đúng, ta không giỏi tiếng Tiv. Nhưng đây là một câu chuyện hay. Nó là câu chuyện cổ nhất của chúng ta. Nó được kể lần đầu từ rất lâu rồi, trước cả khi thủy tổ Tiv của cháu ra đời.
Jijingi nghi ngờ: “Tờ giấy đó không thể cũ như vậy được.”
“Không, tờ giấy này thì không. Nhưng những ký hiệu trên đó được sao chép từ một tờ giấy cũ hơn. Và những ký hiệu ở tờ giấy cũ hơn đó lại được sao chép từ một tờ giấy cũ hơn nữa. Và cứ việc đó được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
Nếu đúng như vậy thì điều đó thực sự ấn tượng. Jijingi rất thích truyện, và những câu chuyện cũ thường hay nhất. “Ông có bao nhiêu câu chuyện thế ạ?”
“Rất nhiều.” Moseby lật qua các trang giấy, và Jijingi có thể thấy mỗi trang đều được bao phủ kín bởi những ký hiệu; chắc hẳn có rất nhiều câu chuyện ở đó.
“Nghệ thuật mà ông nói đến, diễn giải các ký hiệu trên giấy, cái đó chỉ dành cho người châu Âu thôi ạ?”
“Không, ta có thể dạy cháu. Cháu muốn thế không?”
Jijingi gật đầu một cách thận trọng.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Là một nhà báo, tôi từ lâu đã đánh giá cao sự hữu ích của việc làm lifelog để xác minh sự thật của vấn đề. Hiếm có một thủ tục pháp lý, hình sự hay dân sự nào mà không sử dụng đến lifelog của ai đó, và đúng thật như vậy. Khi quyền lợi của công chúng bị liên lụy, việc tìm ra điều gì đã thực sự xảy ra là rất quan trọng; công lý là một phần thiết yếu của khế ước xã hội, và bạn không thể có được công bằng cho đến khi bạn biết sự thật.
Tuy nhiên, tôi rất hoài nghi về công dụng của lifelog trong các hoàn cảnh cá nhân đơn thuần. Những ngày đầu khi lifelog mới trở nên phổ biến, có các cặp đôi nghĩ rằng họ có thể dùng nó để giải quyết tranh cãi, xem ai đã thực sự nói gì, sử dụng đoạn video được ghi lại để chứng minh họ đúng. Nhưng tìm được đoạn video phù hợp thường không dễ dàng, và tất cả ngoại trừ những người quyết tâm nhất đều phải bỏ cuộc. Sự bất tiện là một rào cản, hạn chế việc tìm kiếm các lifelog về phạm vi những tình huống mà ở đó nỗ lực được bảo đảm, cụ thể là những tình huống mà ở đó công lý là yếu tố thúc đẩy.
Giờ đây với Remem, việc tìm  ra khoảnh khắc chính xác trở nên dễ dàng, và lifelog trước đây gần như bị bỏ qua thì giờ lại đang được xem xét kỹ lưỡng như thể đó là hiện trường vụ án, với những bằng chứng dày đặc dùng để giải quyết các cuộc cãi vã trong gia đình.
Tôi thường viết bài cho mục tin tức, nhưng tôi cũng viết cả những bài “đinh”, và vì thế khi tôi trình bày ý tưởng bài báo về những nhược điểm tiềm ẩn của Remem cho biên tập viên quản lý của mình, anh ấy đã cho phép tôi viết bài đó. Buổi phỏng vấn đầu tiên là với một cặp vợ chồng mà tôi gọi là Joel và Deirdre, một kiến trúc sư và một họa sĩ. Không khó để gợi chuyện cho họ nói về Remem.
“Joel luôn miệng nói rằng anh ấy biết tất cả,” Deirdre nói, “ngay cả khi anh ấy không biết. Điều đó từng khiến tôi phát điên, vì tôi không thể khiến anh ấy thừa nhận mình đã từng tin vào thứ khác. Nhưng giờ tôi có thể. Chẳng hạn như gần đây chúng tôi đang nói về vụ bắt cóc của Mc Kittridge.”
Cô ấy gửi tôi đoạn video quay lại một cuộc tranh cãi giữa cô và Joel. Màn hình võng mạc của tôi hiển thị cảnh một bữa tiệc cocktail; nó được quay  từ điểm nhìn của Deirdre, và Jeol đang nói với một vài người, “Rõ ràng là hắn ta đã phạm tội từ ngày hắn bị bắt giữ.”
Deirdre nói: “Không phải lúc nào anh cũng nghĩ vậy. Nhiều tháng trời anh vẫn cãi là hắn vô tội kia mà.”
Joel lắc đầu. “Không, em đang nhớ nhầm rồi. Anh nói rằng kể cả những người rõ ràng có tội vẫn xứng đáng được xét xử công bằng.”
“Đó không phải là những gì anh nói. Anh bảo là hắn đang bị bỏ tù oan.”
“Em đang nhớ nhầm sang người khác rồi, anh không nói vậy.”
“Không, chính anh đã nói thế. Anh nhìn này.” Một cửa số video riêng biệt mở ra, đó là một trích đoạn trong lifelog mà cô ấy đã tìm kiếm và phát cho những người họ trò chuyện cùng. Trong đoạn video nhỏ đó, Joel và Deirdre đang ngồi trong một quán cà phê, và Joel nói, “Gã đó chỉ là con tốt thí thôi. Cảnh sát cần trấn an dư luận, nên họ bắt giữ một nghi phạm thuận tiện. Giờ thì gã xong đời rồi.” Deidre trả lời, “Anh không nghĩ rằng gã ta có cơ hội được tha bổng sao?”, và Joel đáp, “Chỉ khi gã có đủ khả năng thuê một đội ngũ bào chữa có địa vị, và anh cá là gã không thể làm vậy. Những người ở địa vị của gã sẽ không bao giờ được xét xử công bằng.”
Tôi đóng các cửa sổ lại, và Deirdre nói, “Không có Remem thì tôi đã chẳng bao giờ có thể thuyết phục anh ấy thay đổi quan điểm của mình. Giờ thì tôi có chứng cứ rồi.”
“Được thôi, lúc đó là em đúng,” Joel nói. “Nhưng em không cần phải làm thế trước mặt bạn bè chúng ta.”
“Anh lúc nào mà chẳng trách mắng em trước mặt bạn bè. Và giờ anh lại bảo em không được làm như vậy ư?”
Đây chính là ranh giới nơi việc theo đuổi sự thật không còn là một lợi ích thực chất. Khi chỉ những người có mối quan hệ cá nhân với nhau bị ảnh hưởng, những ưu tiên khác thường quan trọng hơn, và việc theo đuổi sự thật theo kiểu pháp lý có thể có hại. Ai đã lên ý tưởng cho một chuyến du lịch thảm hại, điều đó thực sự đáng bận tâm sao? Hay bạn có cần biết ai đãng trí hơn trong việc làm những thứ lặt vặt mà đối phương yêu cầu không? Tôi không phải là chuyên gia về hôn nhân, nhưng tôi biết các cố vấn hôn nhân từng nói: xác định xem lỗi thuộc về ai không phải là lời giải. Thay vì vậy, các cặp đôi cần thừa nhận ý kiến của nhau và giải quyết các vấn đề như một đội.
Tiếp đó tôi nói chuyện với một người phát ngôn đến từ Whetstone, Erica Meyers. Thoạt đầu cô trình bày cho tôi một bài chào hàng điển hình về những lợi ích của Remem. “Làm cho thông tin dễ tiếp cận hơn là một lợi ích thực chất,” cô nói. “Việc các video được sử dụng phổ biến đã cách mạng hóa việc tuân thủ luật pháp. Các doanh nghiệp trở nên hiệu quả hơn khi họ thực hiện những chính sách quản lý hồ sơ tốt. Điều tương tự cũng xảy ra với mỗi cá nhân chúng ta khi kí ức trở nên chính xác hơn: chúng ta trở nên dần trở nên tốt hơn, không chỉ khi làm việc, mà cả khi tận hưởng cuộc sống.”
Khi tôi hỏi Erica về những cặp đôi như Joel và Deirdre, cô ấy nói, “Nếu hôn nhân của anh bền vững, Remem sẽ không làm tổn hại đến nó. Nhưng nếu anh thuộc kiểu người luôn luôn cố gắng để chứng tỏ anh đúng và bạn đời của anh sai, thì cuộc hôn nhân của anh sẽ gặp rắc rối, cho dù anh có sử dụng Remem hay không.”
Tôi thừa nhận rằng cô ấy có thể nói có lý trong trường hợp cụ thể này. Tuy nhiên, tôi đã hỏi cô rằng, cô có nghĩ Remem tạo cơ hội tốt hơn cho những tranh cãi kiểu đó nảy sinh, kể cả là trong các cuộc hôn nhân vững chắc, bằng cách giúp người ta dễ dàng ghi điểm hơn không?
“Không hề,” cô ây nói. “Remem không tạo cho họ tâm lý phải ghi điểm; họ đã tự phát triển suy nghĩ đó. Một cặp vợ chồng khác có thể dễ dàng dùng Remem để nhận ra cả hai đều đã nhớ nhầm, và trở nên dễ dàng tha thứ hơn mỗi khi kiểu sai lầm đó lại xảy ra. Tôi dự đoán rằng nhìn chung thì viễn cảnh sau sẽ phổ biến hơn đối với khách hàng của chúng tôi.”
Tôi ước tôi có được một phần lạc quan của Erica Meyers, nhưng tôi biết công nghệ mới không phải lúc nào cũng mang lại điều tốt nhất cho con người. Ai mà không ước họ có thể chứng minh phiên bản quá khứ của mình là chính xác? Tôi có thể dễ dàng nhìn thấy bản thân khi dùng Remem giống cách của Deirdre, nhưng tôi không hoàn toàn chắc chắn làm như thế sẽ tốt cho tôi. Bất kỳ người nào từng lãng phí hàng giờ lướt internet đều biết rằng công nghệ có thể khuyến khích các thói quen xấu.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Moseby thuyết pháp bảy ngày một lần, vào ngày dành cho việc nghỉ ngơi, ủ rượu và uống bia. Ông có vẻ không tán thành việc uống bia, nhưng ông không muốn nói vào ngày làm việc, vì vậy chỉ còn mỗi ngày ủ bia. Ông kể về vị thần châu Âu, và nói với mọi người rằng tuân theo quy tắc của ngài sẽ cải thiện cuộc sống, nhưng lời giải thích của ông về cách để tuân theo quy luật thì không thực sự thuyết phục.
Thế nhưng Moseby cũng khá có kỹ năng trong việc phân phát thuốc, và ông sẵn sàng học cách làm việc trên những cánh đồng, nên dần dần mọi người chấp thuận ông, và cha Jijingi đã cho phép con mình thỉnh thoảng tới thăm Moseby để học nghệ thuật viết lách. Moseby cũng đề nghị dạy những đứa trẻ khác, và trong một thời gian những người bạn đồng trang lứa của Jijingi đã đến học cùng cậu, chủ yếu để chứng tỏ rằng chúng không sợ ở gần một người châu Âu. Không lâu sau, những cậu bé khác đã chán nản và bỏ đi, nhưng vì Jijingi vẫn hứng thú với việc viết lách, hơn nữa cha cậu nghĩ việc này sẽ làm những người châu Âu vui lòng, Jijingi cuối cùng cũng được cho phép đến học hàng ngày.
Moseby giảng giải cho Jijingi cách mỗi âm thanh một người nói ra có thể được biểu thị bằng các ký hiệu khác nhau trên giấy. Chúng được xếp thành hàng như cây trồng trên cánh đồng; ta nhìn vào những kí hiệu ấy như thể đang đi dọc một luống cây, tạo ra âm thanh mà mỗi kí hiệu biểu thị, và cháu sẽ thấy rằng mình đang nói lại những gì người ban đầu nói. Moseby chỉ cho Jijingi cách viết mỗi ký hiệu khác nhau trên giấy, dùng một cái que gỗ nhỏ có lõi là bồ hóng.
Vào một tiết học điển hình, Moseby sẽ nói, và rồi viết những gì ông đã nói: “Khi đêm đến, ta sẽ ngủ”. Tugh mba a ile yo me yav. “ Có hai người.” Ioruv mban mba uhar. Jijingi cẩn thận sao chép bài vào tờ giấy của mình, và khi cậu viết xong, Moseby sẽ nhìn vào tờ giấy.
“Tốt lắm. Nhưng cháu cần chừa ra những khoảng trống khi viết.”
“Cháu có ạ.” Jijingi chỉ vào khoảng cách giữa các dòng.
“ Không, ý ta không phải vậy. Cháu có thấy khoảng cách giữa các chữ trong mỗi dòng không?” Ông chỉ vào tờ giấy của mình.
Jijingi đã hiểu. “Những kí hiệu của ông bị dính vào nhau, trong khi của cháu thì được sắp xếp đồng đểu”. 
“Đây không chỉ là các kí hiệu bị dính vào nhau đâu. Chúng là… Ta không biết cháu gọi chúng là gì.” Ông lấy một xấp giấy mỏng từ bàn của mình và lướt qua chúng. “Ta không thấy nó ở đây. Ở chỗ của ta, bọn ta gọi đó là ‘từ’. Khi ta viết, phải có khoảng cách giữa các từ.
“Nhưng từ là gì vậy ạ?”
“Giải thích thế nào được nhỉ?” Nhà truyền giáo suy nghĩ một lúc. “ Nếu cháu nói chậm, cháu sẽ dừng lại một thoáng sau mỗi từ. Đó là lý do vì sao chúng ta phải để lại khoảng cách giữa mỗi từ khi viết. Như thế này: Cháu. Bao. Nhiêu. Tuổi. Rồi?” Ông ấy viết lên giấy khi ông nói, mỗi khi dừng lại thì để một khoảng trống: Anyom a ou kuma a me?
“Nhưng ông nói chậm vì ông là người nước ngoài. Cháu là người Tiv, nên cháu không dừng lại mỗi khi cháu nói. Không phải việc viết lách của cháu cũng nên như vậy sao?”
“Không quan trọng việc cháu nói nhanh thế nào. Các từ đều giống nhau bất kể cháu nói nhanh hay chậm.”
“Thế tại sao ông nói ông phải dừng lại sau mỗi từ?”
“Đó là cách dễ nhất để nhận ra được các từ. Hãy thử nói câu này chậm hơn xem.” Moseby chỉ vào câu ông vừa viết.
Jijingi nói rất chậm, như cách một người đàn ông có thể làm khi cố gắng che giấu cơn say của mình. “Tại sao lại không có khoảng trống giữa an và yom vậy ạ?”
“Anyom là một từ. Cháu không cần dừng lại giữa chừng.”
“Nhưng cháu cũng sẽ không dừng lại sau anyom đâu.”
Moseby thở dài. “Ta sẽ suy nghĩ kĩ hơn về cách giải thích ý ta định nói. Còn bây giờ, cháu chỉ cần cách ra ở những chỗ ta để lại chỗ trống thôi.”
Nghệ thuật viết lách thật là kỳ lạ. Khi gieo hạt trên ruộng, gieo hạt khoai mỡ đều nhau là tốt nhất; cha Jijingi sẽ đánh cậu nếu cậu gieo hạt dính vào nhau như  cách Moseby viết các kí hiệu trên giấy. Nhưng cậu ấy đã quyết tâm học môn nghệ thuật này giỏi nhất có thể, nên nếu phải viết những kí hiệu dính vào với nhau, cậu vẫn sẽ làm vậy
Sau nhiều buổi học Jijingi cuối cùng đã hiểu ra chỗ nào cậu nên cách ra, và ý nghĩa của chữ “từ” mà Moseby muốn nói đến. Ta không thể tìm thấy nơi bắt đầu và kết thúc của từ bằng việc nghe. Những âm thanh một người tạo ra khi nói liên tục và mượt mà như thể da dê vậy, nhưng những từ sẽ như bộ xương bên dưới lớp thịt, và khoảng cách giữa chúng chính là khớp nối nơi mà bạn có thể cắt ra khi bạn muốn tách thành miếng. Nên khi để lại những khoảng cách khi viết, Moseby đã làm hiển hiện ra bộ xương bên dưới câu từ mà ông nói ra.
Jijingi nhận ra rằng, nếu cậu suy nghĩ kỹ, giờ cậu đã có thể nhận biết những từ mọi người nói trong một cuộc trò chuyện bình thường. Những âm thanh phát ra từ miệng một người không thay đổi, nhưng cách hiểu của cậu về chúng đã khác; cậu nhận thức được rằng các mảnh ghép bên trong  một tổng thể hoàn chỉnh. Bản thân Jijingi cũng đã nói bằng các từ ngữ suốt bao năm qua. Chỉ là mãi tới bây giờ cậu mới nhận ra được điều đó.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Bản thân khả năng tìm kiếm dễ dàng mà Remem cung cấp cũng đã rất ấn tượng, nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ những gì Whetstone cho là tiềm năng của sản phẩm. Khi Deirdre kiểm tra sự thật về lời nói trước đây của chồng, cô đã đặt ra những truy vấn rõ ràng cho Remem. Thế nhưng Whetstone hi vọng rằng, khi mọi người quen dần với sản phẩm của họ, các truy vấn sẽ thay thế cho hoạt động hồi tưởng thông thường, và Remem sẽ được tích hợp vào quá trình suy nghĩ của họ. Một khi điều đó xảy ra, chúng ta sẽ thành các sinh vật cơ khí hóa có nhận thức, có trí nhớ hoàn hảo, video kỹ thuật số mà được lưu trữ trong silicon đã được dò và sửa lỗi sẽ đảm nhận vai trò sau khi được lấp đầy bởi thùy thái dương dễ vỡ của chúng ta.
Sẽ như thế nào khi có một trí nhớ siêu phàm? Người ta cho rằng người có trí nhớ tốt nhất  từng được ghi nhận là Solomon Shereshevskii, sống tại Nga vào nửa đầu thế kỷ 20. Những nhà tâm lý học từng kiểm tra ông nhận thấy rằng ông có thể nghe một dãy từ hoặc dãy số chỉ một lần và có thể nhớ chúng trong hàng tháng thậm chí hàng năm sau đó. Dù không biết tiếng Ý, Shereshevskii vẫn có thể trích dẫn nhiều khổ trong trường ca Thần khúc mà người khác đọc cho ông  nghe từ mười lăm năm trước. 
Tuy nhiên, việc có một trí nhớ tốt không phải là điều may mắn như mọi người vẫn tưởng tượng. Việc đọc một đoạn văn gợi lên nhiều hình ảnh trong tâm trí Shereshevskii đến nỗi ông thường không thể tập trung vào nội dung thực sự của nó, và việc ghi nhớ vô vàn ví dụ cụ thể khiến ông khó có thể hiểu được những khái niệm trừu tượng. Có những lúc, ông cố tình quên đi. Ông viết ra những con số mà mình không còn muốn nhớ ra giấy và sau đó đốt chúng, một kiểu “đốt rừng làm rẫy” để xóa sạch những thứ vớ vẩn trong đầu, nhưng cũng vô ích. 
Khi tôi nêu ra khả năng rằng một trí nhớ hoàn hảo có thể là điều bất lợi trước mặt người phát ngôn của Whetstone, Erica Meyers, cô ấy đã có sẵn câu trả lời. “Điều này không khác gì những lo ngại của mọi người trước đây về máy chiếu võng mạc,” cô nói. “Người ta lo rằng việc xem thông tin cập nhật liên tục sẽ gây mất tập trung hoặc choáng ngợp, nhưng tất cả chúng ta đều đã và đang thích nghi với chúng.”
Tôi không đề cập rằng không phải ai cũng coi đó là sự phát triển tích cực.
“Và Remem hoàn toàn có thể tùy chỉnh,” cô tiếp tục. “Nếu bất cứ lúc nào anh thấy ứng dụng này tìm kiếm quá mức so với nhu cầu của anh, anh có thể giảm mức độ phản hồi của nó. Nhưng theo bản phân tích khách hàng của chúng tôi, người dùng không làm như vậy. Khi họ trở nên thoải mái hơn với Remem, họ nhận thấy Remem phản hồi càng tốt thì nó càng hữu ích.”
Nhưng ngay cả nếu Remem nhét đầy tầm nhìn của bạn bằng hình ảnh quá khứ không mong muốn, tôi tự hỏi liệu các vấn đề có xuất hiện đơn giản bằng việc để hình ảnh đó trở nên hoàn hảo hay không.
“Tha thứ và quên đi” có một câu thành ngữ như vậy, và đối với bản ngã cao thượng được lý tưởng hóa của chúng ta, đó là tất cả những gì ta cần. Nhưng đối với con người thật của chúng ta, mối quan hệ giữa hai hành động đó không đơn giản như vậy. Trong hầu hết các trường hợp, chúng ta phải quên đi một chút trước khi có thể tha thứ; và khi ta không còn chịu nỗi đau chưa thể phai mờ thì sự xúc phạm sẽ dễ tha thứ hơn, vì thế làm cho nó trở nên ít đáng nhớ hơn, v.v. Chính vòng lặp phản hồi tâm lý này đã khiến cho sự xúc phạm gây tức giận ban đầu dường như có thể bỏ qua trong nhận thức muộn màng.
Điều tôi lo sợ là Remem sẽ làm cho vòng phản hồi này không thể tiếp tục. Bằng cách sửa từng chi tiết của một lời lăng mạ trong video không thể xóa được, nó có thể ngăn chặn sự nguôi ngoai cần thiết để sự tha thứ bắt đầu. Tôi nghĩ lại những gì Erica Meyers nói về việc Remem không có khả năng phá hỏng những cuộc hôn nhân bền vững. Ngụ ý trong lời xác nhận đó là sự khẳng định về những gì đủ điều kiện là một cuộc hôn nhân vững chắc. Nếu cuộc hôn nhân của ai đó được xây dựng dựa trên - nghe có vẻ mỉa mai - cơ sở của sự đãng trí, vậy Whetstone có quyền gì phá vỡ điều đó?
Vấn đề này không chỉ giới hạn trong hôn nhân, tất cả các mối quan hệ đều dựa trên tha thứ và quên đi. Con gái Nicole của tôi luôn cứng cỏi, bướng bỉnh khi còn nhỏ, công khai tỏ ra chống đối khi là thiếu niên. Giữa tôi và con bé xảy ra nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trong những năm tháng thiếu niên  của con bé, những cuộc tranh cãi mà chúng tôi hầu hết đã có thể quên đi, và giờ quan hệ của chúng tôi khá tốt. Nếu ngày đó chúng tôi có  Remem, liệu chúng tôi có còn nói chuyện với nhau hay không?
Tôi không có ý nói rằng quên đi là cách duy nhất để hàn gắn các mối quan hệ. Mặc dù tôi không còn có thể nhớ lại hầu hết các cuộc cãi vã của tôi và Nicole - và tôi cảm thấy biết ơn rằng tôi đã không thể - một trong những trận tranh cãi mà tôi nhớ rõ là trận đã thúc đẩy tôi trở thành người cha tốt hơn.
Đó là hồi Nicole mười sáu tuổi, đang học năm thứ ba ở  trường trung học. Đã hai năm kể từ khi Angela, mẹ con bé, ra đi, đó có lẽ là hai năm khó khăn nhất trong cuộc đời của bố con tôi. Tôi không nhớ điều gì đã bắt đầu cuộc tranh cãi này - một điều gì đó nhỏ nhặt, chắc chắn vậy - nhưng nó ngày càng leo thang và chẳng bao lâu sau, Nicole đã trút cơn giận dữ của con bé đối với Angela lên tôi.
“Chính bố là lí do khiến mẹ ra đi! Bố đã đuổi mẹ đi! Bố cũng có thể rời đi, vì con cũng sẽ không quan tâm. Con chắc chắn sẽ sống tốt hơn nếu không có bố.” Và để chứng minh quan điểm của mình, con bé xông ra khỏi nhà.
Tôi biết con gái tôi không cố tình nói ác ý - tôi không nghĩ con bé suy nghĩ nhiều trước khi làm gì ở giai đoạn đó của cuộc đời - nhưng Nicole có lẽ đã không đưa ra một lời buộc tội gây tổn thương nếu con bé cố gắng. Tôi đã suy sụp nhiều sau khi Angela ra đi, và tôi không ngừng tự hỏi mình đã có thể làm gì khác để giữ chân con bé. 
Nicole không quay về cho đến ngày hôm sau, và đêm đó đối với tôi là một đêm tự vấn lương tâm. Mặc dù tôi không tin rằng mình phải chịu trách nhiệm về việc mẹ con bé bỏ chúng tôi thì lời buộc tội của Nicole như một lời cảnh tỉnh. Tôi đã không ý thức được điều đó, thế nhưng tôi nhận ra rằng mình đã cho bản thân là nạn nhân lớn nhất khi Angela bỏ đi, chìm đắm trong nỗi tự thương hại mình bởi hoàn cảnh vô lý. Tôi thậm chí không có ý định có con, nhưng Angela muốn trở thành mẹ, và giờ đây cô ấy lại bỏ tôi một mình chịu trách nhiệm. Tại sao lại để tôi là người chịu trách nhiệm duy nhất trong việc nuôi dạy một cô gái thiếu niên? Làm thế nào mà một nhiệm vụ khó khăn như vậy lại có thể giao cho một người không có kinh nghiệm gì?
Lời buộc tội của Nicole làm tôi nhận ra tình trạng của con bé còn khó khăn hơn tôi. Ít nhất thì tôi tình nguyện thực hiện nhiệm vụ này, mặc dù đó đã là chuyện từ lâu rồi, và tôi đã chẳng hề biết trân trọng những gì mình dấn thân vào. Nicole đã buộc phải gánh vác vai trò của mình, không hề có quyền đưa ra ý kiến. Nếu ai đó có quyền phẫn uất, thì đó phải là con bé. Và dẫu tôi nghĩ rằng mình đang làm tốt vai trò của một người cha, thì rõ ràng là tôi cần phải làm tốt hơn nữa.
Tôi tự thay đổi mình. Mối quan hệ của chúng tôi không cải thiện trong một sớm một chiều, nhưng qua nhiều năm, tôi đã có thể dần cảm nhận được sự tha thứ của Nicole dành cho tôi. Tôi nhớ cái cách con bé ôm tôi trong lễ tốt nghiệp cao đẳng, và tôi nhận ra bao năm cố gắng của mình đã được đền đáp.
Liệu những năm tháng sửa chữa lỗi lầm đó có thể thực hiện được với Remem? Ngay cả nếu mỗi người trong chúng tôi có thể kiềm chế để không phản ứng trực tiếp với hành vi tồi tệ của người khác, cơ hội để xem lại một cách kín đáo trận cãi vã của chúng tôi dường như rất nguy hại. Những lời nhắc nhở sống động về cách mà con bé và tôi đã la mắng nhau trong quá khứ có thể khiến cho sự tức giận ùa về và ngăn cản chúng tôi xây đắp lại mối quan hệ của mình.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Jijingi muốn viết ra vài câu chuyện về nguồn gốc của người Tiv, nhưng người kể chuyện nói quá nhanh, và cậu không thể viết kịp họ. Moseby nói rằng cậu sẽ cải thiện hơn nếu luyện tập, nhưng Jijingi tuyệt vọng vì cậu sẽ chẳng bao giờ viết đủ nhanh như mong muốn.
Sau đó, vào một mùa hè, một người phụ nữ châu Âu tên Reiss đến thăm ngôi làng. Moseby nói cô là “một người làm công việc tìm hiểu về người khác” nhưng không thể giải thích điều đó nghĩa là gì, chỉ là cô ấy muốn tìm hiểu về Tivland. Cô đặt câu hỏi cho tất cả mọi người, từ già tới trẻ, kể cả phụ nữ và trẻ em, rồi ghi lại câu trả lời của họ. Cô không cố gắng kêu gọi bất cứ ai áp dụng các thông lệ châu Âu; trong khi Moseby khẳng định rằng không có thứ gì gọi là lời nguyền và tất cả đều là nguyện vọng của Chúa, Reiss lại hỏi cách thức hoạt động của lời nguyền, và chăm chú lắng nghe những lời giải thích về cách mà họ hàng bên cha có thể nguyền rủa bạn trong khi họ hàng bên mẹ có thể bảo vệ bạn khỏi lời nguyền.
Vào một buổi tối nọ, Kokwa, người kể chuyện hay nhất trong làng, kể câu chuyện người Tiv đã chia ra các dòng họ khác nhau như thế nào, và Reiss đã ghi lại chính xác những gì ông kể. Sau đó cô sao chép câu chuyện bằng một cái máy mà cô dùng ngón tay ấn ấn một cách ồn ào, để có một bản sao rõ ràng và dễ đọc. Khi Jijingi hỏi liệu cô ấy có thể làm một bản sao khác cho cậu được không, cô đã đồng ý, khiến Jijingi vô cùng phấn khích.
Bản giấy của câu chuyện thật đáng thất vọng. Jijingi nhớ là lần đầu tiên học viết, cậu đã tưởng tượng nó sẽ giúp cậu có một màn kể chuyện sinh động như thế cậu có ở đó. Nhưng viết lách không làm được điều đó. Khi Kokwa kể chuyện, ông ấy không chỉ dùng từ ngữ, mà còn sử dụng giọng nói của mình, cử chỉ của bàn tay, và cả ánh mắt. Ông kể chuyện bằng cả cơ thể của mình, và ta sẽ hiểu nó đúng như vậy. Những điều đó sẽ không được ghi lại trên giấy, chỉ những từ ngữ trần trụi được viết ra. Và việc đọc những từ này chỉ gợi ra cho ta một chút gì đó về trải nghiệm khi nghe chính Kokwa kể chuyện, như thể một người liếm chiếc nồi nấu đậu bắp thay vì ăn chính món đậu bắp vậy.
Jijingi vẫn rất vui vì có được bản giấy, và thỉnh thoảng sẽ đọc lại nó. Đó là một câu chuyện hay, đáng được ghi lại trên giấy. Không phải tất cả mọi thứ ghi trên giấy đều xứng đáng được như vậy. Trong suốt những bài thuyết giáo, Moseby sẽ đọc to những câu chuyện từ cuốn sách của mình, và chúng thường là chuyện hay, nhưng ông cũng sẽ đọc cả những gì đã viết vào vài ngày trước, và chúng cũng chẳng phải là những câu chuyện nữa, chỉ là những tuyên bố rằng tìm hiểu thêm về vị thần châu Âu sẽ giúp cải thiện cuộc sống người Tiv.
Vào một hôm, khi Moseby vừa hoàn thành một bài thuyết giáo hùng hồn, Jijingi khen ngợi ông ấy. “Cháu biết ông đánh giá cao tất cả những bài thuyết giáo của mình, nhưng bài hôm nay thực sự là một bài hay ạ.”
“Cảm ơn cháu”, Moseby mỉm cười. Một lúc sau, ông hỏi, “Sao cháu lại nói rằng ta đánh giá cao tất cả những bài thuyết giáo của mình?” 
“Bởi vì ông luôn mong rằng người ta sẽ đọc chúng trong nhiều năm nữa.”
“Ta đâu có mong đợi điều đó. Sao cháu lại nghĩ vậy?”
“Ông viết ra tất cả trước khi trình bày chúng. Thậm chí trước khi một người nghe thuyết pháp, ông đã viết chúng ra để cho thế hệ mai sau.”
Moseby cười. “Không, ta viết chúng ra không phải vì lý do đó.”
“Vậy thì tại sao?” Jijingi biết những người ở xa sẽ không đọc chúng, vì thỉnh thoảng người đưa tin đến làng giao thư cho Moseby, và ông ấy chưa bao giờ gửi lại bài thuyết giáo của mình cho họ. 
“Ta viết ra giấy để ta không quên những gì mình muốn nói khi đang thuyết pháp.”
“Sao ông có thể quên những gì mình muốn nói được ạ? Cả ông và cháu đều đang nói, và cả hai chúng ta đều chẳng cần giấy để viết lại mà.”
“Một bài thuyết giáo khác với một cuộc trò chuyện.” Moseby ngừng lại một chút, ngẫm nghĩ. “Ta muốn chắc chắn rằng bài thuyết giáo của mình hay nhất có thể. Ta sẽ không quên mình muốn nói gì, nhưng có thể ta sẽ quên cách tốt nhất để truyền đạt chúng. Nếu viết ra, ta sẽ không phải lo điều đó nữa. Nhưng viết ra giấy không giúp ta ghi nhớ, mà giúp ta suy nghĩ.”
“Viết ra giúp ông suy nghĩ như nào ạ?”
“Câu hỏi hay đấy, Jijingi” Moseby nói. “Thật kỳ lạ phải không? Ta cũng không biết giải thích thế nào, nhưng viết giúp ta quyết định những gì nên nói. Ở chỗ của ta, có một câu tục ngữ cổ là: verba volant, scripta manent. Trong tiếng Tiv, nó có nghĩa là ‘lời nói bay đi, chữ hay ở lại’. Cháu đã hiểu chưa?”
“Rồi ạ,” Jijingi nói, chỉ để lịch sự, chứ cậu không hiểu cho lắm. Nhà truyền giáo chưa già đến nỗi lú lẫn, nhưng trí nhớ của ông quả thật rất tệ và ông không muốn thừa nhận điều đó. Jijingi kể cho các bạn về điều này, và bọn trẻ đã đùa với nhau suốt mấy ngày. Cứ khi nào bọn trẻ tán gẫu, chúng sẽ thêm vào, “Cậu nhớ chưa? Việc này sẽ giúp cậu,” và bắt chước dáng điệu của Moseby khi ông ngồi viết bên bàn.
Vào một buổi tối năm sau, Kokwa thông báo rằng ông sẽ kể chuyện gia tộc Tiv đã tách ra các dòng họ khác nhau như thế nào. Jijingi mang bản giấy của mình, và cậu có thể đọc câu chuyện cùng lúc Kokwa kể. Đôi khi cậu ấy có thể đọc theo, nhưng việc đó thường rất khó hiểu vì lời kể của Kokwa không khớp với những gì được viết trên giấy. Sau khi Kokwa kể xong, Jijingi nói với ông ấy, “Ông kể chuyện này khác với câu chuyện ông kể năm ngoái.”
“Vớ vẩn,” Kokwa nói. “Khi ta kể một câu chuyện, nó sẽ không hề thay đổi, dù thời gian có trôi qua bao nhiêu đi nữa. Hãy bảo ta kể câu chuyện này hai mươi năm sau, và ta vẫn sẽ kể chính xác như vậy.”
Jijingi chỉ vào tờ giấy mình đang cầm. “Tờ giấy này là câu chuyện ông đã kể năm ngoái, và có rất nhiều điểm  khác ạ.” Cậu ấy chọn một chi tiết mà mình nhớ. “Lần trước ông nói rằng, ‘người Uyengi bắt cóc phụ nữ và trẻ em mang về làm nô lệ cho chúng.’ Lần này ông lại nói là, ‘bọn họ bắt phụ nữ làm nô lệ, nhưng không dừng lại ở đó: họ còn bắt cả trẻ con làm nô lệ nữa.’”
“Đều giống nhau cả mà.”
“Giống về cốt truyện, nhưng ông đã thay đổi cách kể chuyện của mình.”
“Không,” Kokwa nói, “Ta kể chuyện y hệt như ta kể trước đây mà.”
Jijingi không muốn cố gắng giải thích từ ngữ là gì. Thay vào đó cậu nói, “Nếu ông kể hệt như cách kể trước đây, ông phải nói ‘người Uyengi bắt phụ nữ và trẻ em làm nô lệ’ chứ ạ.”
Sau một lúc Kokwa nhìn chằm chằm vào Jijingi, ông cười. “Giờ đây cháu đã học được nghệ thuật viết rồi, phải chăng cháu nghĩ điều đó là quan trọng?”
Sabe đã nghe họ tranh luận nãy giờ, mắng Kokwa. “Ông không có quyền đánh giá Jijingi. Thỏ thích một loại thức ăn, hà mã thích một loại khác. Hãy để mỗi người dành thời gian theo ý mình.
“Tất nhiên rồi, Sabe” Kokwa nói, nhưng ông ấy đã ném một cái nhìn nhạo báng về phía Jijingi.
Sau đó, Jijingi nhớ lại câu tục ngữ Moseby đã nói cho cậu. Dù Kokwa đang kể cùng một câu chuyện, ông có thể sắp xếp các từ ngữ khác nhau trong mỗi lần kể. Ông có đủ kỹ năng của một người kể chuyện để sắp xếp từ ngữ sao cho hợp lý. Đối với Moseby thì khác - ông  không dùng cơ thể để diễn giải khi thuyết pháp, và từ ngữ đối với ông là thứ gì đó rất quan trọng. Jijingi nhận ra rằng Moseby viết lại bài thuyết pháp của mình không phải vì trí nhớ kém, mà vì ông đang tìm kiếm một lối sắp xếp từ ngữ đặc biệt nào đó. Khi đã tìm được thứ mà mình muốn, ông có thể giữ nó bao lâu tùy thích.
Vì tò mò, Jijingi đã thử tưởng tượng rằng mình đang thuyết pháp, và bắt đầu viết ra những gì mình sẽ nói. Ngồi giữa đám rễ cây xoài với cuốn sổ mà Moseby đã đưa cho cậu, cậu có thể soạn ra một bài thuyết pháp về tsav, thứ phẩm chất giúp một số người có quyền lực đối với những  người khác, một chủ đề mà Moseby không hiểu và gạt đi, cho đó là ngu ngốc. Đầu tiên Jijingi thử đọc bài thuyết pháp đó cho một người bạn của cậu nghe, nhưng người bạn đó nói rằng nó thật tệ, dẫn đến một vụ ẩu đả ngắn giữa hai đứa, nhưng sau đó Jijingi buộc phải thừa nhận rằng bạn mình đã đúng. Cậu thử viết lại bài thuyết pháp của mình lần thứ hai, thứ ba rồi cuối cùng đã trở nên chán ngán và đổi sang các chủ đề khác.
Khi ngồi luyện viết, Jijingi dần hiểu ra ý của Moseby; viết không chỉ là cách để ghi lại những gì người khác nói; việc đó còn giúp ta quyết định những gì mình nên nói trước khi nói ra. Và từ ngữ không chỉ là những mảnh ghép của lời nói, chúng còn là những mảnh ghép của suy nghĩ. Khi viết ra, ta có thể nắm bắt được suy nghĩ của mình như những viên gạch trong tay và xếp chúng theo các cách khác nhau. Việc viết giúp ta nhìn lại suy nghĩ của mình theo cái cách mà việc nói không làm được, và một khi đã nhìn lại, ta có thể cải thiện chúng, làm chúng mạnh mẽ, trau chuốt hơn.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Các nhà tâm lý học phân biệt rõ ràng  giữa bộ nhớ ngữ nghĩa - kiến thức về những sự thật chung - và bộ nhớ từng hồi - ký ức về các trải nghiệm cá nhân. Chúng ta đã sử dụng công nghệ để bổ sung cho bộ nhớ ngữ nghĩa kể từ khi phát minh ra chữ viết: những quyển sách đầu tiên, và sau đó là các công cụ tìm kiếm. Mặt khác, chúng ta cũng từng chống lại những phương tiện trợ giúp đó khi nói đến bộ nhớ từng hồi; rất ít người từng sở hữu nhiều nhật ký hay album ảnh như cách họ sở hữu những cuốn sách bình thường. Lý do rõ ràng là sự tiện lợi; nếu muốn có một cuốn sách về các loài chim ở Bắc Mỹ, chúng ta có thể tham khảo cuốn sách mà một nhà điểu học đã viết, nhưng nếu muốn có một quyển nhật ký hàng ngày, chúng ta phải tự viết cho chính mình. Tuy nhiên tôi cũng thắc mắc liệu có lý do khác rằng, trong tiềm thức, chúng ta coi bộ nhớ từng hồi như một phần không thể thiếu trong danh tính của mình đến nỗi chúng ta không muốn bộc lộ ra, biến chúng thành những cuốn  sách trên giá hoặc các tệp trong máy tính.
Điều này có lẽ sắp thay đổi. Trong nhiều năm, các bậc cha mẹ đã ghi lại mọi khoảnh khắc của con cái mình, vì vậy ngay cả khi trẻ không đeo camera cá nhân, thì các lifelog của chúng vẫn được tổng hợp một cách hiệu quả. Hiện nay các bậc cha mẹ đang cho con cái đeo máy chiếu võng mạc ở độ tuổi ngày càng nhỏ vì thế chúng có thể hưởng lợi từ các tác tử phần mềm(một phần mềm máy tính tự động hành động phản ứng lại sự thay đổi của môi trường nhằm đáp ứng mục tiêu đã được thiết kế trước) hỗ trợ sớm hơn. Tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu trẻ bắt đầu sử dụng Remem để truy cập các lifelog: cách nhận thức của chúng sẽ khác với chúng ta bởi hành động hồi tưởng sẽ khác. Thay vì nghĩ về một sự kiện trong quá khứ của mình và nhìn nhận nó thông qua trí nhớ, đứa trẻ sẽ tập trung nghĩ về những gì liên quan đến nó và xem các cảnh quay video bằng con mắt thể chất của mình. Bộ nhớ từng hồi sẽ hoàn toàn lấy công nghệ làm trung gian.
Một nhược điểm rõ ràng của sự phụ thuộc này là khả năng con người trở nên hay quên bất cứ khi nào phần mềm đó gặp sự cố. Thế nhưng điều khiến tôi lo lắng không kém so với viễn cảnh thất bại của công nghệ là sự thành công của công nghệ: quan niệm về bản thân của một người sẽ thay đổi như thế nào khi người đó chỉ nhìn thấy quá khứ của mình qua con mắt không chớp của máy quay video? Cũng giống như việc có một vòng lặp phản hồi làm dịu đi những ký ức khắc nghiệt, tồn tại một vòng lặp phản hồi khác làm nhiệm vụ lãng mạn hóa những kỷ niệm thời thơ ấu, và việc gián đoạn quá trình đó sẽ để lại hậu quả.
Sinh nhật sớm nhất mà tôi nhớ là sinh nhật bốn tuổi; tôi nhớ được thổi nến trên bánh, cảm giác hồi hộp khi xé giấy gói quà. Không có video nào về sự kiện hôm đó, nhưng có ảnh chụp trong album gia đình và chúng đúng với những gì tôi nhớ. Trên thực tế, tôi nghi ngờ rằng mình đã không còn nhớ ngày đó nữa. Có nhiều khả năng là tôi đã tạo ra ký ức khi tôi được xem ảnh lần đầu tiên, và theo thời gian, tôi đã thấm nhuần nó bằng thứ cảm xúc mà tôi tưởng tượng rằng mình đã cảm nhận được vào ngày hôm đó. Từng chút một, qua những lần hồi tưởng lặp đi lặp lại, tôi đã tự tạo ra một kỷ niệm vui cho chính mình.
Một trong những ký ức đầu đời khác của tôi là chơi trên tấm thảm phòng khách, đẩy những chiếc ô tô đồ chơi xung quanh, trong khi bà tôi làm việc với máy khâu; bà thỉnh thoảng quay lại và mỉm cười ấm áp với tôi. Không có tấm ảnh nào ghi lại khoảnh khắc đó, vì vậy tôi biết hồi ức đó là của tôi và của riêng tôi mà thôi. Đó là một kỷ niệm đáng yêu và bình dị. Liệu tôi có muốn được cho xem những cảnh quay thực sự của buổi chiều hôm đó không? Không; hoàn toàn không.
Nói về vai trò của sự thật trong tự truyện, nhà phê bình Roy Pascal đã viết, “Một bên là sự thật của thực tế, một bên là sự thật theo cảm nhận của người viết, và nơi hai sự thật đó giao nhau không thể được quyết định trước bởi bất kỳ quyền lực bên ngoài nào.” Ký ức của chúng ta là những quyển tự truyện riêng tư, và buổi chiều với bà tôi hôm đó nổi bật trong tôi bởi những cảm xúc gắn liền với nó. Điều gì sẽ xảy ra nếu cảnh quay video tiết lộ rằng nụ c��ời của bà tôi trên thực tế chỉ là cười lấy lệ, rằng bà thực sự đang nản lòng vì công việc may vá của mình không suôn sẻ? Điều quan trọng đối với tôi về kỷ niệm đó là niềm hạnh phúc mà tôi gắn liền với nó, và tôi không muốn điều đó bị hủy hoại.
Với tôi, dường như video liên tục về toàn bộ thời thơ ấu sẽ chứa đầy sự thật mà không có cảm xúc gì, đơn giản vì máy ảnh không thể ghi lại chiều hướng cảm xúc của các sự kiện. Theo như máy ảnh thì buổi chiều đó với bà tôi cũng sẽ giống như hàng trăm buổi chiều khác.Và nếu tôi lớn lên với cơ hội được xem tất cả các cảnh quay, tôi sẽ không có cách nào để gán gánh nặng cảm xúc cho bất kì một ngày cụ thể nào, không có thời điểm đặc biệt nào mà xung quanh lúc đó nỗi nhớ có thể bồi đắp.
Và hậu quả sẽ ra sao khi con người có thể khẳng định rằng họ nhớ được thời thơ ấu của mình? Tôi có thể dễ dàng tưởng tượng ra tình huống bạn hỏi một người trẻ ký ức đầu tiên của cô ấy là gì, và cô chỉ đơn giản là không hiểu nổi câu hỏi; hóa ra, cô có một đoạn video quay lại ngày sinh của mình. Việc một người không thể nhớ được những năm đầu đời—cái mà các nhà tâm lý học gọi là chứng mất trí nhớ về tuổi thơ—có thể sẽ sớm không còn xảy ra nữa. Cha mẹ sẽ không còn kể cho con cái nghe những giai thoại bắt đầu bằng câu nói “Con không nhớ chuyện này vì lúc đó con chỉ là một đứa trẻ.” Cứ như thể chứng mất trí nhớ về thời thơ ấu sẽ là một đặc trưng của tuổi thơ của loài người, và theo cung cách gặm nhấm quá khứ, tuổi trẻ rồi sẽ biến mất khỏi ký ức của chúng ta.
Một phần tôi muốn ngăn chặn điều này, để bảo vệ khả năng trẻ em có thể nhìn thấy sự khởi đầu của cuộc đời mình qua lớp khăn voan, để giữ cho những câu chuyện khởi đầu đó không bị thay thế bằng video đen trắng và nhạt nhẽo. Nhưng có lẽ chúng sẽ cảm thấy ấm lòng về những ký ức kỹ thuật số nguyên vẹn của chúng giống như tôi với những ký ức hữu cơ dang dở của chính mình.
Con người được tạo nên từ những câu chuyện. Ký ức của chúng ta không phải là sự tích lũy công bằng của mỗi giây chúng ta đã sống; chúng là câu chuyện mà chúng ta tập hợp từ những khoảnh khắc có chọn lọc. Đó là lý do vì sao, ngay cả khi chúng ta trải qua những sự kiện giống như các cá nhân khác, chúng ta không bao giờ xây dựng những câu chuyện giống hệt nhau: các tiêu chí được sử dụng để lựa chọn khoảnh khắc là khác nhau đối với mỗi người và phản ánh tính cách của chúng ta. Mỗi chúng ta đều chú ý những chi tiết thu hút sự quan tâm của mình và ghi nhớ những gì quan trọng đối với bản thân, và những câu chuyện mà ta xây dựng lần lượt hình thành nên tính cách của mỗi con người.
Tuy nhiên, tôi tự hỏi, nếu ai cũng nhớ hết mọi thứ, liệu sự khác biệt của mỗi cá nhân có bị xóa bỏ? Điều gì sẽ xảy ra với ý thức về bản thân của chúng ta? Đối với tôi, dường như một kỷ niệm hoàn hảo không thể là một câu chuyện kể cũng như những cảnh quay trên camera an ninh mà chưa được chỉnh sửa không thể là một bộ phim điện ảnh.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi Jijingi hai mươi tuổi, một viên chức chính quyền đến làng nói chuyện với Sabe. Anh ta đã mang theo một người đàn ông Tiv trẻ tuổi, từng theo học trường truyền giáo ở Katsina-Ala. Chính quyền muốn có một biên bản về tất cả các tranh chấp được đưa ra trước phiên tòa bộ lạc, vì vậy họ đã giao cho mỗi tộc trưởng một trong những thanh niên này làm thư lại. Sabe cử Jijingi, và nói với viên chức, “Tôi biết các anh không có đủ thư lại cho cả Tivland. Jijingi đây đã được học viết; cậu ấy có thể đóng vai trò làm thư lại, và anh có thể cử người của mình đến một ngôi làng khác.” Viên chức kiểm tra khả năng viết của Jijingi, nhưng Moseby đã dạy cậu rất kỹ, nên cuối cùng anh này đã đồng ý cho cậu làm thư lại của Sabe.
Sau khi tay viên chức rời đi, Jijingi hỏi Sabe vì sao ông không muốn người của Katsina-Ala làm thư lại cho mình.
“Không ai tới từ trường truyền giáo là đáng tin cả”. Sabe nói.
“Tại sao không ạ? Có phải người châu Âu đã biến họ trở thành kẻ nói dối không?”
“Họ có lỗi một phần, nhưng chúng ta cũng vậy. Trước đây, khi người châu Âu thu thập các cậu bé về trường truyền giáo, hầu hết các trưởng lão đã đưa những kẻ họ muốn loại bỏ, những kẻ từng thực hiện nhiều hành vi sai trái và gây bất bình. Giờ đám thanh niên ấy đã trở về, họ không còn cảm thấy thân thuộc với bất kì ai nữa. Họ sử dụng kiến thức viết lách của mình như một khẩu súng trường, họ yêu cầu những tộc trưởng tìm vợ cho mình, nếu không thì sẽ viết những lời dối trá về tộc trưởng để người châu Âu hạ bệ họ.”
Jijingi có biết một cậu thanh niên luôn than phiền và luôn tìm cách để trốn việc, thật là một điều tai hại khi những người như anh ta nắm quyền hơn Sabe. “Ông không thể nói cho người châu Âu biết về điều hay được sao?”
“Nhiều người đã nói rồi,” Sabe trả lời. “Chính Mashio của gia tộc Kwande đã cảnh báo ta về những thư lại; đầu tiên họ được sắp xếp ở làng Kwande. Mashio thật may mắn khi những người châu Âu đã tin tưởng ông thay vì tin lời dối trá của gã thư lại, nhưng ông ấy biết các tộc trưởng khác sẽ không may mắn như thế; người châu Âu thường tin văn bản hơn lời nói. Ta cũng không mong là có hi vọng.” Ông nhìn Jijingi đầy nghiêm túc. “Cháu là họ hàng của ta, Jijingi, và là họ hàng của mọi người trong ngôi làng này. Ta tin cháu sẽ viết đúng theo những gì ta nói.”
“Vâng ạ.”
Phiên tòa bộ lạc được tổ chức hàng tháng, từ sáng đến tận chiều muộn trong suốt ba ngày liên tiếp, và nó luôn luôn thu hút một lượng khán giả, đôi khi đông đến mức Sabe phải yêu cầu mọi người ngồi xuống để cho gió mát thổi lọt được vào tâm vòng tròn. Jijingi ngồi kế bên Sabe và ghi chép lại chi tiết mỗi cuộc tranh chấp vào quyển sách viên sĩ quan để lại. Đó là một công việc tốt; cậu được trả công bằng số tiền trích từ lệ phí thu được từ những người tranh chấp, và cậu không chỉ được tặng một chiếc ghế mà còn một cái bàn nhỏ, những thứ mà cậu có thể sử dụng để viết kể cả khi phiên tòa không họp. Những lời phàn nàn Sabe nghe đều không giống nhau - chúng có thể là về một chiếc xe đạp bị đánh cắp, hay là về việc liệu một người đàn ông có phải chịu trách nhiệm cho vụ mùa thất bát của hàng xóm hay không - nhưng hầu hết đều liên quan đến các bà vợ. Với những vụ tranh chấp thế này, Jijingi viết như sau:
Girgi, vợ của Umem đã rời khỏi nhà và về với gia đình của cô ấy. Anongo, một người trong họ của cô đã cố gắng thuyết phục cô quay về với chồng, nhưng Girgi từ chối, và Anongo chẳng có thể làm gì hơn. Umem yêu cầu trả lại 11 bảng Anh tiền sính lễ. Anongo nói hiện giờ anh đang không có tiền, hơn nữa anh chỉ được trả 6 bảng mà thôi.
Sabe yêu cầu nhân chứng của hai bên. Anongo nói anh có nhân chứng, nhưng họ đang ở nơi khác. Umem đưa ra một nhân chứng, người này thề rằng đó là sự thật. Anh ta làm chứng rằng chính mình đã đếm số tiền 11 bảng mà Umem đưa cho Anongo.
Sabe yêu cầu Girgi hãy quay lại với chồng mình và làm một người vợ tốt, nhưng cô ấy nói cô chịu đựng chồng mình vậy là đủ rồi. Sabe chỉ thị cho Anongo trả lại Umem 11 bảng, khoản thanh toán đầu tiên sẽ phải được đưa ra trong ba tháng tới, khi cây trồng của anh ta có thể bán được. Anongo đồng ý.
Đó là vụ tranh chấp cuối cùng trong ngày, và lúc đó Sabe đã rất mệt mỏi rồi. “Bán rau để trả lại tiền sính lễ,” ông ấy vừa nói vừa lắc đầu. “Không bao giờ có chuyện đó khi ta còn nhỏ.”
Jijingi hiểu ý của Sabe. Các bô lão kể rằng, ngày xưa, bạn chỉ thực hiện trao đổi với những mặt hàng tương đương nhau: nếu muốn lấy dê, bạn phải đổi gà; nếu muốn cưới vợ, bạn phải hẹn ước với một trong những người thân của họ nhà gái. Sau đó, người châu Âu nói rằng họ sẽ không còn chấp nhận rau như một khoản thanh toán cho thuế, họ khăng khăng rằng thuế phải được trả bằng tiền xu. Chẳng bao lâu sau, mọi thứ đều có thể trao đổi được bằng tiền; bạn có thể dùng tiền mua bất cứ thứ gì từ một quả bầu đến một người vợ. Các bô lão coi điều đó thật vô lý.
Jijingi đồng ý, “Những cách thức cũ đang dần biến mất.” Cậu không nói rằng giới trẻ thích mọi thứ theo cách này, bởi vì người châu Âu đã quy định rằng chỉ có thể dùng tiền làm đồ sính lễ nếu người phụ nữ muốn kết hôn. Trong quá khứ, một người phụ nữ trẻ phải hứa hôn với một người đàn ông già nua với bàn tay sần sùi và hàm răng thối rữa, và không có lựa chọn nào khác ngoài việc cưới ông ta. Giờ đây người phụ nữ có thể cưới người mình thích, miễn là anh ta đủ tiền chi trả sính lễ. Chính Jijingi cũng đang tiết kiệm tiền để kết hôn.
Thỉnh thoảng Moseby có đến xem, nhưng ông thấy quy trình diễn ra thật khó hiểu, và thường xuyên phải hỏi lại Jijingi.
“Ví dụ thế này, có một vụ tranh chấp giữa Umem và Anongo về số tiền sính lễ đã trả. Tại sao chỉ có nhân chứng phải tuyên thệ?” Moseby hỏi.
“Tuyên thệ để đảm bảo rằng anh ta nói chính xác sự việc xảy ra.”
“Nhưng nếu cả Umem và Anongo đều tuyên thệ, thì cũng sẽ đảm bảo điều họ nói là chính xác chứ. Anongo có thể nói dối vì anh ta đâu có tuyên thệ.”
“Anongo không nói dối đâu ạ,” Jijingi nói. “Anh ấy chỉ nói những điều mình cho là đúng, và Umem cũng vậy.”
“Nhưng những gì Anongo nói đâu có giống lời khai của nhân chứng.”
“Thế không có nghĩa là anh ấy đang nói dối.” Rồi Jijingi nhớ đến điều gì đó về ngôn ngữ phương Tây, và hiểu ra sự nhầm lẫn của Moseby. “Ngôn ngữ của bọn cháu có hai từ để chỉ cái mà ngôn ngữ các ông coi là ‘thật’. Mimi được hiểu là đúng đắn, còn vough là chính xác. Trong một phiên tòa, thẩm phán nói những gì họ cho là đúng đắn, nghĩa là họ nói những điều được gọi là mimi. Tuy nhiên, khi nhân chứng thề sẽ nói chính xác sự việc xảy ra, họ sẽ nói những điều được gọi là vough. Khi Sabe nghe những gì xảy ra, ông ấy sẽ quyết định cái gì là mimi cho tất cả mọi người. Nhưng không phải nói dối nếu thẩm phán không nói ra vough, miễn họ nói ra mimi là được.”
Moseby rõ ràng phản đối. “Ở quê nhà của ta, mọi người làm chứng trong phiên tòa đều phải thề rằng sẽ nói chính xác, kể cả thẩm phán.”
Jijingi không hiểu vì sao lại như vậy, nhưng tất cả những gì cậu nói chỉ là, “Mỗi bộ tộc đều có phong tục riêng.”
“Đúng thế, phong tục có thể khác nhau, nhưng sự thật luôn là sự thật, nó không thể thay đổi từ người này qua người khác. Và hãy nhớ những gì trong Kinh Thánh: “Sự thật sẽ giải thoát cho bạn.”
“Cháu nhớ rồi ạ,”Jijingi nói. Moseby từng nói chính sự hiểu biết về Chúa đã giúp người châu Âu thành công như vậy. Không thể phủ nhận sự giàu có hay quyền lực của họ, nhưng ai biết đâu mới là nguyên nhân?
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi viết về Remem, để cho công bằng thì tôi phải tự mình thử nó. Vấn đề là tôi không có một lifelog để lập mục lục; thông thường, tôi chỉ bật cam cá nhân khi thực hiện phỏng vấn hoặc đưa tin về một sự kiện. Nhưng tôi chắc chắn đã dành thời gian gặp gỡ những người có lifelog, và tôi có thể tận dụng những gì họ đã ghi lại. Tuy tất cả phần mềm lifelog đều có các biện pháp kiểm soát quyền riêng tư, nhưng hầu hết mọi người cũng cho phép các quyền chia sẻ cơ bản: nếu hành động của bạn được ghi lại trong lifelog của họ, bạn có thể truy cập vào cảnh quay mà bạn có mặt. Vì thế tôi đã cho một nhân viên mật vụ đi thu thập một phần lifelog từ các cảnh mà người khác đã ghi lại, sử dụng lịch sử GPS của tôi làm cơ sở cho truy vấn. Trong suốt một tuần, lời yêu cầu của tôi đã lan truyền thông qua các mạng xã hội và kho lưu trữ video công khai, và tôi nhận được những đoạn video kéo dài từ vài giây đến vài giờ: không chỉ là cảnh quay trong camera an ninh mà còn là đoạn trích từ các bản lifelog của bạn bè, người quen, và thậm chí cả những người hoàn toàn xa lạ.
Bản lifelog thành quả tất nhiên là rất rời rạc so với những gì đáng ra tôi đã có nếu tôi tự mình quay video, và tất cả các cảnh quay đó t��t cả sẽ theo ngôi thứ ba chứ không phải ngôi thứ nhất như hầu hết các lifelog khác, nhưng Remem thì có thể làm việc với điều này. Tôi cho rằng mức độ phủ sóng sẽ dày nhất trong những năm gần đây, đơn giản là bởi sự phổ biến ngày càng tăng của các lifelog. Thế nhưng sau đó, tôi cũng khá ngạc nhiên khi nhìn vào biểu đồ về phạm vi phủ sóng, tôi đã nhận thấy sự gia tăng trong mức độ phủ sóng từ hơn một thập kỷ trước. Nicole đã có lifelog của riêng mình từ khi con bé còn là một thiếu niên, nên một phần lớn đến không ngờ trong cuộc sống gia đình của tôi có trong đó.
Ban đầu, tôi có chút không chắc chắn về việc làm thế nào để kiểm tra Remem, vì rõ ràng tôi không thể yêu cầu nó hiển thị video về một sự kiện mà tôi không nhớ. Tôi nghĩ rằng mình sẽ bắt đầu với một thứ gì đó mà tôi đã nhớ. Tôi nghĩ thầm, “Lần Vince nói với tôi về chuyến đi của anh ấy đến Palau.”
Màn hình võng mạc của tôi hiển thị một cửa sổ ở góc dưới bên trái trong tầm nhìn: tôi đang ăn trưa với hai người bạn Vincent và Jeremy. Vincent cũng không làm lifelog, vì vậy các cảnh quay đều từ góc nhìn của Jeremy. Tôi lắng nghe Vincent say sưa nói về lặn biển trong một phút.
Sau đó, tôi thử một sự việc mà tôi chỉ nhớ một cách mơ hồ. “Bữa tiệc tối khi tôi ngồi giữa Deborah và Lyle.” Tôi không nhớ có ai khác đang ngồi cùng bàn đó và tự hỏi liệu Remem có thể giúp tôi xác định họ không.
Chắc chắn, Deborah đã quay lại buổi tối hôm đó, và với video của cô ấy, tôi có thể nh�� một đặc vụ chuyên nhận dạng tìm ra những người ngồi đối diện với chúng tôi.
Sau những thành công ban đầu, tôi đã gặp phải một loạt thất bại; không có gì bất ngờ, khi xem xét những lỗ hổng trong lifelog. Nhưng trong suốt quá trình thực hiện chuyến đi khảo sát kéo dài một giờ về các sự kiện trong quá khứ, hiệu suất của Remem nhìn chung cũng rất ấn tượng.
Cuối cùng, dường như đã đến lúc tôi nên thử dùng Remem với một số ký ức có giá trị về mặt cảm xúc hơn. Quan hệ của tôi với Nicole giờ đã đủ bền chặt để tôi có thể yên tâm xem lại những trận tranh cãi mà chúng tôi đã trải qua khi con bé còn nhỏ. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ bắt đầu với cuộc cãi vã mà mình nhớ rõ, và đi ngược lại từ đó.
Tôi nghĩ thầm, “Lần Nicole hét vào mình ‘bố chính là lý do khiến mẹ rời đi.’”
Cửa sổ hiển thị hình ảnh căn bếp trong ngôi nhà mà chúng tôi đã sống khi Nicole lớn lên. Cảnh quay là từ góc nhìn của Nicole và tôi đang đứng trước bếp lò. Rõ ràng là chúng tôi đang cãi nhau. 
“Chính con là lý do khiến mẹ ra đi. Con cũng có thể rời đi, vì bố cũng sẽ không quan tâm. Bố chắc chắn sẽ sống tốt hơn nếu không có con.”
Những lời đó chính xác với những gì tôi vẫn nhớ, nhưng chúng không phải do Nicole nói ra.
Tôi mới chính là người đã nói như vậy.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là chắc hẳn cảnh này là giả, Nicole đã chỉnh sửa video để đặt lời nói của mình vào miệng tôi. Con bé hẳn đã để ý yêu cầu được truy cập vào lifelog của tôi, và đã bịa ra chuyện này để dạy cho tôi một bài học. Hoặc có lẽ đó là một bộ phim con bé dựng lên để cho bạn bè xem, để củng cố những câu chuyện con bé kể về tôi. Nhưng tại sao con bé vẫn giận tôi như vậy, sao con bé lại làm một điều như thế? Chẳng phải chúng tôi đã vượt qua chuyện này sao?
Tôi bắt đầu xem lướt video đó, kiếm tìm những điểm mâu thuẫn chỉ ra đoạn phim đã qua chỉnh sửa được ghép vào đâu. Cảnh quay tiếp theo cho thấy Nicole chạy ra khỏi nhà, như tôi nhớ, vì vậy sẽ không có dấu hiệu mâu thuẫn ở đó. Tôi tua lại video và bắt đầu xem cuộc tranh cãi trước đó.
Ban đầu, tôi rất tức giận khi xem, tức giận với Nicole vì đã cố để tạo ra câu chuyện giả dối này, bởi các cảnh quay trước đều phù hợp với việc tôi là người đã la mắng con bé. Sau đó, một số lời tôi nói trong video bắt đầu nghe có vẻ quen thuộc đến kỳ lạ: phàn nàn về việc lại bị gọi lên trường con bé vì con bé gặp rắc rối, buộc tội con bé đã dành thời gian với đám người xấu. Nhưng đây không phải là bối cảnh mà tôi nói những điều đó, phải không? Tôi chỉ bày tỏ sự lo lắng của mình, chứ không mắng mỏ con bé. Nicole hẳn đã chỉnh sửa những lời tôi đã nói ở nơi nào khác để làm cho video vu khống của con bé trở nên hợp lý hơn. Đó là lời giải thích duy nhất, phải không?
Tôi yêu cầu Remem kiểm tra hình mờ của video và nó thông báo rằng video chưa được chỉnh sửa. Tôi có thể thấy rằng Remem đã đề xuất sửa chữa cụm từ tìm kiếm của tôi: cụm từ tôi đã tìm là “lần Nicole la mắng tôi,” nó đề xuất sửa thành “lần tôi la mắng Nicole.” Gợi ý chỉnh sửa chắc hẳn đã được hiển thị cùng lúc với kết quả tìm kiếm ban đầu, nhưng tôi lại không nhận ra. Tôi tắt Remem trong sự kinh tởm, giận dữ với sản phẩm này. Tôi định tìm kiếm thông tin về việc giả mạo hình mờ kỹ thuật số để chứng minh video này là giả, nhưng tôi dừng lại, nhận ra đó chỉ là một hành động trong cơn tuyệt vọng.
Tôi xin làm chứng, tay đặt trên chồng sách Kinh thánh hoặc sử dụng bất kỳ lời tuyên thệ nào thiêng liêng đối với tôi, rằng chính Nicole đã buộc tội tôi là nguyên nhân khiến mẹ con bé rời bỏ chúng tôi. Hồi ức của tôi về cuộc tranh cãi đó rõ ràng hơn bất kỳ ký ức nào tôi có, nhưng đó không phải là lý do duy nhất tôi thấy video này khó tin; tôi cũng biết rằng - bất kể tôi có mắc lỗi lầm hay không hoàn hảo - tôi cũng không bao giờ là người cha có thể nói những điều như vậy với con mình.
Tuy nhiên, đây là video kỹ thuật số chứng minh rằng tôi chính xác là loại cha như vậy. Và trong khi tôi không còn là tôi của quá khứ nữa, tôi không thể phủ nhận rằng tôi vẫn tiếp tục như vậy.
Điều đáng nói hơn là trong nhiều năm, tôi đã che giấu thành công sự thật với chính bản thân mình. Trước đây, tôi đã nói rằng những chi tiết chúng ta chọn để ghi nhớ là sự phản ánh tính cách của chúng ta. Điều này nói lên gì về tôi, khi mà tôi đổ cho Nicole nói lời đó thay vì chính mình?
Tôi nhớ rằng cuộc tranh cãi đó là một bước ngoặt đối với tôi. Tôi đã hình dung ra một câu chuyện về sự chuộc lỗi và tự hoàn thiện bản thân mà trong đó tôi là người cha đơn thân quả cảm, luôn vươn lên để vượt qua thử thách. Nhưng thực tế lại là… gì đây? Tôi có thể chấp nhận bao nhiêu phần trăm về sự thật của những điều xảy ra hồi đó?
Tôi khởi động lại Remem và bắt đầu xem video về lễ tốt nghiệp đại học của Nicole. Đó là sự kiện mà tôi đã tự mình ghi lại, vì vậy tôi có cảnh quay gương mặt của Nicole và con bé có vẻ thực sự hạnh phúc bởi sự hiện diện của tôi. Có phải con bé đã che giấu cảm xúc thật của mình quá tốt đến nỗi tôi không thể phát hiện ra không?
Hoặc là, nếu mối quan hệ của chúng tôi thực sự được cải thiện, điều đó đã xảy ra như thế nào? Rõ ràng là mười bốn năm trước tôi là một người cha tồi tệ hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ; thật cám dỗ để kết luận rằng tôi đã cố gắng hơn và đạt được vị trí hiện tại, nhưng tôi không thể tin vào nhận thức của mình nữa. Liệu Nicole thậm chí còn có cảm nhận tích cực về tôi bây giờ không? 
Tôi sẽ không thử sử dụng Remem để trả lời câu hỏi này; tôi cần phải tìm đến người khởi đầu của sự việc. Tôi gọi cho Nicole và để lại tin nhắn nói tôi muốn nói chuyện với con bé, và hỏi rằng liệu tôi có thể ghé thăm căn hộ của con bé vào tối hôm đó không.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Một vài năm sau, Sabe bắt đầu tham dự nhiều hội nghị của tất cả các tộc trưởng trong gia tộc Shangev. Ông giải thích với Jijingi rằng người châu Âu không còn muốn thỏa thuận với nhiều tộc trưởng nữa, nên yêu cầu toàn bộ Tivland được chia thành tám nhóm, họ gọi là bộ lạc. Vì vậy, Sabe và các tộc trưởng khác phải bàn bạc với nhau xem gia tộc Shangev nên tham gia với ai. Mặc dù không cần người ghi chép, Jijingi vẫn tò mò muốn nghe các cuộc thảo luận và hỏi Sabe liệu cậu có thể đi cùng ông không, và Sabe đồng ý.
Trước đây Jijingi chưa từng thấy nhiều người lớn tuổi cùng một nơi như thế này; một số người điềm đạm và đàng hoàng như Sabe, trong khi một số thì ồn ào và nóng tính. Họ đã tranh luận trong nhiều giờ liên tục.
Vào buổi tối sau khi Jijingi trở về, Moseby hỏi cậu mọi chuyện thế nào. Jijingi thở dài.  “Ngay cả khi không la hét thì họ cũng đấu nhau như những con mèo hoang.”
“Sabe nghĩ các cháu nên tham gia cùng ai?”
“Chúng cháu nên tham gia với các gia tộc mà mình gần gũi nhất; đó là cách của người Tiv. Và vì Shangev là con trai của Kwande, gia tộc cháu nên tham gia cùng với gia tộc Kwande, họ sống ở phía nam.”
“Cũng có lý đấy,” Moseby nói. “Vậy tại sao lại có bất đồng?”
“Thành viên trong gia tộc Shangev không phải đều sống gần nhau. Một số người sống ở vùng trồng trọt phía tây, gần tộc Jechira, và các bô lão ở đó khá thân thiết với các bô lão bên Jechira. Họ muốn tộc Shangev gia nhập vào tộc Jechira, vì sau đó họ sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trong gia tộc hợp nhất sau này.”
“Ta hiểu rồi.” Moseby suy nghĩ một lúc. “Người Shangev phía tây không thể gia nhập một bộ lạc khác người Shangev phía nam được sao?”
Jijingi lắc đầu. “Người Shangev bọn cháu đều chung một người cha, nên phải ở bên nhau. Tất cả các trưởng lão đều đồng ý như vậy.”
“Nhưng nếu dòng dõi quan trọng như vậy, làm sao các trưởng lão từ phía tây lại có thể cho rằng tộc Shangev nên gia nhập với tộc Jechira?”
“Sự bất đồng nằm ở đó đấy ạ. Các bô lão ở phía tây cho rằng Shangev là con trai của Jechira.”
“Từ từ đã, bọn cháu không biết cha mẹ Shangev là ai à?”
“Tất nhiên là biết chứ ạ! Sabe có thể tự kể lại tổ tiên của ông ấy cho tới tận thủy tổ Tiv. Những bô lão phía tây chỉ đang giả vờ rằng Shangev là con trai của Jechira vì họ sẽ được lợi khi gia nhập cùng tộc Jechira.”
“Nhưng nếu gia tộc Shangev gia nhập tộc Kwande, các trưởng lão sẽ không được lợi sao?”
“Có chứ ạ, nhưng Shangev là con trai Kwande.” Sau đó Jijingi nhận ra Moseby đang ám chỉ điều gì. “Ông nghĩ các trưởng lão của bọn cháu đang giả vờ ư?”
“Không, không phải thế. Có vẻ như cả hai bên đều đưa ra những khẳng định chính đáng như nhau, và không có cách nào để biết ai đã đúng.”
“Sabe mới đúng ạ.”
“Tất nhiên,” Moseby nói. “Nhưng làm sao cháu có thể bắt người khác thừa nhận điều đó được? Ở chỗ của bọn ta, nhiều người viết dòng dõi của mình lên giấy. Bằng cách đó, ta có thể tìm ra vết tích của tổ tiên mình một cách chính xác, thậm chí tìm ra nhiều thế hệ trong quá khứ.”
“Vâng, cháu đã thấy các dòng dõi trong quyển Kinh Thánh của ông, từ Abraham tới Adam.”
“Tất nhiên. Nhưng kể cả ngoài quyển Kinh Thánh, người ta cũng đã ghi lại dòng dõi của mình. Khi người ta muốn tìm ra mình là con cháu của ai, họ có thể tra cứu trên giấy tờ. Nếu các cháu có văn bản, những trưởng lão khác sẽ tin Sabe nói đúng.”
Jijingi thừa nhận rằng đó là một ý hay. Giá mà gia tộc Shangev dùng giấy tờ từ lâu. Sau đó, một điều chợt nảy ra trong đầu cậu. “Người châu Âu lần đầu đến Tivland cách đây bao lâu rồi ạ?”
“Ta không chắc lắm. Ta nghĩ ít nhất phải bốn mươi năm trước.”
“Ông có nghĩ liệu họ đã viết gì đó về dòng dõi gia tộc Shangev khi lần đầu đến đây chưa?”
Moseby có vẻ trầm ngâm. “Có thể đấy. Chính quyền chắc chắn sẽ giữ rất nhiều hồ sơ. Nếu có, chắc chúng sẽ được lưu trữ trong trụ sở của chính phủ ở Katsina-Ala.”
Một chiếc xe tải chở hàng dọc theo đường cao tốc vào Katsina-Ala vào ngày thứ năm hàng tuần,  khi chợ đang họp, và phiên chợ tiếp theo sẽ vào ngày kia. Nếu Jijingi đi vào sáng mai, thì có thể đến đường cao tốc để kịp bắt xe. “Ông có nghĩ họ sẽ cho cháu xem hồ sơ không ạ?”
“Nếu có một người châu Âu đi cùng chắc sẽ dễ dàng hơn,” Moseby mỉm cười. “Chúng ta cùng đi nhé?”
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Nicole mở cửa căn hộ của con bé và mời tôi vào. Rõ ràng là con bé đang  tò mò về lý do tại sao tôi đến. “Vậy bố muốn nói về chuyện gì thế ạ?”
Tôi không chắc làm thế nào để bắt đầu. “Điều này s�� nghe có vẻ lạ.”
“Vâng,” con bé nói.
Tôi kể cho Nicole nghe về việc tôi đã dùng Remem để xem lại một phần của lifelog, và đã thấy trận tranh cãi của chúng tôi khi con bé mười sáu tuổi, sự việc đã kết thúc bằng việc tôi la mắng con bé và con bé rời khỏi nhà. “Con nhớ ngày hôm đó chứ?”
“Tất nhiên con nhớ rồi ạ.” Con bé có vẻ khó chịu, không chắc là tôi định dẫn dắt câu chuyện đến đâu.
“Bố cũng có nhớ, hoặc ít nhất, nghĩ là bố có nhớ. Nhưng bố đã nhớ chuyện đó rất khác. Bố nhớ rằng, chính con mới là người nói thế với bố.”
“Con đã nói gì cơ ạ?”
“Bố nhớ con đã nói với bố rằng bố có thể rời đi vì con cũng sẽ không quan tâm, và con sẽ sống tốt hơn nếu không có bố.”
Nicole nhìn tôi rất lâu. “Suốt những năm qua, đó là cách bố nhớ về ngày đó sao?”
“Ừ, cho đến tận ngày hôm nay.”
“Điều đó sẽ nghe có vẻ hài hước đấy ạ, nếu chuyện cũ không buồn như vậy.”
Tôi cảm thấy như muốn phát bệnh. “Bố rất xin lỗi con. Bố không thể nói hết được bố ân hận như thế nào.”
“Bố xin lỗi vì bố đã nói điều đó, hay xin lỗi vì tưởng nhầm con nói?”
“Cả hai chuyện đó.”
“Bố nên thấy có lỗi! Bố có biết chuyện đó khiến con cảm thấy như thế nào không?”
“Bố không thể hình dung ra. Bố biết mình cảm thấy thật tệ khi nghĩ rằng con nói điều đó với bố.”
“Ngoại trừ việc suy nghĩ đó chỉ là do bố bịa ra. Còn chuyện xảy ra với con là chuyện thật. “Con bé lắc đầu, như thể vẫn không tin vào tai mình. “Chuyện thường vãi luôn.”
Lời nói đó nghe mà đau lòng. “Vậy hả con? Con nói thật chứ?”
“Chắc chắn rồi,” con bé nói. “Bố luôn cư xử như bố là nạn nhân, như bố là người tốt mà xứng đáng được đối xử tốt hơn vậy.”
“Con nói như là bố bị ảo tưởng vậy.”
“Bố không ảo tưởng. Chỉ mù quáng và ích kỷ thôi.”
Tôi có chút nổi giận. “Thì bố đang cố gắng xin lỗi đây.”
“Vâng, vâng. Chuyện này là về bố cả.”
“Không, con nói đúng, bố xin lỗi.” Tôi đợi đến khi Nicole ra hiệu cho tôi nói tiếp. “Bố nghĩ mình thật… mù quáng và ích kỷ. Lý do mà rất khó để bố thừa nhận chuyện đó là vì bố nghĩ bố đã vượt qua được nó.”
Con bé nhăn mặt. “Cái gì ạ?”
Tôi kể cho con bé tôi đã cảm thấy thế nào khi thay đổi để trở thành người cha tốt và hàn gắn lại mối quan hệ của hai bố con, nhất là khoảnh khắc thân thiết khi con bé tốt nghiệp đại học. Nicole không công khai chế giễu, nhưng biểu cảm của con bé khiến tôi ngừng nói; rõ ràng là tôi đã tự làm mình xấu hổ.
“Lúc con tốt nghiệp con vẫn còn ghét bố sao?” Tôi hỏi. “Có phải là bố đã tự nghĩ ra chuyện bố và con hòa hợp với nhau phải không?”
“Không, bố con mình đã rất hòa thuận ở lễ tốt nghiệp. Nhưng đó không phải là vì bố trở thành người cha tốt một cách thần kỳ.”
“Thế lúc đó là vì điều gì?”
Con bé dừng lại, hít một hơi thật sâu, rồi nói, “Con bắt đầu đi trị liệu tâm lý khi lên đại học.” Con bé dừng lại lần nữa. “Cô ấy đã cứu sống cuộc đời con.”
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là, tại sao Nicole phải cần trị liệu tâm lý? Tôi gạt chuyện đó sang một bên và nói, “Bố không hề biết rằng ngày đó con phải điều trị đấy.”
“Tất nhiên là bố không biết rồi; con có kể chuyện đó với cả thế giới thì cũng chưa chắc đã kể cho bố đâu. Dù sao thì, lúc con là sinh viên năm cuối, cô ấy đã thuyết phục con rằng sẽ tốt hơn nếu không giận bố. Đó là lý do vì sao bố và con rất hòa thuận với nhau trong lễ tốt nghiệp.”
Vậy là quả thực tôi đã bịa ra câu chuyện có chút tương đồng với sự thật. Nicole đã phải gánh lấy tất cả công việc hàn gắn, còn tôi thì chẳng làm gì hết.
“Bố nghĩ mình đã không thực sự hiểu con.”
Con bé nhún vai. “Bố hiểu con đủ mức bố cần rồi ạ.”
Điều đó nghe cũng đau lòng, nhưng tôi không thể oán trách. Tôi nói, “Con xứng đáng có được nhiều hơn như vậy.”
Nicole nở một nụ cười ngắn, buồn rầu. “Bố biết không, khi con còn trẻ, con đã từng ước bố nói như thế. Nhưng bây giờ thì, câu nói đó không thể sửa chữa mọi chuyện, phải không ạ?”
Tôi nhận ra rằng mình đã hy vọng con bé sẽ tha thứ cho tôi ngay lập tức, và sau đó mọi chuyện sẽ tốt lên. Nhưng sẽ cần nhiều hơn là một lời xin lỗi của tôi để hàn gắn mối quan hệ của chúng tôi.
Tôi chợt nhận ra một điều gì đó. “Bố không thể thay đổi những điều tôi đã làm, nhưng ít nhất bố có thể ngừng giả vờ rằng bố không gây ra chúng. Bố sẽ sử dụng Remem để có được hình ảnh trung thực về bản thân, và tạo ra một bản tóm tắt cá nhân.”
Nicole nhìn tôi, đánh giá sự chân thành của tôi. “Được rồi,” con bé nói. “Nhưng hãy rõ ràng là: bố không chạy đến chỗ con mỗi khi bố cảm thấy có lỗi vì đã đối xử với con rất tệ bạc nhé. Con đã phải rất nỗ lực  để vượt qua điều đó và con sẽ không nhớ lại nó chỉ bố có thể cảm thấy tốt hơn về bản thân mình đâu.”
“Tất nhiên.” Tôi thấy rằng con bé đang rưng rưng. “Và bố lại làm con buồn khi kể lại tất cả những điều này. Bố xin lỗi con.”
“Không sao đâu, bố. Con đánh giá cao những gì bố đang cố gắng làm. Chỉ là… chúng ta đừng làm điều đó một thời gian, được không ạ?”
“Được.” Tôi đi về phía cửa để rời đi, và sau đó dừng lại. “Bố chỉ muốn hỏi… nếu được, liệu bố có thể làm gì để bù đắp…”
“Bù đắp?” Con bé trông có vẻ hoài nghi. “Con không biết. Chỉ là bố hãy để tâm hơn, được không ạ?”
Và đó là những gì tôi đang cố gắng làm.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Tại trụ sở của chính phủ quả nhiên đã có giấy tờ lưu giữ từ bốn mươi năm trước, cái mà người châu Âu gọi là “báo cáo đánh giá,” và sự hiện diện của Moseby là đủ để chúng tôi được phép vào trong. Hồ sơ được viết theo ngôn ngữ châu Âu mà Jijingi không thể đọc được, nhưng chúng bao gồm các gia phả của nhiều gia tộc khác nhau, và cậu có thể nhận ra những tên người Tiv một cách dễ dàng, và Moseby cũng đã xác nhận rằng cách giải thích của ông là chính xác. Các bô lão bên nông trại phía tây đã đúng, và Sabe đã sai: Shangev không phải con trai của Kwande, mà là con trai của Jechira.
Một người đàn ông ở trụ sở chính phủ đã đồng ý gõ một bản sao của trang báo cáo liên quan để Jijingi có thể mang theo. Moseby quyết định sẽ ở lại Katsina-Ala để thăm những nhà truyền giáo ở đó, nhưng Jijingi thì về ngay. Cậu cảm thấy mình như một đứa trẻ mất kiên nhẫn trên đường về nhà, ước gì mình có thể đi xe tải suốt quãng đường trở về thay vì phải đi bộ từ đường cao tốc. Ngay khi về đến làng, Jijingi đến tìm Sabe.
Cậu tìm thấy Sabe trên con đường dẫn tới một nông trại kế bên, vài người hàng xóm đã chặn  Sabe lại để ông ấy giải quyết tranh chấp về cách phân phát dê con của một con dê mẹ. Cuối cùng, họ cũng hài lòng, và Sabe tiếp tục đi bộ. Jijingi đi bên cạnh ông ấy.
“Chào mừng cháu trở lại,” Sabe nói.
“Ông Sabe, cháu vừa đi Katsina-Ala về.”
“Ồ, sao cháu lại đến đó?”
Jijingi đưa cho ông tờ giấy. “Tờ giấy này đã viết cách đây rất lâu rồi, khi người châu Âu lần đầu đặt chân đến đây. Sau đó họ nói chuyện với các bô lão của gia tộc Shangev, và khi kể về lịch sử của tộc Shangev, các bô lão bảo Shangev là con trai của Jechira.”
Phản ứng của Sabe rất nhẹ nhàng. “Người châu Âu đã hỏi ai vậy?”
Jijingi nhìn vào tờ giấy. “Batur và Iorkyaha ạ.”
“Ta nhớ ra họ rồi,” Sabe gật đầu. “Họ là những người rất thông thái. Họ sẽ không nói những điều như vậy."
Jijingi chỉ vào dòng chữ trên giấy. “Nhưng họ đã nói như thế ạ!”
“Có lẽ cháu đang đọc sai mất rồi.”
“Cháu không sai! Cháu biết đọc mà.”
Sabe nhún vai. “Tại sao cháu lại mang tờ giấy này trở lại đây?”
“Vì những gì viết trong tờ giấy này rất quan trọng. Điều đó có nghĩa là chúng ta nên gia nhập gia tộc Jechira một cách chính đáng.”
“Cháu nghĩ cả gia tộc sẽ tin vào quyết định của cháu về chuyện này à?”
“Cháu không đòi hỏi mọi người phải tin cháu. Cháu muốn họ tin những người từng là trưởng lão khi ông còn trẻ.”
“Đúng là họ nên làm thế. Nhưng những người đó không ở đây. Những gì cháu có chỉ là tờ giấy này mà thôi.”
“Giấy này sẽ nói cho chúng ta biết ý muốn nói của họ nếu họ có mặt ở đây.”
“Thật ư? Một người sẽ không chỉ nói một điều như vậy. Nếu Batur và Iorkyaha ở đây, họ sẽ đồng ý với ta rằng chúng ta nên gia nhập gia tộc Kwande.”
“Sao họ đồng ý được ạ, khi Shangev là con trai Jechira?” Cậu chỉ vào tờ giấy. “Người Jechira mới là họ hàng gần gũi hơn của ta.”
Sabe dừng bước và quay mặt về phía Jijingi. “Những câu hỏi về quan hệ họ hàng không thể giải quyết bằng giấy tờ được. Cháu trở thành  thư lại vì Mashio của gia tộc Kwande đã cảnh báo ta về đám thanh niên trường truyền giáo. Mashio sẽ không để ý đến chúng ta nếu chúng ta không cùng một cha. Vị trí của cháu là minh chứng cho việc gia tộc ta gần gũi với nhau thế nào, nhưng cháu đã quên điều đó. Cháu trông cậy vào  giấy tờ để biết những gì lẽ ra cháu phải biết, tại đây.” Sabe vỗ vào ngực mình. “Cháu nghiên cứu giấy tờ nhiều đến mức cháu đã quên người Tiv là thế nào rồi sao?”
Jijingi định mở miệng phản đối thì cậu nhận ra Sabe nói đúng. Toàn bộ thời gian cậu dành học viết đã khiến bản thân suy nghĩ giống một người châu Âu. Cậu đã tin tưởng những gì được viết trên giấy hơn những gì được mọi người nói, và đó không phải là cung cách của người Tiv.
Bản báo cáo đánh giá của người châu Âu rất chính xác, nhưng chưa đủ để trả lời câu hỏi. Lựa chọn nên gia nhập gia tộc nào cần phải phù hợp với cộng đồng, nó phải được dựa trên mimi. Và chỉ các bô lão mới xác định được cái gì là mimi; trách nhiệm của họ là quyết định xem đâu là lựa chọn tốt nhất cho gia tộc Shangev. Việc yêu cầu Sabe tuân theo giấy tờ cũng chính là yêu cầu ông hành động chống lại những gì bản thân ông cho là đúng đắn.
“Ông nói đúng ạ,” Jijingi nói. “Hãy tha thứ cho cháu. Ông lớn tuổi hơn cháu, và cháu đã sai khi cho rằng một tờ giấy có thể biết nhiều hơn ông.”
Sabe gật đầu và tiếp tục rảo bước. “Cháu được tự do làm điều mình muốn, nhưng ta tin việc cho người khác xem tờ giấy đó có hại hơn là có lợi.”
Jijingi xem xét lại tờ giấy. Các bô lão bên nông trại phía tây chắc chắn sẽ biện hộ rằng bản báo cáo đánh giá ủng hộ quan điểm của họ, kéo dài cuộc tranh luận mà vốn đã diễn ra quá lâu. Nhưng hơn thế, nó sẽ đưa người Tiv đi xuống con đường coi giấy tờ là nguồn gốc của sự thật; đó sẽ là một dòng chảy khác, ở đó những cách thức cũ bị cuốn trôi, và cậu chẳng thể thấy lợi ích gì trong chuyện đó cả.
“Cháu đồng ý ạ,” Jijingi nói. “Cháu sẽ không cho ai xem tờ giấy này đâu.”
Sabe gật đầu.
Jijingi đi bộ về lều của mình, nghĩ lại chuyện đã xảy ra. Thậm chí không học trường truyền giáo, cậu cũng đã bắt đầu suy nghĩ như một người châu Âu, việc luyện tập viết lách đã khiến cậu thiếu tôn trọng những người lớn tuổi mà thậm chí còn không ý thức được điều đó. Viết lách giúp Jijingi suy nghĩ thấu đáo hơn, cậu không thể phủ nhận điều này; nhưng đó không phải lý do chính đáng để cậu tin tưởng những chữ viết trên giấy hơn mọi người.
Là một thư lại, cậu ấy phải giữ sổ ghi chép về những quyết định của Sabe trong phiên tòa bộ lạc. Nhưng cậu không cần giữ những quyển sổ khác nữa, những quyển mà cậu đã viết ra suy nghĩ của mình. Jijingi sẽ dùng chúng làm bùi nhùi nhóm lửa.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Chúng ta thường không nghĩ như vậy, nhưng viết chính là một công nghệ, đồng nghĩa với việc một người biết chữ là người có những suy nghĩ được thực hiện qua trung gian của công nghệ. Ch��ng ta dần trở thành những người máy có nhận thức ngay khi trở thành người đọc thông thạo, và điều đó đã gây ra những  hậu quả sâu sắc.
Trước khi một nền văn hóa chấp nhận việc sử dụng chữ viết, khi kiến ​​thức của nó được truyền tải hoàn toàn qua các phương tiện truyền khẩu, thì có thể rất dễ dàng sửa đổi lịch sử. Việc đó không phải là cố ý, mà là điều không thể tránh khỏi; trên khắp thế giới, những nhà thơ và người kể chuyện điều chỉnh tư liệu của mình cho phù hợp với khán giả, do đó cũng dần điều chỉnh quá khứ để hợp với nhu cầu hiện tại. Ý tưởng rằng những ghi chép về quá khứ không nên thay đổi chính là sản phẩm của niềm tôn kính mà một nền văn hoá chữ viết dành cho từ ngữ được viết ra. Các nhà nghiên cứu về nhân loại sẽ nói cho ta biết văn hóa truyền miệng hiểu quá khứ theo một cách khác; đối với họ, lịch sử không cần phải chính xác mà họ chỉ cần xác nhận sự hiểu biết của cộng đồng về chính bản thân họ. Vì thế, sẽ là sai lầm nếu nói rằng lịch sử của họ không đáng tin; lịch sử chỉ cần thực hiện đúng vai trò của nó mà thôi.
Hiện nay, mỗi chúng ta đều là một văn hóa truyền khẩu riêng. Chúng ta sửa lại quá khứ để phù hợp với nhu cầu và ăn khớp với câu chuyện ta kể về bản thân. Với ký ức của mình, chúng ta đều phạm phải tội  sử dụng cách giải thích kiểu sử học Whig về quá khứ của bản thân, coi bản thân trước đây như là bước đệm để trở thành một bản ngã huy hoàng như hiện tại.
Nhưng kỷ nguyên đó sắp kết thúc. Remem chỉ là phát minh đầu tiên của một thế hệ mới về bộ nhớ giả, và khi những sản phẩm này được áp dụng rộng rãi, chúng ta sẽ thay thế trí nhớ hữu cơ dễ điều chỉnh của chúng ta bằng các kho lưu trữ kỹ thuật số hoàn hảo. Chúng ta sẽ có một bản ghi về những gì mình thực sự làm thay vì những câu chuyện phát triển từ những lời kể lặp đi lặp lại. Trong tâm trí của mình, mỗi chúng ta sẽ chuyển đổi từ văn hóa truyền miệng sang văn hóa viết chữ.
Tôi sẽ dễ dàng khẳng định rằng văn hóa biết chữ tốt hơn văn hóa truyền miệng, nhưng thành kiến ​​của tôi khá rõ ràng, vì tôi đang viết chứ không phải nói với bạn. Thay vào đó, tôi sẽ nói rằng tôi dễ dàng đánh giá cao lợi ích của việc học chữ và khó có thể nhận ra thứ mà nó khiến ta phải trả giá. Kỹ năng đọc viết khuyến khích một nền văn hóa đặt nhiều giá trị hơn vào tư liệu và ít dựa vào kinh nghiệm chủ quan, và nhìn chung tôi thấy được nhiều mặt lợi hơn mặt hại. Hồ sơ bằng văn bản vẫn có thể mắc phải đủ loại lỗi và cách giải thích của chúng có thể thay đổi, nhưng ít nhất các từ ngữ trên trang giấy vẫn cố định, và đó thực sự là một điều đáng ngợi ca.
Khi nhắc đến những kí ức cá nhân, tôi có quan điểm đối lập mọi người. là một người có danh tính xây dựng dựa trên trí nhớ hữu cơ, tôi bị đe dọa bởi viễn cảnh loại bỏ tính chủ quan khi nhớ lại các sự kiện của mình. Tôi đã từng nghĩ rằng việc các cá nhân kể chuyện về bản thân họ thật đáng giá, đáng giá theo cách mà các nền văn minh không thể có được, và tôi chính là sản phẩm của thời đại, và rồi thời thế thay đổi. Chúng ta không thể ngăn cản việc áp dụng bộ nhớ kĩ thuật cũng như văn hóa truyền miệng không thể ngăn được sự xuất hiện của việc đọc viết, vậy nên điều tốt nhất tôi có thể làm là tìm cho mình điều gì đó tích cực trong sự thay đổi này.
Và tôi nghĩ tôi đã tìm ra lợi ích thực sự của bộ nhớ kỹ thuật số. Vấn đề không phải để chứng minh mình đúng; mà để thừa nhận rằng bạn đã sai.
Bởi vì tất cả chúng ta đều đã sai trong những hoàn cảnh khác nhau, vướng vào tội ác và đạo đức giả, và chúng ta đều đã quên hầu hết những trường hợp đó. Điều đó có nghĩa là chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu bản thân mình. Liệu tôi có thể hiểu được về bản thân khi tôi còn không tin vào trí nhớ của mình? Liệu bạn có thể không? Có lẽ bạn đang nghĩ rằng, dù cho trí nhớ của mình không hoàn hảo, bạn chẳng bao giờ làm chuyện đổi trắng thay đen nghiêm trọng như chuyện tôi đã làm cả. Nhưng tôi cũng từng chắc chắn như bạn, và tôi đã sai. Có thể bạn sẽ nói, “Tôi biết tôi không hề hoàn bảo. Tôi đã phạm phải sai lầm.” Và tôi ở đây để nói với bạn rằng bạn phạm sai lầm nhiều hơn bạn nghĩ, rằng một số giả định cốt lõi để xây dựng hình ảnh bản thân của bạn thực sự là dối trá. Hãy dành thời gian sử dụng Remem, và bạn sẽ nhận ra điều đó.
Nhưng lý do mà giờ đây tôi khuyên bạn nên dùng Remem không phải vì những ký ức đáng xấu hổ nó gợi ra từ quá khứ của bạn; mà để tránh việc bạn phải dùng những thứ đó trong tương lai. Trí nhớ hữu cơ là thứ đã cho phép tôi tạo ra lời tự sự được tẩy trắng về kỹ năng nuôi dạy con cái của mình, nhưng từ giờ khi sử dụng bộ nhớ kỹ thuật số, tôi hi vọng sẽ để việc đó không xảy ra. Sự thật về cách cư xử của tôi sẽ không bị người khác chỉ ra  trước mặt tôi, khiến tôi trở nên tự ái; nó thậm chí sẽ không phải là một cái gì đó tôi sẽ phát hiện ra như một cú sốc cá nhân, thúc đẩy việc đánh giá lại. Với việc Remem chỉ cung cấp những sự thật một cách minh bạch, hình ảnh của tôi về bản thân sẽ không bao giờ đi quá xa sự thật ngay từ đầu.
Bộ nhớ kỹ thuật số không ngăn cản ta kể chuyện về bản thân mình. Như tôi đã nói trước đó, chúng ta được tạo nên từ những câu chuyện, và không gì có thể thay đổi được điều đó. Những gì bộ nhớ kỹ thuật làm chỉ là thay đổi những chuyện mà ta đã dẫn dắt theo hướng nhấn mạnh cái tốt và loại bỏ cái xấu mình đi, thành những câu chuyện - tôi hy vọng - thừa nhận khả năng sai lầm của bản thân và giúp ta ít phán xét khả năng sai lầm của người khác.
Nicole cũng đã bắt đầu sử dụng Remem, và khám phá ra rằng hồi ức của con bé về những sự kiện cũng không phải hoàn hảo. Điều đó không làm cho Nicole tha thứ tôi về cách cư xử của tôi với con bé, bởi vì những sai lầm của con bé so với tôi chỉ là chuyện nhỏ - nhưng đã làm con bé nguôi giận trước hành động nhớ nhầm của tôi, vì Nicole nhận ra rằng đó là điều mà ai cũng mắc phải. Và tôi thật xấu hổ phải thừa nhận rằng đây chính xác là viễn cảnh mà Erica Meyers đã dự đoán khi cô ấy nói về ảnh hưởng của Remem lên các mối quan hệ.
Điều đó không có nghĩa là tôi đã thay đổi suy nghĩ về những mặt trái của bộ nhớ kỹ thuật số; thực sự có rất nhiều tác hại, và mọi người cần nhận thức được tác hại đó. Tôi chỉ không nghĩ rằng tôi có thể tranh luận về việc này trên mọi phương diện khách quan được nữa. Tôi đã bỏ bài báo tôi định viết về trí nhớ giá; tôi cũng đã chuyển giao nghiên cứu tôi làm cho đồng nghiệp, và cô ấy đã viết một bài báo tuyệt vời về ưu nhược điểm của phần mềm, một bài báo đầy lý trí, không có sự trăn trở hay tự vấn lương tâm vốn sẽ được thể hiện trong mọi câu từ tôi viết. Thay vào đó, tôi đã viết ra câu chuyện này này.
Câu chuyện mà tôi đưa ra về người Tiv là dựa trên thực tế, nhưng không hoàn toàn chính xác. Thực sự đã có một cuộc tranh chấp giữa cộng đồng người Tiv vào năm 1941 về việc gia tộc Shangev nên gia nhập cùng ai, dựa trên những ý kiến khác nhau về tổ tiên của người sáng lập gia tộc, và các hồ sơ hành chính đã chỉ ra rằng câu chuyện mà các trưởng lão kể về gia phả của mình đã thay đổi theo thời gian. Nhưng nhiều chi tiết cụ thể mà tôi miêu tả là bịa đặt. Những sự kiện có thật phức tạp hơn và ít kịch tính hơn, như cái cách thực tế vẫn luôn như vậy, nên tôi có quyền tự do để tạo nên câu chuyện hay hơn. Tôi kể một câu chuyện để làm sáng tỏ sự thật. Và tôi nhận ra sự mâu thuẫn ở đây.
Đối với lời kể về cuộc tranh cãi của tôi với Nicole, tôi đã cố gắng kể chính xác nhất có thể. Tôi đã ghi lại mọi thứ kể từ khi bắt đầu làm việc với dự án này, và tôi đã tham khảo nhiều lần các bản ghi khi viết nó. Nhưng trong lựa chọn của tôi về chi tiết nào nên thêm vào và chi tiết nào nên bỏ qua, có lẽ tôi đã tạo ra một câu chuyện khác. Bất chấp nỗ lực vững vàng của tôi, có phải tôi đã tự huyễn hoặc bản thân bằng cách miêu tả này không? Có phải tôi đã bóp méo sự thật để chúng theo vòng cung được mong đợi về một lời thú nhận? Cách duy nhất bạn có thể đánh giá là so sánh chuyện kể của tôi với chính các bản ghi, vì vậy tôi đang làm một việc mà tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm: với sự cho phép của Nicole, tôi cấp quyền truy cập công khai vào lifelog của mình, chẳng hạn vậy. Hãy xem video và tự quyết định.
Và nếu bạn vẫn nghĩ tôi chưa đủ thành thật, hãy nói với tôi. Tôi muốn được biết.
Hết
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Nhi
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Tác giả Ted Chiang (Ảnh: The Guardian)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
Kỳ ảo // Fantasy
(Bạn vui lòng click vào tên truyện để đọc nhé!)
1. Những hành tinh vô hình (Hác Cảnh Phương, 2010)
“Chúng ta chỉ là những kẻ lữ hành, hát những bài hát với ý nghĩa đã phai mờ, lang thang giữa bầu trời đêm đen.”
Trong Những hành tinh vô hình, một người mẹ kể cho cô con gái nhỏ của mình mười một câu chuyện về mười một hành tinh muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ. Ở những hành tinh ấy, có nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, có nơi địa lý, khí hậu độc đáo, có nơi lại sản sinh ra những nền văn minh kỳ lạ. Cứ sau mỗi một chuyến hành trình đến một hành tinh mới, hai mẹ con người kể chuyện, cũng như chính mỗi độc giả, dường như lại hiểu ra thêm một điều gì đó về thế giới mà chính chúng ta đang sống.
Lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Những thành phố vô hình của văn hào Ý Italo Calvino, Hác Cảnh Phương đã viết nên một câu chuyện cuốn hút, biến ảo khôn lường nhưng cũng rất dịu dàng và đầy chất thơ.
2. Lễ hội Số Chín (Caroline M. Yoachim, 2017)
“Một trăm ngày, rồi một trăm ngày nữa, và trên những chuyến tàu, thời gian thấm thoát thoi đưa.”
Lễ hội Số Chín kể về cuộc đời của một cô gái trong một cộng đồng người “sống” nhờ các vòng dây cót. Hàng ngày, họ được một vị chế tác gia bí ẩn “ban” cho một số vòng nhất định - ngày ít, ngày nhiều - và mỗi người đều phải học cách tận dụng số vòng đó một cách trọn vẹn nhất. Thế nhưng, liệu bao nhiêu vòng là đủ, khi mà trong cuộc đời mỗi người có quá nhiều công việc cần phải hoàn thành, quá nhiều ước mơ cần phải đạt đến, và quá nhiều lỗi lầm cần phải được sửa chữa?
Với truyện ngắn này, Caroline M. Yoachim mang đến một phép ẩn dụ đầy xúc động về những giới hạn khắc nghiệt của một kiếp người, và về ý nghĩa của việc sống từng ngày một cách trọn vẹn nhất.
3. Phi hành gia tiên cá (Yoon Ha Lee, 2020)
“Nàng tiên cá đặc biệt này tự đặt tên cho mình là Essarala, có nghĩa là tìm kiếm các vì sao, theo ngôn ngữ của thủy triều và bọt biển.”
Ở một thế giới rộng lớn và kỳ thú giữa một thiên hà rộng lớn và kỳ thú, nàng tiên cá Essarala ôm trong lòng giấc mộng được du ngoạn giữa các vì sao. Khi một con tàu vũ trụ đáp xuống hành tinh quê hương của nàng, Essarala đã chấp nhận đánh đổi chiếc đuôi cá của mình với mụ phù thủy để có được cơ hội thỏa niềm ước ao bấy lâu. Điều nàng không ngờ đến là, vũ trụ có những quy tắc quá lớn lao lẫn quá khắc nghiệt, và một tiên cá nhỏ bé như nàng chẳng thể làm gì để thay đổi được chúng...
Phi hành gia tiên cá của Yoon Ha Lee là một phiên bản kể lại đầy thú vị câu chuyện cổ tích thiếu nhi nổi tiếng Nàng tiên cá của Hans Christian Andersen, nhưng lấy bối cảnh giữa những vì sao, và mang đến cho người đọc những góc nhìn mới, những ý nghĩa mới.
4. Thư viện nhỏ miễn phí (Naomi Kritzer, 2020)
“Meigan dựng lên một Thư viện nhỏ miễn phí với vài thứ đồ nghề, bởi cô muốn khiến nó đẹp mắt hơn.”
Xuất phát từ tình yêu dành cho những cuốn sách, Meigan đã quyết định dựng lên một chiếc tủ sách nhỏ đặt trước cửa nhà để có thể trao đổi sách với mọi người. Điều cô không ngờ là, chiếc Thư viện nhỏ miễn phí ấy lại là khởi nguồn cho tình bạn lạ lùng giữa cô với một nhân vật bí ẩn...
Bằng giọng văn dí dỏm, Naomi Kritzer mang đến một câu chuyện hài hước, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy sức lôi cuốn, đặc biệt là đối với cộng đồng mọt sách.
5. Ngôi nhà hoang trên đồi ma ám (John Wiswell, 2020)
“Nếu trên đời có bất cứ điều gì kiên nhẫn được như cha mẹ, đó là những chuyện ma ám.”
Số 133 đại lộ Poisonwood là một ngôi nhà cô đơn. Cô đơn đến mức nó sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lại có người sống bên trong nó một lần nữa. Thế nhưng khi chứng kiến sự xa cách giữa một người bố và đứa con gái nhỏ sau cái chết của người vợ/người mẹ của gia đình họ, liệu 133 Poisonwood có s���n sàng đánh đổi cơ hội thoát khỏi nỗi cô đơn để giúp hàn gắn tình cảm giữa hai bố con hay không?
Ngôi nhà hoang trên đồi ma ám, chủ nhân của giải thưởng Nebula năm 2021, là một câu chuyện kỳ lạ nhưng vô cùng ấm áp về tình cảm gia đình, và về cái cách mỗi chúng ta đều có thể chọn lựa sự thiện lương trong đời.
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Đời người - Lưu Từ Hân
Tumblr media
Về tác giả
Lưu Từ Hân (刘慈欣/Liu Cixin, sinh năm 1963) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Trung Quốc. Ông được coi là một trong những nhà văn sáng giá nhất của dòng truyện khoa học viễn tưởng Trung Quốc ở thời điểm hiện tại. Sáng tác nổi tiếng nhất của ông là bộ ba tác phẩm Vãng sự địa cầu, bao gồm các tiểu thuyết Tam thể, Khu rừng đen tối, Tử thần sống mãi (đã được dịch và phát hành ở Việt Nam).
Về tác phẩm
Đời người (bản Trung: 人生 - Nhân sinh; bản Anh: The Weight of Memories - Gánh nặng ký ức) là một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của Lưu Từ Hân. Truyện được Ken Liu chuyển ngữ và đăng tải trên tạp chí Tor vào ngày 17/08/2016.
»»-------------¤-------------««
Mẹ: Con à, con có nghe thấy mẹ không?
Thai nhi: Đây là đâu?
Mẹ: Ôi, tốt quá! Con có thể nghe thấy mẹ. Mẹ là mẹ của con đây.
Thai nhi: Mẹ! Con thực sự đang ở trong bụng mẹ sao? Con đang trôi trong nước . . .
Mẹ: Đó gọi là à-ừm-nước ối. Thật là một từ khó, mẹ biết. Mẹ cũng chỉ mới học nó hôm nay thôi.
Thai nhi: Có tiếng gì vậy? Giống như có tiếng sấm ở xa.
Mẹ: Đó là nhịp tim của mẹ đấy. Con đang ở bên trong mẹ mà, nhớ chứ?
Thai nhi: Con thích nơi này; Con muốn ở đây mãi mãi.
Mẹ: Ha, không thể đâu con! Con rồi sẽ được sinh ra thôi.
Thai nhi: Không! Ngoài đó đáng sợ lắm.
Mẹ: Ồ . . . ta sẽ nói về chuyện ấy sau nhé.
Thai nhi: Sợi dây gắn vào bụng con là gì vậy mẹ?
Mẹ: Đó là dây rốn của con. Khi con còn trong bụng mẹ, con cần nó để sống sót.
Thai nhi: Hmmm. Mẹ ơi, mẹ chưa bao giờ tới chỗ của con, phải không?
Người mẹ: Mẹ đã từng tới! Trước khi sinh ra, mẹ cũng từng ở bên trong bụng mẹ của mẹ. Ngoại trừ việc mẹ không nhớ ở đó như thế nào, và vậy nên con cũng không thể nhớ đâu. Con yêu, trong bụng mẹ có tối không? Con có thấy gì không?
Thai nhi: Có một quầng sáng yếu ớt từ bên ngoài. Một thứ ánh sáng màu cam đỏ, giống như màu của bầu trời khi mặt trời lặn khuất núi ở làng Tây Sáo vậy.
Người mẹ: Con nhớ làng Tây Sáo sao? Đó là nơi mẹ sinh ra! Vậy chắc con phải nhớ mẹ trông như thế nào hả?
Thai nhi: Con biết mẹ trông như thế nào. Con còn biết mẹ trông như thế nào khi còn nhỏ. Mẹ ơi, mẹ có nhớ lần đầu tiên mẹ nhìn thấy chính mình không?
Người mẹ: Ồ, mẹ không nhớ nữa. Mẹ đoán chắc phải là từ gương nhỉ? Ông ngoại con có một tấm gương bị vỡ làm ba mảnh được ông ấy dán lại—
Thai nhi: Không, không phải cái đó, mẹ à. Mẹ đã thấy mình lần đầu tiên khi được phản chiếu trong nước.
Người mẹ: Ha-ha . . . mẹ không nghĩ vậy đâu. Tây Sáo ở Cam Túc, một vùng của sa mạc Gobi. Bọn mẹ luôn thiếu nước, và cát bụi luôn bị gió thổi bay đầy trời.
Thai nhi: Đúng vậy. Ông bà ngoại phải đi hàng cây số mỗi ngày để mang nước về. Một ngày kia, ngay sau khi mẹ vừa tròn năm tuổi, mẹ đã đi tới giếng cùng bà ngoại. Trên đường về, mặt trời đã lên cao, và nhiệt độ nóng gần như không thể chịu được. Mẹ đã rất khát, nhưng mẹ không dám xin uống nước từ xô của bà ngoại vì mẹ sợ bà sẽ mắng mẹ đã không uống đủ nước ở giếng. Nhưng rất nhiều dân làng đã xếp hàng ở giếng đến nỗi cả một đứa trẻ như mẹ cũng không thể chen qua họ. Đó là một năm hạn hán, và hầu hết các giếng đã cạn khô. Người dân từ cả ba ngôi làng gần đó đã đến chỉ một cái cái giếng sâu ấy để lấy nước… Dù sao thì, khi bà ngoại nghỉ ngơi trên đường về nhà, mẹ đã dựa vào bên cạnh xô nước để ngửi lấy mùi nước mát, để cảm nhận độ ẩm bốc lên khuôn mặt khô cằn của mẹ.
Người mẹ: Ừ, con yêu, giờ mẹ nhớ rồi!
Thai nhi: ... và mẹ đã thấy ảnh phản chiếu của mình trong cái xô: khuôn mặt của mẹ phủ dưới một lớp bụi, đầy những vệt mồ hôi như những cái rãnh nước mưa lõm vào mặt đất. Đó là ký ức về lần đầu tiên mẹ nhìn thấy chính mình.
Người mẹ: Nhưng sao con có thể nhớ nhiều hơn mẹ chứ?
Thai nhi: Mẹ vẫn còn nhớ, mẹ ơi; mẹ chỉ không thể gợi lại ký ức đấy nữa mà thôi. Nhưng trong tâm trí con, mọi ký ức của mẹ đều rõ ràng, rõ ràng như thể chúng chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy.
Người mẹ: Mẹ không biết phải nói gì…
Thai nhi: Mẹ ơi, con cảm thấy có ai khác ngoài kia với mẹ. 
Người mẹ: Ừ, đúng vậy, đó là bác sĩ Oánh. Cô ấy đã thiết kế ra chiếc máy này để giúp chúng ta nói chuyện với nhau, mặc dù con không thực sự có thể nói trong khi đang trôi nổi trong nước ối.
Thai nhi: Con biết cô ấy! Cô ấy lớn tuổi hơn mẹ một chút. Cô mang kính và mặc một chiếc áo khoác trắng dài.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh là một người tuyệt vời và đầy tri thức. Cô ấy là một nhà khoa học.
Bác sĩ Oánh: Xin chào!
Thai nhi: Chào cô? Ừm… cháu nghĩ cô nghiên cứu về não bộ ạ?
Bác sĩ Oánh: Đúng rồi. Cô là một nhà thần kinh học—là người nghiên cứu về cách não bộ tạo ra suy nghĩ và lưu giữ ký ức. Một bộ não người sở hữu khả năng lưu trữ thông tin khổng lồ,  với số lượng tế bào thần kinh nhiều hơn số lượng các ngôi sao trong Dải Ngân hà. Nhưng phần lớn công suất của bộ não dường như không được sử dụng. Chuyên môn của cô là nghiên cứu những phần bị bỏ phí ấy. Bọn cô phát hiện ra rằng những phần não mà chúng ta nghĩ là trống rỗng thực ra chứa một lượng thông tin khổng lồ. Chỉ gần đây thôi, bọn cô mới phát hiện ra rằng đó là những ký ức từ tổ tiên chúng ta. Con có hiểu những gì cô vừa nói không, con trai?
Thai nhi: Cháu khá hiểu. Cháu biết cô đã giải thích điều này cho mẹ nhiều lần rồi. Những chỗ nào mẹ hiểu thì cháu cũng hiểu.
Bác sĩ Oánh: Trên thực tế, sự kế thừa ký ức rất phổ biến ở nhiều loài khác nhau. Ví dụ, nhiều mô hình nhận thức mà chúng ta gọi là “bản năng”—chẳng hạn như kiến ​​thức của nhện về cách dệt mạng hoặc hiểu biết của ong về cách xây tổ— thực ra chỉ là những ký ức được kế thừa. Khả năng thừa kế ký ức mới được phát hiện ở con người thậm chí còn hoàn thiện hơn so với các loài khác. Lượng thông tin liên quan quá cao để được truyền lại qua mã di truyền; thay vào đó, các ký ức được mã hóa ở cấp độ nguyên tử bên trong DNA, thông qua các trạng thái lượng tử ở nguyên tử. Điều này liên quan đến việc nghiên cứu sinh học lượng tử—
Người mẹ: Bác sĩ Oánh à, điều ấy quá sức phức tạp với con tôi rồi.
Bác sĩ: Tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn để cho thằng bé biết nó may mắn thế nào so với những đứa trẻ khác thôi! Dù loài người sở hữu những ký ức di truyền, nhưng chúng thường ngủ yên và bị ẩn đi trong não. Chưa có ai từng phát hiện thậm chí cả sự hiện diện của chúng, cho đến bây giờ.
Người mẹ: Bác sĩ, hãy nhớ tôi mới chỉ học tiểu học thôi. Cô làm ơn nói đơn giản hơn đi.
Thai nhi: Sau khi học tiểu học, mẹ đã làm việc đồng áng vài năm, và rồi rời nhà để đi tìm việc làm.
Người mẹ: Phải, con yêu, đúng vậy. Mẹ không thể ở Tây Sáo nữa; kể  cả nước ở đó cũng có vị đắng. Mẹ muốn một cuộc sống khác.
Thai nhi: Mẹ đã đến vài thành phố và làm mọi công việc mà người lao động nhập cư làm: rửa bát trong nhà hàng; chăm con cho người khác; làm hộp giấy trong nhà máy; nấu ăn tại một công trường. Trong một thời gian, khi mọi thứ trở nên thực sự khó khăn, mẹ phải nhặt rác tìm đồ tái chế để bán lại…
Người mẹ: Con ngoan. Tiếp đi con. Rồi sao nữa?
Thai nhi: Mẹ đã biết hết mọi thứ con đang kể rồi mà!
Người mẹ: Con cứ kể đi. Mẹ thích nghe con nói.
Thai nhi: Mẹ đã phải vật lộn cho đến năm ngoái, khi mẹ đến phòng thí nghiệm của Bác sĩ Oánh với tư cách là một người trông coi.
Người mẹ: Ngay từ đầu, Bác sĩ Oánh đã thích mẹ. Đôi lúc, khi cô ấy đi làm sớm và thấy mẹ đang quét nhà, cô ấy dừng lại và trò chuyện, hỏi han về cuộc sống của mẹ. Một buổi sáng nọ cô ấy gọi mẹ vào văn phòng của cô.
Thai nhi: Cô ấy hỏi mẹ, “Nếu cô có thể sinh ra lần nữa, cô muốn được sinh ở đâu?”
Người mẹ: Mẹ đã đáp, “Ở đây, tất nhiên rồi! Tôi muốn được sinh ra ở một thành phố lớn và sống một cuộc sống của dân thành thị.”
Thai nhi: Bác sĩ Oánh quan sát mẹ một lúc và cười. Ấy là một nụ cười mà mẹ không thể hiểu hết được. Rồi cô ấy nói, “Nếu cô dũng cảm, tôi có thể khiến ước mơ của cô thành sự thật.
Người mẹ: Mẹ đã nghĩ cô ấy chỉ đùa thôi, nhưng rồi cô giải thích về sự di truyền ký ức cho mẹ.
Bác sĩ Oánh: Cô đã nói với mẹ cháu rằng bọn cô đã phát triển một kỹ thuật cho phép thay đổi các gen trong trứng đã thụ tinh và kích hoạt những ký ức di truyền tiềm ẩn. Nếu thành công, thế hệ kế tiếp sẽ đạt được nhiều tựu hơn bằng cách xây dựng trên cơ sở kế thừa của họ.
Người mẹ: Mẹ đã khá sốc, và mẹ đã hỏi Bác sĩ Oánh rằng, “Cô có muốn tôi sinh ra một đứa con như vậy?”
Bác sĩ Oánh: Cô đã lắc đầu và nói với mẹ cháu, “Cô sẽ không sinh ra một đứa con; thay vào đó, cô sẽ sinh ra” —
Thai nhi: —“ra chính minh.” Đó là những gì cô đã nói.
Người mẹ: Mẹ đã phải nghĩ về những gì cô ấy nói rất lâu trước khi hiểu được: Nếu một bộ não khác có chính xác ký ức hệt như của con, thì chẳng phải người đó chính là con sao? Nhưng mẹ đã không thể tưởng tượng được một đứa bé như vậy.
Bác sĩ Oánh: Cô đã giải thích cho mẹ cháu rằng đó sẽ không hoàn toàn là một đứa bé, mà là một người lớn trong cơ thể một đứa bé. Chúng sẽ có thể nói ngay khi sinh ra—hoặc, như ta đã thấy giờ với cháu, thực ra là trước cả khi sinh: chúng sẽ có thể đi và đạt thành tựu nhanh hơn rất nhiều so với những đứa bé bình thường; và vì chúng đã sở hữu toàn bộ tri thức và kinh nghiệm của một người lớn, chúng sẽ đi trước những đứa trẻ khác tới hơn hai mươi năm về mặt phát triển. Tất nhiên, chúng ta không thể chắc chắn rằng chúng là những thần đồng, nhưng con cháu của chúng chắc chắn sẽ là như vậy, bởi vì những ký ức được thừa hưởng sẽ tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sau vài thế hệ, sự di truyền ký ức sẽ dẫn đến những phép màu không tưởng! Đây sẽ là một bước nhảy vọt trong nền văn minh nhân loại, và mẹ cháu, với tư cách là người mẹ tiên phong trong cống hiến vĩ ​​đại này, sẽ được ghi nhớ trong suốt lịch sử.
Người mẹ: Và đó là cách mà mẹ đã tiến tới việc mang thai con, con yêu.
Thai nhi: Nhưng con không biết cha con là ai.
Bác sĩ Oánh: Vì lý do kỹ thuật, bọn cô đã phải dùng đến thụ tinh trong ống nghiệm. Người hiến tinh trùng yêu cầu giữ bí mật danh tính của anh ta, và mẹ cháu đã đồng ý. Trên thực tế, bé con, danh tính của ông ấy không quan trọng. So với cha của những đứa trẻ khác, đóng góp của cha cháu cho cuộc sống của cháu là không đáng kể, bởi vì tất cả những ký ức của cháu được thừa hưởng từ mẹ. 
Người mẹ (nặng nề thở dài): Cô cũng không biết những hậu quả của việc chỉ kích hoạt ký ức của mình tôi nữa.
Bác sĩ Oánh (sau một hồi lâu im lặng): Đúng vậy. Chúng tôi không hề biết.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh, tôi có một câu hỏi mà tôi chưa bao giờ dám hỏi... Cô cũng còn trẻ và không có con; tại sao cô không mang thai một đứa con như tôi?
Thai nhi: Cô Oánh, mẹ nghĩ cô rất ích kỷ đó.
Người mẹ: Đừng nói vậy, con yêu.
Bác sĩ Oánh: Không, con cô nói đúng. Cũng công bằng thôi khi cô nghĩ như vậy; tôi thực sự ích kỷ. Ngay từ đầu, tôi đã nghĩ về việc có một đứa con với những ký ức thừa hưởng, nhưng một cái gì đó khiến tôi dừng lại: Chúng tôi bị bối rối bởi bản chất ngủ yên của những ký ức được thừa hưởng ở con người. Những ký ức như vậy có ích gì nếu chúng không được sử dụng? Các nghiên cứu bổ sung cho thấy chúng giống như ruột thừa vậy, một tàn dư của quá trình tiến hóa. Tổ tiên xa xôi của con người hiện đại rõ ràng sở hữu những ký ức thừa kế đã được kích hoạt, nhưng theo thời gian, những ký ức như vậy đã bị ẩn đi. Chúng tôi không thể giải thích tại sao tiến hóa lại ủng hộ sự mất đi một lợi thế quan trọng như vậy. Nhưng tự nhiên luôn có lý do của nó. Chắc hẳn có những mối nguy hiểm khiến cho các ký ức này bị khóa lại.
Người mẹ: Tôi không có ý trách cô vì đã thận trọng, bác sĩ Oánh à. Nhưng tôi tự nguyện tham gia vào thí nghiệm này. Tôi muốn được sinh ra lần nữa. 
Bác sĩ Oánh: Nhưng cô đâu có được như vậy. Với những hiểu biết của chúng ta lúc này, cô đang mang thai một đứa con, một đứa con với tất cả ký ức của cô.
Thai nhi: Con đồng ý, mẹ à. Con không phải mẹ, nhưng con có thể cảm nhận được rằng mọi ký ức của con đều đến từ trí óc mẹ. Ký ức thật sự duy nhất mà con có là vùng nước xung quanh con, nhịp tim của mẹ, và thứ ánh sáng yếu ớt màu cam đỏ từ bên ngoài.
Bác sĩ Oánh: Chúng ta đã phạm một sai lầm tệ hại khi nghĩ rằng sao chép ký ức là đủ để tái sinh một con người. Một bản ngã bao gồm nhiều thứ khác bên cạnh những ký ức, những điều không thể tái tạo được. Ký ức của một người giống như một cuốn sách, và những độc giả khác nhau sẽ trải nghiệm những cảm xúc khác nhau. Thật tệ khi cho phép một đứa trẻ còn chưa được sinh ra đọc một cuốn sách nặng nề, ảm đạm như vậy.
Người mẹ: Thật vậy. Tôi thích thành phố này, nhưng thành phố trong ký ức của tôi dường như khiến con tôi sợ hãi.
Thai nhi: Thành phố thật đáng sợ! Mọi thứ bên ngoài đều đáng sợ, mẹ ơi. Con không muốn được sinh ra!
Người mẹ: Sao con lại nói vậy? Con đương nhiên phải được sinh ra chứ.
Thai nhi: Không, mẹ ơi! Mẹ có nhớ những buổi sáng mùa đông ở Tây Sáo, khi ông bà ngoài vẫn thường la mắng mẹ không?
Người mẹ: Tất nhiên mẹ nhớ chứ. Cha mẹ của mẹ thường đánh thức mẹ trước khi mặt trời lên để có thể cùng họ đi dọn dẹp chuồng cừu. Mẹ đã không muốn dậy chút nào cả. Bên ngoài trời vẫn còn tối, và gió thổi như những nhát dao cắt da cắt thịt. Đôi khi, thậm chí trời còn đổ tuyết. Mẹ đã rất ấm áp trên giường, quấn mình trong chăn như một quả trứng nằm trong tổ. Mẹ đã luôn muốn ngủ lâu hơn một chút.
Thai nhi: Không chỉ một chút. Mẹ đã muốn nằm ngủ trong chăn ấm mãi mãi.
Người mẹ (dừng lại): Ừ, con nói đúng.
Thai nhi: Con sẽ không ra ngoài đó đâu! Không bao giờ!
Bác sĩ Oánh: Cô đảm bảo với cháu, bé con, thế giới bên ngoài không phải như một cơn bão tuyết trong đêm đông vĩnh cửu. Nơi này còn có cả những ngày nắng chiếu rực rỡ và gió xuân nhè nhẹ thổi. Đời người chẳng dễ dàng, nhưng cũng có nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh nói đúng! Mẹ của con vẫn còn nhớ nhiều khoảnh khắc hạnh phúc, như ngày mẹ đi khỏi nhà: khi mẹ bước ra khỏi Tây Sáo, mặt trời vừa mọc. Gió mát thổi trên khuôn mặt mẹ, và tiếng hót của những chú chim tràn ngập bên tai mẹ. Mẹ cảm thấy mình như một con chim vừa thoát cũi sổ lồng. Và cái lần đầu tiên mẹ kiếm được tiền của riêng mình trong thành phố nữa! Mẹ đã bước vào siêu thị với tâm trạng tràn ngập hạnh phúc. Con không thể cảm nhận được niềm vui đó sao ,con yêu?
Thai nhi: Mẹ, con nhớ rất rõ cả hai lần đó, nhưng chúng đều là những ký ức khủng khiếp. Ngày mẹ rời khỏi làng, mẹ phải đi bộ ba mươi cây số qua những ngọn núi để bắt xe buýt ở thị trấn gần nhất. Con đường mòn rất gồ ghề và khó đi, và mẹ chỉ có mười sáu tệ trong túi; mẹ sẽ làm gì sau khi đã tiêu hết tất cả chúng? Ai biết mẹ sẽ gặp phải điều gì ở thế giới ngoài kia? 
Bác sĩ Oánh (sau một hồi im lặng):  Bây giờ tôi đã hiểu tại sao sự tiến hóa lại tắt đi việc kích hoạt của những ký ức di truyền ở con người. Khi tâm trí của chúng ta ngày càng nhạy cảm hơn, trạng thái vô minh đi kèm với sự ra đời của chúng ta giống như một túp lều ấm áp bảo vệ chúng ta khỏi thực tế khắc nghiệt của thế giới. Chúng tôi đã lấy đi tổ ấm của con cô và ném nó vào một thực tại trần trụi, nơi tất cả những sự khắc nghiệt đó đều được phơi bày.
Thai nhi: Cô Oánh ơi, sợi dây gắn vào bụng cháu là gì vậy?
Bác sĩ Oánh: Cô nghĩ rằng cháu đã hỏi mẹ câu đó rồi mà. Đó là dây rốn của cháu. Trước khi cháu được sinh ra, nó cung cấp cho cháu oxy và chất dinh dưỡng. Đó là nguồn sống của cháu.
»»-------------¤-------------««
Một buổi sáng mùa xuân của hai năm sau.
Bác sĩ Oánh và người mẹ trẻ đứng cạnh nhau giữa nghĩa trang công cộng; người mẹ ôm con mình trong vòng tay.
“Bác sĩ Oánh, cô có bao giờ ngừng việc tìm kiếm những gì cô đang tìm không?”
“Ý cô là bất cứ điều gì, ngoại trừ ký ức, tạo nên bản ngã của mỗi chúng ta?” Bác sĩ Ying chậm rãi lắc đầu. “Tất nhiên là không. Tôi không nghĩ đó là thứ khoa học có thể tìm ra được.”
Ánh mặt trời trong buổi sớm mai phản chiếu từ những bia mộ xung quanh họ. Vô số sự sống vốn đã kết thúc lại bừng lên trong thứ ánh sáng mang sắc cam mềm mại.
“Hãy cho ta biết niềm cảm mến được gợi lên từ đâu, trong trái tim, hay ở trong đầu?” bác sĩ Oánh lẩm bẩm.
“Cô nói gì vậy?” Người mẹ nhìn bác sĩ Oánh, bối rối.
“Hai câu thơ của Shakespeare ấy mà.” Bác sĩ Oánh đưa tay ra, và người mẹ trao đứa bé cho cô.
Nó không phải là đứa trẻ có những ký ức di truyền đã được kích hoạt. Người mẹ trẻ đã kết hôn với một kỹ thuật viên tại phòng thí nghiệm, và đây là con của họ.
Đứa thai nhi đã sở hữu tất cả ký ức của mẹ mình đã tự xé đứt dây rốn, vài giờ sau cuộc trò chuyện của họ. Vào thời điểm vị bác sĩ nhận thấy những gì đã xảy ra, sự sống còn được chưa sinh ra ấy đã kết thúc. Sau đó, mọi người đều băn khoăn rằng làm thế nào bàn tay nhỏ bé ấy có đủ sức mạnh để làm được một điều như vậy.
Hai người hiện đang đứng trước ngôi mộ của vụ tự tử trẻ nhất trong lịch sử loài người.
Bác sĩ Oánh quan sát đứa trẻ trong vòng tay của mình như thể đang nhìn vào một thí nghiệm. Nhưng ánh mắt của đứa bé khác với ánh mắt của cô. Nó đang bận rộn thò cánh tay nhỏ của mình để bắt lấy những chùm bông từ bạch dương đang bay bay trong sương sớm. Niềm ngạc nhiên và vui sướng tràn ngập đôi mắt đen láy của đứa trẻ. Thế giới là một bông hoa đang nở, một món đồ chơi khổng lồ, tuyệt đẹp. Nó hoàn toàn không được chuẩn bị cho chặng đường đời dài dằng dặc và khó lường phía trước, và do vậy nó sẽ sẵn sàng đón nhận mọi thứ.
Hai người phụ nữ đi dọc theo con đường giữa các bia mộ. Ở rìa nghĩa trang, người mẹ trẻ bế con mình trở về từ tay bác sĩ Oánh.
“Con yêu, chúng ta lên đường thôi!”, cô nói, đôi mắt lấp lánh với sự phấn khích và tình yêu.
Hết
»»-------------¤-------------««
Dịch từ bản chuyển ngữ tiếng Anh The Weight of Memories của Ken Liu. Có tham khảo bản tiếng Trung 人生.
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Nhi
»»-------------¤-------------««
Tác giả Lưu Từ Hân (Ảnh: Los Angeles Times)
Tumblr media
Minh họa truyện Đời người trên tạp chí Tor
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Bản sonate đơn độc - Orson Scott Card
Tumblr media
Về tác giả
Orson Scott Card (sinh năm 1951) là tác giả người Mỹ, nổi tiếng nhất với các tác phẩm khoa học viễn tưởng, trong đó có loạt tiểu thuyết Trò chơi của Ender. 
Về tác phẩm
Bản sonate đơn độc (tựa gốc: Unaccompanied Sonata) là một truyện ngắn của Orson Scott Card, đăng lần đầu trên tạp chí Omni năm 1979.
1. Lên dây
Khi Christian Haroldsen được sáu tháng tuổi, các bài kiểm tra sơ bộ cho thấy ở cậu bé thiên hướng về nhịp điệu và khả năng nhận biết cao độ nhạy bén. Tất nhiên, vẫn còn những lần kiểm tra khác, và nhiều con đường vẫn còn rộng mở trước mặt cậu. Nhưng nhịp điệu và cao độ cũng là các đặc điểm chi phối cung hoàng đạo của cậu bé, và ngay từ ngày đó công việc bồi dưỡng tài năng đã bắt đầu. Người ta gửi đến cho ông bà Haroldsen những cuộn băng ghi lại nhiều loại âm thanh và hướng dẫn họ phải thường xuyên bật chúng cho con trai nghe, dù là khi cậu bé đang thức hay đang ngủ.
Năm Christen Haroldsen lên hai, loạt bài kiểm tra thứ bảy đã định hình con đường tương lai mà cậu bé chắc chắn sẽ theo đuổi. Cậu có khả năng sáng tạo phi thường; tính tò mò không thể thỏa mãn; và hiểu biết về âm nhạc của cậu sâu sắc đến mức bên trên tất cả những bài kiểm tra của cậu, người ta đều ghi hai chữ “Thần đồng.”
Thần đồng chính là từ ngữ đã mang cậu bé rời khỏi vòng tay cha mẹ, đến với một ngôi nhà nằm sâu trong một khu rừng lá rộng rậm rạp, nơi mùa đông trôi qua tàn bạo và khắc nghiệt còn mùa hè được đánh dấu bởi sắc xanh lục bao trùm mãnh liệt nhưng ngắn ngủi. Cậu lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của những người hầu không bao giờ được phép cất tiếng hát, thứ âm nhạc duy nhất mà cậu được nghe là tiếng chim hót, và tiếng gió thổi, và tiếng củi nổ lách tách ngày đông; là tiếng sấm, và tiếng khóc âm thầm của lá vàng khi chúng được tự do khỏi cành và bay là đà xuống mặt đất; là tiếng mưa trên mái nhà và tiếng nước nhỏ giọt khi băng tan; là tiếng ríu rít của bầy sóc và sự im lặng sâu thẳm của tuyết rơi trong đêm không trăng.
Những âm thanh đó là thứ âm nhạc duy nhất mà Christian ý thức được; khi cậu bé lớn lên, những bản giao hưởng cậu từng nghe ngày nhỏ đã trở nên xa xăm và rơi vào miền ký ức không thể tìm lại. Vậy là cậu học cách nghe được nhạc điệu từ những thứ vốn không có nhạc điệu — bởi cậu phải tìm được âm nhạc, dẫu rằng chẳng có âm nhạc cho cậu kiếm tìm.
Dần dần cậu nhận ra rằng trong tâm trí mình, sắc màu cũng biết ngân vang: những vệt nắng mùa hè trở thành một thứ hợp âm sôi nổi; ánh trăng đêm đông là tiếng khóc mỏng tang thê lương; sắc xanh tinh khôi ngày xuân thầm thì những nhịp điệu gần như (nhưng không hẳn là) ngẫu nhiên; còn cái bóng chớp nhoáng của con cáo đỏ trên thảm lá bỗng chốc hóa ra một tiếng thở đầy kinh ngạc.
Và cậu bé học cách chơi tất cả những âm thanh đó trên Nhạc Cụ của cậu. Ở thế giới bên ngoài có vĩ cầm, có kèn trumpet, clarinet hay crumhorn, những thứ nhạc khí đã tồn tại từ bao thế kỷ qua. Christian không hề biết gì về chúng. Cậu chỉ có mình Nhạc Cụ. Và chừng đó là đủ.
Ở ngôi nhà Christian đang sống, cậu bé có một phòng ở riêng: trong phòng có kê một cái giường (không quá êm), một cái bàn và một cái ghế, một chiếc máy không phát ra tiếng động dùng để tắm rửa và giặt quần áo, và một bóng đèn điện.
Căn phòng còn lại chỉ đặt duy nhất Nhạc Cụ của cậu. Nhạc Cụ là một loại bảng điều khiển với rất nhiều phím, dải, đòn bẩy và thanh, và mỗi lần cậu chạm vào bất cứ bộ phận nào trên đó, một âm thanh sẽ phát ra. Mỗi phím tạo nên một loại tiếng động khác nhau; mỗi vị trí trên một dải lại cho ra một cao độ; các đòn bẩy có thể thay đổi âm sắc; mỗi thanh đều làm biến hóa cấu trúc của âm nhạc.
Khi mới đến sống ở ngôi nhà đó, Christian chỉ chơi đùa (như mọi đứa trẻ trên đời) với Nhạc Cụ, khiến nó phát ra những tiếng động kỳ quặc hài hước. Nhạc Cụ là người bạn duy nhất của cậu; cậu hiểu nó và có thể dùng nó tạo ra bất cứ âm thanh nào cậu muốn. Ban đầu, cậu thích thú với những âm thanh lớn và chói tai. Sau đó, cậu thử nghiệm với âm lớn và âm nhỏ, rồi hai âm cùng lúc, rồi thay đổi hai âm đó để tạo ra một âm mới, và rồi thử chơi lại một chuỗi âm thanh mà cậu từng chơi trước đây.
Dần dần, những thanh âm của cánh rừng bên ngoài tìm được đường vào trong thứ âm nhạc mà cậu chơi. Cậu học cách tạo ra tiếng gió bằng Nhạc Cụ; cậu học cách biến mùa hè thành một trong những bản nhạc cậu có thể chơi nếu muốn; hằng hà sa số sắc độ của màu xanh lục trở thành những hòa âm tinh tế nhất của cậu; những con chim từ Nhạc Cụ đã cất lên tiếng khóc bằng tất cả đam mê đến từ nỗi cô đơn của Christian.
Và rồi tất cả những điều đó truyền đến tai các Thính Giả đã được cấp phép:
“Có những lời đồn từ phương bắc hay phương đông vọng tới chốn này; rằng một cậu Christian Haroldsen có thể làm cho trái tim người ta vỡ vụn bằng những bản nhạc.”
Các Thính Giả đến, ban đầu là một vài người đặt sự đa dạng lên trên hết, rồi đến những người ưa chuộng tính mới mẻ và thịnh hành, và cuối cùng là những người coi trọng mỹ tính và đam mê hơn tất thảy. Họ đến, và chỉ ở ngoài rừng, lắng nghe âm nhạc của cậu qua một chiếc loa có chất lượng hoàn hảo gắn trên mái nhà. Khi tiếng nhạc dừng lại, và Christian bước ra khỏi nhà, cậu thấy các Thính Giả rời đi; cậu hỏi, và được giải thích lý do họ đến; và cậu ngạc nhiên biết rằng những thứ cậu làm vì tình yêu đối với Nhạc Cụ lại có sức hấp dẫn đối với người khác.
Kỳ lạ thay, giờ đây cậu còn cảm thấy cô đơn hơn khi biết rằng cậu có thể hát cho các Thính Giả nhưng không bao giờ có thể nghe những bản nhạc của họ.
“Nhưng họ không có bản nhạc nào cả,” người phụ nữ vẫn mang cơm cho cậu hàng ngày đã nói. “Họ là Thính Giả. Cháu là Soạn Giả. Cháu có những bản nhạc, và họ lắng nghe.”
“Tại sao vậy?” Christian ngây thơ hỏi lại.
Người phụ nữ trông có vẻ lúng túng. “Bởi đó là những gì họ muốn làm nhất. Họ đã được kiểm tra, và họ hạnh phúc nhất khi làm Thính Giả. Cháu hạnh phúc nhất khi làm Soạn Giả. Cháu không thấy hạnh phúc hay sao?”
“Có chứ,” Christian đáp, và cậu bé đã nói thật. Cuộc sống của cậu thật hoàn hảo, và cậu sẽ không thay đổi điều gì, kể cả nỗi buồn ngọt ngào đến từ bóng lưng các Thính Giả vào khoảnh khắc họ rời đi sau khi những bản nhạc của cậu kết thúc.
Lúc ấy Christian bảy tuổi.
2. Phần thứ nhất
Đã là lần thứ ba, người đàn ông thấp bé đeo kính có bộ râu rậm liều lĩnh nấp trong bụi cây chờ Christian bước ra. Lần thứ ba ông ta bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của bản nhạc vừa kết thúc, một bài giao hưởng mà nỗi phiền muộn chất chứa bên trong khiến ông ta cảm thấy như những chiếc lá đã rơi trong không gian xung quanh, mặc dù vẫn đang là giữa mùa hè và phải vài tháng chúng mới thực sự rơi xuống. Sự rơi là không tránh khỏi, bản nhạc của Christian đã nói như vậy; trong suốt quãng đời của chúng, những chiếc lá mang trong mình sức mạnh để chết đi, và điều đó đã điểm tô cho cuộc sống của chúng. Người đàn ông thấp bé đã khóc — nhưng khi bản nhạc kết thúc và các Thính Giả khác đã rời đi, ông ta ẩn mình trong bụi cây và chờ đợi.
Lần này những nỗ lực của ông ta đã được tưởng thưởng. Christian ra khỏi căn nhà, dạo bước giữa những thân cây, và đi đến nơi mà người đàn ông thấp bé đeo kính đang đợi. Ông ta ngưỡng mộ cái cung cách mà Christian bước đi, nhẹ nhàng, không kiểu cách. Người nhạc sĩ khoảng ba mươi tuổi, nhưng vẫn còn đó vẻ thơ ngây trong cái cách mà cậu nhìn ngắm xung quanh, cái cách mà cậu bước đi trong vô định, và dừng lại chỉ để chạm vào (mà không bẻ gãy) một cành cây rơi với những ngón chân trần.
“Cậu Christian,” người đàn ông thấp bé đeo kính lên tiếng.
Christian giật mình quay lại. Suốt những năm tháng qua, chưa có Thính Giả nào từng bắt chuyện cậu. Điều đó bị cấm. Christian biết rõ luật.
“Việc này bị cấm đấy,” Christian nói.
“Đây,” người đàn ông thấp bé đeo kính nói, giơ ra một vật nhỏ màu đen.
“Cái gì đây?”
Người đàn ông cau mày. “Cậu cứ cầm lấy. Nhấn nút này là nó sẽ phát.”
“Phát gì?”
“Nhạc.”
Đôi mắt Christian mở to. “Nhưng chuyện này bị cấm. Khả năng sáng tạo của tôi không thể bị ô nhiễm vì nghe tác phẩm của các nhạc sĩ khác được. Việc đó sẽ khiến âm nhạc của tôi trở nên bắt chước và phái sinh thay vì vẫn giữ được tính nguyên bản.
“Cậu chỉ đang đọc thuộc lòng,” người đàn ông nói. “Chỉ đang lặp lại những lời đó thôi. Đây là nhạc của Bach.” Trong giọng nói của ông ta có niềm tôn kính.
“Tôi không thể,” Christian nói.
Và rồi người đàn ông thấp bé lắc đầu. “Cậu không biết. Cậu không biết mình đang thiếu thứ gì. Nhưng ta đã cảm nhận được điều đó ngay từ lần đầu ta đến đây, rất nhiều năm về trước, Christian à. Cậu muốn thứ này.”
“Nó bị cấm,” Christian trả lời, bởi vì việc một người sẵn sàng thực hiện một hành động bị cấm đối với cậu thật đáng kinh ngạc, và cậu không thể vượt qua sự ngạc nhiên ban đầu để nhận ra rằng người đàn ông vẫn đang chờ đợi phản ứng của cậu.
Có tiếng bước chân và tiếng nói ở đằng xa, và khuôn mặt của người đàn ông thấp bé trở nên hoảng sợ. Ông ta chạy tới chỗ Christian, dúi chiếc máy ghi âm vào tay cậu, rồi lao như bay về phía cánh cổng của khu nhà.
Christian cầm lấy chiếc máy và đưa nó ra một nơi có ánh nắng chiếu qua tán lá. Nó phản chiếu ánh sáng mờ mờ. “Bach,” Christian nói. Rồi, “Bach là ai nhỉ?”
Nhưng cậu không vứt chiếc máy xuống. Cậu cũng không đưa nó cho người phụ nữ đi đến hỏi cậu rằng người đàn ông thấp bé đeo kính đã ở lại vì điều gì. “Ông ta nán lại ít nhất là mười phút.—”
“Tôi chỉ gặp ông ta trong có ba mươi giây,” Christian trả lời.
“Và?”
“Ông ta muốn tôi nghe một vài bản nhạc. Ông ta có một cái máy ghi âm.”
“Ông ta có đưa nó cho cậu không?”
“Không,” Christian nói. “Không phải ông ta vẫn đang cầm nó ư?”
“Có lẽ ông ta đã đánh rơi nó ở đâu đó trong rừng.”
“Ông ta nói rằng đó là nhạc của Bach.”
“Chuyện đó bị cấm. Đó là tất cả những gì cậu cần biết. Nếu cậu tìm thấy chiếc máy ghi âm, Christian à, cậu phải nhớ luật lệ.”
“Tôi sẽ đưa nó cho chị.”
Người phụ nữ nhìn Christian với vẻ thận trọng. “Cậu biết điều gì sẽ xảy ra nếu cậu nghe những thứ như vậy rồi đấy.”
Christian gật đầu.
“Tốt. Chúng tôi cũng sẽ tìm kiếm nó. Gặp lại cậu ngày mai nhé, Christian. Và lần sau nếu có ai đó ở lại, đừng nói chuyện với họ. Cứ trở vào nhà và khóa cửa lại.”
“Tôi sẽ làm vậy,” Christian nói.
Khi chị ta rời đi, cậu ngồi chơi Nhạc Cụ hàng tiếng đồng hồ. Các Thính giả lại đến, và những người đã từng nghe nhạc của Christian trước đây đều ngạc nhiên trước sự bối rối trong những bản nhạc của cậu.
Đêm hôm đó trời nổi dông, có gió và mưa và sấm, và Christian thấy mình không ngủ được. Không phải vì âm nhạc hay thời tiết — cậu đã ngủ qua hàng ngàn cơn bão như vậy. Thứ khiến Christian bồn chồn là chiếc máy ghi âm giấu ở khoảng trống giữa Nhạc Cụ và bức tường. Christian đã sống gần ba mươi năm ở nơi hoang dã đẹp tuyệt vời này cùng với thứ âm nhạc mà cậu tạo ra. Nhưng còn bây giờ.
Bây giờ, cậu không thể ngừng băn khoăn. Bach là ai? Bach là ai? Âm nhạc của ông ta là gì? Nó khác với âm nhạc của cậu như thế nào? Ông ta có khám phá ra thứ gì mà cậu không biết không?
Âm nhạc của ông ta là gì?
Âm nhạc của ông ta là gì?
Âm nhạc của ông ta là gì?
Tới lúc bình minh, khi cơn dông đã dịu đi và gió đã tắt, Christian ra khỏi giường, sau một đêm không ngủ mà chỉ trằn trọc suốt đêm, và lấy chiếc máy ghi âm từ nơi cất giấu và bật nó lên.
Ban đầu nghe nó khá kỳ lạ, như thể những tiếng ồn ào, lạ lùng chẳng liên quan gì đến cuộc đời Christian cả. Nhưng những mô thức rất rõ ràng, và cho tới khi bản ghi âm kết thúc, không quá nửa tiếng đồng hồ sau, Christian đã gần như nắm bắt được ý tưởng về điệu fuga và những âm thanh của đàn clavico đã chiếm trọn tâm trí cậu.
Thế nhưng cậu cũng biết rõ rằng nếu những chi tiết này xuất hiện trong âm nhạc của cậu, cậu sẽ bị phát hiện. Vậy nên cậu không thử chơi điệu fuga. Cậu cũng không cố bắt chước âm thanh của đàn clavico.
Và hàng đêm cậu đều lắng nghe bản ghi âm, rất nhiều đêm, học được nhiều hơn và nhiều hơn nữa, cho tới cái ngày mà Quan Sát Viên tìm đến.
Quan Sát Viên bị mù, và một con chó dẫn đường cho ông ta. Ông ta tiến đến cửa, và bởi ông ta là một Quan Sát Viên nên cánh cửa tự động mở ra mà ông ta không cần phải gõ.
“Christian Haroldsen, cái máy ghi âm đâu?” Quan Sát Viên hỏi.
“Máy ghi âm à?” Christian hỏi lại, rồi nhận ra ngay là mọi chuyện đã trở nên vô vọng, và lấy chiếc máy đưa cho Quan Sát Viên.
“Ôi, Christian,” Quan Sát Viên thở dài, giọng nói của ông ta nhẹ nhàng và buồn bã. “Tại sao cậu không giao nó ra trước khi lắng nghe nó?”
“Tôi đã định làm vậy,” Christian nói. “Nhưng sao ông biết?”
“Bởi vì bỗng dưng trong các sáng tác của cậu không còn điệu fuga nữa. Bỗng dưng trong những bản nhạc của cậu mất đi thứ duy nhất tương đồng với Bach mà trước đây chúng từng có. Và cậu đã ngừng việc thử nghiệm với các loại âm thanh mới. Cậu đang cố che giấu điều gì vậy?
“Điều này,” Christian nói, và ngồi xuống và ngay từ lần thử đầu tiên đã có thể sao chép chính xác âm thanh của đàn clavico.
“Vậy nhưng cậu chưa từng thử làm điều đó cho đến bây giờ, có phải không?”
“Tôi nghĩ rằng ông sẽ nhận ra.”
“Điệu fuga và tiếng đàn clavico, hai thứ mà cậu để ý đầu tiên — và là những thứ duy nhất cậu không thu vào âm nhạc của mình. Tất cả những bản nhạc còn lại của cậu trong suốt những tuần qua đều bị nhuộm màu và chịu ảnh hưởng từ Bach. Ngoại trừ việc không có điệu fuga, và không có đàn clavico. Cậu đã phá luật. Cậu được đưa đến đây vì cậu là một thiên tài, có khả năng tạo ra những điều mới mẻ chỉ từ nguồn cảm hứng thiên nhiên. Giờ đây, tất nhiên, cậu đã trở nên phái sinh, và những sáng tạo hoàn toàn mới là điều không thể đối với cậu. Cậu phải rời đi thôi.
“Tôi biết,” Christian nói, có chút sợ hãi, nhưng chưa thực sự hiểu được cuộc sống ở bên ngoài căn nhà của cậu sẽ như thế nào.
“Chúng tôi sẽ huấn luyện cậu cho thứ nghề nghiệp mà giờ đây cậu có thể làm. Cậu sẽ không bị bỏ đói. Cậu sẽ không chết vì chán chường. Nhưng bởi vì cậu đã phá luật, có một thứ sẽ bị cấm đoán với cậu kể từ bây giờ.”
“Âm nhạc.”
“Không phải tất cả mọi âm nhạc. Có những loại âm nhạc mà, Christian ạ, những người bình thường, những người không phải Thính Giả, có thể có được. Đài thu thanh và vô tuyến và âm nhạc thu âm. Nhưng nhạc sống và âm nhạc mới — cậu bị cấm khỏi những thứ đó. Cậu không được hát. Cậu không được chơi nhạc. Cậu không được tạo ra bất cứ một giai điệu nào.”
“Tại sao không?”
Quan Sát Viên lắc đầu. “Thế giới này quá hoàn mỹ, quá yên bình, quá hạnh phúc, để chúng ta cho phép một kẻ lạc loài phạm luật đi gieo rắc sự bất mãn. Những người bình thường tạo ra âm nhạc bình thường, không biết gì tốt hơn bởi vì họ không có năng khiếu để học nó. Nhưng nếu cậu — đừng bận tâm. Đó là luật. Và nếu cậu còn tiếp tục làm nhạc, Christian à, cậu sẽ bị trừng phạt nặng nề. Vô cùng nặng nề.”
Christian gật đầu, và tuân theo lời Quan Sát Viên, cậu đã ra đi, bỏ lại ngôi nhà, rừng cây và Nhạc Cụ của mình. Ban đầu, cậu bình tĩnh đón nhận nó, như một hình phạt không thể tránh khỏi cho sự vi phạm của mình; nhưng cậu hầu như không có khái niệm về sự trừng phạt, và cũng không hiểu được việc bị cấm vĩnh viễn khỏi Nhạc Cụ của cậu sẽ có ý nghĩa như thế nào.
Chỉ năm tiếng sau, cậu đã la hét và tấn công bất cứ ai đến gần cậu, bởi những ngón tay cậu khao khát được chạm vào các phím và đòn bẩy, dải và thanh của Nhạc Cụ, và cậu không thể có chúng, và giờ đây cậu mới hiểu rằng mình chưa từng phải cô đơn trước đây.
Phải mất sáu tháng, Christian mới sẵn sàng đón nhận một cuộc sống bình thường. Và khi rời khỏi Trung tâm Tái đào tạo (một tòa nhà nhỏ, vì nó rất ít được sử dụng), trông cậu mệt mỏi và già đi, và cậu không mỉm cười với bất cứ ai. Cậu trở thành một tài xế xe tải giao hàng, bởi vì các bài kiểm tra nói rằng đây là công việc ít khiến cậu đau buồn nhất, ít nhắc nhở cậu về sự mất mát nhất, và công việc ấy cũng có liên hệ với một số năng khiếu và sở thích còn lại của cậu.
Cậu giao bánh rán cho các cửa hàng tạp hóa.
Và vào ban đêm, cậu khám phá bí ẩn của rượu, và rồi rượu và bánh rán và xe tải và những giấc mơ là đủ để cậu mãn nguyện theo cách của riêng mình. Cậu không chất chứa nỗi tức giận trong người. Cậu có thể sống phần đời còn lại, không chút cay đắng.
Cậu giao đi những chiếc bánh rán mới và mang theo mình những chiếc đã ôi thiu.
3. Phần thứ hai
“Với một cái tên như Joe,” Joe luôn nói, “tôi phải mở một quán bar kiêm nhà hàng nướng, chỉ để treo cái biển ghi chữ Joe’s Bar and Grill.” Và rồi gã ta cười ngặt nghẽo, bởi vì suy cho cùng những ngày này, cái tên Joe’s Bar and Grill kể ra cũng khá vui nhộn.
Nhưng Joe là một gã pha chế rượu có nghề, và Quan Sát Viên đã đặt gã ta ở đúng chỗ. Không phải trong thành phố lớn mà là một thị trấn nhỏ hơn, một thị trấn nằm ở ngay sát đường cao tốc, nơi các tài xế xe tải thường rẽ vào; một thị trấn không cách quá xa thành phố, đủ gần để bọn họ ngồi tán phét, lo lắng, dè bỉu và yêu thương những chuyện hay ho xung quanh.
Joe’s Bar and Grill, nhờ đó, là một nơi tuyệt vời, và rất nhiều người đã ghé qua đây. Không phải những kẻ thời thượng, và cũng không phải những gã say, mà là những người cô đơn và thân thiện - hai đặc điểm đó kết hợp nhau một cách hoàn hảo trong con người bọn họ. “Khách hàng của tôi giống như một món đồ uống ngon vậy, đủ chừng này và chừng kia để tạo thành một hương vị mới còn tuyệt vời hơn bất cứ nguyên liệu nào.” Ồ, Joe là một thi sĩ, một thi sĩ của các loại đồ uống có cồn và cũng giống như rất nhiều người khác những ngày này, gã thường nói, “Cha tôi là luật sư, và nếu mọi chuyện còn như trước kia có lẽ tôi cũng sẽ trở thành một luật sư khi lớn lên, và tôi sẽ không bao giờ biết được cuộc đời mình thiếu vắng điều gì.”
Joe đã đúng. Và gã ta pha chế rượu thì tuyệt cú mèo, và bởi gã chẳng mong được làm điều gì khác, nên gã rất hạnh phúc.
Thế nhưng rồi, đêm nọ, có một người mới đến, một người lái xe tải giao bánh rán mặc chiếc áo đồng phục có in tên nhãn hàng. Joe để ý người này vì sự im lặng cuốn lấy anh ta như thể một thứ mùi vậy — anh ta đi tới đâu, người ta cảm nhận được đến đó, và dù mọi người hiếm khi nhìn về phía anh ta, họ luôn hạ giọng hoặc thậm chí ngừng hẳn việc trò chuyện, và họ trở nên hoài niệm, nhìn về phía những bức tường và tấm gương phía sau quầy đồ uống. Người tài xế giao bánh rán ngồi trong một góc và gọi một món đồ uống khá nhẹ, nghĩa là anh ta dự định ngồi lại lâu và không muốn nốc cồn quá nhanh để rồi bị ép phải rời đi quá sớm.
Joe để ý nhiều thứ ở mọi người, và gã nhận ra rằng người đàn ông đó cứ nhìn liên tục vào trong góc tối nơi có cây đàn piano. Đó là một cây đàn cổ lỗ sĩ, lạc tông còn sót lại từ ngày xưa (bởi nơi đây đã là một quán bar từ khá lâu rồi), và Joe tự hỏi vì sao người đàn ông trông có vẻ bị cây đàn mê hoặc đến thế. Sự thật là, nhiều khách hàng của Joe cũng đã từng tỏ ra hứng thú, nhưng họ luôn bước đến và gõ phím, cố gắng tìm ra một giai điệu, thất bại với những phím đàn đã lạc điệu, và rồi cuối cùng cũng từ bỏ. Thế nhưng, người đàn ông này trông như thể sợ cây đàn, và không dám đến gần nó.
Tới giờ đóng cửa, người đàn ông vẫn ngồi đó, và trong một thoáng bốc đồng, thay vì buộc anh ta rời đi, Joe tắt máy phát nhạc, tắt gần hết các bóng đèn, bước tới và nhấc phần nắp đàn lên để lộ những phím đàn màu xám.
Người giao hàng bước tới chiếc piano. Chris, thẻ ve áo của anh ta ghi như vậy. Anh ta ngồi xuống và chạm vào một phím đàn. Âm thanh ấy không đẹp đẽ. Nhưng rồi anh ta vẫn cứ tiếp tục gõ xuống từng phím một, rồi lại gõ chúng theo một thứ tự khác, và suốt trong lúc ấy Joe vẫn đứng xem, tự hỏi vì sao biểu cảm của anh ta lại dữ dội như vậy.
“Chris à,” Joe nói.
Chris ngẩng lên nhìn gã.
“Cậu có biết bài hát nào không?”
Gương mặt của Chris trở nên khá tức cười.
“Ý tôi là, một vài bản nhạc cũ kỹ, không phải thứ nhạc chỉ để lắc hông như trên đài đâu, mà là những bài hát thực sự ấy. ‘In a Little Spanish Town’ chẳng hạn. Mẹ tôi từng hát bài đó cho tôi.” Và rồi Joe bắt đầu hát. ‘Ở một thị trấn Tây Ban Nha nhỏ, có một đêm như thế.’
Chris bắt đầu chơi đàn khi Joe vẫn tiếp tục hát bằng chất giọng yếu ớt và ngang phè của gã. Nhưng thứ mà anh đang chơi không phải là nhạc đệm, không phải bất cứ thứ gì mà Joe có thể gọi là nhạc đệm. Thay vào đó, nó như thể đang đối chọi với giai điệu của gã, một kẻ thù, và những âm thanh vang ra từ chiếc piano thật lạ lùng và hỗn độn và, có Chúa chứng giám, thật đẹp đẽ biết nhường nào.
Joe ngừng hát và lắng nghe. Suốt hai tiếng đồng hồ gã chỉ lắng nghe, và khi giai điệu kết thúc gã tỉnh táo rót cho người đàn ông một cốc rượu, và rót một cốc cho chính gã, và cụng ly với người giao hàng tên Chris, người có thể khiến cho cây đàn mục ruỗng của nợ kia cất tiếng hát.
Ba đêm sau, Chris trở lại, trông có vẻ lo lắng và sợ sệt. Nhưng lần này Joe biết điều gì sẽ xảy ra (buộc phải xảy ra) và thay vì đợi đến lúc đóng cửa, Joe tắt máy phát nhạc mười phút sớm hơn mọi ngày. Chris nhìn về phía gã đầy van vỉ. Joe hiểu nhầm — gã bước tới và nhấc phần nắp đàn và mỉm cười. Chris bước đi một cách khó khăn, có lẽ là ngần ngại, tới chiếc ghế và ngồi xuống.
“Ê, Joe,” một trong năm khách hàng cuối cùng hét lên, “đóng cửa sớm thế?”
Joe không trả lời, chỉ im lặng quan sát khi Chris bắt đầu chơi đàn. Lần này không còn màn dạo đầu nữa; cũng không có những nốt thử và những giai điệu vu vơ trên các phím đàn. Chỉ có sức mạnh, và chiếc đàn piano đã được chơi như thể chúng không dành để chơi; những nốt tệ hại, những nốt lạc điệu đều được đặt vào trong bản nhạc sao cho chúng vang lên một cách hợp lý, và những ngón tay của Chris, hoàn toàn bỏ qua những quy tắc nghiêm ngặt của âm giai nửa cung, theo như Joe quan sát, chơi nhạc với cả những khe nứt trên mặt đàn.
Không có người khách nào rời đi cho tới khi giai điệu của Chris kết thúc một tiếng rưỡi đồng hồ sau đó. Họ đều uống với nhau món đồ cuối cùng đó, và trên đường về vẫn còn bị trải nghiệm vừa qua lay động mãnh liệt.
Đêm hôm sau Chris lại đến, và rồi đêm sau nữa, và đêm sau nữa. Bất cứ cuộc chiến nội tâm nào đã ngăn anh ta lại trong những ngày sau cái đêm đầu tiên ấy, anh ta đều đã thắng, hoặc thua. Không phải việc của Joe. Điều Joe quan tâm là mỗi khi Chris chơi đàn, những bản nhạc lại cho gã những điều mà âm nhạc chưa bao giờ làm được, và gã muốn điều đó.
Rõ ràng là khách hàng của gã cũng muốn những điều như vậy. Gần tới giờ đóng cửa, mọi người bắt đầu đổ tới, chỉ để nghe tiếng đàn của Chris. Joe bắt đầu đẩy tiết mục piano lên ngày càng sớm hơn, và gã phải ngừng việc cung cấp đồ uống miễn phí trong lúc chơi nhạc, bởi vì có quá nhiều người và chuyện này có thể khiến gã phá sản.
Chuyện xảy ra trong hai tháng kỳ lạ và dài đằng đẵng. Chiếc xe tải đỗ ở bên ngoài, và mọi người tránh đường cho Chris đi vào. Không ai nói gì với anh ta, không ai nói bất cứ điều gì cả, nhưng tất cả đều đợi cho tới khi anh ta bắt đầu chơi đàn. Anh ta không dùng đồ uống. Chỉ chơi nhạc. Và giữa những bản nhạc, hàng trăm người ở trong quán Joe’s Bar and grill đổ xô đi ăn uống.
Nhưng niềm vui thì đã chẳng còn. Tiếng cười và tiếng trò chuyện và sự thân thiện đã biến mất, và sau một thời gian Joe trở nên mệt mỏi vì âm nhạc và muốn quán bar của gã trở lại như xưa. Gã nghĩ đến việc việc vứt quách cây đàn, nhưng chuyện đó sẽ khiến các vị khách nổi giận. Gã cũng cân nhắc việc nói Chris đừng đến nữa, nhưng gã không thể buộc được bản thân bắt chuyện với người đàn ông kỳ lạ, câm lặng ấy.
Vậy là cuối cùng gã làm cái điều mà lẽ ra gã phải làm ngay từ đầu. Gã gọi cho các Quan Sát Viên.
Họ đến vào giữa buổi biểu diễn, một Quan Sát Viên mù với một con chó bị xích, và một Quan Sát Viên không có tai, bước đi lảo đảo, phải vịn vào đồ vật xung quanh để giữ thăng bằng. Họ đến khi một bản nhạc còn đang vang lên dang dở, và không đợi nó kết thúc. Họ đến bên cạnh chiếc piano và nhẹ nhàng đậy nắp đàn lại, và Chris thu những ngón tay về và nhìn trân trân vào phần nắp đàn đã bị đóng.
“Ôi, Christian,” người đàn ông với con chó dẫn đường nói.
“Tôi xin lỗi,” Christian trả lời. “Tôi đã cố không làm vậy.”
“Ôi, Christian, làm sao ta có thể làm nổi những điều ta phải làm với cậu đây?”
“Cứ làm đi,” Christian nói.
Và rồi người đàn ông không tai lấy ra từ trong túi áo choàng một con dao laser và cắt đứt tất cả các ngón tay của Christian, ở vị trí tiếp xúc với lòng bàn tay. Tia laser đốt cháy và khử trùng vết thương ngay khi nó chạm đến, nhưng vẫn có một ít máu bắn lên chiếc áo đồng phục của Christian. Và rồi, những ngón tay anh giờ đây chỉ còn là phần lòng bàn tay vô nghĩa và những khớp ngón tay vô dụng. Christian đứng dậy và bước ra khỏi quán Joe’s Bar and Grill. Mọi người lại nhường đường cho anh, và họ chăm chú lắng nghe tiếng Quan Sát Viên mù nói, “Đó là một kẻ đã phạm luật và bị cấm trở thành Soạn Giả. Anh ta đã phá luật lần thứ hai, và luật khẳng định rằng anh ta sẽ buộc phải dừng việc phá vỡ hệ thống đã khiến tất cả các người được hạnh phúc.”
Những người xung quanh đều hiểu. Điều đó khiến họ đau buồn, khiến họ khó chịu trong vài giờ, nhưng một khi họ đã trở về chính xác ngôi nhà của mình và làm chính xác những công việc họ được giao, sự mãn nguyện tuyệt đối của cuộc đời họ đã lấn át nỗi thương xót nhất thời mà họ dành cho Chris. Sau tất cả thì, Chris đã phá luật. Và chính luật lệ đã giữ cho họ an toàn và hạnh phúc.
Kể cả Joe. Kể cả Joe cũng nhanh chóng quên đi Chris và âm nhạc của anh ta. Gã biết rằng gã đã làm điều đúng đắn. Nhưng gã không thể hiểu nổi, vì sao một người như Chris lại phá luật ngay từ đầu, hay anh ta đã phá luật gì. Chẳng có luật lệ nào trên thế gian lại không được thiết kế để khiến cho con người hạnh phúc — và Joe không thể nghĩ ra điều luật nào mà gã có chút xíu hứng thú vi phạm cả.
Ấy vậy mà. Một lần Joe bước đến chiếc piano và nhấc phần nắp đàn và gõ tất cả các phím. Và sau khi làm việc đó gã đã gục xuống cây đàn mà khóc, bởi gã biết rằng khi Chris mất cây đàn và mất các ngón tay để không bao giờ có thể chơi đàn trở lại — điều đó cũng như Joe mất đi quán bar của gã vậy. Và nếu Joe có khi nào mất đi quán bar, cuộc đời gã sẽ chẳng còn đáng sống nữa.
Giờ đây một người khác lái chính chiếc xe tải mà Chris từng lái đưa bánh rán đến quán bar, và ở phần đó của thế giới không ai còn nhìn thấy Chris nữa.
4. Phần thứ ba
“Ô, thật là một buổi sáng đẹp tuyệt vời!” một người thợ làm đường, vốn từng xem đi xem lại vở nhạc kịch Oklahoma! bốn lần ở thị trấn quê nhà, bắt đầu hát.
“Tâm hồn tôi yên nghỉ nơi lồng ngực của Abraham!” một người thợ làm đường khác, vốn từng được học hát mỗi khi gia đình anh tụ hội với cây đàn guitar, cũng cất lên một giai điệu.
“Hãy dẫn đường, ánh sáng kiêu hãnh, vào bên trong bóng tối vây quanh!” tới lượt người thợ làm đường với tấm lòng tràn đầy đức tin lên tiếng.
Nhưng người thợ không có bàn tay, người có nhiệm vụ giơ những tấm biển ghi chữ Dừng lại hoặc Đi chậm, chỉ lắng nghe nhưng chưa bao giờ hát.
“Sao anh không bao giờ hát vậy?” người thợ làm đường vốn rất mực ngưỡng mộ bộ đôi Rodgers và Hammerstein hỏi; tất cả bọn họ đều từng hỏi, ở một thời điểm nào đó.
Và người đàn ông mà họ gọi là Đường chỉ nhún vai. “Không muốn hát lắm,” anh ta sẽ nói, khi mà anh ta chịu nói bất cứ điều gì đó.
“Sao người lại gọi gã là Đường nhỉ?” một tay lính mới có lần hỏi. “Trông gã không ngọt ngào lắm với tôi.”
Người thợ có đức tin đáp, “Hai chữ đầu của tên gã là C H. Như là đường ấy, C với H, cậu biết mà.” Và tay lính mới bật cười. Một trò đùa ngốc nghếch, nhưng là kiểu đùa khiến cho cuộc sống giữa tốp thợ làm đường trở nên dễ dàng hơn.
Và cuộc sống cũng đâu có khó khăn đến mức đó. Đối với những người này cũng vậy, họ đã được kiểm tra, và họ đang làm công việc khiến họ hạnh phúc nhất. Họ tự hào về những vết cháy nắng bỏng rát, về những cơ bắp co rút, và con đường ngày càng dài ra sau lưng họ là thứ đẹp đẽ nhất trên đời. Và thế là họ hát cả ngày làm việc, biết rằng họ không thể hạnh phúc hơn được nữa.
Ngoại trừ Đường.
Thế rồi Guillermo đến. Một gã người Mễ nói đặc giọng địa phương. Guillermo bảo với tất cả những ai thắc mắc, “Có thể tôi đến từ Sonora, nhưng trái tim tôi thuộc về Milano!” Và bất cứ khi nào có người hỏi lý do (và thường vào cả những lúc mà không ai hỏi gì cả), gã vẫn sẽ giải thích: “Tôi là một anh chàng người Ý có chất giọng nam cao trong cơ thể của một người Mễ,” và gã chứng minh điều đó bằng cách hát tất cả các nốt mà Puccini và Verdi từng viết ra. “Caruso chẳng là gì cả,” Guillermo khoe khoang. “Nghe đây này!”
Guillermo mang theo các bản thu âm, và hát theo chúng, và khi làm việc trên đường gã sẽ bắt nhịp với bất cứ bài hát nào và hát bè cho họ, hoặc hát một đoạn dạo cao bổng lên khỏi giai điệu, một nốt cao đến nỗi bay khỏi mái nhà và lên tận trời xanh. “Tôi hát được,” Guillermo sẽ nói, và rất nhanh chóng những người thợ làm đường khác sẽ trả lời, “Chuẩn rồi, Guillermo! Hát lại xem nào!”
Nhưng rồi một đêm nọ Guillermo bỗng tỏ ra thành thật và thú nhận. “À, các bạn của tôi ạ, tôi không phải ca sĩ đâu.”
“Ý anh là sao? Tất nhiên anh là ca sĩ rồi!” tiếng trả lời không rõ từ ai vang lên.
“Vớ vẩn!” Guillermo thốt lên, giọng như đang diễn kịch. “Nếu tôi là cái thứ ca sĩ tuyệt vời như tôi vẫn ba hoa, tại sao mấy anh chưa từng thấy tôi rời tốp thợ làm đường để đi thu âm? Đúng không? Tôi mà là ca sĩ á? Vớ vẩn! Ca sĩ phải được nuôi dạy để trở thành ca sĩ. Tôi chỉ là một gã thích hát, nhưng bất tài! Tôi là một gã thích làm việc trên đường với các anh, và hát hết mình, nhưng không bao giờ có thể chen chân vào trong các vở opera đâu! Không bao giờ!”
Gã không nói những điều đó bằng một giọng buồn bã. Gã nói một cách nhiệt thành, đầy tự tin. “Đây là nơi tôi thuộc về! Tôi có thể hát cho các anh, những người thích nghe tôi hát! Tôi có thể bè cho các anh khi tôi cảm nhận được hòa âm trong tim mình. Nhưng đừng có nghĩ rằng Guillermo là một ca sĩ tuyệt vời, bởi gã ta không phải!”
Ấy là một buổi tối của sự thành thật, và tất cả những người có mặt ở đó đều giải thích vì sao họ lại hạnh phúc khi làm việc trong tốp thợ xây đường và không muốn đi đâu khác. Tất cả bọn họ, ngoại trừ Đường.
“Thôi nào, Đường. Anh không hạnh phúc ở đây sao?”
Đường mỉm cười. “Tôi hạnh phúc. Tôi thích ở đây. Đây là một công việc tốt đối với tôi. Và tôi thích nghe các anh hát.”
“Vậy tại sao anh không hát với chúng tôi?”
Đường lắc đầu. “Tôi không phải ca sĩ.”
Nhưng rồi Guillermo nhìn anh với vẻ hiểu biết. “Không phải ca sĩ, ha! Không phải ca sĩ. Một gã đàn ông không có bàn tay mà lại từ chối hát thì chắc chắn không phải một người không thể hát được. Phải không?”
“Thế nghĩa là cái quái gì vậy?” một người thợ hay hát những điệu dân ca hỏi.
“Nghĩa là cái người mà các anh vẫn gọi là Đường ấy, anh ta là một gã bịp. Không phải ca sĩ à! Nhìn vào tay anh ta đi. Mọi ngón tay đều đã bị chặt đứt! Ai mà lại đi cắt đứt ngón tay của người ta chứ?”
Tốp thợ không cố đoán. Có rất nhiều cách mà một gã đàn ông có thể đánh mất ngón tay mình, và đó không phải điều khiến mọi người phải bận tâm.
“Anh ta mất ngón tay bởi vì anh ta đã phá luật và các Quan Sát Viên đã cắt chúng đi! Đó là cách mà một người mất hết ngón tay. Anh ta làm gì với các ngón tay mình để khiến các Quan Sát Viên phải ngăn lại? Anh ta đã phá luật, không phải sao?”
“Dừng lại đi,” Đường nói.
“Nếu anh muốn,” Guillermo nói, những những người khác không tôn trọng sự riêng tư của Đường.
“Kể cho chúng tôi đi,” họ nói.
Đường ra khỏi phòng. 
“Kể cho chúng tôi đi,” và Guillermo đã kể cho bọn họ. Rằng chắc hẳn Đường phải từng là một Soạn Giả đã phá luật và bị cấm làm nhạc. Chỉ riêng cái ý nghĩ rằng một Soạn Giả đang làm việc cùng họ — cho dù là một kẻ phá luật — khiến tất cả đều ngạc nhiên thích thú. Những Soạn Giả rất hiếm hoi, và họ luôn là những người được cả phụ nữ lẫn đàn ông kính trọng nhất.
“Nhưng sao lại là các ngón tay của anh ta?”
“Bởi vì,” Guillermo nói, “chắc hẳn anh ta đã cố tình sáng tác thêm nhạc sau đó. Và khi anh phá luật lần thứ hai, khả năng phá luật lần thứ ba sẽ bị tước mất khỏi anh.” Guillermo nói một cách nghiêm túc, và thế là đối với những người thợ làm đường, câu chuyện của Đường vĩ đại và kinh khủng như một vở opera vậy. Họ đổ xô vào phòng của Đường, và thấy anh ta đang nhìn chằm chằm vào bức tường.
“Đường, có phải vậy không?” người thích Rodgers và Hammerstein hỏi.
“Có phải anh từng là Soạn Giả?” người có đức tin hỏi.
“Phải,” Đường nói.
“Nhưng Đường này,” người có đức tin nói, “Chúa không thể khiến một người ngừng tạo ra âm nhạc được, kể cả khi anh ta có phá luật đi chăng nữa.
Đường mỉm cười. “Không có ai hỏi Chúa cả.”
“Đường này,” cuối cùng Guillermo nói. “Đoàn chúng ta chỉ có chín người, chín người chúng ta, và chúng ta ở cách xa những người khác nhiều dặm. Anh biết chúng tôi, Đường à. Chúng tôi thể trước mộ của mẹ mình, từng người trong chúng tôi, rằng chúng tôi sẽ không kể cho bất cứ ai. Tại sao chúng tôi lại làm thế chứ? Anh là một trong số chúng tôi mà. Nhưng hát đi, chết tiệt, hãy hát đi!”
“Tôi không thể,” Đường nói. “Các anh không hiểu đâu.”
“Đây không phải là điều Chúa dự định,” người có đức tin nói. “Chúng tôi đều đang ở đây làm những gì mình yêu thích nhất, còn anh thì lại như vậy, yêu âm nhạc và không được hát một nốt nào. Hát cho chúng tôi đi! Hát với chúng tôi đi! Và chỉ có anh và chúng tôi và Chúa mới biết!”
Tất cả bọn họ đều hứa hẹn. Tất cả đều van vỉ.
Và rồi ngày hôm sau khi người thích Rodgers và Hammerstein hát “Love, Look Away,” Đường bắt đầu ngân nga. Khi người có đức tin hát “God of Our Fathers,” Đường khe khẽ hát theo. Và khi người thích dân ca hát “Swing Low, Sweet Chariot,” Đường hòa vào với một giọng hát cao vút, lạ tai, và tất cả những người khác đều cười và reo hò và chào đón giọng hát của Đường vào trong những bài ca của họ.
Chuyện không tránh khỏi, Đường bắt đầu sáng tác. Ban đầu chỉ là những hòa âm, tất nhiên, những hòa âm khiến Guillermo nhíu mày và, sau một hồi, cười toe toét và tham gia cùng, dùng hết sức để cảm nhận những gì Đường đang làm với âm nhạc.
Và sau những hòa âm, Sugar bắt đầu hát những giai điệu của chính anh, và ca từ của chính anh. Anh làm cho chúng lặp đi lặp lại, ca từ đơn giản và giai điệu còn đơn giản hơn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn có thể định hình chúng thành những dạng thức kỳ lạ, và xây dựng chúng thành những bài hát chưa từng được nghe trước đây, thoạt nghe có vẻ sai nhưng lại hoàn toàn đúng. Người thích Rodgers và Hammerstein và người hát nhạc dân ca và người có đức tin chẳng cần mất nhiều thời gian để học những bài hát của Đường và hát chúng một cách sung sướng hoặc đau khổ hoặc tức giận hoặc vui vẻ khi họ làm việc trên đường.
Kể cả Guillermo cũng học những bài hát, và giọng nam cao mạnh mẽ của gã đã bị chúng biến đổi cho tới khi nó từ một thứ tầm thường trở thành một điều gì đó khác biệt và đẹp đẽ. Cuối cùng, một ngày nọ Guillermo cũng nói với Đường, “Này Đường, âm nhạc của anh đều sai cả. Nhưng tôi thích cái cách nó ở trong mũi của tôi! Này, anh biết không? Tôi thích cái cách nó ngân vang trong miệng tôi!”
Một số bài hát là thánh ca: “Hãy giữ cho con niềm khao khát, thưa Chúa!” Đường hát, và tốp thợ cũng hát theo.
Một vài bài hát là tình ca: “Đặt bàn tay người vào túi áo kẻ khác,” Đường hát, đầy giận dữ; “Ta nghe được giọng của người vào mỗi sớm mai,” Đường hát, dịu dàng; “Mùa hạ đã sang chưa nhỉ?” Đường hát buồn bã; và những người còn lại cũng hát theo.
Sau vài tháng, tốp thợ làm đường thay đổi, một người thợ ra đi vào một ngày thứ tư và một người khác thế chỗ vào thứ năm sau đó, bởi vì những kỹ năng khác nhau cần thiết ở những nơi khác nhau. Cứ mỗi khi có người mới đến, Đường lại im lặng, cho tới khi người đó đã hứa và bí mật chắc chắn được giữ kín.
Thứ sau cùng đã hủy hoại Đường là thực tế rằng những bài hát của anh quá khó quên. Những kẻ rời đi sẽ hát những bài hát đó với đội mới của họ, và các thành viên đội mới đó sẽ học chúng, và dạy lại cho những người khác nữa. Những người thợ dạy những bài hát trong các quán bar và trên đường; người ta học chúng nhanh chóng, và yêu chúng; và một ngày vị Quan Sát Viên mù nghe được những bài hát ấy và ngay lập tức nhận ra ai là người hát chúng đầu tiên. Chúng là âm nhạc của Christian Haroldsen, bởi vì ở những giai điệu ấy, dù đơn giản, tiếng gió của những cánh rừng phương bắc vẫn còn dữ dội và khung cảnh lá rơi vẫn còn tràn ngập trong từng nốt nhạc và — và Quan Sát Viên thở dài.
Ông ta lấy ra một dụng cụ đặc biệt từ bộ đồ nghề của mình và bắt một chuyến bay tới thành phố ở nơi gần với một tốp thợ làm đường đang làm việc. Và vị Quan Sát Viên mù đi xe của công ty với một tài xế của công ty lên đường, và ở cuối chuyến đi nơi con đường chỉ vừa cắt qua một dải đất hoang vu, Quan Sát Viên mù xuống xe và nghe thấy tiếng hát. Nghe thấy một giọng cao vút ngân nga một bài ca có thể khiến cho một người đàn ông không có mắt cũng phải nức nở.
“Christian,” Quan Sát Viên nói, và bài hát ngừng lại.
“Là ông,” Christian nói.
“Christian, ngay cả khi đã mất hết ngón tay ư?”
Những người còn lại không hiểu — tất cả bọn họ, chỉ trừ có Guillermo.
“Quan Sát Viên à,” Guillermo nói. “Quan Sát Viên, anh ta đâu làm hại ai.”
Quan Sát Viên cười nhạt. “Không ai nói cậu ta làm chuyện đó cả. Nhưng cậu ta phá luật. Còn anh, Guillermo, anh nghĩ sao nếu được làm quản gia trong nhà một người giàu có? Hay anh muốn trở thành giao dịch viên ngân hàng?”
“Đừng có lôi tôi khỏi tốp thợ làm đường, ông bạn,” Guillermo nói.
“Luật lệ đặt con người ở nơi khiến họ hạnh phúc. Nhưng Christian Haroldsen phá luật. Và cậu ta đã ra ngoài kể từ đó, khiến cho mọi người phải nghe thứ âm nhạc mà lẽ ra họ không bao giờ được nghe.
Guillermo biết mình đã đuối lý ngay từ đầu, nhưng gã không thể ngăn bản thân lại. “Đừng có làm hại cậu ta, ông bạn. Tôi phải nghe nhạc của cậu ấy. Thề có Chúa, nó khiến tôi hạnh phúc hơn.”
Quan Sát Viên lắc đầu buồn bã. “Thành thực đi, Guillermo. Anh là một người thành thực. Âm nhạc của cậu ta làm anh đau khổ, không phải sao? Anh đã có tất cả những gì anh khao khát trong đời, ấy vậy mà âm nhạc của cậu ta lại khiến anh buồn. Tất cả mọi lần, đều là nỗi buồn.”
Guillermo cố phản bác lại, nhưng gã là một người thật thà, và gã nhìn lại vào tim mình, và gã biết rằng âm nhạc đó chứa đầy nỗi bi thương. Kể cả những bài hát vui vẻ cũng đều thương tiếc cho một điều gì đó; kể cả những bài hát giận dữ cũng đều than khóc; kể cả những bản tình ca cũng như đang nói rằng mọi thứ đều sẽ chết đi và sự mãn nguyện là thứ cảm xúc phù du nhất. Guillermo nhìn vào tim mình và nhạc của Đường nhìn lại gã và Guillermo bật khóc.
“Chỉ xin ông đừng làm đau cậu ấy,” Guillermo thầm thì khi vẫn đang nức nở.
“Tôi không làm vậy đâu,” Quan Sát Viên mù nói. Rồi ông ta đi tới chỗ Christian, người vẫn đang đứng chờ một cách thụ động, và đưa thứ dụng cụ đặc biệt lên cổ họng Christian. Christian thở gấp một hơi.
“Không,” Christian nói, nhưng từ ngữ chỉ tạo thành bằng môi và lưỡi của anh. Không có âm thanh nào phát ra. Chỉ là một tiếng rít không khí. “Không.”
Tốp thợ làm đường im lặng quan sát khi Quan Sát Viên dẫn Christian đi. Họ thôi không hát trong nhiều ngày. Nhưng rồi Guillermo cũng quên nỗi đau của mình và hát một bản aria từ La Boheme, và những bài hát kể từ đó lại được tiếp tục. Thi thoảng họ vẫn hát những bài hát của Đường, bởi những bài hát ấy không thể bị lãng quên.
Trong thành phố, vị Quan Sát Viên mù đưa cho Christian một tập giấy và một cây bút chì. Christian ngay lập tức nắm chặt cây bút chì trong lòng bàn tay và viết: “Giờ đây tôi sẽ làm gì?”
Người tài xế đọc to mẩu giấy lên, và Quan Sát Viên mù bật cười. “Chúng tôi có việc cho cậu! Ôi, Christian, chúng tôi có việc cho cậu!” Con chó sủa to, khi nghe tiếng cười của chủ nhân nó. 
5. Hoan nghênh
Trên toàn thế giới chỉ có hai tá Quan Sát Viên. Họ là những người cực kỳ bí mật, những người giám sát một hệ thống vốn ít cần đến sự giám sát bởi nó thực sự làm cho tất cả mọi người hạnh phúc. Đó là một hệ thống tốt, nhưng ngay cả những cỗ máy hoàn hảo nhất cũng thỉnh thoảng xảy ra sự cố. Đây đó vẫn sẽ có những kẻ hành động điên rồ, và tự làm hỏng bản thân, và để bảo vệ mọi người cũng như chính kẻ đó, một Quan Sát Viên phải để ý được sự điên rồ ấy và đi sửa chữa nó.
Trong suốt nhiều năm, vị Quan Sát Viên giỏi nhất là một người không có ngón tay, không có giọng nói. Ông ta sẽ đến một cách lặng lẽ, mặc bộ đồng phục ghi cái tên duy nhất mà ông ta cần — Chính Quyền. Và ông ta sẽ tìm những cách nhân đạo nhất, dễ dàng nhất, nhưng cũng triệt để nhất để giải quyết vấn đề và chữa khỏi sự điên rồ và bảo tồn hệ thống đã khiến cho thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử, trở thành một nơi đáng sống. Trên lý thuyết, là cho tất cả mọi người.
Bởi vì vẫn có một vài người — một hoặc hai người mỗi năm — bị cuốn vào vòng xoáy những mưu đồ của bản thân, những kẻ vừa không thể điều chỉnh bản thân để phù hợp với hệ thống vừa không thể phá hoại nó, những kẻ không ngừng phá luật dù biết rất rõ rằng điều đó sẽ hủy hoại chính họ. 
Đến cuối cùng, khi những thương tật và thiếu thốn nhẹ nhàng cũng không thể chữa khỏi sự điên rồ của họ và đẩy họ lại vào hệ thống, họ được cấp cho những bộ đồng phục, và cũng chính họ sẽ bước ra ngoài. Chìa khóa của quyền lực được đặt vào tay những kẻ có nhiều lý do nhất để thù ghét chính cái hệ thống mà họ đang ra sức bảo vệ. Họ có đau khổ hay không?
“Ta thì có,” Christian trả lời trong những khoảnh khắc mà ông dám hỏi bản thân câu hỏi này.
Trong đau khổ ông hoàn thành phận sự. Trong đau khổ ông già đi. Và cuối cùng những Quan Sát Viên khác, những người luôn tỏ lòng tôn kính người đàn ông thầm lặng (bởi họ biết rằng ông từng hát những bài ca cao quý), nói với ông rằng ông được tự do. “Ông đã phục vụ đủ thời gian của mình rồi,” Quan Sát Viên không có chân nói, và anh ta mỉm cười.
Christian nhướng mày, như thể đang nói, “Và?”
“Hãy đi lang thang.”
Vậy là Christian lang thang. Ông đã cởi bỏ bộ đồng phục, nhưng giờ đây khi chẳng thiếu thốn tiền bạc lẫn thời gian, rất ít cánh cửa còn đóng lại với ông. Ông lang thang tới những nơi mà ông từng sống những cuộc đời trước đó. Một con đường giữa những ngọn núi. Một thành phố mà ông từng biết lối nhập hàng của mọi nhà hàng, mọi quán cà phê và cửa hàng tạp hóa. Và cuối cùng một địa điểm trong rừng nơi có một căn nhà rệu rã vì thời tiết do đã bốn mươi năm không ai còn sử dụng.
Christian đã già. Tiếng sấm rền vang, và nó chỉ khiến ông nhận ra rằng mưa sắp sửa rơi xu��ng. Tất cả những bản nhạc cũ. Tất cả những bản nhạc cũ, ông khóc thầm trong lòng, bởi vì ông không thể nhớ nổi chúng hơn là vì ông nghĩ rằng cuộc đời của mình đặc biệt buồn.
Khi ngồi trong một quán cà phê ở một thị trấn gần đó để tránh cơn mưa, ông nghe thấy bốn thanh niên chơi guitar dở tệ đang hát một bài hát mà ông từng biết. Đó là một bài hát mà ông từng sáng tác khi nhựa đường đổ xuống vào một ngày hè nóng nực. Đám thanh niên không phải nhạc công và chắc chắn không phải Soạn Giả. Nhưng họ đã hát bài hát ấy từ trái tim, và dẫu cho ca từ vui vẻ, bài hát ấy khiến tất cả những ai từng nghe đều phải khóc.
Christina viết lên tập giấy mà ông vẫn luôn mang theo, và cho đám thanh niên xem câu hỏi. “Bài hát đó từ đâu ra vậy?”
“Đó là nhạc của Đường,” đứa cầm đầu nhóm trả lời. “Những bài hát của Đường ấy.”
Christian nhướng mày, nhún vai.
“Đường là một người đàn ông từng làm việc trong tốp thợ làm đường và sáng tác nhạc. Nhưng giờ ông ấy chết rồi,” thanh niên trả lời.
“Bài hát tuyệt cú mèo nhất trên đời,” một thanh niên khác nói, và tất cả bọn họ cùng gật đầu.
Christian mỉm cười. Rồi ông viết (và đám thanh niên tỏ ra thiếu kiên nhẫn trong lúc chờ đợi ông già câm này đi chỗ khác): “Các cậu không hạnh phúc sao? Tại sao lại hát những bài ca buồn như vậy?”
Đám thanh niên không biết phải trả lời ra sao. Nhưng rồi đứa cầm đầu vẫn nói, “Tất nhiên, tôi hạnh phúc. Tôi có một công việc tốt, một cô gái mà tôi yêu, và ông già à, tôi không thể đòi hỏi điều gì hết. Tôi có cây guitar của tôi. Tôi có những bài hát của tôi. Và bạn bè của tôi.”
Và một thanh niên khác nói, “Những bài hát này không buồn, thưa ông. Tất nhiên, chúng khiến người ta khóc, nhưng chúng không buồn.”
“Đúng vậy,” một cậu trai khác nữa nói. “Chỉ là nó được viết bởi một người vẫn luôn biết.”
Christian viết nguệch ngoạc lên tập giấy. “Biết gì cơ?”
“Chỉ là ông ấy biết. Biết thôi, chỉ có vậy. Biết tất cả.”
Và rồi đám thanh niên quay trở lại với cây đàn vụng về và giọng hát trẻ, thô sơ của chúng, và Christian bước ra khỏi cửa để rời đi bởi cơn mưa đã ngừng và bởi ông biết khi nào thì cần phải rời sân khấu. Ông quay lại và cúi người hướng về phía những ca sĩ. Họ không để ý đến ông, nhưng giọng hát của họ là tất cả những sự hoan nghênh mà ông cần. Ông rời khỏi sự hoan nghênh ấy và đi ra ngoài nơi những chiếc lá vừa chuyển màu và sẽ sớm thôi, với một âm thanh nhẹ gần như không nghe được, sẽ được tự do và rơi xuống mặt đất.
Trong khoảnh khắc, ông nghĩ rằng ông nghe được bản thân đang hát. Nhưng đó chỉ là những cơn gió cuối cùng, luồn lách mãnh liệt qua những đường dây điện trên phố. Đó là một bản nhạc đầy ngông cuồng, và Christian nghĩ rằng ông đã nhận ra giọng hát của mình.
Hết
* * *
Biên dịch & biên tập: Nhi
* * *
Tác giả Orson Scott Card (Ảnh: Greenville Journal)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
Khoa học viễn tưởng // Science Fiction
(Bạn vui lòng click vào tên truyện để đọc nhé!)
1. Chín tỷ cái tên của Chúa (Arthur C. Clarke, 1953)
Upcoming!
2. Chuyến bay cuối cùng của tiến sĩ Ain (James Tiptree Jr., 1969)
Upcoming!
3. Chuyến dã ngoại đêm (Izumi Suzuki, 1978)
Upcoming!
4. Daisy, trong ánh mặt trời (Connie Willis, 1979)
Upcoming!
5. Bản sonate đơn độc (Orson Scott Card, 1979)
Upcoming!
6. Một bức thư từ gia đình Cleary (Connie Willis, 1982)
Upcoming!
7. Đứa con máu mủ (Octavia E. Butler, 1983)
Upcoming!
8. Chia vô hạn (Robert Charles Wilson, 1998)
“Có những vô hạn lớn lao hơn và ít ỏi hơn.”
Sau cái chết vì căn bệnh ung thư của người vợ yêu dấu, William Keller dường như cũng mất hết động lực để sống tiếp. Nhưng rồi một chuyến viếng thăm tình cờ tới hiệu sách nơi vợ ông từng làm việc đã thay đổi đoạn cuối của cuộc đời ông mãi mãi.
Một truyện ngắn đầy tính suy tưởng về tình yêu, cái chết, và nỗi cô đơn khôn cùng khi mắc kẹt giữa hai điều đó.
9. Sự thật của sự thật, sự thật của cảm giác (Ted Chiang, 2013)
Upcoming!
10. Mùa hè của Đồng Đồng (Hạ Gia, 2014)
Upcoming!
11. Ảnh mèo nhé (Naomi Kritzer, 2015)
Upcoming!
12. Đời người (Lưu Từ Hân, 2016)
Upcoming!
13. Biên niên ký học tình yêu (Caroline M. Yoachim, 2019)
Upcoming!
14. Tuyết rơi vĩnh hằng (E. Lily Yu, 2019)
Upcoming!
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Chín tỷ cái tên của Chúa - Arthur C. Clarke
Tumblr media
Về tác giả
Arthur C. Clarke (1917 - 2008) là một trong ba nhà văn có tầm ảnh hưởng nhất đối với thể loại khoa học viễn tưởng trên toàn thế giới (The Big Three, gồm có Arthur C. Clarke, Isaac Asimov và Robert A. Heinlein). Ông là tác giả của khoảng 20 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, cùng với nhiều kịch bản phim, rất nhiều trong số đó vẫn được coi là kinh điển cho đến ngày nay. Những tác phẩm của ông khiến người đọc phải kinh ngạc vì những tiên đoán về tương lai, đặc biệt trong hai ngành truyền thông và hàng không vũ trụ.
Về tác phẩm
Chín tỷ cái tên của Chúa (tựa gốc: The Nine Billion Names of God) là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của Arthur C. Clarke. Truyện được đăng lần đầu năm 1953 trong tuyển tập Star Science Fiction Stories.
* * *
“Đây có vẻ là một yêu cầu khá khác thường,” tiến sĩ Wagner nói, với thái độ mà ông ta hy vọng là một sự thận trọng thích đáng. “Theo tôi biết, đây là lần đầu tiên có người nào đó yêu cầu cung cấp cho tu viện ở Tây Tạng một chiếc Máy Tính Chuỗi Tự Động. Tôi không muốn tọc mạch, nhưng thật khó để cho rằng - ừm - một chiếc máy như vậy lại có thể có ích đối với tổ chức của các vị. Các vị có thể giải thích các vị định làm gì với nó được chăng?” 
“Sẵn lòng,” vị thầy tu đáp, chỉnh lại chiếc áo cà sa lụa của ông ta lại và cẩn thận cất đi chiếc thước trượt mà ông ta đã dùng để quy đổi tiền tệ. “Chiếc máy tính Mark V của ông có thể thực hiện bất cứ phép toán thông thường nào bao gồm mười chữ số trở xuống. Tuy nhiên, đối với công việc của chúng tôi, chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến các chữ cái, không phải các  con số. Nên chúng tôi mong ông chỉnh sửa các mạch đầu ra, sao cho cỗ máy sẽ in ra các từ ngữ, không phải các cột số.”
“Tôi không hiểu cho lắm….”
“Đây là một dự án mà chúng tôi đã thực hiện trong suốt ba thế kỷ qua - kể từ khi tu viện được thành lập, thực tế là vậy.  Đây là một việc tương đối xa lạ với cách suy nghĩ của các ông, vậy nên tôi mong ông sẽ cởi mở lắng nghe trong khi tôi giải thích.”
“Tất nhiên rồi.”
“Việc này thực sự khá đơn giản. Chúng tôi đã và đang biên soạn một danh sách có lẽ là chứa toàn bộ những cái tên khả dĩ của Chúa.”
“Thứ lỗi cho tôi chưa thể hiểu?”
“Chúng tôi có lý do để tin,” thầy tu điềm tĩnh nói tiếp, “tất cả những cái tên ấy đều có thể được viết với không quá chín ký tự nằm trong bảng chữ cái mà chúng tôi đã tạo ra.”
“Và các vị đã làm điều này suốt ba thế kỷ sao?”
“Đúng: chúng tôi đã dự tính rằng sẽ mất khoảng mười lăm ngàn năm để hoàn thành nó.” 
“Ồ,” tiến sĩ Wagner có vẻ hơi ngạc nhiên. “Giờ tôi đã hiểu tại sao các vị muốn thuê một trong những cỗ máy của chúng tôi rồi. Nhưng chính xác thì mục đích của dự án này là gì nhỉ?” 
Thầy tu ngập ngừng một lúc, và Wagner băn khoăn liệu có phải mình đã làm cho thầy tu khó xử hay chăng. Dù vậy, trong câu trả lời của vị thầy tu không có dấu hiệu của sự phật ý.
“Cứ gọi việc ấy là một nghi thức, nếu ông muốn, nhưng đó là một phần trọng yếu trong tín ngưỡng của chúng tôi. Tất cả mọi cái tên của Đấng Tối Cao - Chúa, Jehovah, Thánh Allah, vân vân - chỉ là những danh xưng mà con người đặt ra. Có một vấn đề triết học khá khó khăn ở đây, cái mà chúng tôi không dự định bàn đến, nhưng đâu đó trong số tất cả những tổ hợp khả dĩ của các ký tự là thứ ta có thể cho là những cái tên thật của Ngài. Bằng cách hoán vị có hệ thống các ký tự, chúng tôi đã luôn cố để lên danh sách của tất cả những cái tên này.” 
“Tôi hiểu. Các vị đã bắt đầu ở AAAAAAA… và cứ tiếp tục cho tới khi đến được ZZZZZZZZ…”
“Chính xác là vậy - thế nhưng chúng tôi sử dụng một bảng chữ cái đặc biệt của riêng mình. Việc chỉnh sửa chiếc máy đánh chữ điện tử để làm việc ấy, tất nhiên, là không đáng kể. Một vấn đề đáng quan tâm hơn là việc tạo ra những bo mạch thích hợp để loại trừ những tổ hợp sai lệch. Ví dụ, không ký tự nào được xuất hiện quá ba lần trong dãy.”
“Ba sao? Rõ ràng là ngài muốn nói hai?”
“Ba là chính xác: Tôi e là giải thích điều này sẽ tốn khá nhiều thời gian, kể cả nếu ông có hiểu ngôn ngữ của chúng tôi đi chăng nữa.”
“Chắc chắn là vậy rồi,” Wagner nói một cách vội vã. “Ngài cứ tiếp tục.”
“May thay, áp dụng chiếc Máy Tính Chuỗi Tự Động của các ông vào việc này cũng đơn giản thôi, vì một khi đã được lập trình đúng đắn, chiếc máy này sẽ hoán vị lần lượt từng ký tự và in ra kết quả. Việc khiến chúng tôi phải mất đến mười lăm ngàn năm sẽ được nó giải quyết trong một trăm ngày.”
Tiến sĩ Wagner hầu như chẳng còn nhận ra những âm thanh nhạt nhòa vọng đến từ những con phố của quận Manhattan xa bên dưới. Ông ta đã ở trong một thế giới khác, thế giới của những ngọn núi tự nhiên, không hề nhân tạo. Cao vút trên những căn nhà núi xa xăm, những thầy tu này đã luôn kiên nhẫn làm việc, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, biên soạn những bản danh sách đầy mấy từ ngữ vô nghĩa của họ. Liệu đã có giới hạn nào cho sự điên rồ của nhân loại? Dù vậy, ông ta không được thể hiện bất cứ dấu hiệu nào cho thấy những ý nghĩ trong lòng mình. Khách hàng là thượng đế….
“Không còn nghi ngờ gì nữa,” tiến sĩ trả lời, “chúng tôi có thể chỉnh sửa chiếc Mark V để in ra các danh sách như vậy. Điều khiến tôi quan ngại hơn là vấn đề lắp đặt và bảo trì. Việc đi đến Tây Tạng, trong những ngày này, quả thực không dễ.”
“Chúng tôi có thể sắp xếp. Những phụ tùng đủ nhỏ để có thể chở bằng máy bay - đó là một lý do chúng tôi chọn chiếc máy của ông. Nếu ông có thể đưa chúng đến Ấn Độ, chúng tôi sẽ lo việc vận chuyển từ đó.”
“Và các vị muốn thuê hai kỹ sư của chúng tôi?”
“Vâng, trong ba tháng mà dự án diễn ra.”
“Tôi chắc rằng Phòng Nhân sự có thể thu xếp được.” Tiến sĩ Wagner viết vội một ghi chú vào cuốn sổ trên bàn. “Chỉ còn hai điều nữa—”
Trước khi ông ta viết hết câu, thầy tu đã đưa ra một mẩu giấy nhỏ.
“Đây là số dư tín dụng đã được chứng thực của tôi tại Ngân hàng Châu Á.”
“Cảm ơn. Chừng này có vẻ — ờ — là đủ rồi. Vấn đề thứ hai thì thật không đáng kể, làm tôi lưỡng lự khi phải đề cập đến— nhưng thật bất ngờ rằng những điều hiển nhiên lại bị bỏ qua thường xuyên như vậy. Các vị có loại nguồn điện nào nhỉ?”
“Một động cơ diesel công suất năm mươi kilowatt sử dụng điện một trăm mười volt Động cơ này được lắp đặt 5 năm trước và khá ổn định. Nó đã giúp cho cuộc sống ở tu viện tiện nghi hơn nhiều, nhưng đương nhiên là nó được lắp đặt thực ra là để cấp năng lượng cho các mô-tơ quay những bánh xe cầu nguyện.”
“Tất nhiên rồi,” tiến sĩ Wagner lặp lại. “Lẽ ra tôi phải nghĩ đến điều ấy.”
* * *
Cảnh tượng nhìn từ lan can thật choáng ngợp, nhưng riết rồi cũng quen. Sau ba tháng, George Hanley đã không còn thấy ấn tượng với cuộc hành trình hai ngàn feet vào vực thẳm hay những cánh đồng hình bàn cờ hoang vắng bên dưới thung lũng. Anh ta dựa người vào những hòn đá đã bị phong hóa nhẵn nhụi và buồn rầu nhìn đăm đăm về hướng những ngọn núi xa xăm mà anh ta chẳng bao giờ buồn hỏi tên.
Công việc này, George nghĩ, là chuyện điên rồ nhất mà anh ta từng trải nghiệm. “Dự án Shangri-La,” cái tên mà gã hài hước nào đó đặt ra ở phòng thí nghiệm. Mấy tuần nay cái máy Mark V đã in ra hàng đống giấy tờ phủ đầy những thứ vô nghĩa. Một cách kiên nhẫn và không ngừng nghỉ, cái máy tính đã luôn sắp xếp các ký tự theo những tổ hợp khả dĩ, hết lớp này đến lớp khác. Khi những tờ giấy được in ra từ chiếc máy đánh chữ điện tử, các thầy tu cắt chúng một cách cẩn thận và dán vào một quyển sách khổng lồ.
Tuần tới, nhờ trời, họ sẽ làm xong việc. Những phép tính bí ẩn nào đó đã thuyết phục họ không cần bận tâm với những từ gồm mười, hai mươi, hay hàng trăm ký tự nữa, George cũng chẳng biết. Một trong những cơn ác mộng liên miên của anh ta là kế hoạch sẽ bị thay đổi và thầy trụ trì (người mà họ thường gọi là Sam Jaffe, dù ông ta chả giống người đó một tẹo nào cả) đột ngột thông báo rằng dự án sẽ được kéo dài đến khoảng năm 2060. Bọn họ khá chắc về việc này.
George nghe tiếng cửa gỗ nặng nề đóng lại trong gió khi Chuck bước đến bên lan can cạnh anh. Như thường lệ, anh ta đang hút một trong những điếu xì gà mà làm anh ta nổi tiếng với các tu sĩ - những con người có vẻ khá tự nguyện tiếp nhận những vui thú lớn nhỏ của cuộc đời. Ấy là một trong những thứ có lợi cho họ: họ có thể hơi điên rồ, nhưng cũng chẳng phải những kẻ khắt khe. Cứ lấy những chuyến đi xuống làng của họ làm ví dụ...
“Nghe này, George,” Chuck khẩn khoản. “Tôi đã nghe ngóng được vài chuyện có thể sẽ gây ra phiền toái.”
“Việc gì cơ? Phải chăng cái máy bị hỏng?” Ấy là viễn cảnh bất ngờ tệ nhất mà George có thể tưởng tượng ra. Ngày trở về có thể bị trì hoãn, và chẳng thứ gì có thể tệ hơn thế. Cảm giác mà anh ta trải qua bây giờ, kể cả nhìn thấy một cái quảng cáo trên TV cũng như lộc trời cho vậy. Ít nhất là nó có liên quan đến quê nhà.
“Không — không phải vậy.” Chuck ngồi lên lan can, nơi mà anh ta thường sợ sẽ bị ngã xuống. “Tôi đã hiểu ra những thứ này là vì cái gì.”
“Ý gì đây? Tôi tưởng ta đều biết chứ.”
“Đúng vậy — ta đều biết các nhà sư đang cố làm gì. Nhưng ta chẳng biết vì sao. Đó mới là thứ điên rồ nhất—”
“Nói gì đó mới mẻ hơn đi” George càu nhàu.
“— nhưng lão Sam vừa nói rõ cho tôi. Cậu biết cách mà ông ta bỏ mọi buổi chiều để quan sát những mẩu giấy được in ra đấy. Ừ thì, lần này ông ta có vẻ khá hào hứng, hay ít ra cũng gần với sự hào hứng hơn bao giờ hết. Khi tôi nói với ông ấy ta đang ở giai đoạn cuối cùng thì ông ta hỏi lại tôi, bằng cái giọng Anh dễ thương đó, rằng liệu tôi có bao giờ thắc mắc họ đang cố làm gì. Tôi bảo, ‘Có chứ’ - và ông ta đã giải thích cho tôi.”
“Cứ nói tiếp đi: Tôi sẽ tin anh.”
“Ừ thì, bọn họ tin rằng một khi họ đã liệt kê toàn bộ những cái tên của Ngài — và họ tính là có khoảng chín tỷ cái — mục tiêu của Chúa sẽ được đạt tới. Nhân loại sẽ hoàn thành việc mà chúng ta được tạo ra để làm, và sẽ không còn lý do gì để tiếp tục nữa. Thực tế mà nói, chính bản thân cái ý tưởng lại có vẻ giống như một sự báng bổ.” 
“Vậy họ mong ta sẽ làm gì chứ? Tự vẫn chăng?”
“Không cần phải vậy. Khi cái danh sách được hoàn thiện, Chúa sẽ xuất hiện và thổi tung mọi thứ lên ...và bùm!”
“Ừm, tôi hiểu rồi. Khi ta hoàn thành việc này, thế giới sẽ đi đến hồi kết.”
Chuck cười nhẹ đầy phiền não.
“Đó cũng là câu tôi đã nói với Sam. Và cậu biết gì không? Ông ta nhìn tôi đầy lạ lùng, như thể tôi là một thằng đần vậy, và nói, ‘Điều ấy thực chẳng đáng là bao cả’ ”
George ngẫm nghĩ trong giây lát.
“Ấy là thứ tôi gọi là Cái Nhìn Toàn Diện,” anh ta nói ngay. “Nhưng cậu nghĩ ta nên làm gì cơ chứ? Tôi thấy chẳng có gì khác biệt cả. Sau cùng thì, ta đều biết họ thật điên rồ.”
“Phải — nhưng anh không thấy được điều gì sẽ xảy ra sao? Một khi bản danh sách được hoàn thiện và tiếng kèn Phán Xét không vang — hay là bất cứ gì họ mong đợi — ta sẽ bị đổ thừa. Xét cho cùng thì, họ dùng máy của chúng ta cơ mà. Tôi không thích việc ấy chút nào cả.”
“Tôi hiểu,” George chậm rãi. “Cậu nói cũng có lý. Nhưng những chuyện như thế này đã xảy ra rồi. Hồi tôi còn là một đứa nhóc ở dưới Louisiana, có một ông mục sư lập dị từng nói rằng thế giới sẽ diệt vong vào Chủ nhật tới. Hàng trăm người tin lời lão ta — tới mức bán cả nhà. Nhưng khi không có chuyện gì xảy ra cả, họ cũng chẳng giận dữ, như cậu trông đợi. Họ chỉ cho rằng lão mục sư đó đã có lầm lẫn trong tính toán và ngay lập tức tin tiếp. Tôi nghĩ  là vài người trong số họ vẫn còn tin đến giờ.”
“Ừ thì, đây đâu phải Louisiana, phòng khi cậu chưa nhận ra điều đó. Chỉ có hai ta và hàng trăm thầy tu ấy. Tôi thích họ, và sẽ thấy đáng tiếc cho lão Sam nếu công việc cả đời của ông ta phản lại ổng. Nhưng đằng nào cũng vậy thôi, tôi ước tôi đã ở nơi khác.”
“Tôi đã luôn mong mỏi về điều ấy hàng tuần nay. Nhưng ta chẳng thể làm gì đến khi hợp đồng chấm dứt và có phương tiện đến đón ta đi.”
“Đương nhiên là vậy,” George nghĩ ngợi, “ta có thể thử phá một tí.”
“Có thể quái gì! Điều ấy chỉ làm mọi thứ tệ hơn thôi.”
“Ý tôi không phải vậy. Theo tình hình này. Cỗ máy sẽ chạy xong trong bốn ngày nữa, trên cơ sở hai mươi tiếng một ngày như hiện tại. Phương tiện đến trong một tuần. OK — vậy thì tất cả những gì ta cần làm là bịa ra một thứ gì đó cần thay thế trong đợt trùng tu - thứ gì đó có thể giúp trì hoãn công việc thêm vài ngày. Ta sẽ sửa nó, tất nhiên, nhưng không quá nhanh. Nếu tính toán đúng, ta có thể đến được sân bay khi cái tên cuối cùng nhảy ra khỏi máy. Đến lúc đó họ sẽ chẳng thể bắt được ta nữa.”
“Tôi không thích ý này,” George bảo. “Đây sẽ là lần đầu tiên tôi bỏ việc. Bên cạnh đó, việc ấy sẽ làm họ nghi ngờ. Không đâu, tôi sẽ ngồi yên đợi bão.”
* * *
“Tôi vẫn không thích ý này,” anh ta nói, bảy ngày sau, khi những con ngựa núi nhỏ dẻo dai chở họ xuống con đường quanh co. “Và cậu đừng có mà nghĩ tôi bỏ chạy vì tôi sợ. Tôi chỉ thấy đáng thương cho những ông già tội nghiệp đó, và tôi không muốn ở  gần họ khi họ nhận ra mình ngốc thế nào. Nghĩ thử liệu Sam sẽ thấy thế nào?” 
“Buồn cười thật,” Chuck đáp, “nhưng khi tôi tạm biệt bọn họ, tôi nghĩ là ông ta biết ta đang rời đi — và ông ta chẳng quan tâm, vì bản thân ông ta biết cái máy chạy rất mượt và công việc sẽ sớm được hoàn thành. Sau đó thì — ừ, tất nhiên là, với ông ta chỉ là chẳng còn sau đó nữa…”
George xoay người lại trên yên ngựa và nhìn chăm chăm ngược đoạn đường núi. Đây là địa điểm  cuối cùng mà người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh tu viện. Những tòa nhà thấp, góc cạnh in bóng trong dư ảnh của hoàng hôn: đây đó, những tia sáng lập lòe trông như những ô cửa sổ bên thành một chiếc tàu hàng hải. Ánh đèn điện, đương nhiên, chia sẻ cùng đường dây với chiếc Mark V. Chúng sẽ chia sẻ dòng điện đó trong bao lâu nữa? George băn khoăn. Liệu những thầy tu kia sẽ đập nát chiếc máy trong cơn giận dữ và thất vọng? Hay họ chỉ im lặng ngồi xuống và bắt đầu lại mọi tính toán?”
Anh ta biết chính xác điều gì đang diễn ra trên núi lúc này. Thầy trụ trì và những môn đệ của ông sẽ đang ngồi trong chiếc áo cà sa lụa của họ, xem xét những tờ giấy trong khi các chú tiểu mang chúng đi khỏi chiếc máy đánh chữ và dán vào những cuốn sách lớn. Sẽ không một ai nói gì. Âm thanh duy nhất sẽ chỉ là tiếng lách tách không ngừng, như mưa bão không dứt của những phím chữ đập vào giấy, bởi chính chiếc Mark V cũng hoàn toàn im lặng khi lướt qua hàng ngàn tính toán của nó mỗi giây.  Ba tháng vừa qua, George nghĩ, đã đủ để khiến bất cứ ai ngán ngẩm.
“Kia rồi!” Chuck gọi, tay chỉ xuống dưới thung lũng. “Đẹp lắm phải không!”
Đẹp thật, George nghĩ. Chiếc DC3 cũ rích nằm đường băng trông như một chữ thập nhỏ màu bạc. Trong hai tiếng nữa thôi, nó sẽ mang họ rời khỏi nơi này để đến với sự tự do và lành mạnh. Ấy quả là một suy nghĩ đáng tận hưởng , đậm đà như một ly rượu ngon vậy. George để nó chạy trong đầu như con ngựa kiên nhẫn lê bước xuống đoạn dốc.
Màn đêm chóng vánh trên những ngọn núi của dãy Himalaya cao vút đã gần buông. May thay, chặng đường thật yên bình, khi đi vào lúc này và cả hai người họ đều mang đuốc. Ngay cả mối nguy nhỏ nhất cũng không xuất hiện, chỉ có một sự khó chịu do trời lạnh căm. Bầu trời trên đầu họ hoàn toàn quang đãng, sáng rực với những ngôi sao thân thuộc. Ít nhất là sẽ chẳng có rủi ro nào, George nghĩ, khiến phi công không thể cất cánh vì điều kiện thời tiết. Đó là nỗi lo duy nhất còn lại của anh ta.
Anh ta bắt đầu hát, nhưng bỏ cuộc sau một lúc. Cái vùng bao la đồi núi này, mọi bề đều lập lòe như những con ma trùm mũ, không hề làm cho con người ta sôi nổi chút nào. George nhìn đồng hồ.
“Còn khoảng một tiếng,”George gọi về phía Chuck đang đi đằng sau. Rồi anh ta bổ sung thêm, sau một thoáng ngẫm nghĩ: “Liệu rằng cái máy đã chạy xong chưa. Đáng ra tầm này là xong rồi.”
Chuck không đáp, nên George quay ra sau yên ngựa. Anh có thể thấy gương mặt trắng trẻo hình trái xoan của Chuck ngước lên trời.
“Nhìn xem,” Chuck thầm thì, và George ngước mắt lên trời. (Luôn có hồi kết cho tất cả mọi thứ.)
Trên đầu họ, một cách lặng lẽ, những ngôi sao đang tắt dần.
Hết
* * *
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Nhi
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Ngôi nhà hoang trên đồi ma ám
Tumblr media
Về tác giả
John Wiswell là một tác giả viết truyện giả tưởng người Mỹ, hiện đang sống tại thành phố New York. Các tác phẩm của anh từng được đăng trên các tạp chí Uncanny Magazine, Nature Futures, Fireside Magazine. Bạn có thể ghé thăm blog cá nhân của anh tại johnwiswell.blogspot.com hoặc theo dõi anh qua Twitter @Wiswell.
Về tác phẩm
Ngôi nhà hoang trên đồi ma ám (tên gốc: Open House on Haunted Hill) là một truyện ngắn của John Wiswell, đăng trên trang Diabolical Plots Fiction vào ngày 15/6/2020. Tác phẩm đã nhận giải Nebula Award năm 2021 cho truyện ngắn xuất sắc nhất.
* * *
Số 133 đại lộ Poisonwood sẽ mạnh hơn nếu nó là một ngôi nhà giết người. Có một căn địa ốc nọ ở số 35 phố Silver đã thủ tiêu hẳn một gia đình vào năm 1800 và kể từ đó đến nay phần mái của nó chưa bao giờ bị dột. Vào năm 2007, ngôi nhà vẫn đủ sức bẫy một cặp đôi đang cãi nhau vào một mê cung dài vô tận mà thực tế chỉ rộng ba trăm mét vuông. Số 35 phố Silver là một sự phô trương.
Từng có một người chết ở số 133 Poisonwood. Hồi năm 1989, Dorottya Blasko đã từ chối sống trong nhà cứu trợ và dành ra hai tháng rưỡi tận hưởng tiếng gió trên phần ván lợp của số 133 đại lộ Poisonwood. Ngày ngày, số 133 đại lộ Poisonwood đều hết lòng với cô.
Ngôi nhà vẫn thường hoài niệm về năm 1989. Trong hầu hết khoảng thời gian từ đó đến nay, nó bị bỏ hoang.
Hôm nay nó sẽ thay đổi điều đó. Nó đã cư xử hết sức đúng mực trong lúc người môi giới của nó, bà Weiss, quét dọn sạch sẽ bên trong ngôi nhà. Bà ấy bày biện những khay bánh quy mua ngoài cửa hàng và giấu đi những chiếc máy khuếch tán mùi hương, trong khi số 133 đại lộ Poisonwood triệu hồi một làn gió nhẹ và sử dụng nó để dọa đám chuột chũi ra khỏi nhà. Cả nhà môi giới và bất động sản đều muốn ngôi nhà này được hoạt động.
Những kẻ tụt hậu lần lượt bước vào. Họ là những người đang buồn chán chỉ quan tâm đến những món đồ ăn nhẹ hơn là hệ thống ống nước đã được sửa chữa. Ngôi nhà nắn thẳng những tấm ván sàn đau nhức của nó, giống như một người đang hóp bụng lại vậy. Những kẻ tụt hậu đó vấy bùn ra khắp nơi. Ngôi nhà chẳng mong gì hơn là được bất kỳ ai trong số họ dành cả phần đời còn lại của mình vấy bùn bên trong nó.
Một người đàn ông to lớn với đôi vai chùng xuống bước vào. Anh ta dính một chút bánh socola hạnh nhân  trên lưng chiếc áo hoodie xanh lét màu lông vẹt  của mình, và dường như anh ta không nhận thức được điều đó. Bà Weiss khẽ vẫy tay chào anh ta trong khi vẫn tiếp tục trò chuyện với một cặp vợ chồng giàu có thêm mười phút nữa. Đôi vợ chồng ấy đã mắc sai lầm khi nói rằng họ “đang nghĩ đến việc thụ thai,” và bà Weiss đã sử dụng những số liệu thống kê của trường học trong khu như một cao bồi sử dụng dây thừng vậy. Đôi giày của cặp đôi có thể đắt hơn khoản tiền đặt cọc phải trả trước khi mua nhà, nhưng từ tần suất họ kiểm tra điện thoại, rõ ràng họ sắp sửa quay lại chiếc Mercedes của mình.
Người đàn ông với chiếc áo hoodie dính bánh socola hạnh nhân  bước qua cửa của 133 Poisonwood, và ngôi nhà vuốt ván sàn của chính mình thẳng đến mức nền móng nhà run lên.
Người đàn ông không nhìn xuống sàn của 133 Poisonwood. Anh ta nhìn vào một vài gợn trên giấy dán tường màu xanh lá cây, với biểu cảm như thể một người đang nhìn vào nách của chính mình.
Ngôi nhà cảm thấy xấu hổ vì giấy dán tường lỏng lẻo. Đó là lụa vẽ cổ điển, thứ chất liệu mà bà  Weiss nói rằng có thể giá trị sẽ gia tăng. Bây giờ ngôi nhà đang cân nhắc xem liệu nó có thể ám vào lớp keo của chính mình và làm rơi giấy dán tường để anh ta hài lòng hay không. Việc này đặc biệt quan trọng vì anh ta đang dành nhiều thời gian ở đây hơn bất kỳ ai mà không có bà Weiss cãi lộn. Nó giống như việc anh ta không cảm nhận được bầu không khí mà những vị khách khác đang cảm nhận, hoặc anh ta không quan tâm đến họ.
Hành động của anh ta cho thấy, điều anh ta quan tâm chính là giấy dán tường, ánh sáng tự nhiên xuyên qua cửa sổ trong phòng ngủ chính và phòng bếp.
Một đứa bé huỳnh huỵch chạy vào, mái tóc xoăn thắt thành ba bím tóc thuôn dài, kiểu tóc mà có lẽ cô bé đã tự làm. Mặt dây chuyền lưu niệm bằng bạc tương phản mạnh mẽ  với chiếc áo thun Incredible Hulk màu xanh lá cây tươi sáng. Hai tay cô bé vòng qua ôm trước ngực, bàn tay chìa ra như móng vuốt, dính đầy bánh socola.
Mỗi bước chân của cô bé đều giẫm thật mạnh. Nếu ngôi nhà buộc phải đoán, có lẽ cô bé đang đóng giả một con khủng long đang săn mồi.
Người đàn ông mặc áo hoodie dính bánh socola nhìn cô. Anh ta hỏi, “Ana. Áo khoác của con đâu?”
Ana gầm lên, “Con ghét quần áo!”
Ana rõ ràng ghét quần áo đến nỗi cô bé ngay lập tức cầm vạt áo phông Hulk rồi kéo nó lên. Cô bé cẩn thận giữ chặt chiếc mặt dây chuyền, nhưng lại ném chiếc áo về phía người đàn ông. Anh ta túm lấy cô bé, nhưng cô nhanh chóng cúi người tránh khỏi vòng tay anh, lướt qua bà Weiss và cặp vợ chồng giàu có, bím tóc và vòng cổ nảy lên.
Họ đuổi nhau ra khỏi cửa. Căn nhà biết dầu sưởi đắt, nó triệu tập một làn gió để đóng cửa lại giúp họ.
Âm thanh cửa đóng khiến Ana hoang mang, cô bé chỉ vào cửa, nói, “Bố ơi! Đó là ma!”
Người bố nói, “Ana, chúng ta đã từng nói về điều này rồi mà, không có thứ gì gọi là ma cả.”
“Bố chưa nhìn thấy mà.”
“Con không cần phải tìm những thứ không có thật.”
Ana nhìn chiếc vòng rồi thở gấp, “Nếu đó là hồn ma của mẹ thì sao?”
Người bố nhắm mắt một lúc, “Làm ơn mặc lại áo của con đi.”
Ana lập tức tấn công chiếc quần của mình, “Quần áo chỉ dành cho người yếu đuối!”
“Mặc vào hoặc chúng ta rời đi, Ana.” Người bố nói, cố gắng mặc quần áo lên người con gái. Cô bé đẩy anh ra, lại có thêm bánh hạnh nhân rơi đầy áo hoodie của anh ta. Trong lúc hai bố con vật lộn với nhau, cặp vợ chồng giàu có lẻn ra khỏi nhà mà không đóng cửa lại.
Căn nhà đóng cửa giúp họ. Dầu sưởi quả thật không rẻ.
* * *
Mái nhà có hình tam giác nên tầng hai chỉ đủ cho một phòng ngủ. Bà Weiss thấy được biểu cảm trên khuôn mặt của người bố, và bà tấn công anh như sau: “Tầng hầm rất rộng rãi, ánh sáng rực rỡ. Ở dưới đó mát vào mùa hè, và ấm vào mùa đông.”
Ana nói, “Dù sao thì cao quá cũng là điều xui xẻo.”
Đứa trẻ bốn tuổi hầu như không nhìn vào phòng ngủ trước khi lùi ra ngoài. Cô bé ôm lấy tay vịn bằng cả hai tay khi leo xuống cầu thang với đôi chân run rẩy. Tới bậc thứ ba, cô bé bị đứng hình  hoàn toàn.
Người bố vẫn đang kiểm tra căn phòng và không để ý Ana run rẩy tại chỗ đó.
Một số ngôi nhà cho người sống ở đó thấy cảnh giết chóc hoặc thương tổn. 133 Poisonwood lại cho người bố thấy một hình ảnh thoáng qua về sự chóng mặt của con gái anh. Anh ta không biết rằng hình ảnh ấy đến từ tầm nhìn của một kẻ khác, và sẽ không tin vào điều đó, nhưng anh ta đã có mặt ở cầu thang trong vài giây. Ana giữ chặt ống quần của cha mình cho đến khi cô bé cảm thấy an toàn.
133 Poisonwood chỉ tạo ra được những tác động nhẹ, nó biết cách sử dụng chúng. Ám ảnh cũng là một nghệ thuật.
Tầng hầm chỉ có một nửa là nằm dưới mặt đất, vì vậy các cửa sổ tầng hầm cao ngang với bãi cỏ mới cắt trước nhà. Trong một thoáng, Ana cười khúc khích trước khung cảnh đó. Sau đó, cô bé đi loanh quanh dưới tầng hầm, từ lò sưởi và phòng giặt, đến tủ chứa đồ, và hai phòng còn đang để trống. Họ sẽ tạo ra một phòng ngủ và phòng chơi trẻ em hoàn hảo.
Ana đi đến căn phòng phía tây, nói, “Bố ơi. Bố có thể giam tất cả những con ma mà bố bắt được ở đây.”
Bà Weiss đề nghị, “Một trong số này có thể dùng làm thư phòng. Anh có nói anh là người làm việc từ xa? Google Fiber sẽ đến khu vực này vào năm tới.”
Người bố nói, “Tôi muốn làm việc ở nhà nhiều hơn. Tôi là một kỹ sư phần mềm và tôi tổ chức một chương trình thu âm chống lại mê tín dị đoan. Bà có thể đã nghe thấy chúng.”
Ngôi nhà không bị xúc phạm. Nó cũng không tin có ma.
Ana chạy qua lại giữa hai căn phòng, xem xét kỹ lưỡng như thể chúng sẽ lớn lên. Đó là một phép thuật mà ngôi nhà không có.
Người bố nói, “Chúng ta có thể ngủ cạnh nhau. Con nghĩ sao?”
Ana nói, “Nhưng con muốn có một phòng trang trí khủng long lớn.”
“Con sẽ trở thành một chú khủng long lớn. Còn căn phòng trên tầng cao nhất thì sao? ”
Môi dưới của Ana trề ra như thể cô bé sẽ chạy đi. Cô bé rõ ràng không chấp nhận căn phòng trên tầng cao nhất, và chỉ có một phòng ngủ chính ở tầng một. Một cơn giận dữ đã gần kề, và nó có thể phá hỏng mọi thứ.
Vì vậy, 133 Poisonwood đóng vai trò rất quan trọng. Mỗi ngôi nhà ma ám đều có ít nhất một căn phòng bí mật. Dorottya Blasko đã từng may ở đó khi cô không muốn bị làm phiền, một căn phòng mà gia đình cô không thể tìm thấy. Đó sẽ là một nơi hoàn hảo để Ana lớn lên. Có lẽ cô bé sẽ học may.
Với tiếng mèo con trìu mến, cánh cửa mở ra. Cú sốc ập đến với những người lớn, mọi người chắc chắn sẽ không nghĩ rằng có một căn phòng ở đó. Ana không quan tâm, và chạy đi khám phá nó.
“À, chúng tôi không dùng căn phòng đó.” bà Weiss nói, cố gắng bảo vệ cho mình. Bà ấy đang hoảng sợ, tưởng tượng được những mối nguy hiểm và những vụ kiện tụng.
Bà ấy không hiểu. 133 Poisonwood sẽ kiếm được tiền cho họ.
Căn phòng chạy sâu vào trong, với cửa sổ mở rộng đã không được nhìn thấy bên ngoài trong hơn hai mươi năm. Một chiếc hộp may với mặt ngoài trơn láng màu đỏ tươi và màu xanh hoàng gia nằm bên cạnh một chiếc ghế bập bênh, và bên dưới cửa sổ là một bánh xe quay rộng vẫn còn mùi cũ kĩ. Nhiều bộ váy tuyệt vời đáng lẽ đã được ra đời từ căn phòng này. Có một vài vết nứt trên sàn bêtông. Không có gì làm khó một người cha để hoàn thiện căn phòng lớn cho con gái mình.
“Ana,” người bố gọi, “Ở gần bố.”
Ana bỏ qua lời ông và chạy thẳng đến bánh xe quay. Đôi tay nhỏ bé của cô bé nắm lấy những nan hoa của bánh xe, rồi cô bé quay về phía cửa, ”Nó giống như của mẹ.”
Người bố nói, “Cẩn thận, thứ đó không phải của chúng ta.”
Ana giật mạnh bánh xe để khoe với người lớn. Cô bé kéo trước khi ngôi nhà có thể chống lại, và toàn bộ cái xe kêu cót két và chao đảo. Nó đổ thẳng xuống đầu Ana, đẩy cô bé ngã xuống sàn.
Người bố nắm lấy vai cô và kéo cô dậy từ giữa bánh xe nứt và bàn đạp. Ana không để ý đến chiếc vòng cổ của mình đã mắc vào trục chính. Sợi dây bị đứt, và chiếc vòng tuột khỏi cổ cô rồi rơi xuống một vết nứt trên sàn. Ngôi nhà vô tình hút sợi dây chuyền rơi xuống như một sợi mì Ý, nó cố nhổ ra.
Người bố ôm chặt Ana trong ngực để cô không thể chạy tiếp, liên tục hỏi, “Con ổn chứ? Con ổn chứ?”
Bà Weiss ra hiệu và nói, “Tay của cô bé.”
“Con ổn chứ?”
Ana nói, “Hãy để con sửa nó.” Cô bé vươn tay về phía bánh xe quay bị hỏng. Một bàn tay của cô bé đang chảy máu nhưng cô bé vẫn muốn dọn dẹp đống hỗn độn mình gây ra. Cô bé nói, “Bố ơi, buông ra, con sẽ sửa nó. Đừng làm những con ma buồn.”
Người bố hoàn hồn, và ông nâng cô bé bằng một tay, bỏ qua việc cô bé đá chân. Anh ta đi xuống cầu thang. ”Không. Bố đã cảnh báo con, chúng ta sẽ rời đi.”
“Bố ơi, không!”
“Không còn nữa. Nói tạm biệt đi. Những con ma không nói lời tạm biệt? Con biết tại sao không?”
Một sự thôi thúc ngôi nhà đóng sập cửa lại và nhốt tất cả bên trong. Người bố, Ana, và thậm chí cả bà Weiss, buộc tất cả họ phải ở vĩnh viễn trong căn phòng ẩn của nó, nơi họ có thể may váy, giữ mát vào mùa hè và ấm vào mùa đông. Nó sẽ che chở họ khỏi tất cả những cơn bão tố mà thế giới có thể tạo ra. Nó cần họ.
Bản l��� và núm cửa run lên khi 133 Poisonwood tự chiến đấu. Trong khoảnh khắc đó, nó biết điều gì khiến những ngôi nhà khác trở nên xấu xa. Những ngôi nhà giết người không thể chịu được khi ở một mình.
133 Poisonwood sẽ mạnh hơn nếu nó là một ngôi nhà giết người. Nhưng nó không phải.
Nó khiến các phòng của nó mở ra khi người bố bế đứa con gái đang gào thét của mình ra khỏi tầng hầm, những âm thanh rời rạc của cô bé vang lên khắp ngôi nhà. Anh ta bế cô bé lên cầu thang và ra khỏi cửa mà không hề nhìn lại. Lần này, anh ta đã nhớ đóng cửa.
* * *
133 Poisonwood để mở căn phòng bí mật với hy vọng ai đó sẽ quay lại. Nó ép các vết nứt trên sàn nhà của nó lại, đẩy chiếc vòng ra mà không làm xước nó. Bên trong là hình ảnh của một người phụ nữ với chiếc mũi dày và đôi mắt đầy kiêu hãnh. Cô ấy sẽ trở thành một con ma xuất sắc. Ngôi nhà cần một chỉ cần một bóng ma để bầu bạn.
Buổi chiều uể oải. Có bốn người khách nữa, không ai trong số họ ở lại đủ lâu để kiểm tra tầng hầm. Thời gian trôi qua, bà Weiss dành phần lớn thời gian cho điện thoại.
Khi trời sắp tối, một chiếc ô tô màu đỏ xuất hiện. Người lái xe ở bên ngoài hai phút trước khi gõ cửa. Đó là người bố.
Bà Weiss lên tiếng, cố gắng nở một nụ cười, “Ái chà, Ana ổn chứ?”
Người bố nói, “Đó là một vết thương nhẹ. Cảm ơn vì trước đó đã hiểu.”
Bà ấy nói, “Tôi rất tiếc về điều đó. Tôi đã nói với mọi người rằng nơi này chắc sẽ không có ai.”
Anh ta nói, “Bà có thấy chiếc vòng cổ không? Lúc nào Ana cũng đeo nó và giờ thì nó đã mất tích.”
Bà Weiss giữ cửa cho anh ta, “Chúng ta có thể tìm xung quanh. Nó trông như thế nào?”
“Nó có hình của mẹ Ana bên trong. Đó là một trong số ít những món quà mà cô bé nhận được từ mẹ.”
“Cô ấy là vợ của anh?”
“Cô ấy sẽ như vậy.” Anh ta nói, ánh mắt nhìn quanh phòng ngủ với vẻ mặt còn trống rỗng hơn cả không gian. “Đã có một tai nạn ở lối thoát hiểm trong căn hộ của chúng tôi. Cô ấy đã bị ngã.”
“Ôi, thật là tồi tệ.”
“Hiện giờ, Ana cần được thoải mái. Vì vậy, nếu chúng ta có thể tìm thấy chiếc vòng đó, nó sẽ cứu mạng chúng tôi.”
Họ nhìn xung quanh, người đàn ông mệt mỏi đến nỗi mỗi bước đi đều có vẻ nặng nề. Thật ngạc nhiên khi anh ta loạng choạng đến được chiếc giường trong nhà nghỉ, đừng nói đến việc đi tìm chiếc vòng. Ngôi nhà đã không thấy ai cần nơi nghỉ ngơi đến vậy trong nhiều năm.
Bà Weiss nói, “Tôi đã có vật kỉ niệm như thế sau khi cha tôi qua đời. Điều đó khiến cô bé cảm thấy như linh hồn của mẹ vẫn ở bên mình?”
“Đối với tôi sự mê tín không phải là điều dễ chịu,” Anh ta nói, sự khinh bỉ lấn át sự mệt mỏi, như thể thách thức bức tường của ngôi nhà làm điều gì đó,
“Và mẹ của Ana là một người không tin vào thần thánh.”
Ngôi nhà cảm thấy thôi thúc muốn tặng cho người bố một cú sốc lên cuộc đời anh ta và ném chiếc vòng cổ về phía anh ta. Trả lại cho anh ta hình ảnh của người yêu và hãy chứng minh về sức mạnh của nó.
Nhưng anh ta không cần tin vào những điều ma ám. Với đôi vai rũ xuống, quần áo dính đầy đồ ăn của con gái, và những mảnh đời mà anh đang cố gắng ghép lại với nhau đó ư? 
Điều anh ta cần là một chiến thắng.
Vì vậy, ngôi nhà sử dụng sức của nó để đẩy chiếc vòng lên cầu thang trên cùng của tầng hầm. Nó xoay mình để ánh sáng chiếu vào nó, hắt lên phòng khách trên lầu.
Người bố tìm thấy chiếc vòng cổ quý giá. Anh ta cúi xuống, ngón tay vuốt ve hình ảnh người yêu của mình. Anh thở dài, ước mình có thể nằm trong chiếc vòng.
Ngôi nhà để anh ta tự hào về bản thân mình. Nó sẽ lưu giữ ký ức này trong những năm tháng lạnh lẽo sắp tới cho đến khi nó bị san bằng.
Người bố đứng lên, bỏ lại chiếc vòng cổ. Ngôi nhà cố gắng gửi cho anh ta một cảnh báo rằng anh ta đã quên mất mình đến đây để làm gì. 
Hình ảnh tinh thần ấy không thay đổi những gì anh ấy đang làm.
Anh ta đi ra ngoài, đến chiếc ô tô của mình nơi Ana đang ngồi, nhìn vào đôi mắt sưng húp và nước mũi chảy ra của cô. Người bố nói, “Ta có thể ở đây. Con có muốn giúp bố xem không?”
Nhà không khóc. Chỉ có một ít khí trong đường ống của nó.
Ana bước ra khỏi xe và đi vào 133 Poisonwood. Cô dành nhiều thời gian để loanh quanh trong bếp, căn phòng trống rỗng trước đó. Người bố đi theo sau cô bé, cố tình đi xung quanh các hành lang để xem phản ứng khi Ana kiểm tra cửa tầng hầm cuối cùng.
“Mẹ ơi!” Cô bé vui mừng. Cô ngồi ngay xuống cầu thang và ôm chiếc vòng vào lòng, giọng run run vì xúc động, “Mẹ đã trở lại!”
Người bố hỏi, “Vậy là con đã tìm thấy nó?”
“Con đã nói với bố là mẹ ở đây. Mẹ muốn con tìm thấy nó.”
“Mẹ của con đã không làm điều đó, Ana!”
Cô bé chun mũi, bắt chước giọng nói của anh ta, “Bố không biết đâu.”
Người bố chạm vào chiếc vòng, “Con đã tìm thấy cái này, không phải ai khác. Con không cần ma.” Anh ta đặt nhẹ cô bé ngồi lên khung cửi,“ Bởi vì trong con đã có phần tốt nhất của mẹ rồi.”
Ana ngước đôi mắt long lanh lên nhìn cha mình.
133 Poisonwood chưa bao giờ hiểu điều nó muốn đem lại cho mọi người như khi nó nhìn người bố này. Nó cố kìm nén những rung động của mình bên trong bức tường của nó.
Sau đó, Ana nói, “Không. Những hồn ma đã để nó ở đây.” Cô lao ra phòng khách, đón những tia nắng cuối ngày, cầm chiếc vòng cổ lên.
Lúc này, lý trí đã bị đánh bại, người bố không đấu với cô bé. Anh ta dựa vào tường, dựa vào giấy dán tường mà anh ghét, chấp nhận ngôi nhà. Ngôi nhà chơi một giai điệu, giống như một giai điệu đã khiến Dorottya Blasko bình tĩnh vào năm 1989.
Người bố gọi, "Bà Weiss?”
“Làm ơn hãy gọi tôi là Carol.” Bà ấy nói, vờ như bà ấy không đứng cách đó mười bước chân từ nãy đến giờ, “Anh rất dịu dàng với Ana. Đó là sở trường của anh.”
“Ba phòng ở tầng hầm. Ngôi nhà này không quá đắt, phải không?”
“Nó chỉ thiếu một gia đình để trở thành một tổ ấm.”
133 Poisonwood sẽ bị hấp dẫn bởi câu nói này nếu nó không nghe bà ấy đã lặp lại tám lần vào ngày hôm nay.
Người bố nói, “Tôi thích không gian nơi này dành cho cô bé. Có rất nhiều chỗ để chạy. Cô bé thích chạy, có lẽ cô bé sẽ trở thành một ngôi sao điền kinh.”
“Tôi nghĩ rằng nơi này sẽ rất hạnh phúc khi anh đến đây. Nó rất hợp với anh.”
Ngôi nhà có thể biết được anh ta không tin vào điều đó.
Anh ta nói, “Những gì chúng tôi cần là một nơi để bắt đầu một khởi đầu mới.” Bà Weiss đưa cho anh ta tờ giấy ghi thông tin về ngôi nhà và ra hiệu xuống tầng hầm, “Muốn tham quan thêm một vòng chứ?”
“Được. Cảm ơn bà.” Anh ta cầm lấy tờ giấy. “Trong khi Ana chơi trên lầu, chúng ta có thể kiểm tra cách âm của phòng may đó như thế nào không? Thật buồn cười, nhưng tôi nghĩ nó có thể làm một phòng thu âm tốt.”
Giá mà ngôi nhà có thể cười. Cách anh ta nói nghe có vẻ không đề phòng và chân thành.
Kẻ hoài nghi mệt mỏi này chẳng cần biết rằng phòng thu của anh ta không hề tồn tại. Nếu anh ta tìm thấy bản thiết kế 133 Poisonwood, anh ta sẽ cạo sạch những gì anh ta không hiểu bằng dao cạo của Occam. Ngôi nhà không cần anh tin vào bất cứ điều gì ngoài bản thân anh và con gái anh. Nó không ở đây để nhận sự biết ơn. Nó chỉ có thể cố gắng hỗ trợ anh ta như cách anh ta hỗ trợ Ana. Bất cứ điều gì kiên nhẫn như cha mẹ, đó là sự ám ảnh.
Hết
* * *
Ghi chú của tác giả
Tại World Fantasy Convention năm 2018, tôi đã đi ăn tối với một số người đáng yêu, những người đã nghe tôi lảm nhảm về những chuyện kinh dị. Tôi đọc, xem và chơi kinh dị hàng tuần, nhưng tôi hầu như không bao giờ viết nó. Thay vào đó, tôi có xu hướng xếp những thứ kinh dị thành những câu chuyện hài hước hoặc những câu chuyện cảm động. Tôi đã cho họ một ví dụ rằng nếu tôi viết một câu chuyện về ngôi nhà ma, nó sẽ không giống như Chuyện ma ám trên ở dinh thự Hill - nó sẽ kể về một ngôi nhà ma cô đơn và vô cùng muốn có ai đó sống trong đó. Một trong những tác giả đồng nghiệp của tôi đã đưa tay ra, nắm lấy tay tôi và nói, “Xin hãy viết cái này.” Trên chuyến tàu về nhà, tôi đã làm điều đó. Vì vậy, câu chuyện này là dành riêng cho Natalia Theodoridou, người đã yêu cầu tôi giúp 133 Poisonwood tìm thấy gia đình và khán giả của nó - tất cả các bạn.
* * *
Biên dịch: Goldberry
Biên tập: Nhi
* * *
Tác giả John Wiswell (Ảnh: Goodreads)
Tumblr media
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
Xin chào!
Chào mừng bạn đến với The Nutcrackers!
Tumblr media
Giới thiệu về The Nutcrackers
The Nutcrackers được thành lập bởi một nhóm bạn trên khắp đất nước Việt Nam, với điểm chung là niềm đam mê với các tác phẩm giả tưởng, cũng như với công việc dịch thuật.
Chúng mình cùng nhau lập ra blog này với mục đích lớn nhất là để trau dồi, nâng cao khả năng biên dịch. Ngoài ra, việc đăng những tác phẩm đã được nhóm dịch lên blog cũng là một cách để chúng mình lan tỏa tình yêu với thể loại giả tưởng đến với những người xung quanh.
Đối với cộng đồng, các tác phẩm được chúng mình chọn dịch và đăng tải hoàn toàn nhằm mục đích giới thiệu. Ngợi ca hay phê phán, yêu mến hay ghét bỏ các tác phẩm là quyền của mỗi bạn đọc.
The Nutcrackers hiện tại hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận và xin phép từ chối bất kỳ hình thức hỗ trợ kinh phí nào.
Cảm ơn bạn vì đã ghé thăm.
✯¸.•´*¨`*•✿ ✿•*`¨*`•.¸✯
Danh mục các truyện The Nutcrackers đã dịch
Khoa học viễn tưởng // Science Fiction
Kỳ ảo // Fantasy
✯¸.•´*¨`*•✿ ✿•*`¨*`•.¸✯
Các địa chỉ khác của The Nutcrackers
Wordpress: thenutcrackers2021
Instagram: thenutcrackers2021
0 notes
thenutcrackers2021 · 3 years
Text
[Dịch] Thư viện nhỏ miễn phí - Naomi Kritzer
Tumblr media
Về tác giả
Naomi Kritzer, sinh năm 1973, là một tác giả viết truyện giả tưởng người Mỹ. Cô bắt đầu đăng tải và xuất bản các tác phẩm của mình từ năm 1999. Truyện ngắn Cat Pictures Please (tạm dịch: Ảnh mèo nhé, đăng trên tạp chí Clarkesworld năm 2015) của Naomi đã đoạt giải thưởng Hugo dành cho truyện ngắn xuất sắc nhất.
Bạn có thể ghé thăm blog của cô tại naomikritzer.com.
Về tác phẩm
Thư viện nhỏ miễn phí (tựa gốc: Little Free Library) là một truyện ngắn của Naomi Kritzer, được đăng tải trên tạp chí Tor vào ngày 08/04/2020.
* * *
Meigan dựng lên một Thư viện nhỏ miễn phí với vài thứ đồ nghề, bởi cô muốn khiến nó đẹp mắt hơn. Cô chà nhám gỗ và phủ một lớp sơn lót, rồi gắn vài viên đá cuội cô nhặt từ ven hồ Thượng vào mùa hè và vẽ những vòng xoáy màu chàm xung quanh bằng sơn acrylic. Khi gắn chiếc tủ lên chiếc cột dựng bên ngoài ngôi nhà ở thành phố St. Paul, cô quyết định sẽ sơn cả cột nữa, và vẽ một con đường, dọc hai bên đường trồng hoa vân anh, uốn lượn trên đỉnh cột, và bên rìa đường sẽ là những viên sỏi nhỏ. Thêm chút lấp lánh ở những bông hoa, và cô định sẽ làm vậy với cái tủ sách luôn. Cuối cùng thì cô đóng một tấm biển ghi “Thư viện nhỏ miễn phí” với dòng hướng dẫn: lấy một cuốn, trả một cuốn.
Meigan chưa từng nhìn thấy Thư viện nhỏ miễn phí cho đến khi cô chuyển tới thành phố St. Paul, nhưng ở đây, chúng xuất hiện khắp nơi. Mỗi Thư viện nhỏ miễn phí chỉ đơn giản là một cái hộp với những cuốn sách miễn phí, che chắn chúng khỏi thời tiết. Bạn có thể đăng kí chúng trên website. Đôi lúc mọi người chú tâm vào một thể loại, hoặc sử dụng kệ thứ hai để trao đổi hạt giống. Meigan đang nghĩ rằng sẽ bắt đầu từ việc dỡ xuống những cuốn sách cô yêu thích nhưng không còn đọc lại—cô luôn đem chúng theo bên mình, nhưng không còn chỗ để và dù sao thì bụi đã bám đầy rồi. Nhượng lại cho người khác, họ có thể đọc, thưởng thức và tận dụng chúng.
Cô có thể thấy Thư viện nhỏ miễn phí từ ô cửa sổ phòng khách, và quan sát mấy đứa trẻ hàng xóm nán lại ngắm nghía trong ngày đầu. Buổi chiều hôm khi kiểm tra, cô phát hiện những cuốn Trò chơi của Ender, Dragonsinger, Danny Dunn và máy làm bài tập đã được ai đó lấy đi rồi. Ngày tiếp theo, một cuốn Mật mã Da Vinci xuất hiện, cô nhăn mặt, nhưng này, vẫn có người thích thì sao, chẳng vấn đề gì đâu. Cô đặt thêm cuốn Đoàn hộ nhẫn và hai cuốn sách của Terry Pratchett.
Vào buổi sáng thứ ba khi cô thức giấc, Thư viện nhỏ miễn phí lại trống không. Nhiều người trên website đã từng cảnh báo rằng đôi khi mọi người sẽ lấy hết sách, và cô ấy dành thời gian để đánh dấu lên những cuốn sách riêng “Quà tặng không bán” để khuyến khích mọi người không bán chúng cho tiệm sách khác. Thở dài ngao ngán, cô xếp lại những cuốn sách từ chiếc hộp bên cạnh, và sau một hồi nghĩ ngợi, cô viết vài dòng để mọi người đều thấy khi mở tiệm sách:
Gửi người đã lấy hết những cuốn sách,
Sau này, hãy chỉ lấy một hoặc hai cuốn một lần, hoặc cân nhắc để lại một cuốn nào đó để người khác thưởng thức. Còn bây giờ, tôi mong bạn thực sự thích những cuốn sách bạn cầm đi! Hãy chia sẻ với người khác nữa khi bạn đọc xong nhé!
Buổi chiều thứ ba hôm cô về nhà sau giờ làm, ai đó đã lấy cuốn Vật thế của lời tiên tri và ở kệ trên cùng của Thư viện nhỏ miễn phí, chỗ cũ của cuốn Vật thế của lời tiên tri, họ để lại một mảnh gỗ được chà nhám mà khi nhìn kỹ hơn, cô nhận ra đó là một cái còi thủ công làm từ cành cây. Cô đem vào trong và đặt nó trên lò sưởi, và rồi mang cuốn Nữ hoàng ma thuật ra đặt vào tủ.
Ngày kế tiếp, cuốn Nữ hoàng ma thuật đã được lấy đi và thay thế bằng bức tượng nhỏ bằng kim loại hình con rắn. Nó khá nặng, và khiến cô liên tưởng tới những chú lính chì trước đây hay được dùng làm món đồ chơi cho trẻ con nhưng cha mẹ cô lại đặt chúng lên cao để trang trí vì chì là chất liệu nguy hiểm với trẻ con. Cô đem vào trong và đặt cạnh cái còi, sau đó xếp thêm một cuốn tiếp từ bộ truyện Belgariad [1].
Trong hai tuần tiếp đó, người mượn sách bí ẩn để lại nhiều thứ mỗi ngày, có vài thứ thật kì lạ: một chiếc lông vũ màu lục sẫm có vẻ rụng từ con chim sáo mặc dù khác màu; một chiếc bình tí hon làm từ đất sét có nút chai cố định bằng sáp màu gỉ sét; viên đá khắc hình thù gì đó có vẻ như là một con vật; một vòng nhỏ bằng đá quá to so với nhẫn nhưng lại quá nhỏ để làm vòng tay; một chiếc ghim băng  đóng từ búa.
Mấy món quà dù không cần thiết nhưng rất thú vị. Meigan chụp ảnh lại và gửi cho những người bạn ở nhà, hai người trong số họ cũng đã đặt mua Thư viện nhỏ miễn phí của riêng bọn họ để cho đi những cuốn sách họ không đọc tới. Họ nói rằng những chiếc hộp đó hóa ra lại là một cách hay để gặp gỡ họ hàng và mọi người nghĩ đó khá hay, nhưng họ không phải là người được nhận lông vũ hay đồ chạm khắc gì cả.
Rồi một ngày, trên trang giấy vàng giòn có vẻ được xé ra từ cuốn sách cũ:
Gửi Chủ thư viện,
Có phần tiếp theo của cuốn Đoàn hộ nhẫn không vậy? Tôi rất muốn đọc nó. Tôi sẽ để lại bất kỳ thứ gì tôi có cho những cuốn sách khác, nếu bạn có thể đưa chúng cho tôi. Nhân tiện, rất xin lỗi vì hôm đó tôi lấy rất nhiều thứ đi. Tôi hứa sẽ không như vậy nữa đâu. Bạn muốn đổi lấy thứ gì cho cuốn tiếp theo về Frodo nhỉ, nếu có?
Lời nhắn được viết bằng mực, nhưng hơi nhem nhuốc, có vẻ như người bạn đó dùng bút mực nhúng nhưng lại không rõ cách sử dụng.
Phải rồi.
Thành phố St. Paul không thiếu những nghệ sĩ và những kẻ lập dị. Có lẽ điều này còn có thể dẫn tới một tình bạn thân thiết giữa mọi người. Bật cười, Meigan lôi ra cuốn Hai tòa tháp [2] từ hộp đựng sách và viết vài dòng ghi chú. Gửi bạn mong muốn phần tiếp theo về Frodo [3]: tặng tôi vài tác phẩm bạn sáng tác và đó hẳn là giao dịch hay ho đó. ~CHỦ THƯ VIỆN
Ngày hôm sau, không có món quà n��o được gửi đến, nhưng ngày kế tiếp, một mẩu giấy (lại được xé ra từ phía sau cuốn sách, xét về kích thước) được để lại, cuộn tròn và buộc chỉ đỏ. Meigan tháo chỉ và mở cuộn giấy ra. Vẽ từ loại mực màu nâu sáng hơi giống màu bức thư, nó trông như nét phác thảo một con mèo.  
Bắt đầu thú vị rồi đây. Meigan tò mò không biết vị hàng xóm này là ai nhỉ. Sớm thôi sẽ lại có lời đề nghị: chẳng ai đọc xong cuốn Hai tòa tháp mà lại không  đọc thêm cuốn Nhà vua trở về đâu. Trong lúc đợi, cô xếp thêm cuốn tiếp theo của bộ Belgariad, một cuốn tiểu thuyết trong bộ Valdemar [4] và một cuốn truyện tranh kể về chuyến đi đến nha sĩ của chú rồng lửa.
Không sai, một bức thư xuất hiện ngày hôm sau: Gửi Chủ thư viện, Có thật là có phần tiếp về Frodo không? Tôi đã vẽ cho bạn một bức tranh khác nhưng nếu bạn muốn thứ khác thì tôi cũng có thể đưa. Người bạn đó tặng cô một bức tranh vẽ chiếc lá đặt dưới bức thư. Trông nó giống như lá phong, với năm thùy, nhưng thêm vài móc và mũi nhọn ngoài rìa nên nó trông gần như bị gấp khúc.
Gửi người bạn qua thư của tôi, cô viết, hãy để lại chiếc lá giống cái bạn vẽ trước đó.
Cô mong chờ thứ gì đó được xé ra, từ mẩu giấy, nhưng đó lại là một chiếc lá thật để lại thay cho cuốn Nhà vua trở về, xanh tươi như mới hái từ trên cây xuống. Trông giống lá phong thật, nhưng… không phải. Kỳ lạ hơn, đang là tháng Hai; không hề có cây nào xanh tốt như vậy trong khu phố cả: xám xịt và lạnh lẽo và mọi thứ bao phủ bởi tuyết. Nhưng có lẽ, họ đặt chiếc lá trong tủ đông, đại loại vậy. Hoặc có khi nó rụng từ chậu cây nào đó được trồng trong nhà. Hay có thể họ tự ý hái nó trên đường đến thăm nhạc viện ở thành phố St. Paul, chỗ trồng đầy cây nhiệt đới...
Cô chụp ảnh chiếc lá và gửi cho người bạn ở nhà có sở thích về thực vật học, để xem liệu cô ấy có biết. Bạn cô gửi lại tin nhắn khá khó hiểu. Nó trông giống lá phong, nhưng lại không phải lá phong mà cô biết. Cô ấy gợi ý Meigan nên đến dịch vụ mở rộng ở trường ĐH.
Trái lại, Meigan cất nó trên đầu tủ lạnh và cố không nghĩ về thứ đó nữa. Một mối quan hệ thư từ mang tính trêu đùa vui vẻ với một nghệ sĩ - đó thực sự là tất cả những gì cô muốn tưởng tượng bản thân đang làm. Nhưng ngày hôm sau, cô ra ngoài để bổ sung thêm cho thư viện… cô để lại Bảo vệ lâu đài của bạn, cuốn sách cô mua vì trông nó thật hài hước nhưng chỉ đọc lướt qua vì cô không hề có ý định đào một cái hào quanh nhà hay lắp đặt máy ném đá cả.
Cuốn sách đó đã được lấy đi ngày kế tiếp.
Và ngày sau đó, một đồng vàng nhỏ lấp lánh được để lại, cùng với một bức thư khác.
Gửi Chủ thư viện,
Tôi không biết mình đã làm gì mà lại nhận được sự ưu ái từ Chúa thế này, nhưng tôi thấy biết ơn, rất biết ơn, vì sự tốt bụng của bạn. Tôi tin rằng sự cho đi của chúng ta đều có nguyên do; Tôi tin rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để trả thù cho những gì đã xảy ra với gia đình tôi; giờ đây, đột nhiên, tôi lại được nhận quà theo hướng tích cực như này. Chúa phù hộ bạn.
Nếu bạn có thể đem cho tôi những cuốn sách như này nữa, tôi hứa sẽ đưa bạn từng mảnh vàng vụn mà tôi tìm được.
Đồng vàng như một chiếc đĩa nhỏ, kích thước giống đồng xu nhưng mỏng hơn. Có hình con chim sải rộng cánh được khắc ở một mặt, mặt còn lại là một chân đèn hay khung xương sườn, Meigan không chắc lắm. Cân lên thì đồng xu nặng khoảng bốn gam, có nghĩa là—nếu nó thật sự là vàng—sẽ trị giá khoảng 100 đô. Tất nhiên rồi, hầu hết các món đồ màu vàng không phải vàng thật, nhưng... nó rất nặng dù kích thước nhỏ xíu, và khi cô thử, nó hoàn toàn không có từ tính với nam châm. Về lý thì cô có thể cắn thử nó, nhưng cô không muốn làm hỏng mất bức họa khắc trên mặt đó.
Lần đầu tiên, cô cảm thấy mơ hồ không chắc chắn.
Chuyện gì đang xảy ra vậy? Người cô đưa sách cho là ai?
Là một nghệ sĩ, cô tự nhủ chắc nịch. Một người kể chuyện. Hàng xóm. Đây có thể là đồng hoặc đồng thau hoặc một số kim loại màu vàng khác, và họ đóng nó như một thú vui giống cái cách họ khắc lên những chiếc còi và cả những thứ khác nữa.
Cô gài trong cuốn tô màu về máng dẫn nước ở Roman và để lại lời nhắn: Bạn là ai? Cô cũng để lại tập giấy ghi chú, vì nghĩ rằng việc xé từng trang sách thật kỳ lạ. Vài phút sau cô quay lại và đặt đó một cây bút.
Tôi là người hầu của Nữ Hoàng và người thừa kế hợp pháp, bị cướp đoạt bởi người chú; Theo lệnh của hắn ta, bấy buộc phải tham dự hội những người phi giáo, nơi ngài ấy đã sống đến tận bây giờ. Nhưng mọi thỉnh cầu của tôi đã được hồi đáp cái ngày tôi tìm thấy thư viện của bạn, và tôi sẽ mãi mãi là người phục tùng BẠN, hỡi Chủ Thư viện của những Cuốn sách Cây.
Chúng tôi đang xây dựng một cỗ máy bắn đá, trong bí mật. Hãy gửi tôi nhiều sách hơn nữa. 
Meigan mua một cuốn Kiến thức: Cách để dựng lại một nền văn minh để cho vào hộp. Sau đó là cuốn về lịch sử quân sự; rồi cuốn Vũ khí của Diagram Group; và cả sổ tay chiến thuật Quân đội. Mỗi cuốn đều được đổi lại với đồng xu, tất cả đều in hình chân đèn—hoặc bộ xương—và con chim, tất cả đều là vàng (hoặc ít nhất là có màu vàng).
Cô phát hiện ra ngày càng khó tập trung vào những thứ khác ngoài thư viện của mình—vào những cuốn sách mới được để lại, về ai, chính xác, có thể đến, liệu cô có thực sự tin rằng đó chỉ là một người nghệ sĩ hay hàng xóm nào đó đang trêu đùa với cô thôi. Hai lần, cô cố gắng trông chừng cái thư viện từ phòng khách suốt đêm, nhưng hai lần cô lại ngủ quên.
Cuối cùng một ngày, cô thấy mảnh giấy:
Chúng tôi đã sẵn sàng rồi. Rất cảm ơn vì sự giúp đỡ của bạn. Hãy cầu nguyện cho chiến thắng của chúng tôi.
Và chỉ thế thôi. Ai đó đã lấy cuốn Lửa Hy Lạp, mũi tên tẩm độc, và bom bọ cạp nhưng không để lại đồng xu hay bức thư nào.
Vài ngày vô vị sau đó, cô gom đống xu lại và đem đến tiệm kim hoàn, và đúng vậy, chúng thật sự là vàng, và ông ta có thể đưa nhiều nhất 1,245 đô cho cô nếu cô định bán chúng.
Không ai chi hàng ngàn đô-la cho một trò đùa. 
Cô lại không muốn bán chúng. Nếu cô mất nhà, chắc chắn rồi cô sẽ làm như thế, nhưng suy nghĩ về việc chia tay với bằng chứng hữu hình này về...về bất cứ cái gì trước đó… không. Cô nói với thợ kim hoàn sẽ suy nghĩ lại và đem chúng trở về nhà.
Quay lại nhà, cô tìm chiếc lá cô để trên đầu tủ lạnh, nhưng nó sớm đã khô héo và vỡ vụn. Cô tìm qua những món quà lần nữa, những món còn lại trước khi có đồng xu. Cô có thể đem chúng đến gặp ai đó, có thể, xem họ sẽ nghĩ gì, trừ phải họ cho rằng cô bị điên. Nếu không phải họ không nghĩ rằng mấy thứ này là đồ ăn cắp. Cô chợt nhận ra rằng có khi đó là thật, rằng có lẽ nào người đó chỉ đang đùa giỡn với cô và người đó thẳng tay tặng cổ đống vàng trị giá $1,200 vì đơn giản chúng không thuộc về mình. Nhưng rồi cô nhìn qua bức tranh của đồng xu và nhận ra không gì giống với những thứ cô có. Ghim băng thủ công làm từ xương, tuy nhiên, cô cũng tìm thấy vài bức tranh tương tự. Một số đến từ Hy Lạp và La Mã cổ đại; một số thì từ những nghệ sĩ hiện đại buôn đồ trên Etsy.
Một đêm ấm áp (cuối cùng thì mùa xuân cũng đã đến) cô mang ghế ra sân, và lần nữa cố ngồi trông coi. Cô ngủ gật, dù vậy, lại tỉnh giấc vào khung giờ kỳ quặc nào đó lúc đêm muộn, và nhìn kìa: chiếc hộp biến mất rồi. Mất rồi. Cô nhìn chằm chằm vào đó, và rồi nhìn thấy. Nó quay lại rồi—hoặc thật ra nó chưa hề biến mất—cô thất vọng trong mơ hồ.
Chuyện này giống như thể cô đọc một cuốn sách, chỉ để tìm trang cuối bị mất.
Sau đó vào một sáng thứ Hai, cô mở Thư viện nhỏ miễn phí và tìm thấy một lời nhắn khác, đi cùng với chiếc hộp trông như được chạm khắc thủ công từ khúc gỗ.
Tiêu tùng cả rồi, tờ giấy viết. Vũ khí tối tân của chúng tôi cũng chẳng so lại với lợi thế về quân số của họ. Hi vọng cuối cùng của chúng tôi là gửi đứa con của bà ấy đến cho bạn trông coi trước khi chúng đuổi kịp chúng tôi. Bạn có trông sách mà, vậy nên hẳn là có thể trông giữ đứa bé.
Đứa bé ư? Meigan thận trọng suy nghĩ. Cô mở chiếc hộp ra.
Nép mình trong mảnh gỗ là một lớp rơm lót - và một quả trứng. 
Lớn thật đấy—không to bằng trứng đà điểu nhưng nó vừa vặn trong lòng bàn tay cô. Nó có màu xanh bạc, với lốm đốm những mảng giống như vảy.
Cô làm gì với quả trứng đây nhỉ?
Thì, ấp nó thôi...
Cô đem nó vào trong.
Hết
* * *
Chú thích của người dịch
[1] Belgariad: Bộ sử thi giả tưởng của tác giả David Eddings bao gồm 5 cuốn, trong đó có cuốn Vật thế của lời tiên tri và Nữ hoàng ma thuật đã được nhắc đến ở trên.
[2] Hai tòa tháp: Phần thứ hai trong tiểu thuyết giả tưởng Chúa tể những chiếc nhẫn, phần đầu là cuốn Đoàn hộ nhẫn và phần cuối là Nhà vua trở về.
[3] Frodo: Tên nhân vật chính trong tiểu thuyết Chúa tể những chiếc nhẫn.
[4] Valdemar: Bộ tiểu thuyết giả tưởng của nhà văn Mercedes Lackey, gồm 58 cuốn.
* * *
Biên dịch: Ronie
Biên tập: Nhi
* * *
Tác giả Naomi Kritzer (Ảnh: MyVillager)
Tumblr media
Minh họa truyện Thư viện nhỏ miễn phí trên tạp chí Tor
Tumblr media
0 notes