Nhóm dịch phi lợi nhuận với niềm đam mê dành cho các tác phẩm giả tưởng.
Don't wanna be here? Send us removal request.
Text
Một bức thư từ gia đình Cleary - Connie Willis
Về tác giả
Constance Elaine Trimmer Willis, thường được biết đến với bút danh Connie Willis, là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Mỹ. Sinh năm 1945 tại thành phố Denver, bang Colorado, bà tốt nghiệp trường Cao đẳng của bang Colorado năm 1967 với tấm bằng ngành Anh ngữ và giáo dục tiểu học. Truyện ngắn đầu tay của bà, The Secret of Santa Titicaca, được đăng vào năm 1970, và tiểu thuyết đầu tay của bà, Water Witch, được xuất bản năm 1982. Connie Willis hiện giữ kỷ lục là tác giả được trao nhiều giải thưởng cho các tác phẩm khoa học viễn tưởng nhất - bà từng đạt mười một giải Hugo và bảy giải Nebula cho các tác phẩm của mình, trong đó n���i tiếng nhất là loạt truyện xoay quanh các nhà sử học du hành thời gian, bao gồm các tiểu thuyết Doomsday Book, To Say Nothing of the Dog, Blackout/All Clear, cùng truyện ngắn Fire Watch.
Bạn có thể ghé thăm trang web của bà tại conniewillis.net.
Về tác phẩm
Một bức thư từ gia đình Cleary (tựa gốc: A Letter from the Clearys) được đăng tải lần đầu vào tháng 7 năm 1982 trên tạp chí Isaac Asimov's Science Fiction Magazine, và sau đó được xuất bản trong tuyển tập truyện ngắn Fire Watch của Connie Willis năm 1982. Truyện đã giành giải Nebula cho truyện ngắn khoa học viễn tưởng xuất sắc nhất vào năm 1983.
『• • • ✎ • • •』
Tại bưu điện có một bức thư từ nhà Cleary. Tôi nhét nó vào ba lô cùng với tạp chí của bà Talbot rồi bước ra ngoài để cởi dây cho Stitch.
Nó đã kéo dây xích căng hết cỡ và đang ngồi ở góc đường, nửa như bị siết cổ, mắt dán chặt vào một con chim cổ đỏ. Stitch chẳng bao giờ sủa cả, kể cả khi thấy chim. Nó thậm chí còn chẳng kêu ư ử khi bố tôi khâu vết thương trên chân nó. Nó chỉ ngồi im như lúc chúng tôi tìm thấy nó trước hiên nhà, hơi run rẩy và giơ chân lên cho bố xem. Bà Talbot bảo nó là một con chó giữ nhà tồi tệ, nhưng tôi mừng vì nó không sủa. Rusty thì sủa suốt ngày và xem chuyện gì đã xảy ra với nó kìa.
Tôi phải kéo Stitch quay lại góc đường để có đủ độ chùng mà cởi dây. Việc đó khá vất vả vì nó thực sự thích con chim cổ đỏ kia. “Đó là dấu hiệu của mùa xuân, phải không bạn nhỏ?” Tôi nói, cố gắng dùng móng tay để gỡ nút thắt. Tôi không nới lỏng được nút thắt, nhưng lại làm gãy một móng tay sát tận gốc. Tuyệt thật. Mẹ chắc chắn sẽ hỏi xem tôi có thấy móng tay nào khác bị gãy không.
Đôi tay tôi thực sự là một mớ hỗn độn. Mùa đông này, tôi đã bị bỏng đến cả trăm chỗ trên mu bàn tay vì cái lò sưởi củi ngu ngốc của chúng tôi. Có một chỗ, ngay trên cổ tay, tôi cứ bị bỏng đi bỏng lại nên chẳng bao giờ có cơ hội lành. Cái lò không đủ lớn, mỗi khi tôi cố nhét một khúc gỗ quá dài vào, chính chỗ bỏng đó lại chạm vào trong lò. David, anh trai ngu ngốc của tôi lại không chịu cưa cho đúng độ dài. Tôi đã nhắc đi nhắc lại anh ấy cưa ngắn bớt đi, nhưng anh ấy chẳng thèm để ý gì đến tôi cả.
Tôi đã nhờ mẹ bảo anh ấy đừng cưa khúc gỗ dài quá, nhưng mẹ không làm vậy. Bà ấy chẳng bao giờ chỉ trích David cả. Trong mắt mẹ, anh ấy chẳng thể làm gì sai chỉ vì anh ấy hai mươi ba tuổi và đã kết hôn.
“Anh ấy cố tình làm vậy đấy,” tôi nói với mẹ. “Anh ấy hy vọng con sẽ chết cháy.”
“Chứng hoang tưởng là kẻ giết người số một của các cô gái mười bốn tuổi,” mẹ nói. Bà ấy luôn nói vậy. Điều đó khiến tôi tức điên lên đến mức muốn giết mẹ luôn. “Nó không cố ý làm vậy đâu. Con cần phải cẩn thận hơn với cái lò, chỉ vậy thôi,” nhưng trong lúc đó bà vẫn nắm tay tôi và nhìn vết bỏng lớn không lành như thể nó là quả bom hẹn giờ sắp nổ vậy.
“Chúng ta cần một cái lò lớn hơn,” tôi nói và giật tay lại. Chúng tôi thật sự cần một cái lớn hơn. Bố đã đóng lò sưởi và lắp lò củi khi hóa đơn gas tăng vọt, nhưng nó chỉ là một cái lò nhỏ vì mẹ không muốn một cái lò lớn chiếm quá nhiều không gian trong phòng khách. Dù sao thì chúng tôi cũng chỉ định dùng nó vào buổi tối.
Chúng tôi sẽ không có cái mới đâu. Mọi người đều bận rộn với cái nhà kính ngu ngốc ấy. Có lẽ mùa xuân sẽ đến sớm, và tay tôi sẽ có cơ hội lành lặn. Nhưng tôi biết rõ hơn thế. Mùa đông năm ngoái, tuyết rơi đến tận giữa tháng Sáu và bây giờ mới chỉ là tháng Ba. Con chim cổ đỏ của Stitch sẽ đông cứng cái đuôi bé xíu nếu nó không bay về phương nam. Bố nói rằng năm ngoái bất thường, thời tiết năm nay sẽ trở lại bình thường, nhưng bản thân ông cũng không tin điều đó, nếu không ông đã chẳng xây nhà kính làm gì.
Ngay khi tôi buông dây xích của Stitch, nó lùi lại góc đường như một chú chó ngoan và ngồi đó chờ tôi ngừng mút ngón tay và cởi dây cho nó. “Chúng ta nên đi thôi,” tôi bảo nó. “Mẹ sẽ nổi điên mất.” Tôi đáng lẽ phải ghé qua cửa hàng tạp hóa để mua hạt giống cà chua, nhưng mặt trời đã xế về tây, tôi còn ít nhất nửa tiếng đi bộ về nhà. Nếu về nhà sau khi trời tối, tôi sẽ bị đuổi đi ngủ mà không được ăn tối rồi tôi sẽ không được đọc lá thư. Hơn nữa, nếu hôm nay không đi cửa hàng tạp hóa, họ sẽ phải để tôi đi vào ngày mai và tôi sẽ không phải làm việc với cái nhà kính ngu ngốc đó.
Đôi khi tôi cảm thấy muốn cho nó nổ tung. Mùn cưa và bùn đất bám đầy mọi thứ, David đã làm rơi một miếng nhựa lên lò sưởi khi họ đang cắt nó, khiến nó tan chảy trên lò và bốc mùi khó chịu. Nhưng chẳng ai khác nhận thấy mớ hỗn độn này, họ quá bận rộn nói về việc tuyệt vời như thế nào khi có dưa hấu, ngô và cà chua tự trồng vào mùa hè năm sau.
Tôi không thấy mọi thứ sẽ khác gì so với mùa hè năm ngoái. Những thứ duy nhất mọc lên được là rau diếp và khoai tây. Rau diếp cao bằng móng tay gãy của tôi và khoai tây thì cứng như đá. Bà Talbot nói đó là do độ cao, nhưng bố bảo đó là do thời tiết kỳ lạ và thứ đá hoa cương đỉnh Pike tồi tàn mà người ta gọi là đất ở đây. Ông đã lên thư viện nhỏ ở phía sau cửa hàng tạp hóa và mượn một cuốn sách tự làm nhà kính rồi bắt đầu đập phá mọi thứ, giờ đây ngay cả bà Talbot cũng phát cuồng vì ý tưởng đó.
Mấy hôm trước tôi bảo họ, “Chứng hoang tưởng là kẻ giết người số một ở độ cao này,” nhưng họ quá bận rộn cắt thanh gỗ và ghim nhựa nên chẳng thèm để ý đến tôi.
Stitch đi phía trước tôi, kéo căng dây xích, ngay khi chúng tôi qua khỏi đường cao tốc, tôi tháo dây cho nó. Nó không bao giờ chạy đi như Rusty trước đây hay làm. Dù sao thì cũng không thể ngăn nó ra khỏi đường được, những lần tôi cố giữ nó bằng dây xích, nó kéo tôi ra giữa đường và tôi bị bố mắng vì để lại dấu chân. Vì vậy tôi đi sát mép đường đóng băng, còn nó thì lững thững, dừng lại ngửi những ổ gà, và khi nó bị tụt lại phía sau, tôi huýt sáo gọi thì nó chạy ngay lên.
Tôi đi khá nhanh. Trời bắt đầu se lạnh, tôi chỉ mặc mỗi cái áo len. Tôi dừng lại ở đỉnh đồi và huýt sáo gọi Stitch. Chúng tôi vẫn còn một dặm nữa mới về đến nhà. Tôi có thể nhìn thấy đỉnh núi từ chỗ tôi đứng. Có lẽ bố nói đúng về việc mùa xuân sắp đến. Hầu như không còn tuyết trên đỉnh núi, phần bị cháy trông không còn đen kịt như hồi mùa thu năm ngoái, như thể cây cối đang mọc lại.
Năm ngoái vào thời điểm này, cả ngọn núi trắng xóa một màu. Tôi nhớ vì đó là lúc bố, David và ông Talbot đi săn và tuyết rơi mỗi ngày khiến họ không thể về nhà trong gần một tháng. Mẹ gần như phát điên trước khi họ trở về. Bà cứ lên đường đợi họ dù cho tuyết dày đến năm feet, bà để lại những dấu chân to như quái vật người tuyết. Bà mang theo Rusty dù nó ghét tuyết gần như Stitch ghét bóng tối vậy. Bà còn mang theo súng. Có lần bà vấp phải một cành cây và ngã xuống tuyết. Bà bị bong gân mắt cá chân và cứng đơ vì lạnh khi về đến nhà. Tôi muốn nói, “Chứng hoang tưởng là kẻ giết người số một của các bà mẹ,” nhưng bà Talbot chen ngang, nói rằng lần sau tôi phải đi cùng mẹ và đây là hậu quả khi để mọi người đi một mình, bà ám chỉ việc tôi đi bưu điện một mình. Tôi nói tôi có thể tự lo cho bản thân, nhưng mẹ bảo tôi đừng cư xử thô lỗ với bà Talbot, và rằng bà ấy nói đúng, tôi nên đi cùng mẹ vào lần sau.
Mẹ không đợi đến khi mắt cá chân lành hẳn. Bà băng bó lại và chúng tôi đi ngay ngày hôm sau. Bà chẳng nói lấy một lời suốt chuyến đi, chỉ khập khiễng bước qua tuyết. Bà thậm chí không ngẩng đầu lên cho đến khi chúng tôi ra đến đường. Tuyết ngừng rơi một lúc và mây đã tan bớt nên có thể nhìn thấy đỉnh núi. Nó thật đẹp, như một bức ảnh đen trắng, với bầu trời xám xịt, những cây đen và ngọn núi trắng xóa. Đỉnh núi phủ đầy tuyết. Bạn hoàn toàn không thể nhìn thấy con đường thu phí. Chúng tôi đáng lẽ phải leo núi cùng gia đình Cleary.
Khi chúng tôi về đến nhà, tôi nói, “Mùa hè năm kia gia đình Cleary không đến.”
Mẹ cởi găng tay và đứng bên bếp lò, gỡ những cục tuyết đông đá. “Tất nhiên là họ không đến rồi, Lynn,” bà nói.
Tuyết từ áo khoác của tôi đang nhỏ giọt lên lò sưởi và xèo xèo. “Con không có ý đó,” tôi nói. “Họ đáng lẽ phải đến vào tuần đầu tháng Sáu. Ngay sau khi Rick tốt nghiệp. Vậy chuyện gì đã xảy ra? Họ chỉ đơn giản quyết định không đến nữa hay sao?”
“Mẹ không biết,” bà nói, cởi mũ ra và lắc tóc. Tóc mái của bà ướt đẫm.
“Có thể họ đã viết thư báo đổi kế hoạch,” bà Talbot nói. “Có thể bưu điện làm mất thư.”
“Điều đó không quan trọng,” mẹ nói.
“Con nghĩ họ nên viết thư hay làm gì đó chứ,” tôi nói.
“Có thể bưu điện đã để thư nhầm hộp của ai đó,” bà Talbot nói.
“Nó không quan trọng,” mẹ nói, rồi treo áo khoác lên dây trong bếp. Bà không nói thêm lời nào về họ nữa. Khi bố về nhà, tôi cũng hỏi ông về gia đình Cleary, nhưng ông quá bận kể về chuyến đi nên chẳng để ý đến tôi.
Stitch không đến. Tôi huýt sáo lần nữa rồi quay lại tìm nó. Nó ở tận cuối đồi, mũi chúi vào cái gì đó. “Lại đây,” tôi nói, và nó quay lại, lúc đó tôi mới thấy tại sao nó không đến được. Nó bị vướng vào một trong những sợi dây điện bị đứt. Nó đã quấn dây quanh chân như đôi khi nó làm với dây xích, nó càng cố thoát ra thì càng bị vướng chặt hơn.
Nó đứng ngay giữa đường. Tôi đứng ở mép đường, cố nghĩ cách tiếp cận nó mà không để lại dấu chân. Đường khá đông cứng ở đỉnh đồi, nhưng xuống đây tuyết vẫn đang tan và chảy qua đường thành những dòng sông lớn. Tôi thử đặt ngón chân xuống bùn, giày thể thao của tôi lún xuống gần nửa inch, vì vậy tôi lùi lại, xóa dấu chân bằng tay và lau tay vào quần jean. Tôi cố nghĩ xem phải làm gì. Bố hoang tưởng về dấu chân như mẹ hoang tưởng về tay tôi, nhưng ông còn tệ hơn về việc tôi ra ngoài sau khi trời tối. Nếu tôi không về kịp, ông thậm chí có thể cấm không cho tôi đi bưu điện nữa.
Stitch đang cố gắng sủa hết sức có thể. Nó bị dây quấn quanh cổ và đang tự siết cổ mình. “Được rồi,” tôi nói, “Tao đến đây.” Tôi nhảy xa nhất có thể vào một trong những dòng nước và lội phần còn lại đến chỗ Stitch, nhìn lại vài lần để chắc chắn nước đang xóa dấu chân.
Tôi gỡ Stitch ra như gỡ một cuộn chỉ, và ném đầu dây còn lỏng sang bên đường. Đoạn dây lủng lẳng trên cột điện, như thể sẵn sàng treo cổ Stitch lần sau nó đi qua.
“Con chó ngu ngốc,” tôi nói. “Nhanh lên!” và tôi chạy nước rút trở lại mép đường và lên đồi trong đôi giày sneaker ướt sũng. Nó chạy khoảng năm bước rồi dừng lại để ngửi một cái cây. “Nào!” Tôi nói. “Trời tối rồi. Tối rồi!”
Nó vượt qua tôi như một mũi tên và đã đi được nửa đường xuống đồi. Stitch sợ bóng tối. Tôi biết, chó thường không sợ tối như vậy. Nhưng Stitch thực sự sợ. Thường thì tôi bảo nó, “Chứng hoang tưởng là kẻ giết chó số một,” nhưng lúc này tôi muốn nó nhanh lên trước khi chân tôi bắt đầu đóng băng. Tôi bắt đầu chạy, và chúng tôi đến chân đồi gần như cùng lúc.
Stitch dừng lại ở đường vào nhà gia đình Talbot. Nhà chúng tôi chỉ cách chỗ tôi đang đứng vài trăm feet, ở phía bên kia đồi. Nhà chúng tôi nằm dưới một vùng trũng được tạo thành bởi những ngọn đồi bao quanh tứ phía. Nó sâu và khuất đến nỗi bạn sẽ không bao giờ biết nó ở đó. Bạn thậm chí không thể nhìn thấy khói từ lò sưởi gỗ của chúng tôi vượt qua đỉnh đồi nhà Talbot. Có một lối tắt qua khu đất nhà Talbot và xuống qua rừng đến cửa sau nhà chúng tôi, nhưng tôi không đi lối đó nữa. “Tối rồi, Stitch à,” tôi gắt gỏng, và bắt đầu chạy lại. Stitch bám sát gót tôi.
Đỉnh núi đang chuyển sang màu hồng khi tôi đến đường vào nhà. Stitch đi tiểu vào cây vân sam khoảng trăm lần trước khi tôi kéo nó trở lại qua đường đất. Đó là một cây rất to. Mùa hè năm ngoái bố và David đã đốn nó xuống và làm cho nó trông như thể đã ngã qua đường. Nó che khuất hoàn toàn chỗ đường vào nhà tiếp giáp đường chính, nhưng thân cây đầy mảnh vỡ, và tôi lại bị xước tay ở đúng chỗ như mọi khi. Tuyệt thật.
Tôi đảm bảo Stitch và tôi không để lại dấu vết nào trên đường (ngoại trừ những dấu vết nó luôn để lại—một con chó khác có thể tìm thấy chúng tôi trong một phút. Có lẽ đó là cách Stitch xuất hiện trên hiên nhà chúng tôi, nó ngửi thấy mùi Rusty) và sau đó tôi chạy nhanh hết sức có thể vào chỗ khuất sau đồi. Không chỉ riêng Stitch cảm thấy lo lắng sau khi trời tối. Vả lại, chân tôi bắt đầu đau. Stitch thực sự hoang tưởng tối nay. Nó thậm chí không chạy đi sau khi chúng tôi đã nhìn thấy nhà.
David đang ở ngoài, khuân một đống củi vào. Chỉ cần nhìn qua, tôi có thể thấy rằng tất cả đều sai kích cỡ. “Em về hơi muộn đấy, phải không?” anh ấy nói. “Em lấy được hạt cà chua chưa?”
“Chưa,” tôi đáp. “Nhưng em mang về thứ khác. Em mang vài thứ cho mọi người.”
Tôi bước vào nhà. Bố đang trải tấm nhựa trên sàn phòng khách. Bà Talbot giúp ông giữ một đầu. Mẹ đang cầm cái bàn xếp, vẫn gập lại, chờ họ làm xong để bà có thể đặt nó trước lò sưởi cho bữa tối. Không ai thèm ngước lên nhìn. Tôi cởi ba lô ra và lấy tạp chí của bà Talbot cùng lá thư.
“Có một lá thư ở bưu điện,” tôi nói. “Từ gia đình Cleary.”
Tất cả đều ngẩng lên.
“Con tìm thấy nó ở đâu?” Bố hỏi.
“Trên sàn, lẫn với đống thư hạng ba khi con đang tìm tạp chí cho bà Talbot.”
Mẹ dựa cái bàn xếp vào ghế sô-pha và ngồi xuống. Bà Talbot trông có vẻ hoang mang.
“Nhà Cleary là bạn thân nhất của chúng ta,” tôi nói. “Từ Illinois. Họ đáng lẽ đã đến thăm chúng ta mùa hè năm kia. Chúng ta đã định cùng nhau leo lên đỉnh Pike và làm đủ thứ.”
David đẩy cửa bước vào. Anh ấy nhìn mẹ đang ngồi trên ghế sô-pha, rồi nhìn bố và bà Talbot vẫn đứng đó cầm tấm nhựa như hai pho tượng. “Có chuyện gì vậy?” anh ấy hỏi.
“Lynn nói nó tìm thấy một lá thư từ nhà Cleary hôm nay,” Bố nói.
David đổ đống củi lên bệ lò sưởi. Một khúc lăn xuống thảm và dừng lại ở chân mẹ. Cả hai đều không cúi xuống nhặt nó lên.
“Con đọc to lên nhé?” Tôi nói, nhìn bà Talbot. Tôi vẫn đang cầm tạp chí của bà ấy. Tôi mở phong bì và lấy lá thư ra.
“‘Thân gửi Janice, Todd và mọi người,’” tôi đọc. “‘Cuộc sống ở miền Tây huy hoàng thế nào rồi? Chúng tôi đang háo hức đến thăm mọi người, dù có thể không sớm như mong đợi. Carla, David và đứa bé thế nào rồi? Tôi nôn nóng quá, muốn gặp David nhỏ ngay. Cháu đã biết đi chưa? Cá là bà ngoại Janice tự hào đến mức phải bung cả quần ra ấy nhỉ. Có đúng vậy không? Người miền Tây các bạn vẫn mặc quần ống túm hay đã chuyển sang quần jean thời trang hết rồi?’”
David đang đứng bên lò sưởi. Anh ấy gục đầu xuống, tì lên cánh tay đặt trên mặt lò.
“‘Tôi xin lỗi vì đã không viết thư, nhưng chúng tôi rất bận rộn với lễ tốt nghiệp của Rick và dù sao tôi cũng nghĩ chúng tôi sẽ đến Colorado trước cả bức thư, nhưng giờ có vẻ như sẽ có một thay đổi nhỏ trong kế hoạch. Rick đã chắc chắn quyết định gia nhập Quân đội. Richard và tôi đã nói đến khản cả giọng, nhưng có vẻ chỉ khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. Chúng tôi thậm chí không thể thuyết phục thằng bé chờ đến sau chuyến đi Colorado mới gia nhập. Thằng bé nói chúng tôi sẽ dành cả chuyến đi để cố gắng thuyết phục nó thôi, mà có lẽ đúng thế thật. Tôi chỉ lo lắng cho nó quá. Quân đội! Rick bảo tôi lo lắng quá nhiều, điều này cũng đúng, tôi đoán vậy, nhưng nếu có chiến tranh thì sao?’”
Mẹ cúi xuống nhặt khúc củi David đánh rơi và đặt nó lên ghế sô-pha bên cạnh bà.
“‘Nếu mọi người ở miền Tây huy hoàng không phiền, chúng tôi sẽ đợi đến khi Rick hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản vào tuần đầu tiên của tháng Bảy rồi mới đến. Xin hãy viết thư cho chúng tôi biết nếu điều này ổn nhé. Tôi xin lỗi vì thay đổi kế hoạch vào phút chót như thế này, nhưng hãy nghĩ theo hướng này: mọi người có thêm cả tháng để tập luyện cho việc leo đỉnh Pike đấy. Tôi không biết mọi người thế nào, chứ tôi chắc chắn cần thời gian đó.’”
Bà Talbot đã buông đầu tấm nhựa xuống. Lần này nó không rơi vào bếp lò, nhưng nó ở gần đến nỗi đang bắt đầu cong vênh vì nhiệt. Bố chỉ đứng đó nhìn. Ông thậm chí không cố gắng nhặt nó lên.
“‘Các cô gái thế nào rồi? Sonja đang lớn như thổi. Năm nay con bé tham gia đội điền kinh và mang về nhiều huy chương cùng với đống tất bẩn. Mọi người phải thấy đầu gối của nó cơ! Chúng bị trầy xước đến nỗi tôi suýt đưa con bé đi khám bác sĩ. Nó nói bị xước là vì vấp phải rào chắn, huấn luyện viên bảo không có gì đáng lo nhưng tôi vẫn hơi lo lắng. Chúng dường như không lành lại. Mọi người có gặp vấn đề như vậy với Lynn và Melissa không?
“‘Tôi biết, tôi biết. Tôi lo lắng quá nhiều. Sonja vẫn ổn. Rick vẫn ổn. Sẽ không có chuyện gì tồi tệ xảy ra từ giờ đến tuần đầu tiên của tháng Bảy đâu, và chúng tôi sẽ gặp các bạn sau đó. Thân ái, nhà Cleary. Tái bút: Có ai từng rơi xuống khỏi đỉnh Pike chưa?’”
Không ai nói gì cả. Tôi gấp lá thư lại và bỏ vào phong bì.
“Lẽ ra mẹ nên viết thư cho họ,” Mẹ nói. “Mẹ nên bảo họ, ‘Đến ngay đi.’ Rồi họ đã có thể ở đây rồi.”
“Có lẽ chúng ta đã cùng nhau leo lên đỉnh Pike ngày hôm đó và chứng kiến tất cả nổ tung cùng với chúng ta,” David nói, ngẩng đầu lên. Anh ấy cười, nhưng giọng nghẹn lại và hơi vỡ ra. “Con đoán chúng ta nên mừng vì họ đã không đến.”
“Mừng ư?” Mẹ nói. Bà đang chà xát tay lên ống quần jean. “Mẹ đoán chúng ta nên mừng vì Carla đã đưa Melissa và đứa bé đến Colorado Springs ngày hôm đó nên chúng ta không phải nuôi thêm nhiều miệng ăn.” Bà chà xát quần jean mạnh đến nỗi có thể xước một lỗ ngay trên đó. “Mẹ đoán chúng ta nên mừng vì những tên cướp đã bắn ông Talbot.”
“Không,” Bố nói. “Nhưng chúng ta nên mừng vì bọn cướp không bắn chết chúng ta. Chúng ta nên mừng vì chúng chỉ lấy đồ hộp mà không lấy hạt giống. Chúng ta nên mừng vì lửa không lan đến đây. Chúng ta nên mừng-”
“Rằng chúng ta vẫn có dịch vụ bưu điện?” David nói. “Chúng ta cũng nên mừng về điều đó nữa sao, bố?” Anh ấy đi ra ngoài và đóng cửa lại.
“Khi không nghe tin từ họ, lẽ ra mẹ nên gọi điện hay làm gì đó,” Mẹ nói.
Bố vẫn đang nhìn tấm nhựa bị hỏng, tôi mang lá thư đến cho ông. “Bố có muốn giữ nó không?” Tôi hỏi.
“Bố nghĩ nó đã hoàn thành nhiệm vụ của nó rồi,” ông nói. Ông vo tròn lá thư lại, ném vào lò sưởi, và đóng cửa lò sầm một cái. Ông thậm chí còn không bị bỏng. “Đi giúp bố làm nhà kính nào, Lynn,” ông nói.
Bên ngoài tối đen như mực và trời đang trở nên rất lạnh. Đôi giày thể thao của tôi bắt đầu cứng lại. Bố cầm đèn pin và kéo căng tấm nhựa trên các thanh gỗ. Tôi dùng ghim bấm cố định tấm nhựa mỗi hai inch quanh khung, cứ cách một lần lại bấm vào ngón tay mình. Sau khi chúng tôi hoàn thành một khung, tôi hỏi bố liệu tôi có thể vào nhà để đi ủng không.
“Con đã lấy hạt giống cà chua chưa?” ông ấy hỏi, như thể chưa nghe thấy tôi nói gì. “Hay là con bận tìm bức thư quá?”
“Con không tìm nó,” tôi nói. “Con tình cờ thấy nó thôi. Con nghĩ bố sẽ vui khi nhận được thư và biết chuyện gì đã xảy ra với gia đình Cleary.”
Bố đang kéo tấm nhựa qua khung tiếp theo, mạnh đến nỗi nó bị nhăn lại. “Chúng ta đã biết rồi,” ông nói.
Ông đưa cho tôi cái đèn pin và lấy súng bắn ghim từ tay tôi. “Con muốn bố nói ra sao?” ông nói. “Con muốn bố kể chính xác chuyện gì đã xảy ra với họ à? Được thôi. Bố đoán họ đủ gần Chicago để bị hóa hơi khi bom nổ. Nếu vậy, họ đã may mắn. Bởi vì quanh Chicago không có núi như của chúng ta nên họ hoặc bị mắc kẹt trong cơn bão lửa hoặc chết vì bỏng nhiệt hoặc bệnh phóng xạ hoặc bị một tên cướp bắn chết.”
“Hoặc chính gia đình họ,” tôi nói.
“Hoặc chính gia đình họ.” Ông áp súng bắn ghim vào gỗ và bóp cò. “Bố có một giả thuyết về chuyện xảy ra mùa hè năm kia,” ông nói. Ông di chuyển súng xuống và bắn một ghim khác vào gỗ. “Bố không nghĩ người Nga bắt đầu nó, Hoa Kỳ cũng không. Bố nghĩ đó là một nhóm khủng bố nhỏ nào đó hoặc thậm chí chỉ một người. Bố không nghĩ họ có ý tưởng gì về những gì sẽ xảy ra khi họ thả quả bom. Bố nghĩ họ chỉ quá tổn thương, giận dữ và sợ hãi bởi tình hình lúc đó nên họ chỉ phản ứng thái quá. Bằng một quả bom.” Ông bắn ghim xuống tận đáy khung và đứng thẳng lên để bắt đầu với mặt bên kia. “Con nghĩ sao về giả thuyết đó, Lynn?”
“Con đã nói với bố rồi,” tôi nói. “Con thấy bức thư khi đang tìm tạp chí của bà Talbot.”
Ông quay lại và chĩa súng bắn ghim vào tôi. “Nhưng dù họ làm vì lý do gì, họ đã khiến cả thế giới sụp đổ trên đầu họ. Dù họ có cố ý hay không, họ phải sống với hậu quả.”
“Nếu họ còn sống,” tôi nói. “Nếu ai đó không bắn chết họ.”
“Bố không thể để con đi bưu điện nữa,” ông nói. “Quá nguy hiểm.”
“Thế còn tạp chí của bà Talbot thì sao?”
“Đi kiểm tra lửa đi,” ông nói.
Tôi quay vào trong. David đã trở lại và đang đứng bên lò sưởi, nhìn vào tường. Mẹ đã dựng bàn xếp và ghế gấp trước lò sưởi. Bà Talbot đang ở trong bếp cắt khoai tây, nhưng trông như đang cắt hành vì bà ấy đang khóc.
Lửa gần như đã tắt. Tôi nhét vài trang tạp chí vò nhàu vào để nó cháy lại. Ngọn lửa bùng lên với màu xanh lam và xanh lục rực rỡ. Tôi ném vài quả thông và một vài que củi lên đống giấy đang cháy. Một trong những quả thông lăn sang một bên và nằm đó trong đống tro. Tôi với lấy nó và đụng tay vào cửa lò.
Đúng vào chỗ cũ. Tuyệt thật. Chỗ phồng rộp sẽ kéo lớp vảy cũ ra và chúng ta lại bắt đầu lại từ đầu. Và tất nhiên mẹ đang đứng ngay đó, cầm cái nồi súp khoai tây. Bà đặt nó lên trên lò và chộp lấy tay tôi như thể đó là bằng chứng của một tội ác hay gì đó. Bà không nói gì, chỉ đứng đó cầm tay tôi và chớp mắt.
“Con bị bỏng,” tôi nói. “Con chỉ bị bỏng thôi.”
Bà chạm vào các cạnh của lớp vảy cũ, như thể sợ bị lây nhiễm gì đó.
“Đó là vết bỏng!” Tôi hét lên, giật tay lại và nhét mấy khúc gỗ ngu ngốc của David vào lò. “Không phải bệnh phóng xạ. Đó là vết bỏng.”
“Con có biết bố con đâu không, Lynn?” bà nói như thể chưa nghe thấy tôi nói gì.
“Bố đang ở hiên sau,” tôi nói, “đang xây nhà kính chết tiệt của ông ấy.”
“Bố con đi rồi,” bà nói. “Ông ấy đã đem Stitch theo.”
“Bố không thể đem Stitch đi được,” tôi nói. “Nó sợ bóng tối.” Bà không nói gì. “Mẹ có biết ngoài đó tối thế nào không?”
“Có,” bà nói, và đi nhìn ra cửa sổ. “Mẹ biết nó tối thế nào.”
Tôi lấy áo khoác từ móc bên lò sưởi và bắt đầu đi ra cửa.
David nắm lấy tay tôi. “Em định đi đâu vậy?”
Tôi giật ra khỏi anh ấy. “Đi tìm Stitch. Nó sợ bóng tối.”
“Quá tối rồi,” anh nói. “Em sẽ bị lạc đấy.”
“Thì sao? Vẫn an toàn hơn ở lại nơi này,” tôi nói và đóng sầm cửa vào tay anh ấy.
Tôi đi được nửa đường đến đống củi thì anh ấy lại nắm lấy tôi, lần này bằng tay kia. Lẽ ra tôi nên kẹp cả hai tay anh ấy vào cửa mới phải.
“Buông em ra,” tôi nói. “Em sẽ đi. Em sẽ đi tìm người khác để sống cùng.”
“Không còn ai khác nữa! Lạy Chúa, chúng ta đã đi tới tận South Park mùa đông năm ngoái. Chẳng có ai cả. Chúng ta thậm chí còn không thấy những tên cướp đó. Nếu em gặp chúng, những tên cướp đã bắn ông Talbot thì sao?”
“Thì sao? Tệ nhất là chúng bắn em. Em đã bị bắn trước đây rồi.”
“Em đang hành động điên rồ, em có biết không?” anh ấy nói. “Đột nhiên xông vào đây, tấn công mọi người một cách bừa bãi bằng bức thư điên rồ đó!”
“Tấn công ư!” tôi nói, tức giận đến nỗi sợ mình sẽ bắt đầu khóc. “Tấn công ư! Thế còn mùa hè năm ngoái thì sao? Ai đã tấn công bừa bãi lúc đó?”
“Em không nên đi đường tắt,” David nói. “Bố đã bảo em đừng bao giờ đi lối đó.”
“Đó có phải lý do để cố bắn em không? Đó có phải lý do để giết Rusty không?”
David đang siết chặt tay tôi đến nỗi tôi tưởng anh ấy sẽ bẻ gãy nó làm đôi. “Bọn cướp có một con chó đi cùng. Chúng ta tìm thấy dấu chân của nó xung quanh ông Talbot. Khi em đi đường tắt và chúng ta nghe thấy Rusty sủa, chúng ta tưởng em là bọn cướp.” Anh ấy nhìn tôi. “Mẹ nói đúng. Chứng hoang tưởng là kẻ giết người số một. Chúng ta đều hơi điên rồ vào mùa hè năm ngoái. Anh đoán chúng ta lúc nào cũng hơi điên cả, rồi em lại làm một trò như mang bức thư đó về nhà, nhắc nhở mọi người về mọi thứ đã xảy ra, về tất cả những người chúng ta đã mất…” Anh ấy buông tay tôi ra và nhìn xuống bàn tay mình như thể không biết mình vừa suýt bẻ gãy tay tôi.
“Em đã nói với anh rồi,” tôi nói. “Em thấy nó khi đang tìm một cuốn tạp chí. Em tưởng mọi người sẽ vui khi em tìm ra nó chứ.”
“Ừ,” anh ấy đáp. “Chắc rồi.”
Anh ấy đi vào trong và tôi ở ngoài một lúc lâu, chờ đợi bố và Stitch. Khi tôi vào nhà, chẳng ai buồn ngẩng lên nhìn. Mẹ vẫn đứng bên cửa sổ, tôi có thể thấy một ngôi sao lấp lánh phía trên đầu bà. Bà Talbot đã thôi khóc và đang bày bàn ăn. Mẹ múc súp ra và tất cả chúng tôi ngồi xuống. Trong lúc ăn, bố bước vào.
Ông dẫn theo Stitch. Và mang theo tất cả những cuốn tạp chí. “Tôi xin lỗi, bà Talbot,” ông nói. “Nếu bà muốn, tôi sẽ để chúng dưới nhà và bà có thể bảo Lynn lấy từng cuốn một.”
“Không sao đâu,” bà ấy đáp. “Tôi không còn muốn đọc chúng nữa.”
Bố đặt những cuốn tạp chí lên ghế sô-pha và ngồi xuống bàn. Mẹ múc cho ông một bát súp. “Bố lấy được hạt giống rồi,” ông nói. “Hạt cà chua bị ướt, nhưng hạt ngô và bí ngô vẫn ổn.” Ông nhìn tôi. “Bố phải đóng cửa bưu điện rồi, Lynn à,” ông nói. “Con hiểu mà, phải không, rằng bố không thể để con đến đó nữa? Nó quá nguy hiểm.”
“Con đã nói với bố rồi,” tôi đáp. “Con thấy nó. Trong lúc đang tìm một cuốn tạp chí.”
“Lửa sắp tắt rồi,” ông nói.
Sau khi họ bắn Rusty, tôi không được phép đi đâu trong suốt một tháng vì sợ họ sẽ bắn tôi khi tôi về nhà, ngay cả khi tôi hứa sẽ đi đường vòng. Nhưng rồi Stitch xuất hiện và chẳng có gì xảy ra nên họ để tôi bắt đầu đi lại. Tôi đi mỗi ngày cho đến cuối mùa hè và sau đó là bất cứ khi nào họ cho phép. Chắc tôi đã lục tung mọi đống thư ít nhất cả trăm lần trước khi tìm thấy bức thư từ nhà Cleary. Bà Talbot đã đúng về bưu điện. Bức thư nằm trong hộp thư c��a người khác.
Hết
『• • • ✎ • • •』
Biên dịch: Anne with an E
Biên tập: Diệu Mây
『• • • ✎ • • •』
Tác giả Connie Willis
1 note
·
View note
Text
Những gợn sóng trên biển Dirac - Geoffrey A. Landis
Về tác giả
Geoffrey A. Landis (sinh năm 1955) là một nhà khoa học và nhà văn khoa học viễn tưởng người Mỹ. Ông hiện đang làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Lewis của NASA, nơi ông tham gia vào các nhiệm vụ nghiên cứu vũ trụ liên quan đến du hành liên hành tinh và năng lượng mặt trời.
Bên cạnh công việc khoa học, Landis cũng là một nhà văn khoa học viễn tưởng nổi tiếng, với nhiều tác phẩm được giới yêu thích thể loại này đón nhận nồng nhiệt. Các truyện ngắn như A Walk in the Sun, Approaching Perimelasma và Impact Parameter của ông đã mang về cho ông những giải thưởng danh giá như Hugo, Nebula và Locus. Với khả năng kết hợp xuất sắc giữa khoa học và văn học, Landis được coi là một trong những nhà khoa học viễn tưởng hàng đầu của thế kỷ 20 và 21.
Về tác phẩm
Những gợn sóng trên biển Dirac (tựa gốc: Ripples in the Dirac Sea) là một truyện ngắn của Geoffrey A. Landis, đăng lần đầu trên tạp chí Asimov's Science Fiction vào tháng 10 năm 1988. Truyện đã thắng giải Nebula cho truyện ngắn xuất sắc nhất.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Cái chết bao trùm lấy tôi tựa một cơn thủy triều, chầm chậm xô về phía tôi với sự uy nghiêm không cách nào lay chuyển. Và tôi vẫn cứ trốn chạy, dẫu điều đó chừng như vô nghĩa.
Tôi ra đi, và những gợn lăn tăn của tôi lan truyền tới vô tận, như con sóng xóa nhòa dấu vết của kẻ lữ hành vào quên lãng.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Chúng tôi đã vô cùng cẩn trọng để phòng ngừa mọi nghịch lý, cái ngày đầu tiên thử nghiệm cỗ máy ấy. Chúng tôi dán một dấu X bằng băng dính trên mặt sàn bê tông của phòng thí nghiệm không cửa sổ, đặt lên chiếc đồng hồ báo thức, và khóa chặt cửa. Một giờ sau, chúng tôi quay lại, lấy chiếc đồng hồ ra và đặt cỗ máy thí nghiệm vào phòng, cùng với một máy ảnh Super-8 giữa các cuộn dây. Tôi hướng máy quay về phía dấu X, và một trong số các nghiên cứu sinh của tôi lập trình cỗ máy để đưa nó quay về quá khứ nửa giờ, ở lại đó năm phút, rồi quay về. Nó rời đi và trở lại mà không hề có một dao động nào. Khi chúng tôi rửa cuộn phim, thời gian trên đồng hồ lùi lại nửa giờ trước khi chúng tôi bắt đầu đặt máy. Chúng tôi đã thành công mở được cánh cửa vào quá khứ. Chúng tôi ăn mừng bằng cà phê và champagne.
Giờ đây, khi hiểu rõ hơn về thời gian, tôi nhận ra sai lầm: chúng tôi đã không đặt một máy quay trong phòng để ghi lại cảnh cỗ máy xuất hiện từ tương lai. Điều này giờ đây rõ ràng, nhưng khi đó tôi chưa nghĩ đến.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Tôi đến nơi, và những gợn sóng hội tụ về khoảnh khắc hiện tại từ biển cả vô hạn. San Francisco, ngày 8 tháng 6 năm 1965. Một cơn gió ấm áp khẽ lay động thảm cỏ điểm xuyết bằng những bông bồ công anh, trong khi những đám mây trắng bồng bềnh tạo nên những hình thù kỳ lạ và tuyệt vời cho con người ta ngắm nhìn. Nhưng thật ít người dừng lại để tận hưởng cảnh tượng ấy. Họ vội vã chạy đi, bận rộn một cách cần mẫn, tin rằng nếu bản thân đủ bận rộn, họ hẳn phải là người quan trọng. “Họ vội vàng quá,” tôi nói. “Tại sao họ không thể chậm lại, ngồi xuống, tận hưởng ngày hôm nay?”
“Họ bị mắc kẹt trong ảo ảnh về thời gian,” Dancer nói. Cậu nằm ngửa và thổi bong bóng xà phòng, mái tóc nâu xõa dài sau lưng trong thời đại mà tóc “dài” có nghĩa là bất cứ kiểu tóc nào dài quá mang tai. Một làn gió nhẹ đưa bong bóng xuống dốc và hòa vào dòng người đi bộ. Tất cả đều phớt lờ nó. “Họ bị mắc kẹt trong niềm tin rằng những gì họ làm là quan trọng đối với một mục tiêu tương lai nào đó.” Bong bóng vỡ tan trên một chiếc cặp táp, và Dancer thổi một quả khác. “Còn cậu và mình, chúng ta biết đó là một ảo tưởng sai lầm như thế nào. Không có quá khứ, không có tương lai, chỉ có hiện tại, vĩnh cửu.”
Cậu đã đúng, đúng hơn cả những gì cậu có thể tưởng tượng. Tôi cũng từng bận rộn và tự cho mình là quan trọng. Tôi từng thông minh và đầy tham vọng. Tôi hai mươi tám tuổi, và đã có phát hiện vĩ đại nhất trên thế giới.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Từ chỗ ẩn nấp của mình, tôi quan sát hắn ta đi lên bằng thang máy phục vụ. Một gã đàn ông gầy đến mức gần như suy nhược, vẻ ngoài lo lắng với mái tóc vàng xơ xác và chiếc áo phông trắng không tay. Hắn nhìn lên nhìn xuống hành lang, nhưng không thấy tôi đang ẩn nấp trong tủ đồ của nhân viên. Dưới mỗi bên nách của hắn là một can xăng hai gallon, còn mỗi tay lại cầm một can khác. Hắn đặt ba can xuống và lật ngược cái còn lại, rồi đi dọc hành lang, để lại một vệt xăng nồng nặc. Khuôn mặt hắn vô cảm. Khi hắn bắt đầu mở can xăng thứ hai, tôi nghĩ đã đến lúc đủ rồi. Khoảnh khắc hắn đi ngang qua chỗ tôi đang ẩn nấp, tôi đập mạnh vào đầu hắn bằng một cái cờ lê, và gọi bảo vệ khách sạn. Sau đó, tôi quay lại tủ và để cho những gợn sóng thời gian giao hòa.
Tôi xuất hiện trong một căn phòng đang cháy, lửa bùng lên dữ dội, nhiệt độ gần như không thể chịu đựng được. Tôi hít một hơi sâu - một sai lầm - và gõ mạnh vào bàn phím.
GHI CHÉP VỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH DU HÀNH THỜI GIAN:
Du hành chỉ có thể thực hiện về quá khứ.
Vật thể được vận chuyển sẽ trở lại đúng thời điểm và địa điểm xuất phát.
Không thể mang vật thể từ quá khứ đến hiện tại.
Hành động trong quá khứ không thể thay đổi hiện tại.
Một lần, tôi thử nhảy ngược thời gian một trăm triệu năm về trước, đến kỷ Phấn trắng, để xem khủng long. Trong tất cả những cuốn sách tranh, khủng long xuất hiện dày đặc trên các vùng đất. Tôi đã dành ba ngày lang thang trong một đầm lầy – trong bộ vest vải tweed mới của mình – chỉ để bắt gặp một con khủng long lớn hơn chó săn chân lùn. Con đó – một loài khủng long chân thú nào đó, tôi không biết – chạy mất khi vừa đánh hơi thấy tôi. Thật thất vọng.
Giáo sư môn toán vô cực của tôi từng kể câu chuyện về một khách sạn có vô số phòng. Một ngày nọ, tất cả các phòng đều kín chỗ, và một vị khách mới đến. “Không vấn đề gì,” nhân viên lễ tân nói. Ông ta chuyển người ở phòng một sang phòng hai, người ở phòng hai sang phòng ba, và cứ thế tiếp tục. Presto! Một phòng trống.
Một lúc sau, vô số khách đến. “Không vấn đề gì,” vị nhân viên lễ tân quả cảm lại nói. Ông ta chuyển người ở phòng một sang phòng hai, người ở phòng hai sang phòng bốn, người ở phòng ba sang phòng sáu, và cứ thế tiếp tục. Presto! Vô số phòng trống.
Máy thời gian của tôi hoạt động dựa trên nguyên tắc đó.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Lại một lần nữa tôi quay trở lại năm 1965, điểm cố định, điểm hút kỳ lạ trong quỹ đạo hỗn loạn của mình. Trong những năm lang thang, tôi đã gặp vô số người, nhưng Daniel Ranien - Dancer - là người duy nhất thực sự sáng suốt. Cậu có nụ cười nhẹ nhàng, dễ chịu, một cây đàn guitar cũ kỹ, và một trí tuệ mà tôi phải mất hàng trăm kiếp mới có được. Tôi đã biết cậu trong những khoảnh khắc tốt đẹp và tồi tệ, trong những ngày hè với bầu trời xanh mà chúng tôi thề sẽ tồn tại hàng nghìn năm, trong những ngày đông bão tố tuyết phủ cao quá đầu. Trong những thời khắc hạnh phúc hơn, chúng tôi đã đặt hoa hồng lên nòng súng, chúng tôi đã nằm trên đường phố giữa đám đông bạo loạn, và không bị thương. Và tôi đã ở bên cậu khi cậu chết, một lần, hai lần, hàng trăm lần.
Cậu chết vào ngày 8 tháng 2 năm 1969, một tháng sau khi Vua Richard Kẻ Mạo Nhiệm và gã hề của ông ta, Spiro, lên ngôi, một năm trước khi Kent State và Altamont và cuộc chiến bí mật ở Campuchia dần bóp nghẹt mùa hè của những giấc mơ. Cậu chết, và chẳng điều gì tôi đã – cũng như giờ đây - có thể làm được. Lần cuối cùng cậu chết, tôi kéo lê cậu đến bệnh viện, gào thét như điên dại cho đến khi cuối cùng cũng thuyết phục được người ta cho cậu nhập viện để quan sát, mặc dù dường như cậu chẳng bị làm sao cả. Dùng X-quang, chụp mạch máu và chất đánh dấu phóng xạ, họ tìm thấy một chiếc bong bóng bắt đầu phồng lên trong não cậu; họ cho cậu dùng thuốc, cạo đi mái tóc nâu dài đẹp đẽ, và phẫu thuật cắt bỏ mao mạch bị ảnh hưởng và buộc chặt lại gọn gàng. Khi thuốc mê hết tác dụng, tôi ngồi trong phòng bệnh và nắm tay cậu. Dưới mắt cậu là những vết bầm tím; cậu ghì chặt tay tôi và im lặng nhìn vào hư không. Bất kể có phải giờ thăm hay không, tôi cũng không để người ta đuổi tôi ra khỏi phòng. Cậu cứ nhìn chằm chằm như vậy. Trong những giờ xám xịt trước bình minh, cậu thở nhẹ một hơi và chết. Tôi chẳng thể làm gì hơn.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Du hành thời gian tuân theo hai nguyên tắc: bảo toàn năng lượng và nhân quả. Năng lượng để xuất hiện trong quá khứ chỉ được mượn từ biển Dirac, và vì những gợn sóng trong biển Dirac lan truyền theo hướng âm, việc du hành chỉ có thể trở về quá khứ. Năng lượng được bảo toàn trong hiện tại miễn là vật được du hành trở lại mà không có sự trễ thời gian, và nguyên tắc nhân quả đảm bảo rằng các hành động trong quá khứ không thể thay đổi hiện tại. Ví dụ, nếu bạn quay lại quá khứ và giết cha mình thì sao?
Vậy, khi đó, ai sẽ phát minh ra cỗ máy thời gian?
Có lần tôi đã cố tự sát bằng cách giết cha mình, trước khi ông gặp mẹ tôi, hai mươi ba năm trước khi tôi ra đời. Tất nhiên, điều đó không thay đổi gì, và thậm chí khi làm vậy, tôi biết nó sẽ không thay đổi gì. Nhưng bạn phải thử những điều như vậy. Làm sao tôi có thể biết chắc chắn nếu không thử?
-; ࿐ ࿔*:・゚
Tiếp theo, chúng tôi thử gửi một con chuột về quá khứ. Nó thực hiện chuyến hành trình qua biển Dirac và trở về mà không hề hấn gì. Sau đó, chúng tôi thử một con chuột được huấn luyện, một con chúng tôi mượn từ phòng thí nghiệm tâm lý học bên kia bãi cỏ mà không nói cho họ biết chúng tôi muốn làm gì với nó. Trước chuyến đi nhỏ của nó, nó đã được dạy chạy qua một mê cung để lấy một miếng thịt xông khói. Sau đó, nó chạy qua mê cung nhanh hơn bao giờ hết.
Chúng tôi vẫn cần phải tiến hành thử nghiệm trên người. Tôi tình nguyện và kiên quyết không để ai thuyết phục từ bỏ. Nhờ đó, tôi đã lách luật của trường đại học về việc thử nghiệm trên người.
Việc lặn vào biển năng lượng âm không mang lại cảm giác gì cả. Khắc trước tôi còn đang ở trung tâm của cuộn dây Renselz, được theo dõi bởi hai nghiên cứu sinh và một kỹ thuật viên; khắc sau tôi đã đứng một mình, và đồng hồ đã nhảy ngược lại chính xác một giờ. Một mình trong một căn phòng khóa với chỉ một máy ảnh và một chiếc đồng hồ, khoảnh khắc đó là đỉnh cao cuộc đời tôi.
Khoảnh khắc tôi gặp Dancer lần đầu tiên là khi tôi chạm đáy. Tôi đang ở Berkeley, trong một quán bar tên là “Trishia’s”, chầm chậm tự hủy hoại chính mình. Tới lúc đó tôi đã làm điều này rất nhiều, bị mắc kẹt giữa toàn năng và tuyệt vọng. Ấy là năm 1967. ’Frisco lúc bây giờ - giữa thời kì hippie - có vẻ là một địa điểm phù hợp.
Có một cô gái, ngồi bên một chiếc bàn với một nhóm người từ trường đại học. Tôi đi đến bàn của cô và tự cho mình ngồi xuống. Tôi nói với cô rằng cô không tồn tại, rằng toàn bộ thế giới của cô không tồn tại, nó được tạo ra bởi ánh nhìn của tôi, và sẽ biến mất trở lại biển vô thực ngay khi tôi ngừng quan sát. Tên cô là Lisa, và cô đã cãi lại. Bạn bè của cô, buồn chán, đã bỏ ra ngoài, và sau một lúc Lisa nhận ra tôi say đến mức nào. Cô đặt một tờ tiền lên bàn và bước ra màn đêm mù sương.
Tôi theo cô ra ngoài. Khi thấy tôi theo dõi, cô túm chặt ví và chạy đi.
Cậu đột nhiên xuất hiện dưới ánh đèn đường. Trong một giây, tôi đã tưởng cậu là một cô gái. Cậu có đôi mắt xanh sáng và mái tóc nâu thẳng xõa ngang vai. Cậu đang mặc một chiếc áo sơ mi thêu kiểu Anh-điêng với một chiếc mặt dây chuyền bạc và ngọc lục bảo đeo quanh cổ và một cây đàn guitar vác trên lưng. Cậu gầy nhom, và di chuyển như một vũ công hoặc một bậc thầy karate. Nhưng tôi không nghĩ đến việc sợ hãi.
Cậu nhìn tôi. “ Việc đó không giải quyết được vấn đề của cậu đâu, cậu biết mà.”
Và ngay lập tức tôi xấu hổ. Tôi không còn chắc chắn chính xác những gì tôi đã nghĩ hay tại sao tôi lại đi theo cô gái ấy. Đã nhiều năm kể từ khi tôi trốn thoát khỏi cái chết của mình lần đầu tiên, và tôi đã bắt đầu nghĩ rằng những kẻ khác là không thực, vì không có gì tôi có thể làm để ảnh hưởng vĩnh viễn đến họ. Đầu tôi quay cuồng. Tôi trượt xuống tường và ngồi thụp xuống trên vỉa hè. Tôi đã trở thành thứ gì vậy?
Cậu đưa tôi trở lại quán bar, cho tôi uống nước cam và bánh quy giòn, và khiến tôi nói chuyện. Tôi kể cho cậu mọi thứ. Tại sao không, khi mà tôi có thể nói lại bất cứ điều gì tôi nói, hoàn tác bất cứ điều gì tôi làm? Nhưng tôi không có ý định. Cậu lắng nghe tất cả, không nói gì. Chưa ai từng nghe toàn bộ câu chuyện trước đây. Tôi không thể giải thích ảnh hưởng của nó lên tôi. Trong vô vàn năm, tôi đã cô đơn, và sau đó, chỉ trong một khoảnh khắc… Nó đánh vào tôi với cường độ của một liều LSD. Trong một khoảnh khắc, tôi không cô đơn.
Chúng tôi rời đi tay trong tay. Đi được nửa dãy nhà, Dancer dừng lại trước một con hẻm. Trời tối.
“Có chuyện xảy ra rồi.” Giọng cậu có vẻ bối rối.
Tôi kéo cậu lại. “Đợi đã. Cậu không muốn đi xuống đó đâu—” Cậu giật tay mình khỏi tay tôi và đi vào ngõ. Sau một chút do dự, tôi theo sau.
Con hẻm bốc mùi bia cũ, trộn lẫn với rác, nước tiểu và mồ hôi. Một lúc sau, mắt tôi quen với bóng tối.
Lisa đang co rúm trong một góc sau một số thùng rác. Quần áo của cô đã bị cắt bằng dao, và nằm rải rác xung quanh. Máu thẫm lại trên đùi và một bên cánh tay cô. Cô dường như không nhìn thấy chúng tôi. Dancer ngồi xổm xuống bên cạnh cô và nói điều gì đó nhẹ nhàng. Cô không trả lời. Cậu cởi áo sơ mi và quấn nó quanh cô, sau đó bế bổng cô trong vòng tay. “Giúp mình đưa cô ấy đến căn hộ của mình.”
“Căn hộ à, lạy Chúa tôi. Chúng ta phải gọi cảnh sát,” tôi nói.
“Gọi bọn lợn đó á? Cậu điên rồi à? Cậu muốn chúng cưỡng bức cô ấy nữa à?”
Tôi đã quên rằng đây là những năm sáu mươi. Hợp sức lại, chúng tôi đưa Lisa đến chiếc xe VW của Dancer và chở cô đến căn hộ của Dancer ở The Hashbury. Cậu thì thầm giải thích với tôi trong lúc lái xe, một mặt tối của mùa hè tình yêu mà tôi chưa từng thấy trước đây. Đó là những kẻ bẩn thỉu, cậu nói. Chúng đến Berkeley vì chúng nghe nói rằng những cô gái hippie cho không, và nổi khùng lên khi gặp một cô gái có suy nghĩ khác.
Vết thương của Lisa chủ yếu chỉ là ngoài da. Dancer tắm rửa sạch sẽ cho cô, đặt cô lên giường, và thức suốt đêm bên cạnh cô, chuyện trò và hát ru và thầm thì những lời trấn an. Tôi ngủ trên một chiếc nệm trong phòng. Khi tôi thức dậy vào buổi sáng hôm sau, cả hai đều đang ở trên giường của cậu. Lisa thì ngủ yên. Dancer đã tỉnh giấc, đang ôm lấy cô. Tôi đủ tỉnh táo để nhận ra rằng đó là tất cả những gì cậu đang làm, ôm cô ấy, nhưng tôi vẫn cảm thấy một cơn ghen tuông sắc nhọn, và không biết mình đang ghen tị với ai trong số hai người họ.
GHI CHÚ CHO MỘT BÀI GIẢNG VỀ DU HÀNH THỜI GIAN
Đầu thế kỷ XX là thời đại của những người khổng lồ trí tuệ, những người mà tầm vóc của họ có lẽ không kẻ hậu thế nào có thể sánh kịp. Einstein vừa phát minh ra thuyết tương đối, Heisenberg và Schrödinger tìm ra cơ học lượng tử, nhưng chưa ai biết cách kết hợp hai lý thuyết này với nhau. Năm 1930, một nhân vật mới tiếp cận vấn đề. Tên ông là Paul Dirac. Ông hai mươi tám tuổi. Ông thành công ở nơi những kẻ khác đã thất bại.
Lý thuyết của ông là một thành công chưa từng có tiền lệ, ngoại trừ một chi tiết nhỏ. Theo lý thuyết của Dirac, một hạt có thể có năng lượng dương hoặc âm. Vậy hạt năng lượng âm nghĩa là gì? Làm thế nào một thứ có thể có năng lượng âm? Và tại sao các hạt năng lượng dương bình thường lại không rơi xuống các trạng thái năng lượng âm, giải phóng một lượng lớn năng lượng tự do trong quá trình đó?
Bạn hoặc tôi có thể chỉ đơn giản quy ước rằng không thể cho một hạt năng lượng dương bình thường chuyển đổi sang năng lượng âm. Nhưng Dirac không phải là một người bình thường. Ông là một thiên tài, nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại, và ông có câu trả lời. Nếu mọi trạng thái năng lượng âm có thể đều đã bị chiếm giữ, một hạt không thể rơi vào trạng thái năng lượng âm. A ha! Vì vậy, Dirac đã giả định rằng toàn bộ vũ trụ được lấp đầy hoàn toàn bằng các hạt năng lượng âm. Chúng bao quanh chúng ta, thâm nhập vào chúng ta, trong chân không của không gian bên ngoài và ở trung tâm của trái đất, ở tất cả mọi nơi mà các hạt có thể chạm đến. Một “biển” vô hạn các hạt năng lượng âm. Biển Dirac.
Lập luận của ông có lỗ hổng, nhưng chúng ta sẽ bàn đến điều đó sau.
Một lần tôi tới thăm cuộc đóng đinh của Chúa. Tôi đi máy bay phản lực từ Santa Cruz đến Tel Aviv, và bắt xe buýt từ Tel Aviv đến Jerusalem. Trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố, tôi lao qua biển Dirac.
Tôi đến nơi trong bộ suit ba mảnh của mình. Chẳng còn cách nào khác, trừ khi tôi muốn khỏa thân. Vùng đất ấy khá xanh tươi và màu mỡ, hơn những gì tôi mong đợi. Ngọn đồi bây giờ là một trang trại, được bao phủ bởi những cây nho và ô liu. Tôi giấu những cuộn dây sau một số tảng đá và đi xuống đường. Tôi không đi được xa. Năm phút trên đường, tôi bắt gặp một nhóm người. Họ có tóc đen, da đen và mặc những chiếc áo tunic trắng sạch sẽ. Người La Mã chăng? Người Do Thái? Hay người Ai Cập? Làm sao tôi biết được? Họ nói chuyện với tôi, nhưng tôi không hiểu một từ nào. Sau một lúc, hai người trong số họ giữ tôi, trong khi người thứ ba lục soát tôi. Họ là kẻ cướp, đang tìm kiếm tiền chăng? Là người La Mã, đang tìm kiếm một loại giấy tờ tùy thân nào đó? Tôi nhận ra mình đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng mình có thể chỉ cần tìm trang phục phù hợp và bằng cách nào đó hòa nhập với đám đông. Không tìm thấy gì, kẻ lục soát đánh đập tôi một cách cẩn thận và có phương pháp. Cuối cùng hắn ta đẩy tôi úp mặt xuống đất. Trong khi hai người kia giữ tôi xuống, hắn rút một con dao và cắt đứt gân ở mặt sau mỗi chân. Họ rất nhân từ, tôi đoán vậy. Họ để tôi sống. Họ bỏ đi sau khi cười và nói những câu tôi không tài nào hiểu nổi.
Chân tôi vô dụng. Một cánh tay của tôi bị gãy. Tôi mất bốn giờ để bò lên đồi, kéo lê mình trên mặt đất bằng bên tay lành lặn. Thỉnh thoảng có người đi qua trên đường, cố tình bỏ qua tôi. Khi tôi đến nơi ẩn náu, việc kéo những cuộn dây Renselz ra và quấn chúng quanh mình là một sự đau đớn tuyệt đối. Đến khi tôi nhập liệu trả về trên bàn phím, tôi đã gần như ngất đi. Cuối cùng tôi cũng nhập được lệnh. Từ biển Dirac, những gợn sóng hội tụ và tôi đang ở trong phòng khách sạn của mình ở Santa Cruz. Trần nhà đã bắt đầu rơi xuống nơi các xà nhà bị cháy. Còi báo cháy hú và rít lên, nhưng không có nơi nào để chạy. Căn phòng dày đặc khói, cay xè. Cố gắng không thở, tôi nhấn một mã trên bàn phím, một lúc nào đó, bất cứ lúc nào khác ngoài khoảnh khắc đó và tôi đang ở trong phòng khách sạn, năm ngày trước. Tôi thở hổn hển. Người phụ nữ trên giường khách sạn hét lên và cố kéo chăn lên. Người đàn ông đang vặn vẹo trên người cô ta quá bận rộn để quan tâm. Dù sao họ cũng không có thật. Tôi bỏ qua họ và chú ý nhiều hơn đến nơi cần đi tiếp theo. Quay lại năm 65, tôi nghĩ. Tôi nhập tổ hợp lệnh và đang đứng trong một căn phòng trống trên tầng ba mươi của một khách sạn đang xây dựng. Trăng tròn rọi lên bóng đen im lặng của những chiếc cần cẩu xây dựng. Tôi thử gập chân. Ký ức về cơn đau đã bắt đầu mờ dần. Điều đó là hợp lý, bởi vì nó chưa bao giờ xảy ra. Du hành thời gian. Không phải sự bất tử, nhưng là điều tuyệt vời nhất sau nó.
Bạn không thể thay đổi quá khứ, dù có cố gắng thế nào đi nữa.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Vào buổi sáng hôm sau, tôi khám phá căn hộ của Dancer. Trông nó thật điên rồ, một căn hộ nhỏ tầng ba cách Haight Ashbury một dãy nhà, đã được biến đổi thành một thứ gì đó như thể đến từ một hành tinh khác. Sàn nhà được phủ kín bằng nệm cũ, trên đó là một mớ hỗn độn của mền may chần, gối, chăn Anh-điêng, thú nhồi bông. Bạn phải cởi giày trước khi vào - Dancer luôn đi dép, dép da từ Mexico với đế cắt từ lốp cũ. Các bộ tản nhiệt, dù sao thì cũng không hoạt động, được sơn màu sắc rực rỡ. Các bức tường được dán đầy áp phích: bản in của Peter Max, các bức họa Escher đầy màu sắc, thơ của Allen Ginsberg, bìa album nhạc, áp phích mít-tinh hòa bình, tấm biển “Haight is Love”, áp phích mười kẻ bị truy nã nhất của FBI bị xé từ bưu điện với ảnh của những nhà hoạt động chống chiến tranh nổi tiếng được khoanh tròn bằng bút dạ xanh, một biểu tượng hòa bình khổng lồ màu hồng rực. Một số áp phích được chiếu sáng bằng đèn UV và phát ra những màu sắc không thể tưởng tượng được. Không khí ẩm mốc với hương trầm và mùi ngọt ngào của cần sa. Ở một góc, một máy hát đĩa đang phát liên tục bài Lonely Hearts Club Band của Sergeant Pepper. Bất cứ khi nào một bản sao của album bị xước quá nhiều, chắc chắn một trong những người bạn của Dancer sẽ mang một bản khác đến. Cậu không bao giờ khóa cửa. “Nếu ai đó muốn ăn cướp của mình, thôi nào, họ có lẽ cần nó hơn mình, được chứ? Ổn mà.” Mọi người ghé thăm bất cứ lúc nào, bất kể ngày hay đêm.
Tôi để tóc dài ra. Dancer, Lisa và tôi đã trải qua mùa hè đó cùng nhau, cười đùa, chơi guitar, làm tình, viết những bài thơ ngớ ngẩn và những bài hát ngớ ngẩn hơn, thử nghiệm với ma túy. Đó là khi LSD nở rộ như hoa hướng dương, khi mọi người vẫn không sợ hãi thế giới kỳ lạ và đẹp đẽ bên kia thực tế. Đó là quãng thời gian để sống. Tôi biết rằng Lisa thực sự yêu Dancer, không phải tôi, nhưng trong những ngày đó, tình yêu tự do tràn ngập trong không khí như mùi hương của hoa anh túc, và điều đó không quan trọng. Không quá quan trọng, dù sao đi nữa.
GHI CHÚ CHO MỘT BÀI GIẢNG VỀ DU HÀNH THỜI GIAN (TIẾP THEO)
Sau khi giả định rằng toàn bộ không gian được lấp đầy bởi một biển vô hạn các hạt năng lượng âm, Dirac tiếp tục đặt câu hỏi về việc liệu chúng ta, trong vũ trụ năng lượng dương, có thể tương tác với biển năng lượng âm này hay không. Điều gì sẽ xảy ra, giả sử, nếu bạn thêm đủ năng lượng cho một electron để đưa nó ra khỏi biển năng lượng âm? Hai điều: thứ nhất, bạn sẽ tạo ra một electron, dường như từ hư không. Thứ hai, bạn sẽ để lại một “lỗ hổng” trong biển. Dirac nhận ra rằng cái lỗ đó sẽ hoạt động như thể nó là một hạt, một hạt giống hệt như một electron ngoại trừ một điều: nó sẽ có điện tích ngược lại. Nhưng nếu cái lỗ có khi nào gặp một electron, electron sẽ rơi trở lại vào biển Dirac, tiêu diệt cả electron và lỗ trong một vụ nổ năng lượng sáng chói. Cuối cùng, người ta đặt tên cho lỗ trong biển Dirac là “positron.” Khi Anderson phát hiện ra positron hai năm sau để chứng minh lý thuyết của Dirac, đó gần như là một sự nhàm chán.
Và trong suốt năm mươi năm tiếp theo, thực tế của biển Dirac gần như bị các nhà vật lý bỏ qua. Phản vật chất, những lỗ hổng trong biển, là đặc điểm quan trọng của lý thuyết; phần còn lại chỉ là một sản phẩm toán học.
Bảy mươi năm sau, tôi nhớ lại câu chuyện mà giáo viên toán vô cực của tôi kể và kết hợp nó với lý thuyết của Dirac. Giống như đặt thêm một vị khách vào một khách sạn có vô số phòng, tôi đã tìm ra cách mượn năng lượng từ biển Dirac. Hoặc, nói cách khác: tôi đã học cách tạo ra sóng.
Và những con sóng trên biển Dirac di chuyển ngược thời gian.
Tiếp theo, chúng tôi phải thử một điều gì đó tham vọng hơn. Chúng tôi phải gửi một con người trở về quá khứ xa hơn và lấy bằng chứng về chuyến đi. Chúng tôi vẫn sợ thay đổi quá khứ, mặc dù toán học nói rằng hiện tại không thể thay đổi.
Chúng tôi lấy máy quay phim của mình và chọn kỹ các điểm đến.
Vào tháng 9 năm 1853, một du khách tên là William Hapland và gia đình ông đã vượt qua Sierra Nevadas để đến bờ biển California. Con gái ông, Sarah, đã giữ một cuốn nhật ký, và trong đó cô ghi lại rằng, khi họ đến đỉnh của dãy Parker, cô đã lần đầu trông thấy Thái Bình Dương xa xôi khi mặt trời chạm vào đường chân trời, “trong một luồng ánh sáng rực rỡ,” như cô đã viết. Nhật ký vẫn còn tồn tại. Đối với chúng tôi, khá dễ dàng để ẩn náu mình cùng một máy quay phim trong một khe đá trên đèo và chụp ảnh những con người mệt mỏi trong chiếc xe ngựa kéo ấy khi họ băng qua.
Mục tiêu thứ hai là trận động đất lớn San Francisco năm 1906. Từ một nhà kho bỏ hoang sẽ tồn tại sau trận động đất - nhưng không phải là đám cháy sau đó - chúng tôi đã xem và quay phim khi các tòa nhà đổ sụp xung quanh chúng tôi và những lính cứu hỏa chiến đấu trong những xe cứu hỏa kéo ngựa cố gắng dập tắt hàng trăm đám cháy. Chỉ vài phút trước khi lửa lan đến tòa nhà của chúng tôi, chúng tôi chạy trốn về hiện tại.
Những thước phim thật ngoạn mục.
Chúng tôi đã sẵn sàng tuyên bố cho cả thế giới.
Có một cuộc họp của AAAS ở Santa Cruz trong vòng một tháng. Tôi gọi cho chủ tịch chương trình và giành được một vị trí là diễn giả khách mời mà không tiết lộ những gì chúng tôi đã đạt được cho đến nay. Tôi dự định chiếu những thước phim đó tại buổi nói chuyện. Chúng sẽ khiến chúng tôi nổi tiếng ngay lập tức.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Ngày Dancer chết, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc chia tay, chỉ có Lisa, Dancer và tôi. Cậu biết mình sắp chết; tôi đã nói với cậu ấy và bằng cách nào đó cậu ấy đã tin tôi. Cậu lúc nào cũng tin tôi. Chúng tôi thức trắng đêm, chơi cây mandolin cũ của Dancer, vẽ những họa tiết ảo giác lên cơ thể nhau bằng sơn dầu, thi đấu một trận cờ tỉ phú khốc liệt kéo dài cả đêm, làm hàng trăm điều ngớ ngẩn, bình thường chỉ có ý nghĩa vì đó là lần cuối cùng. Khoảng bốn giờ sáng, khi ánh sáng hoàng đạo bắt đầu xuất hiện trên bầu trời, chúng tôi xuống vịnh và, ôm nhau để giữ ấm, đi chơi. Điều cuối cùng cậu nói là đừng để những giấc mơ chết đi; hãy ở bên nhau.
Chúng tôi chôn cất Dancer, trong một ngôi mộ phúc lợi, chi phí do th��nh phố trả. Chúng tôi chia tay ba ngày sau đó.
Tôi vẫn liên lạc với Lisa, một cách mơ hồ. Vào cuối những năm bảy mươi, cô quay trở lại trường, đầu tiên là học MBA, sau đó là trường luật. Tôi nghĩ cô đã kết hôn một thời gian. Chúng tôi viết thư cho nhau vào dịp Giáng sinh một thời gian, rồi tôi mất dấu cô. Nhiều năm sau, tôi nhận được một bức thư từ cô. Lisa nói rằng cuối cùng cô cũng tha thứ cho tôi vì đã gây ra cái chết của Dan.
Đó là một ngày tháng Hai lạnh lẽo và nhiều sương mù, nhưng tôi biết tôi có thể tìm thấy sự ấm áp trong năm 1965. Những gợn sóng hội tụ.
DỰ ĐOÁN NHỮNG CÂU HỎI TỪ KHÁN GIẢ
H (giáo sư già, cứng nhắc): Theo tôi, giả thuyết du hành thời gian của anh vi phạm định luật bảo toàn khối lượng/năng lượng. Ví dụ, khi một vật thể du hành về quá khứ, một lượng khối lượng dường như biến mất khỏi hiện tại, rõ ràng vi phạm định luật bảo toàn.
T: (Tôi) Vì sự trở về là vào đúng thời điểm xuất phát, nên khối lượng hiện tại là không đổi.
H: Được rồi, nhưng còn việc đến quá khứ thì sao? Điều này không vi phạm định luật bảo toàn à?
T: Không. Năng lượng cần thiết được lấy từ biển Dirac, theo cơ chế mà tôi giải thích chi tiết trong bài báo trên Phys Rev. Khi vật thể trở lại “tương lai,” năng lượng được trả lại cho biển.
H (nhà vật lý trẻ tuổi, nhiệt tình): Vậy thì nguyên lý bất định Heisenberg có hạn chế lượng thời gian có thể ở trong quá khứ không?
T: Một câu hỏi hay. Câu trả lời là có, nhưng vì chúng ta mượn một lượng năng lượng vô cùng nhỏ từ vô số hạt, nên lượng thời gian ở trong quá khứ có thể lớn tùy ý. Hạn chế duy nhất là bạn phải rời khỏi quá khứ một khoảnh khắc trước khi bạn rời khỏi hiện tại.
Trong nửa giờ nữa, tôi dự kiến trình bày bài báo sẽ đưa tên tôi ngang hàng với Newton, Galileo và Dirac. Tôi hai mươi tám tuổi, cùng tuổi với Dirac khi ông công bố lý thuyết của mình. Tôi là một ngọn lửa, sẵn sàng làm bùng cháy cả thế giới. Tôi lo lắng tập đi tập lại bài phát biểu trong phòng khách sạn. Tôi uống một ngụm Coca cũ mà một trong những nghiên cứu sinh của tôi để lại trên nóc TV. Đội tin tức buổi tối đang lảm nhảm, nhưng tôi không nghe.
Tôi chẳng bao giờ có thể trình bày bài nói đó. Khách sạn bắt đầu bốc cháy; cái chết của tôi đã được định trước. Cột cà vạt ngay ngắn, tôi soi mình trong gương, rồi bước đến cửa. Tay nắm cửa nóng sực. Tôi mở cửa ra, một màn lửa bùng lên. Ngọn lửa tràn qua cánh cửa mở như một con rồng khát máu. Tôi lảo đảo lùi lại, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa với sự kinh ngạc.
Ở đâu đó trong khách sạn, tôi nghe thấy một tiếng hét, và đột nhiên tôi thoát khỏi sự mê mụ. Tôi đang ở tầng ba mươi; không có lối thoát. Tôi nghĩ đến cỗ máy của mình. Tôi lao qua phòng và mở tung chiếc hộp đựng máy thời gian. Với những ngón tay nhanh nhẹn, chắc chắn, tôi rút ra cuộn dây Renselz và quấn quanh người. Thảm bắt lửa, một tấm lửa ngăn cách tôi với mọi lối thoát. Nín thở để tránh ngạt khói, tôi nhập một lệnh vào bàn phím và lặn vào thời gian.
Tôi quay lại khoảnh khắc đó nhiều lần. Khi tôi nhấn phím cuối cùng, bầu không khí đã đặc quánh khói đến mức gần như không thể thở được. Lúc đó tôi còn khoảng ba mươi giây để sống. Qua nhiều năm, tôi đã gặm nhấm thời gian của mình xuống còn mười giây hoặc ít hơn.
Tôi sống bằng thì giờ vay mượn. Có lẽ tất cả chúng ta đều như vậy. Nhưng tôi biết khi nào và ở đâu khoản nợ của mình sẽ đến hạn.
-; ࿐ ࿔*:・゚
Dancer chết vào ngày 9 tháng 2 năm 1969. Đó là một ngày mịt mù sương. Vào buổi sáng, cậu ấy nói rằng mình đau đầu. Điều đó thật bất thường, vì Dancer chưa bao giờ bị đau đầu cả. Chúng tôi quyết định đi dạo trong sương mù. Thật đẹp, như thể chúng tôi đang đơn độc trong một thế giới kỳ lạ, vô hình. Tôi đã quên hẳn về cơn đau đầu của cậu, cho đến lúc, khi đang đứng trong công viên nhìn ra vịnh biển sương mù, cậu ngã xuống. Cậu chết trước khi xe cứu thương đến, chết với một nụ cười bí ẩn trên môi. Tôi chưa bao giờ hiểu được nụ cười đó. Có lẽ cậu cười vì cơn đau đã qua.
Hai ngày sau, Lisa tự sát.
Các bạn, những người bình thường, các bạn có cơ hội thay đổi tương lai. Các bạn có thể sinh con, viết tiểu thuyết, ký đơn kiến nghị, phát minh ra máy móc mới, đi dự tiệc cocktail, tranh cử tổng thống. Các bạn tạo ra ảnh hưởng đến tương lai với mọi thứ bạn làm. Còn tôi, dù có làm gì, tôi cũng không thể. Đã quá muộn cho điều đó, đối với tôi. Mọi điều tôi làm đều như dòng nước chảy. Và hoàn toàn vô dụng, cũng như tôi vô trách nhiệm. Điều tôi làm không có ý nghĩa gì cả.
Lần đầu trốn thoát khỏi đám cháy vào quá khứ, tôi đã cố gắng hết sức để thay đổi mọi thứ. Tôi ngăn chặn kẻ phóng hỏa, tranh luận với các thị trưởng, thậm chí còn đến nhà mình và nói với bản thân đừng đi dự hội nghị.
Nhưng thời gian không hoạt động như vậy. Cho dù tôi làm gì, nói chuyện với thống đốc hay phá hủy khách sạn, khi tôi đến thời điểm quan trọng – hiện tại, số phận của tôi, khoảnh khắc tôi rời đi – tôi biến mất khỏi bất cứ nơi nào tôi đang ở và quay trở lại phòng khách sạn, đám cháy lại đến gần hơn một chút. Tôi còn khoảng mười giây. Mỗi lần tôi lặn qua biển Dirac, mọi thứ tôi thay đổi trong quá khứ đều biến mất. Đôi khi tôi giả vờ rằng những thay đổi tôi thực hiện trong quá khứ tạo ra tương lai mới, mặc dù tôi biết điều này không đúng. Khi tôi trở lại hiện tại, tất cả những thay đổi đều bị xóa sạch bởi những gợn sóng hội tụ, giống như xóa bảng đen sau giờ học.
Một ngày nào đó tôi sẽ trở lại và gặp số phận của mình. Nhưng hiện tại, tôi sống trong quá khứ. Đó là một cuộc sống tốt đẹp, tôi đoán vậy. Bạn quen với thực tế rằng không có gì bạn làm sẽ ảnh hưởng đến thế giới. Nó mang lại cho bạn cảm giác tự do. Tôi đã đến những nơi mà không ai từng đến, nhìn thấy những điều mà không ai còn sống đã từng thấy. Tất nhiên, tôi đã từ bỏ vật lý. Không có phát hiện nào của tôi có thể tồn tại sau đêm định mệnh ở Santa Cruz. Có lẽ một số người sẽ tiếp tục vì niềm vui thuần túy của kiến thức. Đối với tôi, cảm giác đó đã mất đi rồi.
Nhưng sẽ có những sự bù đắp. Mỗi khi tôi trở lại phòng khách sạn, không có gì thay đổi ngoài ký ức của tôi. Tôi lại hai mươi tám tuổi, lại mặc bộ suit ba mảnh, lại có vị Cola cũ trong miệng. Mỗi lần trở về, tôi lại sử dụng thêm một chút thời gian. Rồi sẽ đến ngày tôi chẳng còn thời gian nữa.
Dancer cũng sẽ không bao giờ chết. Tôi sẽ không để cậu ra đi. Mỗi lần tôi sống đến buổi sáng tháng Hai cuối cùng, ngày cậu chết, tôi lại quay trở về năm 1965, về một ngày tháng Sáu hoàn hảo. Cậu không biết tôi, cậu không bao giờ biết tôi. Nhưng chúng tôi gặp nhau trên ngọn đồi, hai con người duy nhất sẵn sàng tận hưởng ngày hôm ấy mà không cần làm gì cả. Cậu nằm ngửa, lười biếng gảy đàn guitar, thổi bong bóng và nhìn lên bầu trời xanh mây phủ. Sau đó, tôi sẽ giới thiệu cậu với Lisa. Cô cũng sẽ không biết chúng tôi, nhưng không sao cả. Chúng tôi có nhiều thời gian.
“Thời gian,” tôi nói với Dancer, khi hai đứa nằm trên ngọn đồi trong công viên. “Chúng mình có vô khối thời gian mà nhỉ.”
“Tất cả thời gian trên đời,” cậu đáp.
Hết
-; ࿐ ࿔*:・゚
Biên dịch: Khánh Ngân Lê (Japanophile Lee)
Biên tập: Diệu Mây
-; ࿐ ࿔*:・゚
Tác giả Geoffrey A. Landis (Ảnh: Wikipedia)
Minh họa tác phẩm Những gợn sóng trên biển Dirac trên tạp chí Asimov's Science Fiction:
0 notes
Text
Mono no Aware - Ken Liu
Về tác giả
Ken Liu sinh năm 1976 tại Phúc Châu, Trung Quốc và di cư đến Mỹ khi còn rất trẻ. Anh là tác giả của nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tập truyện ngắn nổi tiếng như The Paper Menagerie, Grace of Kings và là người chuyển ngữ bộ tiểu thuyết Tam thể của Lưu Từ Hân sang tiếng Anh. Tác phẩm của anh thường kết hợp các yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây, đề cập đến các chủ đề như công nghệ, triết lý, văn hóa và nhân tính. Ken Liu là một trong những nhà văn khoa học viễn tưởng gốc Á nổi tiếng nhất thế giới. Anh đã nhận được nhiều giải thưởng văn học uy tín như Hugo, Nebula và World Fantasy. Ngoài sáng tác văn học, anh cũng làm việc như một luật sư, nhà dịch thuật và kỹ sư phần mềm.
Các thông tin khác cùng nhiều truyện ngắn và truyện dịch của Ken Liu có thể tìm thấy trên website https://kenliu.name/.
Về tác phẩm
Mono no Aware là một truyện ngắn của Ken Liu, đăng trên tạp chí Lightspeed năm 2013.
* * *
Thế giới có hình dạng giống như từ “cái ô” trong văn tự kanji, trừ việc được viết rất xấu, như chữ viết của tôi vậy, xấu đến nỗi tất cả các phần đều chẳng hài hòa chút nào.
Bố tôi sẽ rất xấu hổ về nét chữ trẻ con của tôi. Quả thực, tôi hầu như không thể viết được nhiều chữ kanji nữa. Việc học chính thức của tôi ở Nhật Bản đã dừng lại khi tôi chỉ mới lên tám.
Tuy nhiên, với mục đích hiện tại, nét chữ xấu này vẫn tạm chấp nhận được.
Tán dù bên trên là cánh buồm mặt trời. Ngay cả ký tự kanji méo mó đó cũng chỉ có thể cho ta một gợi ý về kích thước khổng lồ của nó. Mỏng hơn bánh tráng gấp trăm lần, chiếc đĩa quay ấy trải rộng hàng nghìn kilomet ngoài không gian như một cánh diều khổng lồ có ý định bắt giữ mọi photon bay qua. Cánh buồm cản bầu trời theo đúng nghĩa đen.
Bên dưới treo một sợi dây cáp bằng ống nano carbon dài 100km: chắc, nhẹ và dẻo. Cuối dây cáp treo lõi của con tàu Hy Vọng, mô-đun nhà ở, là một hình trụ dài 500m tập hợp toàn bộ 1.021 cư dân trên thế giới.
Ánh sáng từ mặt trời chiếu vào cánh buồm, đẩy chúng tôi đi trên một quỹ đạo xoắn ốc ngày càng mở rộng và tăng tốc rời xa khỏi nó. Gia tốc giữ chúng tôi dưới mặt đất, tạo ra trọng lượng cho vạn vật.
Chúng tôi đi theo đường cong của quỹ đạo đến một ngôi sao tên là 61 Virginis. Hiện tại thì ta không thể thấy nó được vì ngôi sao đang ở sau t��n của cánh buồm mặt trời. Tàu Hy Vọng sẽ tới đó trong khoảng 300 năm nữa, có thể lâu hơn hoặc sớm hơn. Nếu may mắn, những đứa cháu chắt tôi sẽ được chứng kiến sự kiện đó - tôi đã từng tính thử xem con cháu đời thứ bao nhiêu của tôi sẽ có vinh dự ấy, nhưng giờ tôi đã quên mất rồi.
Mô-đun nhà ở không có cửa sổ, cũng không có khung cảnh các ngôi sao đều đặn bay vụt qua. Hầu hết mọi người chẳng quan tâm, họ đã chán ngắm sao từ lâu rồi. Nhưng tôi thích nhìn qua những máy ảnh lắp ở đáy tàu, để có thể ngắm nhìn thứ ánh sáng đo đỏ ngày một yếu dần phát ra từ ánh mặt trời của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi.
* * *
“Hiroto,” Bố tôi lay tôi tỉnh giấc. “Thu dọn đồ đạc đi con. Đến giờ rồi.”
Chiếc vali nhỏ của tôi đã sẵn sàng. Tôi chỉ cần cất bộ cờ vây của mình trong đó. Bố tặng tôi bộ cờ này khi tôi lên năm, và đối với tôi, những lúc hai bố con chơi với nhau là khoảng thời gian yêu thích nhất trong ngày.
Khi gia đình tôi ra ngoài, mặt trời vẫn chưa mọc. Tất cả hàng xóm cũng đang xách túi đồ đứng bên ngoài nhà của họ, và chúng tôi lịch sự chào nhau dưới những ngôi sao mùa hạ. Như thường lệ, tôi tìm Cái Búa. Việc đó chỉ là chuyện nhỏ. Kể từ khi tôi có thể nhớ được, tiểu hành tinh đó đã là thứ sáng nhất trên bầu trời ngoài mặt trăng, và cứ mỗi năm nó lại sáng hơn nữa.
Một chiếc xe tải gắn loa phía trên chạy chầm chậm vào giữa phố.
“Các công dân ở Kurume chú ý! Vui lòng di chuyển đến trạm xe buýt một cách trật tự. Sẽ có rất nhiều xe buýt đưa các bạn đến ga tàu để có thể đến ga Kagoshima. Không được phép tự lái xe đi. Các bạn phải để đường đi thông thoáng cho xe buýt và các phương tiện công cộng!”
Mọi gia đình đều chậm rãi bước xuống vỉa hè.
“Bà Maeda,” Bố tôi nói với người hàng xóm. “Tôi giúp bà xách hành lý nhé?”
“Cảm ơn anh nhiều nhé,” bà lão nói.
Sau mười phút đi bộ, bà Maeda dừng lại và dựa vào cột đèn.
“Chỉ còn một chút nữa thôi, bà ơi,” tôi nói. Bà gật đầu nhưng hụt hơi không nói được. Tôi cố gắng cổ vũ bà. “Bà đang mong đợi gặp cháu trai ở Kagoshima phải không ạ? Cháu cũng nhớ Michi. Bà sẽ được ngồi cùng cậu ấy và nghỉ ngơi trên tàu vũ trụ. Họ nói sẽ có đủ chỗ cho tất cả mọi người.”
Mẹ mỉm cười tán thành với tôi.
“Thật may mắn biết bao khi chúng ta được ở đây,” Bố tôi nói. Ông chỉ vào những hàng người đang di chuyển thành hàng đến bến xe buýt, những người đàn ông trẻ tuổi mặc áo sơ mi đi giày chỉn chu trông thật nghiêm trang, những phụ nữ trung niên đang giúp đỡ cha mẹ già của họ, những con phố sạch sẽ, vắng vẻ, và yên tĩnh - dù ở trong đám đông, nhưng mọi người chỉ nói rất nhỏ. Chính bầu không khí dường như cũng trở nên lung linh cùng sự kết nối chặt chẽ giữa con người - gia đình, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp - vô hình và bền chặt tựa như những sợi tơ.
Tôi đã xem trên TV về những gì đang xảy ra ở nơi khác quanh thế giới: bọn cướp bóc gào thét, nhảy múa trên đường phố, cảnh sát bắn chỉ thiên và đôi khi bắn cả vào đám đông, những tòa nhà bốc cháy, xác chết chất đống nằm ngổn ngang, các tướng lĩnh la hét trước những đám đông nổi loạn, thề sẽ trả thù cho những ân oán ngày xưa ngay cả khi thế giới đang diệt vong.
“Hiroto, bố muốn con hãy nhớ điều này,” Bố nói. Ông nhìn quanh, không kìm nén nổi cảm xúc. “Khi đối mặt với thiên tai, cũng là lúc chúng ta thể hiện sức mạnh của mình như một dân tộc. Con phải hiểu rằng chúng ta không được định nghĩa bởi sự cô đơn riêng lẻ, mà bởi mạng lưới các mối quan hệ mà chúng ta đang có. Một người phải vượt lên trên những nhu cầu ích kỷ của bản thân để tất cả chúng ta có thể sống hòa thuận. Cá nhân thì nhỏ bé và bất lực, nhưng nếu gắn kết chặt chẽ với nhau, thì toàn đất nước Nhật Bản sẽ là bất khả chiến bại.”
* * *
“Thưa thầy Shimizu,” cậu bé Bobby tám tuổi nói, “Em không thích trò chơi này.”
Trường học nằm tại trung tâm của mô-đun nhà ở hình trụ, nơi nó hưởng lợi khi được che chắn tốt nhất khỏi bức xạ. Trước cửa lớp học treo lá cờ Mỹ để học sinh nói lời tuyên thệ mỗi buổi sáng. Hai bên lá cờ Mỹ là hai hàng cờ nhỏ hơn thuộc về các quốc gia khác có người dân sống sót trên tàu Hy Vọng. Ở góc trái là bức tranh một đứa trẻ Hinomaru, các góc của tờ giấy trắng giờ đã quăn lại và mặt trời mọc đỏ rực một thời đã mờ dần thành màu cam của ánh hoàng hôn. Tôi đã vẽ nó vào ngày tôi lên tàu Hy Vọng.
Tôi kéo ghế ngồi cạnh chiếc bàn nơi Bobby và cậu bạn Eric đang ngồi. “Vì sao em không thích trò chơi này?”
Giữa hai cậu bé là một bàn cờ vây kích thước 19x19. Một ít quân cờ trắng và đen đã được đặt ở những điểm giao nhau.
Cứ hai tuần một lần, khi được nghỉ một ngày từ công việc thường nhật là theo dõi tình trạng của cánh buồm mặt trời, tôi thường đến đây dạy bọn trẻ đôi chút về Nhật Bản. Đôi khi tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn khi làm điều này. Sao tôi có thể trở thành thầy giáo của bọn trẻ khi tôi chỉ còn ký ức mơ hồ của một cậu bé về Nhật Bản chứ?
Nhưng cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Tất cả những kỹ thuật viên không phải người Mỹ như tôi đều cảm thấy nhiệm vụ của chúng tôi là phải tham gia vào chương trình bồi dưỡng văn hóa tại trường và truyền đạt những gì chúng tôi có thể.
“Mọi quân cờ đá trông đều giống nhau,” Bobby nói, “và chúng không di chuyển. Chúng thật tẻ nhạt.”
“Thế em thích chơi trò gì?” Tôi hỏi.
“Asteroid Defender ạ!” Eric nói. “Trò chơi này hay lắm ạ. Thầy sẽ cứu được cả thế giới.”
“Ý thầy là một trò gì mà không phải chơi trên máy tính ấy.
Bobby nhún vai. “Cờ vua, chắc thế ạ. Em rất thích quân hậu. Quân hậu quyền lực và khác biệt so với các quân khác. Quân hậu chính là anh hùng ạ.”
“Cờ vua chỉ là trò chơi của các cuộc giao tranh nhỏ,” tôi nói. “Góc nhìn của cờ vây rộng hơn. Nó bao gồm toàn bộ trận đấu.”
“Nhưng chẳng có anh hùng nào trong cờ vây cả,” Bobby bướng bỉnh nói.
Tôi chẳng biết phải trả lời cậu bé thế nào.
* * *
Không còn nơi ở tại Kagoshima, nên mọi người phải ngủ bên ngoài dọc đường đến sân bay vũ trụ. Ở phía chân trời, chúng tôi có thể nhìn thấy những con tàu lớn màu bạc lấp lánh ánh mặt trời.
Bố đã giải thích với tôi rằng các mảnh vỡ rơi ra từ Cái Búa hướng tới Sao Hỏa và Mặt Trăng, vậy nên để được an toàn, các con tàu sẽ đưa chúng tôi đi xa hơn và đi vào không gian.
“Con muốn ngồi cạnh cửa sổ ạ,” Tôi nói, tưởng tượng thấy những ngôi sao bay ngang qua.
“Con nên nhường ghế ở cửa sổ cho những người nhỏ tuổi hơn con,” Bố nói. “Hãy nhớ rằng, tất cả chúng ta phải hy sinh để sống cùng nhau.”
Chúng tôi chất đầy những chiếc vali của mình vào tường và phủ ga trải giường lên để làm thành những chỗ trú ẩn khỏi gió và mặt trời. Hàng ngày các thanh tra chính phủ đều ghé thăm để phân phát đồ tiếp tế và đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn.
“Hãy bình tĩnh!” Các thanh tra chính phủ nói. “Chúng tôi biết mọi thứ đang tiến triển chậm, nhưng chúng tôi đang làm hết sức có thể rồi. Tất cả mọi người đều sẽ có chỗ ngồi.”
Chúng tôi đành kiên nhẫn chờ đợi. Một số bà mẹ tổ chức các buổi học cho bọn trẻ trong ngày, các ông bố thì thiết lập một hệ thống ưu tiên để những gia đình có cha mẹ già và trẻ sơ sinh được lên tàu đầu tiên khi tàu sẵn sàng.
Sau bốn ngày chờ đợi, những lời trấn an từ các thanh tra chính phủ nghe có vẻ không khiến người ta yên tâm. Những tin đồn bắt đầu lan truyền trong đám đông.
“Chính là do những con tàu đấy. Chúng đang gặp trục trặc.”
“Những chủ thầu đã lừa dối chính phủ và nói rằng họ đã sẵn sàng nhưng thực chất thì chưa, và bây giờ Thủ tướng Chính phủ quá xấu hổ không dám thừa nhận sự thật.”
“Em nghe nói chỉ có một con tàu, và chỉ vài trăm người quan trọng nhất có chỗ ngồi. Những con tàu khác chỉ là vỏ rỗng để tượng trưng thôi.”
“Người ta đang hy vọng rằng người Mỹ sẽ thay đổi ý định và đóng nhiều tàu hơn cho các nước đồng minh như chúng ta”.
Mẹ tôi đến và thì thầm vào tai Bố.
Bố tôi lắc đầu và ngăn Mẹ lại. “Đừng nhắc lại những điều như vậy nữa.”
“Nhưng vì an toàn của Hiroto -”
“Không!” Tôi chưa bao giờ nghe thấy Bố giận dữ như vậy. Ông dừng lại, nuốt nước bọt. “Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau, tin tưởng vào Thủ tướng và Lực lượng Phòng vệ.”
Mẹ trông có vẻ không vui. Tôi tiến đến và nắm lấy tay Mẹ. “Con không sợ đâu ạ,” tôi nói.
“Đúng vậy,” Bố nói, giọng dịu đi. “Chẳng có gì phải sợ cả.”
Ông bế tôi vào lòng - tôi có chút ngượng vì Bố đã không làm việc này kể từ khi tôi còn rất nhỏ - và chỉ vào đám đông hàng nghìn người quanh chúng tôi trải dài mãi tận chân trời.
“Con hãy nhìn xem trong chúng ta có bao nhiêu người: các bà, các ông bố trẻ, các chị gái và em trai. Đối với bất cứ ai hoang mang và bắt đầu tung tin đồn trong đám đông như thế sẽ thật ích kỉ và sai lầm, và nhiều người có thể sẽ bị tổn thương. Chúng ta phải giữ vững tinh thần và nhìn vào toàn cảnh.
* * *
Mindy và tôi làm tình chậm rãi. Tôi thích ngửi mùi hương từ mái tóc xoăn đen của cô ấy, mái tóc dày, ấm, xộc vào mũi như mùi biển, như mùi muối tinh khiết.
Sau đó chúng tôi nằm cạnh nhau, nhìn lên màn hình trần của tôi.
Tôi tiếp tục nhìn lên cánh đồng sao đang lùi xa dần. Mindy làm việc trong lĩnh vực điều hướng, và cô ấy ghi lại nguồn cấp dữ liệu video buồng lái có độ phân giải cao cho tôi.
Tôi thích tưởng tượng rằng đó là một giếng trời lớn, và chúng tôi đang nằm dưới những vì sao. Tôi biết một số người khác thích để màn hình của mình hiển thị ảnh và video về Trái Đất xưa, nhưng điều đó chỉ làm tôi thêm buồn rầu.
“Làm sao để nói từ ‘ngôi sao’ trong tiếng Nhật ạ?” Mindy hỏi.
“Hoshi,” tôi nói với cô ấy.
“Còn từ ‘khách’ anh nói thế nào?”
“Okyakusan.”
“Vậy chúng ta là hoshi okyakusan ạ? Những vị khách của vì sao?”
“Không phải như thế đâu,” tôi nói. Mindy là một ca sĩ, và cô ấy thích thanh âm của những ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh. Có lần cô ấy đã nói với tôi rằng: “Thật khó để lắng nghe âm nhạc đằng sau những từ ngữ khi không hiểu rõ được ý nghĩa của chúng.”
Tây Ban Nha là tiếng mẹ đẻ của Mindy nhưng cô ấy thậm chí nhớ tiếng Tây Ban Nha còn ít hơn tôi nhớ tiếng Nhật. Cô ấy thường hay hỏi tôi về những từ tiếng Nhật và đưa chúng vào các ca khúc của mình.
Tôi cố gắng diễn đạt một cách thi vị cho cô ấy, nhưng không chắc liệu mình có thành công hay không. “Wareware ha, hoshi no aida ni kyaku ni kite.” Chúng ta đến để trở thành những vị khách của muôn vàn ngôi sao.
“Có cả nghìn cách để diễn đạt mọi thứ,” Bố tôi đã từng nói, “mỗi cách lại phù hợp với một thời điểm khác nhau.” Ông dạy tôi rằng ngôn ngữ của chúng tôi thật nhiều sắc thái, duyên dáng và tao nhã, mỗi câu đều như một lời thơ. Ngôn ngữ ấy nhiều tầng ý nghĩa, những điều không nói thành lời cũng mang sức nặng chẳng kém gì những điều đã nói ra, ngữ cảnh lồng trong ngữ cảnh, lớp chồng lớp, tựa như chất thép trong kiếm samurai vậy.
Tôi ước Bố ở bên tôi để tôi có thể hỏi ông: Làm sao để con nói “con nhớ bố” một cách phù hợp vào dịp sinh nhật 25 tuổi của mình, khi con là người sống sót cuối cùng trong dòng họ?
“Chị gái em đã từng rất thích truyện manga Nhật Bản.”
Cũng như tôi, Mindy là một trẻ mồ côi. Đó là điều thu hút chúng tôi lại gần nhau.
“Em có nhớ gì nhiều về chị ấy không?’
“Không nhiều lắm. Khi lên tàu em chỉ tầm năm tuổi. Trước đó, em chỉ nhớ được nhiều tiếng nổ súng và tất cả bọn em phải trốn trong bóng tối, vừa chạy vừa khóc và trộm đồ ăn. Chị ấy luôn ở đó để giữ em yên lặng bằng cách đọc truyện manga. Và rồi thì…”
Tôi mới xem đoạn video đó đúng một lần. Từ quỹ đạo cao của chúng tôi, viên bi xanh trắng là Trái Đất dường như chao đảo trong giây lát khi tiểu hành tinh va vào, và sau đó, những làn sóng âm thầm, cuồn cuộn của sự hủy diệt đã từ từ nhấn chìm quả địa cầu.
Tôi kéo cô ấy về phía mình và hôn nhẹ lên trán, một nụ hôn dỗ dành. “Chúng ta đừng nói về những điều đáng buồn nữa.”
Cô ấy vòng tay ôm tôi thật chặt, như thể sẽ không bao giờ buông tay.
“Còn truyện manga, em có nhớ gì về chúng không?” Tôi hỏi.
“Em nhớ trong manga đầy những người máy khổng lồ. Em đã nghĩ: Nhật Bản thật hùng mạnh.”
Tôi cố gắng tưởng tượng xem: những người máy anh hùng khổng lồ trên khắp Nhật Bản, đã liều mạng cứu người dân.
* * *
Lời xin lỗi của Thủ tướng được phát qua loa phóng thanh. Một số người cũng xem trên điện thoại.
Tôi nhớ rất ít về lời xin lỗi đó ngoại trừ việc giọng ông ấy nhỏ và trông ông thật già yếu. Ông có vẻ thành thật hối lỗi. “Tôi đã để mọi người thất vọng.”
Hóa ra những tin đồn là sự thật. Các công ty đóng tàu đã nhận tiền từ chính phủ nhưng đã không đóng những con tàu đủ kiên cố hoặc đủ khả năng như họ đã hứa. Họ vẫn tiếp tục diễn kịch đến tận phút cuối cùng. Khi chúng tôi nhận ra sự thật thì đã quá muộn.
Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất khiến người dân thất vọng. Những quốc gia khác trên thế giới đã tranh cãi về việc mỗi quốc gia nên đóng góp bao nhiêu cho nỗ lực sơ tán chung khi Cái Búa được lần đầu phát hiện sắp sửa va chạm vào Trái Đất. Và rồi, khi kế hoạch đó sụp đổ, đa số các nước đều quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đặt cược rằng Cái Búa sẽ di chuyển chệch hướng và thay vào đó, dành tiền và sinh mạng để chiến đấu với nhau.
Sau khi Thủ tướng kết thúc bài phát biểu, đám đông vẫn im lặng. Một vài giọng nói giận dữ hét lên nhưng cũng nhanh chóng lắng xuống. Dần dần, theo trật tự, mọi người bắt đầu thu dọn đồ đạc và rời khỏi các khu cắm trại tạm thời.
* * *
“Mọi người chỉ đi về nhà thôi sao?” Mindy ngờ vực hỏi.
“Ừ.”
“Không có cướp bóc, không có chạy loạn, cũng không có binh lính nổi loạn trên đường phố sao?”
“Vì đây là Nhật Bản,” tôi nói với cô ấy. Và tôi có thể nghe được niềm tự hào trong giọng nói của mình, như một dư âm giọng nói của bố.
“Em đoán mọi người đều đã từ bỏ,” Mindy nói. “Họ đã bỏ cuộc. Có lẽ đó là một việc làm văn minh.”
“Không!” Tôi cố không để lộ sự nóng giận trong lời nói của mình. Câu nói của cô ấy khiến tôi thấy khó chịu, như lời nhận xét của Bobby rằng cờ vây tẻ nhạt vậy. “Không phải thế đâu em.”
* * *
“Bố đang nói chuyện với ai thế ạ?” Tôi hỏi.
“Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ nói. “Chúng ta - ông ấy và bố mẹ - học chung trường đại học ở Mỹ.”
Tôi quan sát Bố nói tiếng Anh qua điện thoại. Ông dường như là một con người hoàn toàn khác: Không phải chỉ vì ngữ điệu và cao độ trong giọng nói của Bố; mà gương mặt Bố trông hoạt bát hơn, cử chỉ tay cũng nhiều hơn. Ông nhìn giống như một người nước ngoài vậy.
Bố hét vào điện thoại.
“Bố đang nói gì vậy ạ?”
Mẹ bảo tôi im lặng. Mẹ chăm chú quan sát Bố, lắng nghe từng chữ một.
“Không,” Bố nói vào điện thoại. “Không được!” Câu này thì tôi không cần dịch.
Sau đó Mẹ tôi nói, “Anh ấy đang cố gắng làm điều đúng đắn, theo cách của riêng mình.”
“Anh ta vẫn ích kỷ như ngày nào,” Bố cáu kỉnh.
“Thật chẳng công bằng chút nào,” Mẹ nói. “Anh ấy không bí mật gọi cho em. Thay vào đó, Hamilton gọi anh vì anh ấy tin rằng nếu hai người hoán đổi vị trí cho nhau, anh ấy sẽ sẵn lòng trao cho người phụ nữ mình yêu cơ hội sống sót, ngay cả khi là với người đàn ông khác.”
Bố nhìn Mẹ. Tôi chưa bao giờ nghe bố mẹ tôi nói “anh yêu em” với nhau, nhưng có những lời không cần thiết phải nói ra mới cảm nhận được.
“Mẹ sẽ không bao giờ đồng ý với bố con nữa.” Mẹ mỉm cười nói. Rồi bà đi vào bếp nấu bữa trưa. Ánh mắt của Bố dõi theo Mẹ.
“Hôm nay đẹp trời con nhỉ,” Bố bảo tôi. “Hai bố con mình đi dạo đi.”
Chúng tôi đi ngang qua những người hàng xóm khác đi bộ dọc vỉa hè. Chúng tôi chào nhau, hỏi thăm sức khỏe của nhau. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Cái Búa ngày càng tỏa sáng rực rỡ trong ánh hoàng hôn phía trên đầu.
“Con chắc hoảng sợ lắm nhỉ, Hiroto,” ông nói.
“Họ sẽ không cố gắng đóng thêm tàu thoát hiểm nữa ạ?”
Bố không trả lời. Cơn gió cuối hè mang theo tiếng ve kêu râm ran.
“Ve sầu ca vang
Không hề biết trước
Khi nào đời tàn.”
“Bố ơi?”
“Đó là một bài thơ của Basho. Con có biết bài thơ đó không?”
Tôi lắc đầu. Tôi không hứng thú với thơ ca cho lắm.
Bố thở dài và mỉm cười với tôi. Ông nhìn lên mặt trời lặn và lại bắt đầu đọc thơ:
“Ánh mặt trời phai mờ mang vẻ đẹp vô hạn
Dẫu cho thời điểm đã gần đến cuối ngày
Tôi tự nhẩm lại những dòng thơ. Điều gì đó từ lời thơ khiến tôi xúc động. Tôi cố gắng diễn tả thứ cảm xúc đó thành lời: “Như có một chú mèo con hiền lành đang liếm lấy trái tim con vậy.”
Thay vì cười nhạo tôi, Bố tôi gật đầu nghiêm nghị.
“Đó là một bài thơ của nhà thơ cổ điển thời Đường Li Shangyin. Mặc dù là một người Trung Quốc, nhưng cảm xúc ông ấy gửi gắm trong bài thơ lại mang đậm phong cách Nhật Bản.”
Chúng tôi tiếp tục dạo bước, và tôi dừng lại bên một bông hoa bồ công anh màu vàng. Đối với tôi, góc nghiêng của bông hoa trông thật đẹp. Tôi lại có cảm giác nhột nhột như lưỡi mèo liếm lấy tim mình.
“Bông hoa…” tôi ngập ngừng. Tôi không biết diễn tả sao cho đúng.
Bố nói,
“Những cánh hoa rơi xuống
Nhuốm vàng như tia sáng trăng
Đêm nay là đêm thật dài”
Tôi gật đầu. Đối với tôi, hình ảnh ấy dường như vừa phù du vừa vĩnh cửu, giống như cách tôi đã trải qua thời còn trẻ. Điều này làm tôi vừa buồn rầu lại vừa hân hoan.
“Mọi thứ đều sẽ qua đi, Hiroto à,” Bố nói. “Cảm xúc trong tim con: gọi là mono no aware. Đó là một cảm giác về sự ngắn ngủi của mọi thứ trong cuộc sống. Mặt trời, bồ công anh, ve sầu, Cái Búa, và tất cả chúng ta: Chúng ta đều tuân theo các phương trình của James Clerk Maxwell và đều là những hình mẫu phù du cuối cùng rồi sẽ tàn lụi, dù chỉ trong một giây hay cả một liên đại.”
Tôi nhìn quanh những con phố sạch sẽ, đoàn người đi chậm, cỏ cây, ánh đèn buổi tối, và tôi biết rằng mọi thứ đang ở đúng vị trí của mình; tất cả đều ổn. Hai bố con tiếp tục đi dạo, bóng của chúng tôi chạm vào nhau.
Mặc dù Cái Búa lơ lửng ngay trên đầu, tôi cũng không hề hoảng sợ.
* * *
Công việc của tôi đòi hỏi phải nhìn chăm chú vào lưới đèn báo hiệu trước mặt. Trông nó hơi giống một bàn cờ vây khổng lồ.
Hầu hết thời gian công việc của tôi đều rất tẻ nhạt. Các bóng đèn, dùng để biểu thị độ căng trên những điểm khác nhau của cánh buồm mặt trời, cứ vài phút lại phát ra cùng một tín hiệu khi cánh buồm nhẹ nhàng uốn cong trong ánh sáng mặt trời đang mờ dần phía xa. Tín hiệu theo chu kỳ của những bóng đèn quen thuộc với tôi như nhịp thở của Mindy khi cô ấy ngủ vậy.
Chúng tôi đang di chuyển với tốc độ bằng một phần nhỏ tốc độ ánh sáng. Do đó, trong vài năm tới, khi mà di chuyển đủ nhanh, chúng tôi sẽ thay đổi lộ trình đến 61 Virginis và các hành tinh nguyên sơ của nó, và sẽ rời bỏ mặt trời - nơi đã sinh ra chúng tôi như một ký ức bị lãng quên.
Nhưng hôm nay, tín hiệu từ những bóng đèn có cảm giác bị tắt. Một trong những ngọn đèn ở góc tây nam hình như nhấp nháy quá nhanh.
“Điều hướng,” tôi nói qua micro, “Đây là Trạm Giám sát Cánh Buồm Alpha, bạn có chắc chắn rằng chúng ta đang đi đúng hướng không?”
Một phút sau, giọng của Mindy truyền qua tai nghe của tôi, hơi pha chút ngạc nhiên. “Em không nhận thấy điều gì bất thường, nhưng có một chút lệch hướng. Có chuyện gì thế ạ?”
“Anh vẫn chưa chắc chắn.” Tôi nhìn chằm chằm vào lưới đèn trước mặt, nhìn vào ngọn đèn ương bướng không đồng bộ, không hài hòa.
* * *
Mẹ đưa tôi đến Fukuoka, không đi cùng Bố. “Chúng ta sẽ đi mua sắm cho lễ Giáng Sinh.” bà nói. “Bố mẹ muốn làm con ngạc nhiên.” Bố tôi mỉm cười và lắc đầu.
Chúng tôi đi qua những con phố nhộn nhịp. Bởi vì đây có thể là Giáng Sinh cuối cùng trên Trái Đất, nên không khí có thêm chút hân hoan.
Trên tàu điện ngầm tôi liếc nhìn tờ báo người đàn ông ngồi bên cạnh đang cầm. Tiêu đề là “Hoa Kỳ tấn công trở lại!”. Bức ảnh lớn cho thấy tổng thống Mỹ đang cười đắc thắng. Dưới đó là một loạt các hình ảnh khác, một vài ảnh tôi đã nhìn thấy trước đây: con tàu sơ tán thử nghiệm đầu tiên của Mỹ từ nhiều năm trước đã nổ tung trong chuyến bay thử nghiệm, lãnh tụ của của quốc gia bí ẩn nào đó tự nhận trách nhiệm trên TV; lính Mỹ đang hành quân vào một thủ đô nước ngoài.
Bên dưới là một bài báo nhỏ hơn: “Các Nhà Khoa Học Mỹ Hoài Nghi Về Viễn Cảnh Ngày Tận Thế.” Bố đã nói một số người thà tin rằng thảm họa là không có thật còn hơn là chấp nhận việc họ không thể làm gì được nữa.
Tôi mong đợi được đi chọn quà cho Bố. Nhưng thay vì tới khu vực đồ điện tử, nơi tôi đã trông chờ được Mẹ đưa đi mua quà cho Bố, chúng tôi đến một khu vực của thành phố mà trước đây tôi chưa từng đến. Mẹ lấy điện thoại ra gọi một cuộc ngắn, nói tiếng Anh. Tôi nhìn Mẹ ngạc nhiên.
Sau đó chúng tôi đứng trước một tòa nhà với lá cờ Mỹ to lớn treo phía trên. Chúng tôi đi vào trong và ngồi xuống tại một văn phòng. Một người đàn ông Mỹ đi vào. Mặt ông ấy thật buồn, nhưng ông đang cố làm việc chăm chỉ để không lộ vẻ buồn rầu nữa.
“Rin.” Người đàn ông gọi tên mẹ tôi và ngừng lại. Chỉ trong một âm tiết đó, tôi nghe thấy được sự hối tiếc, niềm khao khát và cả một câu chuyện phức tạp.
“Đây là Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ nói với tôi. Tôi gật đầu và đề nghị bắt tay ông ấy, như tôi đã thấy người Mỹ làm trên TV.
Tiến sĩ Hamilton và Mẹ nói chuyện được một lúc. Mẹ bật khóc, còn Tiến sĩ Hamilton lúng túng đứng dậy, như thể ông muốn ôm Mẹ nhưng không dám.
“Con sẽ ở cùng Tiến sĩ Hamilton,” Mẹ bảo tôi.
“Gì cơ ạ?”
Bà giữ lấy vai tôi, cúi xuống, và nhìn vào mắt tôi. “Người Mỹ có một con tàu bí mật trong quỹ đạo. Đây là con tàu duy nhất mà họ có thể phóng vào vũ trụ trước khi gia nhập vào cuộc chiến này. Tiến sĩ Hamilton đã thiết kế con tàu. Ông ấy là… bạn cũ của mẹ, và ông ấy có thể đưa một người lên tàu cùng. Đây là cơ hội duy nhất của con đấy.”
“Không, con không đi đâu hết.”
Rốt cuộc, Mẹ vẫn mở cửa rời đi. Tiến sĩ Hamilton giữ chặt lấy tôi khi tôi vừa đá vừa la hét.
Tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên khi nhìn thấy Bố đứng đó.
Mẹ bật khóc nức nở.
Bố ôm Mẹ, hành động mà tôi chưa từng nhìn thấy Bố làm trước đây. Đó có vẻ là một cử chỉ mang đậm phong cách người Mỹ.
“Em xin lỗi,” Mẹ nói. Bà vừa khóc vừa liên tục nói câu xin lỗi.
“Không sao đâu,” Bố nói. “Anh hiểu mà.”
Tiến sĩ Hamilton buông tôi ra, và tôi chạy đến chỗ bố mẹ, ôm lấy họ thật chặt.
Mẹ nhìn Bố, không nói gì nhưng trong ánh mắt đã chứa đựng tất cả.
Gương mặt Bố dịu dàng như một bức tượng sáp sống động. Ông thở dài và nhìn tôi.
“Con không sợ đúng không?” Bố hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Một bông hoa bồ công anh
Trong làn gió cuối thu dịu mát
Đưa hạt giống thật xa và rộng.”
“Vậy thì con có thể đi được rồi,” Bố nói. Ông nhìn vào mắt Tiến sĩ Hamilton. “Cảm ơn anh đã chăm sóc con trai tôi.”
Hai mẹ con đều nhìn Bố ngạc nhiên.
Tôi gật đầu, giả vờ hiểu.
Bố ôm tôi một cách mãnh liệt và nhanh chóng.
“Hãy nhớ rằng con là người Nhật Bản.”
Và rồi họ đi mất.
* * *
“Thứ gì đó đã đâm thủng cánh buồm,” Tiến sĩ Hamilton nói.
Căn phòng nhỏ chỉ chứa ban chỉ huy cao cấp nhất - cộng với Mindy và tôi vì chúng tôi đều đã biết chuyện. Không có lý do gì để gây ra sự hoảng loạn trong dân chúng.
“Lỗ thủng khiến con tàu nghiêng sang một bên và chệch hướng. Nếu không khắc phục sự cố, lỗ thủng sẽ ngày càng to, và cánh buồm sẽ sớm sụp đổ, và rồi tàu Hy Vọng sẽ trôi dạt trong không gian.
“Có cách nào để sửa nó không?” Thuyền trưởng hỏi.
Tiến sĩ Hamilton, người mà tôi coi như cha mình, lắc đầu với mái tóc bạc trắng. Tôi chưa bao giờ thấy ông chán nản như vậy.
“ Lỗ hổng cách trung tâm cánh buồm vài trăm kilomet. Sẽ mất nhiều ngày để đưa một người ra đó vì ta không thể di chuyển quá nhanh trên bề mặt của cánh buồm - rủi ro một lỗ thủng khác là quá lớn. Và trước khi chúng ta đưa bất kỳ ai ra nơi đó, lỗ hổng sẽ ngày càng to đến nỗi không thể khắc phục nổi.”
Và rồi nó tan biến. Mọi chuyện vẫn tiếp diễn.
Tôi nhắm mắt lại và hình dung ra cánh buồm. Màng cánh buồm mỏng đến nỗi nếu không cẩn thận chạm vào sẽ bị thủng. Nhưng lớp màng này được hỗ trợ bởi một hệ thống các nếp gấp và thanh chống phức tạp tạo cho buồm độ cứng và sức căng. Khi còn nhỏ, tôi đã xem chúng trải ra trong không gian, hệt như một trong những tác phẩm origami của mẹ.
Tôi tưởng tượng ra mình đang móc và tháo một sợi dây cáp vào giàn giáo của thanh chống khi tôi lướt dọc trên bề mặt cánh buồm, giống như một con chuồn chuồn đang lướt qua mặt ao.
“Tôi có thể đến đó trong vòng 72 giờ,” tôi nói. Mọi người đều quay sang nhìn tôi. Tôi giải thích ý kiến của mình. “Tôi biết rõ mô hình của những thanh chống, bởi vì tôi đã dành phần lớn cuộc đời mình theo dõi chúng từ xa. Tôi có thể tìm ra con đường nhanh nhất.”
Tiến sĩ Hamilton vẫn còn hoài nghi. “Những thanh chống đó chưa bao giờ được thiết kế cho những thao tác như vậy. Ta chưa bao giờ lên kế hoạch cho kịch bản này.”
“Vậy thì chúng ta sẽ phải tùy cơ ứng biến,” Mindy nói. “Chúng ta là người Mỹ cơ mà, chết tiệt. Chúng ta sẽ không bao giờ bỏ cuộc.”
Tiến sĩ Hamilton nhìn lên. “Cảm ơn cháu, Mindy.”
Chúng tôi lên kế hoạch, thảo luận cùng nhau, chúng tôi còn hét vào mặt nhau, chúng tôi làm việc thâu đêm.
* * *
Việc leo lên dây cáp từ mô-đun nhà ở đến cánh buồm mặt trời thật dài và gian truân. Tôi phải mất 12 giờ để trèo lên.
Để tôi minh họa cho bạn xem tôi trông thế nào bằng ký tự thứ hai trong tên mình:
Ký tự này nghĩa là “bay lên”. Bạn thấy gốc từ bên trái chứ? Chính là tôi, khi được buộc vào dây cáp với cặp anten gắn trên mũ bảo hiểm. Lưng tôi đeo đôi cánh - hay trong trường hợp này là những tên lửa đẩy và bình nhiên liệu bổ sung để đẩy tôi bay lên trên về phía mái vòm phản chiếu khổng lồ chắn ngang cả bầu trời, tấm gương phản chiếu cánh buồm mặt trời.
Mindy trò chuyện với tôi qua liên kết radio. Chúng tôi kể cho nhau những câu chuyện cười, chia sẻ những bí mật, nói về những thứ hai đứa muốn làm trong tương lai. Khi không còn gì để nói, cô ấy hát cho tôi nghe. Mục đích là để giữ cho tôi tỉnh táo.
“Wareware ha, hoshi no aida ni kyaku ni kite.”
* * *
Nhưng việc leo lên dây cáp thực ra mới chỉ là khởi đầu. Hành trình vượt qua cánh buồm dọc theo mạng lưới các thanh chống để đến lỗ thủng còn khó khăn hơn nhiều.
Đã 36 giờ kể từ khi tôi rời con tàu. Giọng của Mindy bây giờ đã mệt mỏi, không còn chút sức lực nào. Cô ấy ngáp.
“Ngủ ngon nhé, em yêu,” tôi thì thầm vào micro. Tôi mệt mỏi đến nỗi cũng muốn chợp mắt một lát.
“Tôi đang đi dạo dọc con đường vào một buổi tối mùa hạ, với bố bên cạnh.”
“Hiroto à, chúng ta sống ở vùng đất của núi lửa, động đất, bão và sóng thần. Chúng ta luôn phải đối mặt với sự tồn tại bấp bênh, lơ lửng ở dải đất nghèo nàn trên bề mặt hành tinh này, nằm giữa ngọn lửa phía dưới và vùng chân không băng giá phía trên.”
Và tôi lại một mình trở lại với bộ đồ của tôi một lần nữa. Sự mất tập trung nhất thời của tôi khiến tôi đập ba lô vào một trong những thanh xà của cánh buồm, suýt nữa làm văng một trong các bình nhiên liệu. May mà tôi đã bắt lấy nó kịp thời. Khối lượng các thiết bị của tôi đã giảm nhẹ xuống từng gam cuối cùng để tôi có thể di chuyển nhanh hơn và không xảy ra sai sót gì. Tôi không thể để mất bất cứ thứ gì nữa.
Tôi cố gắng thoát khỏi giấc mơ và tiếp tục di chuyển.
“Tuy nhiên, chính nhận thức về sự cận kề cái chết, về vẻ đẹp vốn có trong từng khoảnh khắc đã cho phép chúng ta chịu đựng. Con trai à, mono no aware, là sự đồng cảm với vũ trụ. Đó chính là sức mạnh tâm hồn của dân tộc ta. Nó cho phép chúng ta chịu đựng Hiroshima, chịu đựng sự chiếm đóng, chịu đựng sự thiếu thốn và viễn cảnh hủy diệt mà không rơi vào tuyệt vọng.”
“Hiroto, dậy đi!” Giọng Mindy tuyệt vọng, cầu xin. Tôi giật mình tỉnh giấc. Đã bao lâu rồi tôi không được ngủ? Hai, ba hay bốn ngày rồi?
Trong khoảng 50km cuối cùng của hành trình, tôi phải buông các thanh chống cánh buồm và chỉ nhờ vào tên lửa để di chuyển mà không buộc dây cáp, rồi lướt trên bề mặt cánh buồm trong khi vạn vật đều đang chuyển động với tốc độ bằng một phần tốc độ ánh sáng. Chỉ là ý nghĩ thôi cũng đủ khiến tôi choáng váng.
Rồi đột nhiên bố tôi lại ở bên cạnh tôi, lơ lửng trong không gian bên dưới cánh buồm. Chúng tôi đang chơi cờ vây.
“Hãy nhìn về góc tây nam. Con có thấy đội quân của con bị chia làm đôi không? Các quân cờ trắng của bố sẽ sớm bao vây và bắt hết cả nhóm này.”
Tôi nhìn vào góc ông chỉ và thấy mình bị rơi vào thế nguy hiểm. Tôi đã bỏ qua một khoảng trống. Những gì tôi nghĩ là cả một đội quân cờ vây nhưng thực tế lại là hai nhóm riêng biệt với lỗ hổng ở giữa. Tôi phải lấp đầy khoảng trống bằng nước cờ tiếp theo của mình.
Tôi rũ bỏ ảo giác. Tôi phải kết thúc hành trình này, và sau đó tôi có thể ngủ.
Có một lỗ thủng trên cánh buồm rách nát trước mặt tôi. Ở tốc độ chúng tôi đang di chuyển, ngay cả một hạt bụi nhỏ thoát khỏi tấm chắn ion cũng có thể gây ra sự tàn phá. Mép lởm chởm của lỗ thủng vỗ nhẹ trong không gian, được đẩy lên bằng gió mặt trời và áp suất bức xạ. Tuy một photon riêng lẻ thì rất nhỏ, không đáng kể, thậm chí không trọng lượng, nhưng tất cả photon kết hợp lại có thể tạo ra một cánh buồm lớn bằng cả bầu trời và đẩy một nghìn người đi cùng.
Vũ trụ thật diệu kỳ.
Tôi nâng một quân cờ đen lên và chuẩn bị lấp đầy chỗ trống để hợp nhất đội quân của mình thành một.
Quân cờ ấy cũng giống như bộ dụng cụ khâu vá trong ba lô của tôi. Tôi điều động các động cơ đẩy của mình cho đến khi tôi lơ lửng ngay trên vết rách cánh buồm. Qua lỗ thủng tôi có thể nhìn thấy những vì sao xa xôi, những vì sao mà nhiều năm rồi không ai trên tàu thấy được. Tôi nhìn chúng và tưởng tượng rằng một ngày nào đó, ở một trong các hành tinh này, loài người sẽ hợp nhất thành một đất nước mới, sẽ phục hồi khỏi nguy cơ tuyệt chủng, sẽ khởi đầu lại và phát triển hưng thịnh một lần nữa.
Tôi cẩn thận đắp miếng băng lên vết rách, rồi bật đèn khò nhiệt. Tôi đưa đèn khò qua vết rách, và tôi có thể cảm nhận được miếng băng đang tan chảy ra và hợp nhất với các chuỗi hydrocacbon ở màng cánh buồm. Khi việc này thực hiện xong, tôi sẽ làm bốc hơi và lắng đọng các nguyên tử bạc trên đó để tạo thành một lớp phản chiếu sáng bóng.
“Thành công rồi,” tôi nói qua micro. Và tôi nghe thấy những âm thanh bị bóp nghẹt của tiếng hò reo ăn mừng ở đầu dây bên kia.
“Anh quả là anh hùng,” Mindy nói.
Tôi tưởng tượng mình là người máy Nhật Bản khổng lồ trong truyện manga và mỉm cười.
Đèn khò xèo xèo và vụt tắt.
“Hãy xem xét cẩn thận,” Bố nói. “Con muốn chơi nước cờ tiếp theo ở đó để lấp đầy chỗ trống. Nhưng đó là điều con thực sự muốn sao?”
Tôi lắc bình nhiên liệu gắn vào đèn khò. Không còn gì cả. Đây là cái bình mà tôi đã đập vào một trong những thanh xà của cánh buồm. Vụ va chạm chắc chắn đã gây ra rò rỉ và không còn đủ nhiên liệu để hoàn thành miếng vá.
“Hãy quay lại ngay,” Tiến sĩ Hamilton nói. “Chúng ta sẽ bổ sung nhiên liệu cho cháu và thử lại một lần nữa.”
Tôi kiệt sức rồi. Cho dù tôi có cố gắng thế nào đi chăng nữa, tôi không thể rời khỏi đây nhanh như vậy. Và đến lúc đó ai biết được vết rách sẽ lớn đến mức nào? Tiến sĩ Hamilton cũng hiểu rõ điều này như tôi. Ông ấy chỉ muốn đưa tôi trở lại sự an toàn ấm áp của con tàu.
Tôi vẫn còn nhiên liệu trong bình, để dành cho chuyến trở về của tôi.
Khuôn mặt bố tôi đầy mong đợi.
“Con thấy rồi ạ,” tôi nói chậm rãi. “Nếu con chơi nước cờ tiếp theo ở chỗ trống này, con sẽ không còn cơ hội quay lại nhóm quân nhỏ ở phía đông bắc. Bố sẽ bắt hết chúng.”
“Một quân cờ không thể ở hai vị trí được. Con buộc phải lựa chọn, con trai à.”
“Con nên làm gì bây giờ ạ?”
Tôi nhìn bố đợi câu trả lời.
“Hãy nhìn xung quanh con xem,” Bố nói. Và tôi nhìn thấy Mẹ, bà Maeda, Thủ tướng, tất cả hàng xóm của chúng tôi từ Kurume, và những người đã đợi cùng chúng tôi ở Kagoshima, Kyushu, ở cả Tứ Đảo, trên toàn Trái Đất và trên cả tàu Hy Vọng. Họ nhìn tôi đầy mong đợi, hy vọng tôi sẽ làm một điều gì đó.
Giọng bố trầm lắng:
“Những ngôi sao tỏa sáng lấp lánh.
Chúng ta đều chỉ là những vị khách đi ngang qua
Một nụ cười và một cái tên.”
“Cháu có cách này,” tôi nói với Tiến sĩ Hamilton qua radio.
“Em biết anh sẽ tìm ra giải pháp mà,” Mindy nói, giọng đầy tự hào và hạnh phúc.
Tiến sĩ Hamilton im lặng một lúc. Ông biết tôi đang nghĩ gì. Và sau đó nói: “Hiroto, cảm ơn cháu.”
Tôi tháo đèn khò ra khỏi bình nhiên liệu vô dụng của nó và nối vào cái bình trên lưng. Tôi bật đèn khò lên. Ngọn lửa sáng ngời, sắc bén, như một lưỡi gươm ánh sáng. Tôi điều khiển các photon và nguyên tử trước mặt, biến chúng thành một mạng lưới sức mạnh và ánh sáng.
Những ngôi sao ở mặt bên kia đã bị phong ấn một lần nữa. Bề mặt phản chiếu của cánh buồm trông thật hoàn hảo.
“Bác chỉnh lại hướng đi ạ,” tôi nói qua micro. “Cháu làm xong việc rồi.”
“Đã biết,” Tiến sĩ Hamilton nói. Giọng nói của ông như đang cố gắng giấu nỗi buồn.
“Trước hết anh phải quay lại đã,” Mindy nói. “Nếu bây giờ chúng ta sửa lại chiều hướng, anh sẽ không còn chỗ nào để buộc mình nữa.”
“Không sao đâu, em yêu à,” tôi thì thầm vào micro. “Anh sẽ không quay lại đâu. Không còn đủ nhiên liệu nữa.”
“Mọi người sẽ mang đến cho anh!”
“Mọi người không thể chỉnh hướng các thanh chống nhanh như anh đâu,” tôi nhẹ nhàng bảo cô ấy. “Không ai biết rõ mô hình thanh chống bằng anh cả. Trước lúc mọi người đến đây, anh sẽ ngạt thở mất.”
Tôi đợi đến khi cô ấy im lặng. “Chúng ta đừng nói về những điều đáng buồn nữa. Anh yêu em.”
Sau đó tôi tắt radio và bay vào không gian để không bị họ dụ dỗ vào một nhiệm vụ giải cứu vô ích. Rồi tôi rơi xuống, xa, rất xa dưới tán cánh buồm.
Tôi nhìn cánh buồm quay, lộ ra những vì sao trong vầng sáng trọn vẹn của chúng. Mặt trời, bây giờ đã quá mờ nhạt, chỉ là một ngôi sao trong số nhiều vì sao khác, không mọc cũng không lặn.
Cảm giác nhột nhột như lưỡi mèo liếm lại xuất hiện trong tim tôi.
* * *
Tôi đặt quân cờ tiếp theo vào chỗ trống.
Bố chơi nước cờ tiếp đúng như tôi dự đoán, và những quân của tôi ở góc đông bắc đều bị ăn mất, loại ra khỏi bàn cờ.
Nhưng nhóm quân chính của tôi vẫn an toàn. Thậm chí về sau chúng còn phát triển mạnh mẽ.
“Có lẽ có anh hùng trong cờ vây đấy ạ,” Giọng Bobby vang lên.
Mindy gọi tôi là anh hùng. Nhưng tôi chỉ đơn giản là một người đàn ông được ở đúng nơi đúng thời điểm. Tiến sĩ Hamilton cũng là một anh hùng vì đã thiết kế ra tàu Hy vọng. Mindy cũng là anh hùng vì cô ấy đã giữ cho tôi tỉnh táo. Mẹ tôi cũng là anh hùng vì bà đã sẵn sàng rời bỏ tôi để tôi sống sót. Bố tôi cũng là anh hùng vì ông đã dạy tôi những điều hay lẽ phải.
Chúng ta được định nghĩa bởi các vị trí mà chúng ta nắm giữ trong mạng lưới cuộc sống của mọi người.
Tôi kéo ánh nhìn của mình ra khỏi bàn cờ vây cho đến khi những quân cờ đá hợp nhất lại thành các mô hình lớn hơn của cuộc sống chuyển dịch và nhịp thở gấp gáp. “Các quân cờ riêng lẻ không phải là anh hùng, nhưng tất cả hợp lại sẽ là anh hùng.
“Quả là một ngày đẹp trời để đi dạo, con nhỉ?” Bố nói.
Và hai bố con cùng nhau đi dạo xuống phố, để chúng tôi có thể ghi nhớ từng ngọn cỏ lướt qua, từng giọt sương, từng tia nắng nhạt phai của mặt trời sắp tàn, thật đẹp tuyệt vời.
Hết
* * *
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Qu��nh Chi
* * *
Nhà văn, dịch giả Ken Liu (Ảnh: MIT Libraries)
1 note
·
View note
Text
Hoàng tử chiến binh - Leigh Bardugo
Về tác giả
Leigh Bardugo (quốc tịch Israel - Mỹ, sinh năm 1975) là một tác giả viết truyện kì ảo, nổi tiếng với các tiểu thuyết trong vũ trụ Grisha (Grishaverse) như Bóng tối và xương trắng hay Móng vuốt quạ đen đã được Netflix chuyển thể thành loạt phim truyền hình thành công. Các tác phẩm của cô được ngợi ca và đón nhận nhờ xây dựng được những thế giới đen tối, phức tạp, cùng các nhân vật sinh động và đa dạng.
Về tác phẩm
Hoàng tử chiến binh (tựa gốc: The Soldier Prince) là truyện ngắn của Leigh Bardugo nằm trong tuyển tập The Language of Thorns, một cuốn sách thuộc Grishaverse xuất bản năm 2017.
Grishaverse là một thế giới hư cấu, nơi tồn tại các Grisha - những pháp sư có khả năng sử dụng phép thuật để chi phối thời tiết, thao túng các nguyên tố tự nhiên, điều khiển cơ thể người và nhiều năng lực khác. Địa lý, xã hội của Grishaverse tương đối đa dạng, bao gồm nhiều quốc gia và nền văn hóa khác nhau lấy cảm hứng từ các nền văn hóa của thế giới thực: Ravka được xây dựng dựa theo văn hóa Nga và Đông Âu, Shu Han có nhiều nét tương đồng với Trung Hoa còn Fjerda lại giống với các quốc gia vùng Scadinavia...
Hoàng tử chiến binh lấy bối cảnh Kerch, một phiên bản của đất nước Hà Lan thế kỷ XVIII, được mô tả là một trung tâm thương mại, tài chính sầm uất, nơi giao thoa giữa những nhà buôn, ngân hàng và giới tội phạm.
* * *
Xét cho cùng thì, người thợ đồng hồ là kẻ phải chịu trách nhiệm. Nhưng ông bà Zelverhaus lẽ ra không nên để gã vào nhà. Đây là vấn đề, kể cả với những con quỷ thấp kém hơn. Chúng đến trước cửa nhà bạn với chiếc áo choàng nhung và đôi giày bóng loáng. Chúng đội mũ và mỉm cười và thể hiện những phép tắc ăn uống chuẩn mực. Chúng không bao giờ cho bạn thấy cái đuôi quỷ của chúng.
Người thợ đồng hồ tên là Droessen, mặc dù có những tin đồn rằng gã ta không phải là dân Kerch, mà là người Ravka - con trai quý tộc bị lưu đày, hay có thể là một Sáng Chế Gia [1] ô nhục, đã bị trục xuất khỏi quê hương vì những lý do không rõ ràng. Cửa hàng của gã ở Wijnstraat, nơi con kênh uốn cong như ngón tay đang vẫy bạn lại gần, và gã được cả thế giới biết đến với những chiếc đồng hồ tuyệt vời, trang trí bởi những chú chim đồng nhỏ ca lên những bài hát khác nhau vào mỗi giờ, và những người đàn ông và phụ nữ tí hon chơi đùa vui nhộn vào nửa đêm, rồi vào buổi trưa.
Gã bắt đầu nổi danh từ khi tạo ra chiếc đồng hồ tiên tri: khi bạn kéo đòn bẩy của nó, một bàn tay gỗ bóng loáng sẽ xuất hiện, di chuyển trên lòng bàn tay bạn và dự đoán tương lai của bạn. Một thương nhân từng đưa con gái mình đến tiệm đồng hồ trước đám cưới. Chiếc đồng hồ tiên tri kêu lách cách, mở chiếc quai hàm bằng gỗ của nó và cất tiếng, “Ngươi sẽ tìm thấy nhiều tình yêu và vàng bạc hơn cả những gì ngươi có thể mong đợi.” Vị thương nhân bèn mua một người máy vô cùng tinh xảo làm quà cưới cho đứa con yêu quý của mình, và tất cả khách khứa đến dự lễ cưới đều đồng ý rằng họ chưa bao giờ thấy một cặp cô dâu chú rể nào nhận được nhiều tình cảm đến như vậy. Nhưng rồi con tàu chở cô con gái đi tuần trăng mật đã mang theo quá nhiều hàng hoá và tiền bạc, đến nỗi nó chìm ngay khi gió bão vừa nổi lên và tất cả đều chìm xuống đáy đại dương khắc nghiệt. Khi tin tức đến tai vị thương nhân nọ, ông ta mới nhớ lại những lời tiên tri của chiếc đồng hồ và, trong cơn say khướt vì đau khổ và rượu mạnh, ông đã dùng nắm đấm đập vỡ nó thành từng mảnh. Ngày hôm sau, người hầu thấy ông vẫn đang nằm than khóc giữa đống đổ nát, mặc sơ mi nhăn nhó, các khớp ngón tay đều bê bết máu. Nhưng câu chuyện đau buồn này lại chỉ càng thu hút các khách hàng mới đến với cửa tiệm thợ đồng hồ nhằm tìm kiếm những điều kỳ diệu và lạ lùng.
Trong cửa tiệm của Droessen, họ tìm thấy vô vàn những điều kỳ diệu: một khu vườn với những con sư tử máy màu vàng hung hăng rượt đuổi bầy linh dương máy trên một thảo nguyên mượt như nhung; một khu vườn hoa làm bằng sứ được thụ phấn bởi những chú chim ruồi trang trí đá quý di chuyển vo vo trên những sợi dây mỏng đến nỗi trông như chúng đang thật sự bay: một chiếc đồng hồ dây cót tích hợp bộ đếm ngày tháng được cất giữ trên chiếc kệ cao nhất trong cửa hàng, cách xa khỏi đôi mắt tò mò của đám trẻ nhỏ - cứ mỗi tháng một lần, đám người máy tí hon trên chiếc đồng hồ đó sẽ diễn lại một cảnh giết người rùng rợn. Vào mồng một tháng Giêng, một cuộc đấu tay đôi sẽ diễn ra trên cánh đồng băng giá, những bụm khói bốc lên từ khẩu súng ngắn trên tay đám xạ thủ, đi kèm những tiếng súng nổ yếu ớt. Đến tháng Hai, một người đàn ông leo lên trên người vợ để siết cổ cô ta trong khi gã tình nhân nằm rúm ró dưới chiếc ga giường nhàu nát. Và cứ như vậy.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng Droessen vẫn là một gã trai trẻ, và gã trở thành một vị khách mời được hoan nghênh trong các gia đình thương gia đã từng là khách hàng của gã. Gã ăn mặc đẹp, nói chuyện lịch thiệp, và luôn mang đến những món quà hấp dẫn cho chủ nhà. Sự thật là, mỗi lần gã bước vào một căn phòng nào đó, những người bên trong sẽ lập tức cảm thấy cơ thể mình dường như không được thoải mái; họ xoa tay trong cái lạnh đột ngột, tự hỏi liệu có cánh cửa nào vẫn còn chưa đóng chặt hay không. Thế nhưng, bằng cách nào đó, điều này chỉ khiến Droessen trở nên thú vị hơn. Thiếu đi cái ác cảm nọ, Droessen hẳn chỉ là một kẻ thảm hại, một gã đàn ông trưởng thành nghịch ngợm với những món đồ chơi rối rắm. Thay vào đó, người ta bàn tán xôn xao về chiếc áo khoác nhung và những ngón tay trắng linh hoạt của gã. Các bà mẹ nắm chặt khăn tay và các cô con gái đỏ mặt mỗi khi gã ở gần.
Cứ đến mùa đông, nhà Zelverhaus, một gia đình thương nhân buôn trà giàu có, lại mời Droessen tới ngôi nhà ở vùng ngoại ô của họ để tham dự những bữa tiệc và những trò giải trí được tổ chức trong tuần lễ Nachtspel [2]. Ngôi nhà không xa hoa lộng lẫy như các tòa biệt thự của thương nhân khác, toàn bộ được xây từ là gỗ đen, gạch cứng với những đường nét thô sơ. Thế nhưng ngôi nhà lại ở cạnh cái hồ đã sớm đông cứng để có thể trượt băng trên đó, và nó thực sự dễ chịu, với những lò sưởi bập bùng ở các phòng để giữ cho ngôi nhà luôn ấm áp và vui vẻ, và các mặt sàn đều được đánh bóng sáng choang như một chiếc bánh gato phủ siro vậy.
Ngay từ năm đầu tiên Droessen đến thăm ngôi nhà cạnh hồ, những tin đồn không hay đã xuất hiện. Lần ấy, hàng xóm của nhà Zelverhaus là gia đình De Kloet đã phải mặc đồ tang suốt cả tuần lễ Nachtspel và sang cả năm mới, sau khi Elise De Kloet hạ sinh một đứa bé có da thịt chỉ toàn là những nhánh bồ công anh.
Khi một người hầu của gia đình De Kloet bất cẩn mở cửa sổ, đứa bé đã tan biến ngay trong cơn gió. Năm sau đó, một đứa cháu họ của gia đình Zelverhaus thấy một tai nấm nhỏ màu xám mọc ngay trên trán mình, và một cậu bé đến từ Lij nói rằng có một ngày nọ cậu đã thức dậy với một chiếc cánh nhỏ mọc lên giữa hai vai, nhưng nó đã cháy thành tro khi cậu bước qua đoạn hành lang có nắng chiếu.
Những sự việc kỳ lạ này có liên quan đến gã thợ đồng hồ không? Không ai có thể chắc chắn, nhưng họ có bàn tán về điều đó.
Một người phụ nữ từng nói với Althea Zelverhaus rằng, “Chàng trai trẻ Droessen đó là một gã quyến rũ, nhưng có vẻ bất thường. Anh ta cứ đi đến đâu là những điều kỳ dị lại theo đến đó.”
“Bất thường,” Althea đồng ý, nhưng bà biết rằng Droessen ít chấp nhận lời mời, và người phụ nữ với chiếc vành áo diêm dúa cầu kì này chỉ có nằm mơ mới được tiếp đón Droessen ở những gian hàng của bà ta. Vì vậy Althea mỉm cười, và lặp lại, "Thật sự bất thường đó," và không buồn để tâm nữa.
Bấy giờ, những chuyện như vậy có vẻ vô hại.
* * *
Ở Droessen, người ta không chỉ thấy được sự bất thường về tài năng hay thói quen, mà còn ở cả lòng tham của gã nữa. Gã đã dành cả cuộc đời để lang thang khắp ngõ ngách, lịch sự với những thương nhân chiếu cố đến chỗ gã, và gã sớm nhận ra rằng tài năng là không đủ. Khi gã nhận ra rằng các vị khách đều thích mua hàng từ những kẻ mặt mũi khôi ngô, gã bèn cắt tóc theo kiểu thời thượng và tự làm cho mình một bộ răng trắng sáng và đều đặn đến nỗi đôi khi lừa phỉnh được chính bản thân gã. Khi thấy sự tôn trọng mà những người bảo trợ của mình dành cho quân nhân, gã bèn giả vờ đau đớn đeo nẹp, sửa lại cái hông và lót đệm cái vai áo khoác để có thể chỉnh lại dáng đứng thẳng như một người lính. Bởi vì gã nhận thức được rằng sự nổi tiếng phụ thuộc vào nhu cầu, nên gã luôn đảm bảo rằng cứ có ba người mời đến dự tiệc thì gã sẽ từ chối hai người.
Nhưng gã sớm đã chán với việc ăn những bữa tối lạnh lẽo trong cửa tiệm tối tăm của mình, với cánh cửa khóa chặt và ánh đèn tắt để tạo ra ảo tưởng rằng gã đang ở đâu đó vui vẻ. Gã muốn một ngôi nhà lớn thay vì một căn phòng cho thuê tồi tàn. Gã muốn tiền cho những phát minh của mình. Gã không bao giờ muốn nói vâng thưa ngài, không thưa ngài, tôi làm ngay đây nữa. Nếu vậy gã phải kết hôn, nhưng ai sẽ làm cô dâu của gã đây? Những người phụ nữ trẻ độ tuổi kết hôn đi cùng cha đến cửa tiệm và tán tỉnh gã tại các bữa tiệc thấy gã ta là một mối nguy hiểm. Họ sẽ không bao giờ muốn một mối quan hệ nghiêm túc với một thương nhân. Không được, anh ta cần một cô gái dễ bảo, một cô gái mà anh có thể khiến cô ấy mến mộ anh.
Clara Zelverhaus lúc bấy giờ vẫn chưa chạm ngưỡng mười hai tuổi, đủ đáng yêu, đủ giàu có, và đúng với tính cách mơ mộng mà gã cần. Gã tìm hiểu về những thứ cô muốn. Gã đưa chúng cho cô, và lúc ấy, cô sẽ yêu gã vì điều đó. Hoặc tự gã ta nghĩ vậy. Droessen biết rõ tính chất của mọi loại gỗ, sơn và sơn mài; gã ta có thể chế tạo các thiết bị của đồng hồ cho đến khi chúng quay chính xác một cách nhẹ nhàng. Mặc dù gã có thể luôn mở miệng cười, hấp dẫn và đóng vai một quý ông, nhưng gã ta chưa bao giờ thực sự hiểu được con người ta hoặc cái cách trái tim họ đập từng nhịp đều đặn nhưng thất thường.
* * *
Ngôi nhà cạnh hồ luôn sôi động bất cứ khi nào thợ đồng hồ đến, và bọn trẻ luôn chào đón anh trước khi gã bước ra khỏi xe. Họ sẽ lần theo những người hầu nhà dỡ hành lý của gã ta, với những chiếc rương và hòm chứa đầy những vật tuyệt đẹp—búp bê trong bộ cánh của Komedy Brute, hộp nhạc, hàng dãy khẩu đại bác, thậm chí cả một pháo đài lớn.
Mặc dù cậu chủ nhỏ Frederik rất thích tổ chức các trận chiến dài, nhưng cuối cùng anh ta sẽ trở nên chán nản dù có chế tạo vũ khí và quân đội nhỏ thế nào và khoác áo đi tìm vài trò tiêu khiển với tuyết. Clara thì khác. Thật đáng buồn cho Droessen khi cô bỏ qua những đồng hồ và máy móc tinh vi mà gã ta mang đến, và chỉ khẽ mỉm cười trước bản sao tinh tế của một cung điện người Ravka với các vòm gỗ khắc bằng vàng thật. Nhưng cô có thể chơi hàng giờ với những con búp bê gã ta làm, ngồi lì trong nhà và chỉ xuất hiện khi chuông ăn tối rung hơn một lần, và mẹ cô buộc phải lên tiếng từ dưới cầu cầu thang trên mọi hành lang để Clara thoát khỏi trí tưởng tượng và đến ăn.
Vì vậy, qua nhiều đêm dài miệt mài trong xưởng, Droessen đã làm cho cô ấy một chiếc kẹp hạt dẻ có đôi mắt sáng màu, thanh lịch với chiếc áo khoác xanh lam sáng và đôi ủng đen bóng, nắm đấm tay đang cầm một chiếc lưỡi lê nhỏ sắc bén.
"Nàng phải kể cho cậu ấy biết tất cả bí mật của nàng," Droessen nói khi gã ta đặt con búp bê vào tay Clara, “và cậu ấy sẽ giữ bí mật cho nàng."
Cô ấy hứa sẽ làm điều đó.
Cha mẹ Clara cho rằng khi lớn lên, Clara sẽ dừng lại những suy nghĩ trẻ con như vậy và bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến quần áo và cuộc sống gia đình chồng con, như những người bạn của cô. Nhưng khi nhiều năm trôi qua, Clara vẫn là một cô gái mộng mơ kỳ lạ có phần khép kín vì một số bí mật, suy nghĩ không nói thành lời luôn quanh quẩn trong đầu, cô giả vờ chịu đựng những tiết học ngôn ngữ và khiêu vũ bằng thái độ tập trung, sau đó mỉm cười và tìm đến một góc tối nào đó nơi bất cứ thế giới vô hình nào mà tâm trí cô có thể mở ra mà không có áp lực nào ở đó.
Khi Clara bước sang tuổi mười sáu, cha mẹ tổ chức một bữa tiệc lớn cho cô. Cô ăn bánh kẹo, trêu chọc anh trai mình, và khiêu vũ với tất cả các cậu trai của các thương nhân được mời tham dự. Althea Zelverhaus thở phào nhẹ nhõm và lần đầu tiên trong nhiều tháng bà đi ngủ mà không cần bận tâm. Nhưng đêm đó, khi tỉnh dậy sau giấc ngủ, bà đột nhiên cảm thấy cần phải kiểm tra các con mình. Frederik, 17 tuổi, vui vẻ về nhà sau buổi học, ngáy to trong phòng. Giường của Clara thì trống không.
Althea thấy Clara cuộn tròn bên cạnh lò sưởi trong phòng ăn, tay ôm con búp bê yêu thích của cô. Bà thấy con gái mình mang dép và mặc áo khoác đều ướt đẫm tuyết.
"Clara à," mẹ cô thì thầm, lắc nhẹ vai đánh thức cô khỏi giấc ngủ. "Tại sao con lại ra ngoài?"
Clara nháy mắt với mẹ và mơ hồ mỉm cười ngọt ngào. "Cậu ấy yêu tuyết," cô nói, sau đó ôm chặt con búp bê của cô vào lòng và chìm vào giấc ngủ.
Althea nhìn xuống con gái trong bộ đồ ngủ và áo khoác bị ướt, khuôn mặt bé nhỏ xấu xí của búp bê gỗ trong tay. Đó là thứ mà Althea không thích nhất trong số các tác phẩm của Droessen, một chiếc kẹp hạt dẻ với nụ cười kỳ quái và một áo khoác xanh sang trọng. Đứng đó, bà đột nhiên nghĩ rằng việc mời người thợ đồng hồ đến nhà mình nhiều năm trước là một sai lầm khủng khiếp. Ngón tay bà ngứa ngáy muốn cướp con búp bê khỏi Clara và ném thứ kinh khủng đó vào ngọn lửa.
Bà với tay lấy cái kẹp hạt dẻ, rồi rụt tay lại. Trong một khắc—không thể như vậy được, nhưng bà chắc chắn rằng người lính đồ chơi đã quay đầu lại nhìn bà. Và trong mắt cậu vất vương một nỗi buồn. Thật vô lý, bà tự nhủ, đưa tay ôm ngực. Bà cũng đang trở nên kì lạ như Clara.
Cho dù vậy, bà cũng rời đi, chắc chắn rằng nếu bà dám chạm vào cái kẹp, dám ném thứ đó vào ngọn lửa, nó sẽ kêu lên. Hoặc tệ hơn, nó có thể không cháy.
Bà đắp chăn cho con gái và trở lại giường của mình, và khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, bà gần như quên đi những kí ức ngu ngốc về đêm hôm trước. Ngày lễ Nachtspel đang bắt đầu và những vị khách của bà sẽ sớm đến. Bà đứng dậy và gọi trà, tìm cách đối phó một ngày khó khăn phía trước. Nhưng khi xuống lầu để xem thực đơn và kiểm tra xem Clara giúp đầu bếp soạn chỗ hạt dẻ không, bà dừng lại bên tủ kính trong phòng ăn nơi trưng bày quà tặng của Droessen. Không phải vì lý do nào cả. Chắc chắn không phải để đảm bảo rằng cái kẹp hạt dẻ đã được khóa an toàn sau tấm kính.
* * *
Clara biết mẹ cô lo lắng. Cô cũng vậy. Khi ngồi ăn tối hoặc tham gia một bữa tiệc nào đó với một người bạn hoặc thậm chí đôi khi tại lớp học, cô sẽ nghĩ rằng, thật dễ chịu làm sao. Nhiêu đây là đủ rồi. Nhưng rồi cô trở về nhà và thấy mình đang ở trong phòng ăn, dừng chân trước tủ kính . Cô với tay lấy kẹp hạt dẻ một lần nữa và mang vào phòng ngủ hoặc trên gác mái, nơi cô nằm nghiêng qua một bên giữa những đốm bụi và thì thầm vào tai cậu cho đến khi cậu đáp lại.
Thường thì lúc đầu sẽ khá ngại ngùng và lâu nữa. Khi còn bé thì dễ hơn, nhưng bây giờ cô có nhận thức khác với trước đây. Clara cảm thấy bản thân thật ngu xuẩn mỗi lần cô di chuyển cánh tay của kẹp hạt dẻ, khiến miệng cậu mở ra ngậm lại như đang trả lời các câu hỏi của cô. Cô không thể không nhìn bản thân như những người khác: một thiếu nữ trẻ, đang tuổi ăn tuổi lớn, nằm trên sàn gác mái bụi bặm, nói chuyện với một con búp bê. Nhưng cô vẫn kiên trì tâm sự với cậu về những cuộc phiêu lưu mà họ đã trải qua, mặc dù họ có sự thay đổi nho nhỏ trong mấy năm qua.
Chàng là một người lính. Chàng đã chiến đấu dũng cảm ở mặt trận và trở về với ta, thân thương của ta.
Chàng đã từng hạ gục một con quái vật vì ta, một con chuột với bảy cái đầu, vào đêm cuối cùng của ngày lễ Nachtspel.
Chàng là hoàng tử đánh thức ta khỏi lời nguyền bằng một nụ hôn. Ta yêu chàng hơn ai hết, và chàng đã chọn ta làm hoàng hậu của chàng.
Cô đặt một quả óc chó giữa hai hàm răng cứng—kẹp nứt, tiếng ồn quá to trên gác xép.
Chàng là người lính của ta sao? Cô hỏi đi hỏi lại. Chàng là hoàng tử của ta sao?
Chàng là thân thương của ta sao?
Chàng là của ta phải không?
Và cuối cùng, đôi khi chỉ sau một khoảnh khắc, đôi khi sau những thứ tưởng chừng là mãi mãi, cậu cử động miệng và cất tiếng nói.
Chàng là người lính của ta sao?
“Đúng vậy.”
Chàng là hoàng tử của ta sao?
“Đúng vậy.”
Khi nói, chân tay cậu sẽ lớn lên, ngực cậu sẽ rộng ra, da cậu sẽ trở nên mềm mại.
Chàng là thân thương của ta sao?
“Đúng vậy.”
"Clara thân mến," kẹp hạt dẻ mà bây giờ trở lên khôi ngô tuấn tú, không còn là gương mặt kỳ quái mà thay vào là những đường nét dịu dàng, nói. "Tất nhiên là vậy rồi."
Cậu đưa tay cho cô và họ sẽ bay qua cửa sổ gác mái, ra ngoài cái giá lạnh. Cô thấy cô đang cưỡi một con ngựa trắng to lớn, ôm eo người yêu, cất tiếng vui vẻ khi cùng nhau đi xuyên màn đêm, vượt qua những đám mây, và đi đến vùng đất phía trước.
Cô không biết phải gọi nơi cậu đưa cô đến là gì. Vùng đất thần tiên? Xứ sở mộng mơ? Khi cô còn bé, điều này trông khác hẳn. Họ chèo một chiếc thuyền buồm bằng kẹo kéo trên dòng nước êm đềm. Cô đi trên những viên sỏi là hạnh nhân, đi qua những ngôi làng bánh gừng và lâu đài làm bằng mứt cam. Đám trẻ con nhảy múa chào mừng kẹp hạt dẻ như hoàng tử của chúng. Họ ngồi trên đệm cao su và mẹ cậu gọi Clara là một anh hùng.
Giờ đây, phần lớn đã biến mất, thay bằng những khu rừng xanh tươi và những dòng sông lấp lánh. Không khí ấm áp và dễ chịu như cô từng đọc—vùng đất mùa hè nơi mặt trời chiếu sáng quanh năm và những cơn gió nhẹ nhàng mà nồng nàn mùi hoa cam. Chú ngựa trắng đưa họ đến những nơi mới mẻ lần nào: một thung lũng nơi những chú ngựa hoang bao quanh bởi làn sương mù, một biển hồ lấp lánh rộng lớn như đại dương, nơi họ chạm mặt những tên cướp biển hung dữ, những kẻ lấy đá quý gắn vào răng; một cung điện với những bức tường sơn thù du và tháp cây phi yến sừng sững giữa khu rừng nơi những đàn bướm bay lượn xung quanh, với đôi cánh như những chiếc chuông. Nữ hoàng ở đó có làn da nhợt nhạt luôn được bao phủ bởi sương móc và vương miện của bà trông giống như sừng hươu ngay giữa trán, uốn lượn và sáng lấp lánh như ngọc trai. Khi bà chạm môi Clara, Clara cảm nhận được có đôi cánh mềm mại mọc ra sau lưng. Cô dành cả ngày bay lượn mọi nơi như chú chim ruồi, chỉ dừng lại để uống rượu mật ong và khi nữ hoàng tết tóc cho cô.
Nhưng nhiêu đó vẫn chưa đủ. Hoàng tử của cô có yêu cô không? Liệu có không? Tại sao chàng lại đưa cô về nhà sau mỗi chuyến đi đến vùng đất thần tiên? Thật không công bằng khi để cô biết sự tồn tại một thế giới như thế sau đó đem nó đi một cách tàn nhẫn. Nếu chàng yêu cô như cô yêu chàng, chắc chắn cô sẽ được ở lại đó. Mỗi lần đến thăm, cô hy vọng mẹ cậu sẽ chào đón cô như một cô con gái chứ không phải là một vị khách, rằng cô sẽ có thể hy vọng vào một lễ cưới lộng lẫy.
Thay vào đó, tiếng chuông ăn tối kêu lên hoặc nghe tiếng Frederik bước lên cầu thang hoặc tiếng mẹ gọi cô, và cô thấy mình đang đi qua bầu trời đầy sao băng trở về căn gác mái trống không lạnh lẽo, cả người trở nên cứng đờ do nằm lâu trên sàn nhà, cơ thể rắn chắc của kẹp hạt dẻ bên cạnh cô, biến nhỏ lại và xấu xí, vài mẩu vụn óc chó còn sót lại trong hàm.
Cô đặt cậu về ngăn tủ và quay ra với cha mẹ. Cô cố mỉm cười với thế giới một màu ảm đạm xung quanh, dù má cô vẫn ửng hồng dưới ánh mặt trời, dù lưỡi cô vẫn thấy vị ngọt của mật ong.
* * *
Còn về kẹp hạt dẻ, cậu không chắc chắn về gì cả, và đôi khi cậu lo sợ. Ký ức của cậu thì mờ nhạt. Cậu biết đã xảy ra một trận chiến, hoặc nhiều, và cậu đã chiến đấu dũng cảm. Chẳng phải cậu được sinh ra để làm việc đó sao? Cậu được sinh ra với một lưỡi lê trong tay.
Cậu chiến đấu vì cô ấy. Nhưng bây giờ cô ấy ở đâu? Clara ở đâu? Đôi mắt chứa bầu trời sao và bàn tay mềm mại. Họ đã cùng nhau đối mặt với Vua Chuột. Cô quấn cậu lại trong chiếc khăn choàng. Máu cậu chảy vào nếp gấp khăn trắng.
Clara. Sao cậu có thể nhớ tên cô ấy mà không nhớ tên cậu?
Cậu đã chiến đấu rất dũng cảm. Ít nhất là cậu nghĩ vậy.
Rất khó để nhớ được cụ thể—tiếng la hét, máu, tiếng thét của đám chuột đuôi hồng đậm và răng như lưỡi dao vàng, mồm miệng đẫm máu do những vết cắn. Răng chúng lấp lánh dưới ánh vàng mặt trời vàng! Mặt trời mọc hay lặn nhỉ? Cậu chợt nhớ đến mùi của cây thông.
Cậu nheo mắt, từ chỗ cậu trong doanh trại nhìn qua cửa sổ kính lớn. Nhưng cảnh tượng đó cũng làm cậu mơ hồ. Cậu thấy được một cái bàn dài được bày ra cho một bữa tiệc, trái cây, những cành thông đặt trên lò sưởi. Nhưng mọi thứ đều quá to lớn, như thể được thấy qua một ống kính méo mó.
Cậu đếm những nút cúc đồng trên chiếc áo khoác xanh xinh đẹp của cậu. Cậu đang mặc đồng phục của ai? Đất nước nào là quê hương cậu? Bụi bẩn từ chiến trường trên đôi giày cậu là ai đã lau sạch?
Một trận chiến đã xảy ra ư? Cậu đã chiến đấu hay đó chỉ là giấc mơ? Những ký ức khác dường như rõ ràng hơn. Cậu là hoàng tử, hoàng tử của cô ấy. Cô ấy đã nói với cậu như vậy. Cậu không muốn gì hơn ngoài việc cho cô thấy tất cả những điều kỳ diệu của mái ấm, để khám phá chân trời vô tận ở đó. Vậy mà, tại sao cậu không cảm thấy vui mừng khi trở lại cung điện nơi cậu cho là cậu đã được nuôi dưỡng? Tại sao mọi thứ với cậu lại mới mẻ như với cô ấy?
Mọi thứ đều mơ hồ. Cậu chắc chắn rằng những con đường mà họ đã đi trước đây đã hẹp lại, bên cạnh là những ngôi nhà sương phủ trên mái thay vì những con đường lớn dẫn qua những dinh thự bằng vàng. Trước đây, những món quà là kẹo hạnh nhân và kem ngọt đã đủ khiến Clara hài lòng, nhưng bây giờ cậu tặng cô ấy trang sức và áo choàng vì nghĩ rằng cô ấy sẽ thích chúng. Làm thế nào mà cậu biết được điều này, cậu không thể hiểu được.
Cậu nhìn mọi người ở bàn ăn, vẫn to lớn như thường, và Clara vẫn ở đây, người con gái cậu ôm trong vòng tay. Đôi khi ánh mắt cô nhìn về phía cậu và cậu cố kêu lên, nhưng cậu không thể nói, cũng không có cách nào để cử động chân tay. Chắc hẳn cậu đang bị thương.
Cậu nhìn cô ăn tối và nói chuyện với … cậu mất một lúc để nhớ lại—Frederik, anh trai cô, chỉ huy trong chiến tranh, táo bạo và đôi lúc liều lĩnh, nhưng cậu đã thực hiện mọi mệnh lệnh anh ta đưa ra. Có một gương mặt quen thuộc khác trên bàn, một người đàn ông với mái tóc dài và đôi mắt xanh nhạt, người dạy bảo Clara như thể cô ấy là một cỗ máy cần được tháo ra và ghép lại với nhau. Mình biết gã ta, kẹp hạt dẻ nghĩ thầm. Droessen. Mình biết tên gã. Nhưng không thể nghĩ ra làm thế nào cậu lại biết. Người đàn ông này trông không giống một người lính, mặc dù anh ta mang trang phục quân đội.
Một ký ức vụt qua những suy nghĩ của kẹp hạt dẻ. Cậu đang nằm ngửa, nhìn chằm chằm vào các kệ đựng đầy đồng hồ và những con rối đang ngồi. Cậu ngửi thấy mùi sơn và dầu, mùi gỗ mới. Droessen hiện ra trước mặt cậu, cặp mắt to lạnh lùng với sự tập trung cao độ. Mình đang bị thương, kẹp hạt dẻ nghĩ. Vậy Droessen hẳn là một bác sĩ phẫu thuật. Nhưng điều này có vẻ không đúng.
Bữa tối kết thúc rồi. Những vị khách thưởng thức những ly rượu màu đỏ sẫm. Clara ngồi đó nhấp nháp từng ngụm đến nỗi má cô ửng đỏ cả lên. Mọi người cùng nhau chơi đùa bên lò sưởi, và ai đó hét lên, “Tuyết kìa!”
Họ chạy đua để tập trung lại xung quanh cửa sổ lớn, nhưng kẹp hạt dẻ không thể nhìn rõ được điều gì khiến họ quan tâm đến vậy. Có tiếng nói cười và rồi tất cả họ chạy ra khỏi phòng ăn để... cậu không biết. Cậu không biết gì bên ngoài căn phòng này. Nó có thể là một cung điện hoặc một nhà tù hoặc một khu rừng thông. Cậu chỉ biết là họ đã đi rồi.
Những người hầu đến và tạo lửa, thắp nến lên. Cậu đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng vì cái gì đó, cậu cuối cùng vẫn luôn ở đây, một mình trong bóng tối.
* * *
Clara đêm đó không đến.
Kẹp hạt dẻ tỉnh dậy kêu thét lên và nhìn thấy tên Vua Chuột bên cạnh giường của cậu. Cậu vội vàng ngồi dậy và lấy kiếm ra, nhận ra rằng vũ khí của mình đã biến mất, và đồng thời, cậu có thể cử động trở lại.
"Bình tĩnh nào, thủ lĩnh" tên Vua Chuột nói. "Tôi không đến để đánh nhau, chỉ để nói chuyện thôi." Giọng hắn cao và the thé, râu vặn vẹo, dù thế tên quái vật vẫn trông nghiêm nghị khi hắn nói.
Sinh vật này dính máu của tên tội phạm trên bàn chân bẩn thỉu kia, và cũng sẽ có thể giết Clara. Nhưng nếu hắn đến để nói về điều kiện đình chiến, kẹp hạt dẻ cho rằng hắn phải tôn trọng điều đó. Cậu khẽ nhún cằm.
Vua Chuột chỉnh áo choàng nỉ và nhìn ngó xung quanh. "Anh có gì để uống không? Giá mà họ nhét anh vào tủ rượu, nhỉ?"
Tủ rượu. Kẹp hạt dẻ nhăn mặt. Cậu đã nghỉ ngơi trong doanh trại, phải không? Và khi nhìn quanh, cậu thấy những hình dáng mơ hồ của giường ngủ và những người lính khác mặc đồ kì lạ. Những cô gái với đôi mắt trong suốt và mái tóc xoăn cứng ngắc được dựng vào tường. Hàng đoàn binh sĩ với lưỡi lê trên vai diễu hành trong bước chân lạnh giá.
"Tôi không biết," cuối cùng cậu trả lời.
Vua Chuột nằm trên đôi môi vàng của một chiếc hộp nhạc khổ lớn. Nhưng chúng có khổng lồ không? Hay nhỏ bé?
"Lần cuối anh ăn là khi nào?" Hắn hỏi.
Kẹp hạt dẻ do dự. Có phải với Clara không? Ở Xứ sở Tuyết? Toà án Hoa? "Tôi không thể nhớ được."
Vua Chuột thở dài. "Anh nên ăn gì đó đi."
"Tôi có ăn." Chắc chắn là vậy rồi chứ?
"Thứ gì khác ngoài hạt óc chó." Vua Chuột gãi sau tai bằng những móng vuốt nhỏ màu hồng, sau đó lấy vương miện ra khỏi đầu và nhẹ nhàng đặt vào lòng. "Anh biết không tôi bắt đầu cuộc đời tôi như một món kẹo đường hình con chuột?"
Kẹp hạt dẻ lộ rõ vẻ nghi hoặc, Vua Chuột tiếp tục, "Tôi biết điều đó thật khó tin, nhưng tôi chỉ là một món kẹo. Không phải để ăn, chỉ để nhìn, một điều kỳ diệu, một bằng chứng cho kỹ năng của người làm ra tôi. Thật đáng tiếc khi tôi không được nếm thử. Tôi từng nghĩ rằng, ước gì có ai đó ăn mình. Nhưng vậy là đủ rồi."
"Đủ để làm gì?"
"Để thoát khỏi cái tủ. Mong muốn là lý do khiến mọi người thức dậy vào buổi sáng. Điều đó cho họ một điều gì đó để mơ về ban đêm. Càng muốn nhiều, tôi càng giống họ, tôi càng trở nên chân thật hơn."
"Tôi hoàn toàn là thật," kẹp hạt dẻ phản đối.
Vua Chuột chán nản nhìn cậu. Ngồi đó, không đội vương miện dưới ánh sáng lờ mờ, râu ria hơi rủ xuống, trông hắn không chút giống một con quái vật khủng khiếp hơn là một chú chuột có gương mặt ngọt ngào.
Một ký ức khẽ hiện lên trong đầu kẹp hạt dẻ. "Anh có 7 cái đầu—"
Vua Chuột gật đầu. "Clara tưởng tượng rằng tôi đáng sợ, và tôi trở nên như vậy. Nhưng một con chuột không thể sống với bảy cái đầu lúc nào cũng mở miệng nói. Bọn này đã mất hàng giờ để đưa ra những quyết định đơn giản nhất, nên khi mấy tên đó đang ngủ, tôi cắt từng cái đầu một. Máu chảy kinh khủng khiếp." Hắn khẽ di chuyển trên ghế của mình. "Anh là ai khi cô ấy không có ở đây, Thủ lĩnh?"
"Tôi là …" Cậu run rẩy. "Tôi là một người lính."
"Vậy sao? Cấp bậc của anh? Trung úy?"
"Trung úy, tất nhiên rồi," kẹp hạt dẻ trả lời.
"Hay là Thủ lĩnh?" Vua Chuột hỏi.
Chàng là người lính của ta sao? Chàng là hoàng tử của ta sao?
"Tôi—"
"Chắc chắn anh phải biết cấp bậc của mình."
Chàng là thân thương của ta sao?
"Anh là ai khi mà chẳng ai nhấc bổng anh lên ôm cả?" Vua Chuột hỏi. "Khi không có ai nhìn, hay thì thầm bên cạnh, vậy anh là ai? Cho tôi biết tên anh đi, người lính."
Chàng là của ta phải không? Kẹp hạt dẻ mở miệng trả lời, nhưng cậu không thể nhớ nổi. Cậu là hoàng tử của Clara, người bảo vệ cô ấy. Cậu có tên. Tất nhiên là cậu có tên. Chỉ là một cuộc chiến tranh đã xóa tan nó khỏi trí nhớ cậu.
Cậu đã chiến đấu rất dũng cảm.
Cậu đưa Clara đi gặp mẹ mình.
Cậu cưỡi ngựa vượt qua một cánh đồng đầy sao sáng.
Cậu không thừa kế gì cả. Cậu là hoàng tử của một cung điện làm từ hạnh nhân.
Cậu ngủ trên kẹo bông gòn. Cậu ngủ trên vàng.
"Anh đi dạo, nói chuyện và cười đùa với Clara trong giấc mơ của cô ấy," Vua Chuột nói. "Nhưng đó là mong muốn của cô ấy. Họ không thể để anh tiếp tục. Cuộc đời tôi bắt đầu bằng việc muốn một cái gì đó cho bản thân mình. Tôi muốn được người khác ăn, rồi tôi muốn ăn. Một miếng bánh. Một chút thịt xông khói. Một ngụm rượu vang. Tôi muốn những thứ này từ bàn ăn của họ. Đó là lúc tôi cử động chân và chớp mắt. Tôi muốn nhìn ra bên ngoài cửa tủ. Đó là khi tôi tìm được đường vào trong vách tường. Tôi gặp anh em chuột ở đó. Họ không hấp dẫn hay ưa nhìn, nhưng họ vẫn sống ngay cả khi không có ai để ý. Tôi đã sống trong những bức tường với họ, không ai theo dõi và không ai quan tâm. Tôi biết mình là ai mà không cần ai đó nói với tôi."
"Nhưng tại sao anh lại tấn công chúng tôi?" kẹp hạt dẻ nói. Máu. Tiếng la hét. "Tôi biết nó có xảy ra."
"Có như không có mà thôi. Khi Clara còn là một đứa trẻ, cô ấy mơ về những anh hùng, và những anh hùng cần có kẻ thù. Nhưng khát vọng chinh phục là ý chí của cô ấy, không phải của tôi. Đó là cơn đói bình thường giúp tôi sống sót đến bây giờ: những mảnh vụn rơi vãi, phô mai trong tủ, cơ hội mạo hiểm ra ngoài đống củi, nhìn thấy bầu trời rộng lớn, cảm nhận được cái lạnh giá của tuyết."
Tuyết. Một ký ức khác xuất hiện—không phải là nơi mà Clara mong muốn, mà là một nơi mới bên ngoài tủ kính. Một đêm nọ, cô đã đưa cậu ra ngoài. Cậu thấy lạnh. Cậu thấy những đám mây lượn lờ trên bầu trời đầy sao. Cậu hít không khí vào phổi, từ từ thư giãn, thở ra, nhìn thấy hơi thở của mình trong đêm lạnh lẽo. Cậu nhớ lại những cái cây tụm lại nơi chân trời, con đường, khát khát vô vọng được nhìn thấy những gì ở đó.
"Đúng vậy, Thủ lĩnh," Vua Chuột vừa nói v��a từ từ đứng dậy và đội lại vương miện lên đầu. "Thật may khi sống trong những bức tường nơi không có con người để mắt tới. Là một con chuột mà chẳng ai muốn để ý. Khao khát của anh phải mạnh mẽ hơn nếu anh muốn thoát khỏi tủ kính, nếu bạn muốn trở thành thật. Cô ấy yêu anh, và điều đó sẽ khiến mọi chuyện trở nên khó khăn hơn."
Clara yêu cậu. Và cậu yêu cô ấy. Phải không?
Vua Chuột vội vã mở cửa tủ. "Một điều cuối cùng," hắn tanói khi đặt chân lên vách đá. "Cẩn thận Droessen. Anh là một món quà cho Clara, một phương tiện để gã đó tán tỉnh cô ấy và không gì hơn."
"Hắn cũng yêu cô ấy, phải không?"
"Ai mà biết được tên thợ đó yêu ai? Tốt nhất là đừng hỏi. Tôi nghĩ câu trả lời sẽ chẳng khiến ai hài lòng đâu."
Vua Chuột biến mất, cái đuôi màu hồng đang chạy theo phía sau.
* * *
Clara cố tránh đi chỗ khác. Cô chuẩn bị chỉ trong một đêm, rượu vang và khách mời vui vẻ cùng những trò chơi. Nhưng ngày hôm sau, cô lẻn ra khỏi sân trượt băng trên hồ và chạy đến tủ kính, giấu kẹp hạt dẻ dưới áo khoác của mình và chạy lên cầu thang đến tầng thượng yên tĩnh.
Chàng là người lính của ta sao? Cô thì thào trong cái nắng mùa đông lạnh lẽo vạch nên những ô vuông chiếu sáng trên sàn nhà phủ bụi.
Chàng là hoàng tử của ta sao? Cô đưa một quả óc chó vào giữa hàm của cậu.
Chàng là thân thương của ta sao?
Chàng là của ta phải không?
Không lâu sau đó. Cơ thể của kẹp hạt dẻ duỗi ra và đầu cậu vỡ ra để lộ khuôn mặt đẹp trai như hoàng tử của cô.
"Đúng vậy," cậu nói. Cậu mỉm cười như thường lệ, nhẹ nhàng chạm tay vào mặt cô, nhưng rồi đôi mắt cậu chứa đầy rắc rối.
Cậu ấn chặt đầu ngón tay vào miệng, liếm môi và cau mày như thể vị quả óc chó không hợp với cậu.
"Hôm nay chúng ta sẽ đi đâu, hoàng tử của ta?" Clara hỏi.
Nhưng cậu không nắm lấy tay cô. Cậu ngồi dậy, lướt các ngón tay qua tia nắng mặt trời từ cửa sổ, rồi đứng dậy nhìn ra ngoài tấm kính.
"Bên ngoài," cậu nói. "Ta muốn xem con đường đó dẫn tới đâu."
Yêu cầu đó quá bình thường, nhưng lại quá bất ngờ, Clara không thể hiểu được trong một khắc. "Điều đó là không thể."
"Đó là điều ta muốn." Cậu nói những lời đó như thể đã thực hiện một khám phá vĩ đại, một phát minh mới, một phép thuật. Nụ cười của cậu tỏa sáng. “Clara thân mến, đó là điều ta muốn."
"Nhưng điều đó là không thể," cô trả lời, không biết phải giải thích như thế nào.
Sự hào hứng của cậu chợt tắt và cô thấy có một nỗi sợ trong ánh mắt cậu. "Ta không thể quay lại tủ kính."
Giờ thì cô hiểu rồi. Rốt cuộc. Rốt cuộc.
Cô nắm lấy tay cậu. "Chàng không bao giờ cần phải quay lại tủ kính.
Chỉ cần đưa ta về nhà với chàng và ta sẽ bỏ nơi này lại. Chúng ta có thể ở lại mãi trong xứ sở mộng mơ."
Cậu ngập ngừng. "Đó là điều nàng muốn."
"Vâng," Clara nói, nghiêng đầu lên. "Đó là điều ta luôn muốn." Cô tha thiết. Mồ hôi chảy trên cổ cô. Hôn ta đi, cô khẩn cầu. Trong mọi câu chuyện đều cần một nụ hôn. Đưa ta ra khỏi đây.
Cô không thể chờ thêm nữa. Clara nhón chân và đặt vào môi cậu một nụ hôn. Cô đưa lưỡi cảm nhận vị hạt óc chó và thứ gì khác, mùi gỗ sơn chẳng hạn. Nhưng cậu chẳng hề nắm lấy tay cô, chẳng hề kéo cô lại gần hơn. Cô không cảm nhận được luồng gió nào thổi qua mặt hay đàn ngựa phi nước đại bên dưới. Đến khi cô mở mắt, vẫn là căn gác xép lụp xụp bụi bặm này.
Kẹp hạt dẻ khẽ chạm đốt tay vào má cô. "Ta muốn ra ngoài," cậu nói.
Clara nhăn mặt và đứng im tại chỗ như thể cô là đứa bé khi Droessen lần đầu đặt kẹp hạt dẻ vào tay thay vì một thiếu nữ 17 tuổi. Ta muốn. Cô không chắc tại sao những lời nói đó lại làm cô tức giận đến thế. Có lẽ là do trước đây kẹp hạt dẻ chưa từng nói như vậy với cô.
"Ta đã nói rồi," cô gắt gỏng hơn những gì dự định. "Không thể nào. Chàng không thuộc về nơi này."
Frederik nói: "Anh sẽ đưa em ra ngoài."
Clara lưỡng lự trước câu nói của anh trai cô. Anh ấy đứng trên cùng cầu thang gác mái, nhìn kẹp hạt dẻ với đôi mắt mê hoặc.
Nhưng Frederik chỉ đơn giản là nắm cổ tay cô, giữ cô tránh xa. Anh lớn hơn cô một tuổi và mạnh hơn nhiều. Anh lắc đầu, mắt không rời khỏi kẹp hạt dẻ. "Dừng lại đi, Clara."
"Tôi nhận ra anh," kẹp hạt dẻ nói, quan sát anh ta. Anh ta đến và chào hỏi. "Chỉ huy."
Frederik nhìn Clara một cái nhìn cảnh cáo và buông tay. Với một nụ cười ngập ngừng, anh đáp lại lời chào của kẹp hạt dẻ.
"Vâng," Frederik nói, đi về phía anh ta. "Chỉ huy. Tôi tưởng anh đã chết cả trăm lần rồi."
Kẹp hạt dẻ cau mày. "Tôi nhớ."
Frederik lẩm bẩm: "Anh có vẻ thay đổi rồi."
Sự bối rối hiện lên khuôn mặt của kẹp hạt dẻ. "Có sao?"
Frederik gật đầu. "Tôi sẽ đưa anh xuống lầu," anh nhẹ nhàng nói, như thể đang dỗ dành một chú mèo con bằng một ít thức ăn. "Tôi sẽ đưa anh ra ngoài."
"Con đường dẫn đến đâu?" kẹp hạt dẻ hỏi.
"Getterdam. Một nơi kỳ diệu. Tôi sẽ kể cho anh nghe sau."
"Frederik," Clara giận dữ nói. "Anh không thể làm vậy."
"Ta sẽ nói anh ấy là bạn học của mình. Ta sẽ nói là anh ấy vừa nhập ngũ."
Cô lắc đầu. "Không thể."
"Mẹ sẽ rất vui nếu có một chàng trai bảnh bao mặc quân phục dùng bữa tối cùng chúng ta." Frederik nở nụ cười xảo quyệt. "Em có thể khiêu vũ với anh ấy tại bữa tiệc tối nay."
Clara không muốn khiêu vũ với cậu ở bữa tiệc ngu ngốc đó. Cô muốn khiêu vũ với cậu trong một nhà thờ hoa chuông. Cô muốn được chào đón như một công chúa bởi một dàn hợp xướng thiên nga. Cô ấy muốn có đôi cánh. Nhưng cô không thể nói điều đó với Frederik, mà đang đứng quá gần kẹp hạt dẻ, tay đặt lên vai như thể họ là bạn tốt ở trường, như thể hoàng tử của cô ấy là một đội trưởng trẻ trung, sẵn sàng gia nhập lực lượng Kerch trong chiếc áo khoác xanh với cúc sáng loáng.
"Frederik," cô năn nỉ.
Nhưng anh trai cô đã dẫn kẹp hạt dẻ qua gác mái, đẩy cậu lên cầu thang.
Frederik nói, "Lại đây, Clara," nụ cười xảo quyệt dần rõ hơn. "Đó là điều anh ấy muốn."
* * *
Nụ hôn làm cậu bối rối. Khi Clara năn nỉ được đưa đến vùng đất mộng mơ, kẹp hạt dẻ gần như đã quên bản thân cậu vì cô. Rồi, dưới ánh nắng mặt trời ẩm ướt của gác mái, cô quay mặt về phía cậu, hôn môi cậu, và cậu cảm thấy thèm muốn—của cô hay của cậu? Thật không thể lý giải được, nhưng chắc hẳn cậu muốn cô ấy, bởi vì đột nhiên cậu có thể cảm nhận được cái lạnh từ cửa sổ một lần nữa, kéo cậu ra ngoài đến khu ổ chuột, khu rừng, mưa tuyết. Rồi Frederik ở đó với ánh mắt sáng rực và nhìn chằm chằm, ham muốn mãnh liệt như ngọn lửa, thật nguy hiểm. Kẹp hạt dẻ cảm thấy ý chí của cậu trở nên yếu ớt và dễ thay đổi. Cậu nghĩ nếu cậu nhìn vào chỗ vai Frederik vừa chạm, cậu có thể thấy những vết lõm sâu của ngón tay Frederik vẫn còn ở đó, vết nứt rõ rệt của ngón tay cái. Những suy nghĩ của kẹp hạt dẻ về con đường và những gì bên ngoài ngoài kia đã mờ nhạt.
Họ đi xuống cầu thang. Ngôi nhà đã đầy khách khứa đến dự buổi tối cuối cùng của lễ Nachtspel. Ai nấy cũng thật lộng lẫy và nổi bật, với đường nét sắc sảo và ánh mắt cần thiết khi họ nhìn cậu trong bộ đồng phục ngụy tạo và nhìn cậu như thể đứa con thất lạc, người yêu, người bạn, mối đe dọa. Cậu đón tiếp cha mẹ Clara và Frederik một cách cẩn thận và kính trọng.
Frederik gọi cậu là Josef, và tên cậu là Josef. Clara nói cô đã gặp cậu ấy vào một buổi chiều tại một bữa tiệc trượt tuyết và mọi chuyện đúng là như vậy. Cậu ấy từ đâu tới? Zierfoort. Sĩ quan chỉ huy của cậu ấy là ai?
"Cha,” Frederik vừa nháy mắt vừa nói, “đừng hỏi những câu khiến Josef khó xử. Con đã nói với cậu ấy đây là một bữa tiệc vui và giải trí, không phải một cuộc thẩm vấn."
Họ đưa cậu ăn ngỗng quay và bánh chiên nhân lý chua*. Cậu liếm đường từ mận tẩm đường, uống cà phê làm từ hạt Caraway, sau đó là một ly rượu vang. Mùi vị làm cậu cảm thấy hoang dại, gần như điên rồ, nhưng cậu biết mình không được mất kiểm soát. Ở đó, từ góc nhìn của gã, những đốm đen của tủ rượu, đứng dựa vào tường như một chiếc quan tài mở đầy những đôi mắt thủy tinh và cánh tay ma mị. Và ở đó, Droessen, tên thợ đồng hồ, gã đàn ông mặc áo nhung, từ nãy chỉ chăm chăm nhìn Clara như thể gã muốn tách cô ấy ra, bây giờ lại quay ra nhìn kẹp hạt dẻ với ánh mắt lạnh lùng ảm đạm.
*lý chua: là một loại cây bụi, từ chi lý chua Ribes, họ Grossulariaceae; có nhiều tác dụng với sức khỏe.
Một ký ức khác hiện đến: Droessen với tay vào trong tủ. Nói ta biết, thợ đồng hồ thì thầm. Nói ta biết bí mật của cô ấy.
Kẹp hạt dẻ cảm thấy hối hận kinh khủng. Cậu đã phản bội Clara một cách không chần chừ, nói ra từng mong muốn và ước nguyện của cô ấy, miêu tả những nơi họ đã đến cùng nhau, từng sinh vật, từng viễn cảnh ma thuật. Không cần phải tra tấn. Cậu chỉ nói chuyện thôi. Cậu không phải là một người lính nữa mà là một điệp viên.
Bây giờ cậu không thể chuộc lỗi được nữa. Cậu biết mình phải giữ nguyên bản dạng của bản thân, giữ nguyên khát khao được ra ngoài chỉ cách vài bước, một cánh cửa hoặc cửa sổ luôn mở toang. Ketterdam—cậu phải nhớ. Nhưng thế giới bắt đầu mờ dần đi—mùi nước hoa, mồ hôi, tay Frederik đặt trên vai, đôi mắt bồn chồn của Clara khi họ khiêu vũ. Cậu biết được những tiếng bước chân mà không thể mở miệng, nhưng chúng quay và xoay, và cô ấy thì thầm với cậu, "Hãy đưa ta ra khỏi nơi này."
Cậu hôn cô dưới cầu thang. Cậu hôn Frederik trong hành lang tối.
"Anh yêu em ấy không?" Frederik hỏi. "Anh cũng có thể yêu tôi không?"
Cậu yêu cả hai người họ. Cậu không yêu ai cả. Trong bóng tối phía sau vòm sáng ánh lên từ ngọn lửa, kẹp hạt dẻ đôi mắt đen nháy ấy nháy sáng, ánh sáng của một vương miện nhỏ, và đó hẳn là Vua Chuột. Cuộc đời bắt đầu từ việc ham muốn một cái gì đó cho bản thân mình.
Kẹp hạt dẻ nghĩ đến khúc cua trên đường và những gì có thể xuất hiện ngoài đó.
Từng người một rời khỏi xe ngựa hoặc lên lầu để nghỉ ngơi.
"Anh ấy có thể ngủ trong phòng tôi," Frederik nói.
"Vâng," kẹp hạt dẻ đáp.
"Ta sẽ đến gặp chàng," Clara nói nhỏ.
"Được," kẹp hạt dẻ đáp.
Nhưng cậu không đến phòng Frederik. Cậu nán lại ở cầu thang khi nến tắt và tầng dưới trở nên im ắng. Sau đó cậu lại đi xuống phòng ăn. Đã đến lúc; những cánh cửa dẫn đến phần còn lại của thế giới có hình dạng tối đen dựa vào bức tường, nhưng cậu cần phải nhìn lại tủ kính một lần nữa.
Ánh trăng tràn vào qua ô cửa sổ, phòng ăn trông như một nhà bếp trong con tàu đắm, ẩn dưới dòng đại dương sâu thẳm. Tủ kính nằm im lặng một góc. Căn phòng trông có vẻ rộng hơn vì không lấy một bóng người.
Cậu băng qua đó chậm rãi, nghe tiếng giày vọng lại trong căn phòng trống, ngửi mùi tàn dư của thuốc, mùi gỗ xanh của cành thông buộc bó trên lò sưởi và trên cửa sổ. Khi cậu đến gần tủ, cậu có thể thấy hình phản chiếu của mình lặp đi lặp lại trong các tấm kính của cánh cửa, một cái bóng nhỏ đang lớn dần. Cậu nhìn vào trong và thấy những chiếc bàn mùa đông của chuột và những cái cây tí hon, những người lính xếp hàng, những con rối đầu nghiêng vẹo và những sợi dây ẻo lả, những con búp bê hai má hồng, mắt mí lót ngồi không ra tư thế.
"Tôi biết anh," cậu thì thầm, và chạm ngón tay vào kính. Những nàng tiên bé nhỏ treo lơ lửng trên dây với đôi cánh thông và những chiếc váy tơ, Mẹ Gừng ngồi dang chân, và Nữ hoàng Grove với làn da nhợt nhạt và những chiếc gạc bạc.
"Đều do tôi làm đó." Kẹp hạt dẻ quay người lại khi thấy Droessen đang theo dõi cậu từ giữa phòng. Giọng gã ta êm dịu như bơ. "Mọi bản lề, mọi nước sơn. Tôi đã tạo ra thế giới trong mơ của cô ấy từ những chi tiết mà cậu kể cho tôi. Và đó là những món đồ chơi mà cô ấy yêu quý chứ không phải tôi." Gã ta bước từng bước lặng lẽ, như thể được làm bằng lông vũ hoặc khói. "Cậu có ngưỡng mộ tác phẩm của tôi không?"
Kẹp hạt dẻ biết mình nên gật đầu và nói có, phải, cậu đã làm vậy, vì đây là thợ đồng hồ mà Vua Chuột đã nhắc nhở cậu trước đây, người muốn Clara, hoặc sự giàu có, hoặc gia đình, hoặc những vấn đề khác hoàn toàn cho gã ta. Nhưng kẹp hạt dẻ cảm thấy khó khăn trong việc cất lời.
"Thú thật," thợ đồng hồ nói, "Tôi thấy tự hào. Tôi thích được nhìn những tác phẩm của mình, nhìn trẻ con cười. Tôi thích cái sự kỳ diệu trong ánh mắt họ. Nhưng dường như ngay cả tôi cũng không biết mình làm sao có thể đạt được những điều kỳ diệu đó."
Gã ta tự nhiên hơn trước, và trên người gã có mùi thuốc lá và dầu xả. Là mùi quen thuộc.
"Tôi nên đi rồi," kẹp hạt dẻ nói, nhẹ nhõm hơn vì chí ít cậu vẫn nói được gì.
Droessen cười khẽ. "Cậu có thể đi được đâu chứ?"
"Đến Zierfoort. Đến trung đoàn của tôi."
"Cậu không phải là người lính."
Cậu có, cậu nghĩ thầm. Không, cậu tự trách mình. Cậu đang giả vờ là một người lính. Đó không giống nhau.
Thợ đồng hồ lại cười. "Cậu không biết mình là ai đâu."
Josef, đó là tên cậu, phải không? Hay là một vị khách khác trong bữa tiệc?
"Anh là ai?" kẹp hạt dẻ hỏi, ước gì cậu có thể lùi lại, nhưng không có gì phía sau cậu ngoài cái tủ kính. "Anh là gì?"
"Một thương gia khiêm tốn."
"Tại sao lại bắt tôi phản bội Clara?"
Một nụ cười hiện lên mặt Droessen, và không một quý bà quý ông nào từng chào đón thợ đồng hồ trong phòng khách có thể nhận ra con sói này, răng của gã. "Là cậu không trung thành với Clara. Tôi tạo ra cậu trong xưởng của tôi." Gã nói: "Giữa hai hàm của cậu, tôi đặt một ngón tay của một đứa trẻ, và rồi cạch."
Kẹp hạt dẻ lắc đầu. "Anh điên rồi."
"Và cậu làm bằng gỗ."
Kẹp hạt dẻ giơ tay lên ngực. "Trái tim tôi đang đập. Tôi có thể thở."
Thợ đồng hồ nhe răng cười. "Hơi thổi tạo ra lửa. Đồng hồ lắc. Những thứ đó có sống không?"
Có lẽ, kẹp hạt dẻ nghĩ. Có thể tất cả chúng đều sống.
"Cậu không nằm mơ," thợ đồng hồ nói. "Cậu không muốn. Cậu không có linh hồn. Cậu chỉ là một món đồ chơi."
Một món đồ chơi. Kẹp hạt dẻ cảm thấy nhịp tim của cậu chậm lại. Chẳng phải cậu đã tin Clara khi cô nói cậu là hoàng tử yêu dấu của cô? Cậu không tin sao khi Frederik nói rằng tên trộm là người chỉ huy? Cả hai đều là thật. Cả hai đều không đúng. Vậy có lẽ cậu là một món đồ chơi nhưng cũng có sự sống.
Vua Chuột đã nhắc nhở cậu: khao khát của anh phải mạnh mẽ hơn.
"Tôi muốn …," kẹp hạt dẻ nói. Nhưng cậu muốn gì? Cậu không thể nhớ hết được. Chuyện này bắt đầu như thế nào? "Tôi đã—"
Thợ đồng hồ nghiêng lại gần hơn. "Cậu là một đứa trẻ mà tôi tìm được từ một ngôi nhà nhỏ. Tôi cho cậu ăn mùn cưa cho tới khi lớn lên."
"Không," kẹp hạt dẻ nói, nhưng cậu cảm thấy bụng mình đầy những miếng gỗ, cổ họng cậu nghẹn lại vì bụi.
"Cậu là đứa trẻ tôi lấy trộm từ một bệnh viện. Chỗ cậu có dây chằng, tôi thì bị đứt. Chỗ cậu có xương, tôi sửa lại gỗ và kim loại. Cậu lải nhải mãi cho đến khi tôi lấy dây thanh quản của cậu và làm cho cổ họng cậu trống rỗng rồi thay vào đó sự im lặng hoặc bất kỳ câu nói nào tôi thích."
Kẹp hạt dẻ ngã gục xuống đất. Cậu không thể kêu cứu. Đầu óc cậu trống rỗng. Ngực cậu trống rỗng. Miệng cậu đắng vị hạt óc chó.
Bây giờ Droessen dựa vào món đồ chơi tội nghiệp bị hỏng. Gã ta có vẻ quá to lớn, quá cao, quá xa, và kẹp hạt dẻ biết rằng cơ thể gã đang biến nhỏ lại.
"Cậu là một ý tưởng trong đầu tôi," thợ đồng hồ nói. "Cậu chẳng là gì cả, và cậu sẽ biến mất khi tôi không còn nghĩ về cậu nữa."
Kẹp hạt dẻ nhìn vào đôi mắt xanh nhạt của Droessen và nhận ra. Hắn vẽ mắt mình giống hắn ta. Kẹp hạt dẻ cảm thấy ý chí bản thân mờ dần khi hiểu rằng cậu chỉ là Droessen. Rằng từ trước giờ cậu chỉ là Droessen.
Trên vai thợ đồng hồ, cậu nhìn thoáng qua con đường dưới ánh trăng và những cánh đồng phủ đầy tuyết ở phía xa. Con đường quanh co … dẫn tới đâu? Một thành phố? Đến Ketterdam? Cậu khao khát được trông thấy—những con kênh uốn lượn, tất cả những ngôi nhà quanh co quây quần bên nhau. Cậu tưởng tượng ra những mái nhà của thành phố chen chúc nhau, những con thuyền trên mặt nước, những người câu cá đang mời chào khách. Không là gì cả. Không đủ. Mình là một món đồ chơi. Mình không cần gì ngoài ngồi im trên tủ chờ đợi phục vụ người khác.
Cậu cảm thấy mình được nhấc lên, nhưng thợ đồng hồ không đặt cậu trở lại tủ. Thay vào đó, gã ta sải bước về phía ngọn lửa. Kẹp hạt dẻ tự hỏi liệu Clara và Frederik có buồn khóc vì cậu không.
Rồi thợ đồng hồ càu nhàu, chửi bới. Thế giới quay cuồng khi kẹp hạt dẻ thấy mình rơi xuống. Cậu ngã mạnh xuống sàn.
Cạch, cạch, cạch. Kẹp hạt dẻ nghe thấy tiến móng vuốt xượt dài trên gỗ, sau đó là liên tục các tiếng rít. Chuột tràn ra từ các bức tường, chui vào luồn lách quần của thợ đồng hồ. Gã ta đá đập chúng, loạng choạng lùi lại.
“Hãy nhớ lại chính mình,” một giọng nói cao vút bên tai kẹp hạt dẻ. Vua Chuột đội vương miện đi tới.
Mình là một món đồ chơi, kẹp hạt dẻ nghĩ. Mình nhớ người tạo ra mình đã nghiêng người về phía mình, cây cọ trên tay, nét mặt tập trung khi anh ta hoàn thành món quà này cho cô gái mà anh đang tán tỉnh. Kẹp hạt dẻ đã bị nguyền rủa ngay từ đầu. Giá như cậu được tạo ra bởi một bàn tay hào phóng. Giá như cậu có một người cha thực sự.
“Đó là cách, Thủ lĩnh,” Vua Chuột bật khóc.
"Cút đi, thứ hèn hạ!" Droessen cáu kỉnh, đá vào những sinh vật đang vặn vẹo.
Một người cha. Kẹp hạt dẻ cảm thấy ngón tay mình bị bẻ cong. Người nào đó tốt bụng, không muốn gì ở con trai ngoài việc con có thể tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Kẹp hạt dẻ duỗi chân. Người nào đó muốn cả thế giới dành cho cậu, thay vì một chỗ trên tủ kính. Một người cha.
Kẹp hạt dẻ ngẩng đầu lên. Droessen đang sải bước về phía cậu, nhưng gã ta không còn là người khổng lồ nữa.
Kẹp hạt dẻ lại nghĩ đến con đường, nhưng giờ cậu thấy con đường là tương lai—con đường mà cha cậu muốn cậu chọn lấy. Cậu tưởng tượng thấy tuyết rơi trên tóc, mặt đất dưới đôi ủng, chân trời vô tận, một thế giới đầy may rủi và thời tiết thay đổi thất thường—mây xám, mưa đá, sấm sét, những điều bất ngờ. Một âm thanh mới vang lên trong lồng ngực đang dâng trào của cậu, một tiếng thình thịch, thình thịch, thình thịch.
Sẽ có những khu rừng dọc theo con đường đó, những con vật ở đó, một dòng sông chảy mang theo những tảng băng, những chiếc thuyền vui nhộn buộc cánh buồm lại khi đông đến. Cậu sẽ thấy đói bụng trên đường. Cậu sẽ cần thức ăn. Cậu sẽ ăn bắp cải cuộn và bánh gừng và uống rượu táo lạnh. Bụng cậu réo rắt.
Thợ đồng hồ nói: “Đáng lẽ ra, tôi nên đốt cháy cậu ngay cái ngày tôi tạo ra cậu trong cửa tiệm,” Nhưng đã quá trễ rồi. Kẹp hạt dẻ đứng dậy và bắt gặp ánh nhìn của gã, mắt đối mắt.
“Anh không thể,” kẹp hạt dẻ nói. "Anh quá thương tôi." Đó không đúng. Nhưng Clara đã biến cậu trở thành hoàng tử nhờ niềm khao khát mãnh liệt của cô; cậu cũng có thể.
Droessen cười. "Có vẻ như cậu có một món quà hay ho gì đó."
“Anh là cha tôi,” kẹp hạt dẻ nói.
“Tôi của người tạo ra cậu,” thợ đồng hồ gằn giọng.
"Anh đã thổi sự sống vào tôi với tất cả tình yêu trong trái tim anh."
Thợ đồng hồ lắc đầu, lùi lại một bước khi kẹp hạt dẻ tiến lên. “Tôi chế tạo ra cậu bằng kỹ năng. Sự quyết tâm."
"Anh nhìn tôi với ánh mắt đó tôi có thể thấy."
"Không."
"Anh đã tặng tôi cho Clara để cô ấy có thể đánh thức tôi như một hoàng tử trong truyện cổ tích, cho Frederik để tôi có thể học cách chiến đấu."
"Cậu là đồ vật tôi đem tặng!" thợ đồng hồ thở hổn hển. "Điệp viên của tôi và không có gì hơn!" Nhưng giọng nói của gã ta nghe rất lạ và nhỏ. Gã loạng choạng như thể không cử động đôi chân.
“Anh đã mơ về một đứa con,” kẹp hạt dẻ nói, mong muốn của cậu thúc đẩy cậu tiếp tục. “Không phải một cái đồng hồ vụng về, mà là một cậu bé có thể học hỏi, một cậu bé có ý chí và ước mơ của riêng mình.”
Droessen hét lên một tiếng như bị bóp cổ và ngã lăn ra sàn trong tiếng va đập của gỗ, chân tay cứng đờ, miệng ngoác ra, nhe răng.
"Anh chỉ có mong muốn rằng tôi có thể sống," cậu nói và quỳ xuống nhìn con búp bê nhàu nát nằm một đống trên sàn nhà. "Anh sẽ phải hy sinh cuộc sống của chính mình để biến nó thành hiện thực."
Cậu đỡ Droessen lên, nhẹ nhàng ôm gã trong tay. "Đó là tình yêu anh dành cho tôi, Cha." Cậu mở cửa tủ và đặt con búp bê nhỏ duyên dáng với đôi mắt xanh nhạt vào trong. "Hi sinh cuộc sống của anh cho tôi."
* * *
Cậu thanh niên lẳng lặng rời qua cửa trước của ngôi nhà và đi về hướng đông dọc theo con đường, về phía mặt trời trên bầu trời xám xịt.
Khi bắt đầu mọi chuyện, cậu phát hiện ra nỗi cô đơn trong sự tĩnh lặng trong suy nghĩ của chính mình. Cậu cảm thấy dư âm khao khát trong trái tim đang đập nhanh của mình - một nỗi nhoi nhói dành cho Clara, cho Frederik.
Sau rồi tất thảy đã biến mất. Không ai theo dõi và chỉ có một mình, cậu bước những bước đầu tiên trên con đường đầy tuyết. Cậu lại trở nên vô danh, không ai đến giúp đ�� hay chỉ đường cho cậu, không ai ra lệnh cho hành động tiếp theo của cậu ngoài chính bản thân cậu.
Trở lại ngôi nhà ven hồ, nhà Zelverhauses, những vị khách của họ và những người hầu đang say sưa. Họ ngủ đến gần trưa, khi họ loạng choạng rời khỏi giường của mình, tâm trí vẫn còn vẩn vơ với những giấc mơ kỳ lạ. Họ phát hiện cửa trước của ngôi nhà bị bỏ ngỏ và tuyết đã lấp đầy lối vào. Có hai bộ đường ray dẫn đến con đường.
Cha và bạn bè của Clara dắt ngựa và tìm thấy Clara một giờ sau đó, cách nhà hàng dặm, mặc đồ mỏng manh, đi chân trần, môi cô tím lại vì lạnh.
“Chàng ấy không nên bỏ con lại mà rời đi,” cô khóc khi cha ôm cô vào lòng. "Chú ngựa có cánh của con ở đâu rồi?"
“Ở kia, ở kia” ông nói. "Kia kia."
Thật không may, khi trở lại bữa tiệc, mọi người đều đã thức giấc chứng kiến cảnh Clara loạng choạng bước lên bậc thềm mà không mặc gì ngoài chiếc váy ngủ và áo khoác của cha cô, khuôn mặt sưng vù vì khóc, mái tóc rối bù sẫm màu. Người ta phát hiện ra rằng Droessen đã khởi hành vào một lúc nào đó trong đêm, và ngay sau đó có những lời thì thầm về một cuộc hẹn hò bí mật lúc nửa đêm, sự say mê điên cuồng, tất cả đều gây ra nhiều tai tiếng hơn bởi mùi hôi hám gây nghiện của thợ đồng hồ ở khắp mọi nơi ngay từ đầu.. Tin đồn càng trở nên tồi tệ hơn khi nhiều ngày, rồi nhiều tuần trôi qua và cửa hàng của Droessen vẫn đóng cửa. Dường như không ai còn nhớ đến người lính trẻ trong bộ quân phục màu xanh sáng.
Clara lên giường, và cô ở đó trong một tháng, không nói chuyện với ai và từ chối ăn bất cứ thứ gì ngoài bánh hạnh nhân. Cô chỉ muốn ngủ và mơ được khiêu vũ với hoàng tử của mình và bay cùng Nữ hoàng Grove. Nhưng cuối cùng cô không thể ép mình ngủ được nữa và cô đã nhét đầy miệng với hạnh nhân.
Cô đứng dậy, tắm rửa và đi ăn sáng thì biết rằng danh tiếng của mình sớm đã bị lời ra tiếng vào. Clara không quan tâm. Cô không thể tưởng tượng mình sẽ kết hôn với con trai của một thương gia bình thường nào đó hay chọn sống trong một thế giới xám xịt suốt phần đời còn lại. Cô cân nhắc các lựa chọn của mình và không quyết định gì khác ngoài việc trở thành một nhà văn. Cô bán đôi bông tai ngọc trai của mình và chuyển đến Ketterdam, nơi cô chọn một căn hộ nhỏ có cửa sổ hướng ra bến cảng để có thể quan sát những con tàu ra vào. Ở đó, cô viết những câu chuyện kỳ ảo hấp dẫn trẻ em, và dưới một cái tên khác, cô viết những tác phẩm buồn khiến cô cảm thấy thích thú với món kẹo nougat và kem ngọt mà cô luôn chia sẻ với các chú chuột.
Một buổi sáng, cô thức dậy và nghe tin có kẻ đột nhập vào cửa tiệm của thợ đồng hồ và lấy cắp tất cả đồ của anh ta. Cô mặc áo khoác và đi xuống phía đông Wijnstraat, nơi một đám đông người xem đã tụ tập lại như kim đồng hồ sắp xung quanh, vò đầu suy nghĩ. Một người phụ nữ sống bên kia con kênh cho biết bà ta đã nhìn thấy một người đàn ông vào cửa hàng đêm hôm trước.
“Là một người lính,” bà nói. “Tất cả đều mặc phục trang. Và khi bước ra, hắn ta không đi một mình. Hắn dẫn đầu cả một đoàn diễu hành xuống phố. Lãnh chúa và quý bà trong bộ đồ nhung mịn, một cậu bé có đôi cánh. Tôi thậm chí còn nghe thấy cả tiếng sư tử gầm”.
Ông chồng vội vàng dẫn bà đi, nói rằng vợ ông đã ngủ không ngon giấc từ khuya và chắc hẳn không nhận ra mình vẫn đang mơ. Clara trở về nhà, một ý tưởng mới cho một câu chuyện đang giằng xé suy nghĩ của cô, và chỉ dừng lại để mua một ít caramen và một túi cam chua.
Khi Frederik tốt nghiệp ra trường, anh tiếp quản việc kinh doanh của gia đình và lên một trong những con tàu của cha mình để lấy một chuyến hàng chở trà từ Novyi Zem. Nhưng đến lúc trở về nhà, anh lại lên một con tàu khác, rồi một tàu khác, chỉ dừng lại cảng vừa đủ để gửi một tấm bưu thiếp hoặc thỉnh thoảng, một bưu kiện. Anh gửi về nhà một gói trà ngon nức mũi; một loại khác, khi nhấm nháp trước khi đi ngủ, đảm bảo rằng bạn sẽ mơ về thành phố nơi bạn sinh ra; và một tổ hợp đắng đến nỗi riêng chỉ một ngụm cũng có thể khiến bạn rơi nước mắt tận ba giờ. Cha mẹ của Frederik đã viết thư mong anh quay lại và tiếp nhận trách nhiệm của anh. Mỗi lần như vậy, anh đều thề sẽ tuân theo. Nhưng sau đó gió đổi hướng và biển nổi sóng, và anh sẽ thấy mình trên tàu một lần nữa, nhất định một thế giới khác đang chờ đợi anh phía bên kia chân trời.
Vì vậy, gia đình Zelverhaus bị ruồng bỏ và đế chế của họ bị bỏ lại mà không có người thừa kế. Ngôi nhà bên hồ trở nên vắng lặng. Sau đêm kỳ lạ và những lời đàm tiếu sau đó, Althea và chồng bà không tổ chức tiệc tùng nữa và khách khứa cũng vãn dần. Vào một vài bữa tối yên tĩnh mà họ tổ chức, khách rời đi sớm, mong sớm được ra khỏi phòng ăn nơi họ đã từng rất tự do thoải mái, nhưng giờ đây lại có cảm giác như bị theo dõi bởi ai đó hoặc thứ gì đó cố ý nhắm đến họ.
Vào một đêm như vậy, sau một bữa tối nhạt nhẽo khác, Althea Zelverhaus vô tình đi dạo qua ngôi nhà lớn của bà. Giờ đã muộn. Bà không bận tâm khoác áo choàng vào, mà chỉ mặc chiếc váy ngủ bằng vải bông, và với mái tóc xõa xuống, có lẽ có thể nhầm lẫn giữa bà với cô con gái. Bà nghĩ về việc trả lời bức thư mới nhất của Clara hoặc mở bưu kiện được đánh dấu kỳ lạ mà Frederik đã gửi từ một nhóm bạn ngoại quốc nào đó. Nhưng khi màn đêm buông xuống, bà thấy mình đang đứng trong phòng ăn, trước tủ kính.
Sau khi thợ đồng hồ mất tích, chồng bà đã muốn lấy một cái rìu để đập vỡ và lấy tất cả những thứ bên trong tủ, nhưng Althea nói rằng điều đó sẽ chỉ càng khiến tin đồn trở nên chân thật, và chiếc tủ vẫn nằm trong góc, bám đầy bụi.
Có thứ gì đó trong tủ đã biến mất. Bà cảm thấy chắc chắn về điều đó, nhưng bà không thể nói đó là thứ gì.
Althea mở cửa tủ. Bà với tay qua những con chuột đường và những nàng tiên chạm đến một con búp bê nhỏ bé, xấu xí mà bà chưa từng nhận ra trước đây. Có cái gì đó quen thuộc ở cằm anh, đường chỉ cắt khéo léo trên chiếc áo khoác nhung của anh. Bà lướt ngón tay xuống ve áo nhỏ. Bây giờ bà nhìn kỹ hơn, khuôn mặt nhỏ bé cau có của anh mang một nét quyến rũ nào đó.
Chàng là người lính của ta sao? Bà cúi mình trong sự yên tĩnh của ánh trăng. Chàng là hoàng tử của ta sao? Bà mở miệng cười nhạo chính mình, nhưng không phát ra tiếng. Bà nắm con búp bê chặt hơn.
Chàng là thân thương của ta sao? bà thì thầm khi bắt đầu leo lên cầu thang.
Đồng hồ nhẹ nhàng chuyển động. Ở đâu đó trong căn nhà bà có thể nghe thấy tiếng ngáy của chồng.
Chàng là của ta phải không?
Hết
* * *
Chú thích
[1] Sáng Chế Gia: Fabrikator trong bản gốc, là một tầng lớp pháp sư Grisha có khả năng tạo ra và thao túng các vật thể vật chất, cụ thể như chế tạo vũ khí, trang sức, sửa chữa và bảo trì các thiết bị, thiết kế chế tạo máy móc.
[2] Nachtspel: Một ngày lễ ở đất nước Kerch trong vũ trụ giả tưởng Grishaverse, tương tự với lễ Giáng sinh trong thế giới của chúng ta.
* * *
Biên dịch: Ronie
Biên tập: Diệu Mây
* * *
Tác giả Leigh Bardugo (Ảnh: Vanity Fair)
1 note
·
View note
Text
Mùa hè của Đồng Đồng - Hạ Gia
Về tác giả
Vương Dao (王瑶/Wang Yao), thường được biết đến với bút danh Hạ Gia (夏笳/Xia Jia) là một nhà văn khoa học viễn tưởng và kì ảo người Trung Quốc. Cô học chuyên ngành Khoa học Khí quyển ở Đại học Bắc Kinh, trước khi nhận bằng Tiến sĩ ở lĩnh vực Văn học so sánh và Văn học thế giới tại đây. Hạ Gia bắt đầu sáng tác khoa học viễn tưởng từ năm 2005 và nhanh chóng trở thành một trong những tên tuổi nổi bật của thể loại này ở Trung Quốc. Các tác phẩm của cô đề cập đến nhiều chủ đề hiện đại như công nghệ, môi trường, tương lai và bản sắc văn hóa.
Về tác phẩm
Mùa hè của Đồng Đồng (bản Trung: 童童的夏天, bản Anh: Tongtong's Summer) là một truyện ngắn của Hạ Gia. Truyện đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau: Anh, Ba Lan, Ý, Séc, Pháp. Bản dịch tiếng Anh của Ken Liu được đăng trên tạp chí Clarkesworld năm 2014.
๋࣭ ⭑⚝
Mẹ nói với Đồng Đồng, “Vài ngày nữa, ông ngoại sẽ chuyển đến ở với chúng ta nhé.”
Sau khi bà ngoại mất, ông ngoại sống một mình. Mẹ bảo Đồng Đồng rằng vì ông ngoại đã làm cách mạng cả đời nên ông chẳng thể nhàn rỗi được. Dù tuổi đã ngoài tám mươi, ông vẫn nhất quyết đến phòng khám hàng ngày để thăm khám cho bệnh nhân. Mấy hôm trước, do trời mưa nên ông đã ngã trên đường trở về từ phòng khám và bị thương ở chân.
May mắn thay, ông nhanh chóng được đưa đến bệnh viện, ở đó họ bó bột cho ông. Sau vài ngày nghỉ ngơi và hồi phục, ông đã sẵn sàng xuất viện.
Mẹ nhấn mạnh từng lời của mình, “Đồng Đồng, ông của con đã già và không phải lúc nào cũng có tâm trạng tốt. Con đã đến tuổi biết nghĩ rồi. Cố gắng đừng làm ông phiền lòng, được chứ?”
Đồng Đồng gật đầu, nghĩ ngợi, Nhưng chẳng phải mình vẫn luôn quan tâm đến ông sao?
๋࣭ ⭑⚝
Chiếc xe lăn của ông ngoại trông giống một chiếc ô tô điện thu nhỏ, với một cần điều khiển nhỏ xíu gắn bên tay vịn. Ông ngoại chỉ cần đẩy nhẹ cần điều khiển về một hướng là chiếc xe lăn sẽ lướt êm ái theo hướng đó. Đồng Đồng nghĩ rằng nó thật là ngộ.
Kể từ ngày Đồng Đồng bắt đầu biết nhớ, cô bé đã có chút sợ ông ngoại mình. Ông có khuôn mặt vuông với đôi lông mày dài, trắng và rậm rạp như những chiếc lá thông cứng. Cô bé chưa từng thấy ai có lông mày dài như vậy.
Cô cũng gặp chút khó khăn để hiểu được lời ông. Ông ngoại nói tiếng phổ thông với chất giọng địa phương khá nặng. Trong bữa tối, khi mẹ giải thích với ông rằng cả nhà cần phải thuê người chăm sóc ông, ông liên tục lắc đầu dứt khoát và lặp đi lại lại: “Đừng lo lắng, ha!” Câu đó của ông thì Đồng Đồng còn hiểu được.
Hồi bà ngoại bị ốm, mọi người cũng từng thuê một người chăm sóc bà. Đó là một phụ nữ tới từ nông thôn. Cô ấy thấp và nhỏ, nhưng rất khỏe mạnh. Chỉ một mình cô có thể nhấc bà ngoại - vốn đã tăng cân - ra khỏi giường, tắm cho bà, giúp bà đi vệ sinh, và thay cho bà quần áo. Đồng Đồng đã tận mắt chứng kiến cô làm những điều mạnh mẽ không tưởng ấy. Sau này khi bà ngoại đã mất, người phụ nữ ấy không còn đến nữa.
Sau bữa tối, Đồng Đồng khởi động tường ảnh động để chơi một số trò chơi. Thế giới trong game khác xa so với thế giới xung quanh mình nhỉ, cô bé nghĩ. Trong trò chơi, một người vừa chết. Họ không bị ốm, cũng chẳng ngồi xe lăn. Sau lưng cô, mẹ và ông ngoại vẫn tiếp tục tranh cãi về vấn đề người chăm sóc.
Bố bước tới và nói, “Đồng Đồng, tắt thứ đó đi. Con chơi quá nhiều rồi đó. Nó sẽ làm hỏng mắt của con đấy.”
Bắt chước ông ngoại, Đồng Đồng lắc đầu và nói, “Đừng lo lắng, ha!”
Cả bố và mẹ đều phá lên cười, nhưng ông ngoại thì không hề cười. Ông ngồi với khuôn mặt lạnh như đá, thậm chí khóe miệng còn chẳng buồn nhếch lên.
๋࣭ ⭑⚝
Vài ngày sau, bố trở về nhà với một con robot trông đến là ngốc nghếch. Nó có đầu tròn, cánh tay dài, và hai bàn tay màu trắng. Ở chỗ lẽ ra là hai bàn chân, nó mang một cặp bánh xe để có thể di chuyển tịnh tiến và quay vòng tròn.
Bố nhét một vật gì đó vào phía sau đầu con robot. Cái đầu hình quả trứng đang trống trơn bỗng nhấp nháy ánh xanh nhạt ba lần, th��� rồi trên bề mặt xuất hiện khuôn mặt một người đàn ông trẻ tuổi. Độ phân giải tốt đến mức trông nó giống như một người thật.
“Ồ,” Đồng Đồng nói. “Bạn là người máy à?”
Khuôn mặt mỉm cười. “Xin chào! Tên tôi là A Phúc.”
“Tôi có thể chạm vào bạn không?”
“Dĩ nhiên rồi!”
Đồng Đồng đặt tay lên khuôn mặt mịn màng, và sau đó cô bé sờ nắn cả hai cánh tay và đôi bàn tay của chú người máy. Cơ thể của A Phúc được bao phủ bởi một lớp silicone mềm mại, cảm giác ấm áp như lớp da thật vậy.
Bố bảo Đồng Đồng rằng A Phúc được tạo ra bởi Công ty Công nghệ Guokr, vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm. Ưu điểm lớn nhất của nó là thông minh như người: nó biết gọt táo, rót trà, nấu ăn, rửa bát, thêu thùa, viết lách, chơi piano… Dù sao thì, có A Phúc ở bên đồng nghĩa với việc ông ngoại sẽ được chăm sóc chu đáo.
Ông ngoại ngồi đó, mặt vẫn lạnh như đá, vẫn không nói gì.
๋࣭ ⭑⚝
Sau bữa trưa, ông ngoại ngồi trên ban công để đọc báo. Một lúc sau thì ông ngủ gật. A Phúc đi tới không một tiếng động, dùng hai cánh tay mạnh mẽ bế ông ngoại lên, đưa ông vào phòng ngủ, nhẹ nhàng đặt ông xuống giường, đắp chăn cho ông, kéo rèm rồi bước ra đóng cửa, vẫn không gây ra bất cứ tiếng ồn nào.
Đồng Đồng đã đi theo A Phúc và theo dõi mọi thứ.
A Phúc vỗ nhẹ lên đầu Đồng Đồng. “Sao bạn cũng không chợp mắt đi?”
Đồng Đồng nghiêng đầu và hỏi, “Bạn có thực sự là một người máy không?”
A Phúc mỉm cười. “Ồ, bạn không nghĩ vậy sao?”
Đồng Đồng nhìn A Phúc một cách cẩn thận. Sau đó, cô bé nói, một cách rất nghiêm túc, “Tôi chắc chắn bạn không phải người máy.”
“Tại sao?”
“Một người máy sẽ không cười như vậy.”
“Bạn chưa bao giờ nhìn thấy một robot biết cười à?”
“Khi một con robot cười, nó trông thật đáng sợ. Nhưng nụ cười của bạn không đáng sợ. Vì vậy, bạn chắc chắn không phải là một người máy.”
A Phúc bật cười. “Bạn có muốn xem tôi thực sự trông như thế nào không?”
Đồng Đồng gật đầu. Nhưng tim cô bé lại đập thình thịch.
A Phúc di chuyển tới bức tường video. Từ đỉnh đầu anh ta, một chùm ánh sáng bắn ra và chiếu một hình ảnh lên tường. Ở đó, Đồng Đồng nhìn thấy một người đàn ông đang ngồi trong một căn phòng bừa bộn.
Người đàn ông trong ảnh vẫy tay chào Đồng Đồng. Đồng thời, A Phúc cũng vẫy tay theo cách tương tự. Đồng Đồng xem xét người đàn ông trong hình ảnh: anh ta mặc một bộ áo liền quần dài tay mỏng, màu xám, đeo một đôi găng tay màu xám. Đôi găng tay được bao phủ bởi nhiều ánh sáng nhỏ. Anh ta cũng đeo một bộ kính bảo hộ lớn. Khuôn mặt sau chiếc kính bảo hộ nhợt nhạt và gầy, trông giống khuôn mặt của A Phúc.
Đồng Đồng choáng váng. “Ồ, vậy anh là A Phúc thật ạ!”
Người đàn ông trong ảnh lúng túng gãi đầu và nói, hơi xấu hổ, “A Phúc chỉ là tên mà bọn anh đặt cho con robot. Tên thật của anh là Vương. Em cứ gọi anh là Tiểu Vương nhé.”
Tiểu Vương nói với Đồng Đồng rằng anh là sinh viên đại học năm thứ tư đang thực tập tại bộ phận Nghiên cứu và phát triển của Công ty Công nghệ Guokr. Nhóm của anh đã phát triển A Phúc.
Anh giải thích rằng dân số già dẫn đến các vấn đề xã hội nghiêm trọng: nhiều người lớn tuổi không thể sống độc lập, nhưng con cái của họ không có thời gian để chăm sóc họ. Các viện dưỡng lão khiến họ cảm thấy cô đơn và xa cách với xã hội, và nhu cầu về những người chăm sóc được đào tạo chuyên nghiệp là rất nhiều.
Nhưng nếu một ngôi nhà có A Phúc, mọi thứ sẽ tốt hơn rất nhiều. Khi không được sử dụng, A Phúc có thể chỉ ngồi đó, không hề làm phiền. Khi cần thiết, một yêu cầu có thể được đưa ra và một người điều hành có thể tiếp cận trực tuyến để giúp đỡ người lớn tuổi. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí để người chăm sóc đến nhà, đồng thời tăng hiệu quả và chất lượng chăm sóc.
A Phúc mà họ đang nhìn là một nguyên mẫu thế hệ đầu tiên. Cả nước chỉ có ba nghìn con robot như vậy, đang được ba nghìn gia đình thử nghiệm.
Tiểu Vương nói với Đồng Đồng rằng bà của anh cũng từng bị ốm và phải đến bệnh viện điều trị dài ngày, vì vậy anh có một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc người cao tuổi. Đó là lý do tại sao anh tình nguyện đến nhà cô để chăm sóc cho ông ngoại. May mắn thay, anh với ông ngoại là đồng hương, và anh có thể hiểu được giọng địa phương của ông. Một robot thông thường có lẽ sẽ không thể làm được điều đó.
Tiểu Vương đã giải thích bằng nhiều từ ngữ chuyên môn, và Đồng Đồng không chắc cô bé hiểu hết mọi thứ. Nhưng cô nghĩ ý tưởng về A Phúc thật tuyệt vời, gần giống như một câu chuyện khoa học viễn tưởng.
“Vậy, ông ngoại có biết anh thực sự là ai không ạ?”
“Bố mẹ em biết, nhưng ông ngoại thì chưa. Tạm thời chúng ta đừng nói với ông nhé. Bọn anh sẽ cho ông biết trong vài ngày tới, sau khi ông đã quen với A Phúc hơn.”
Đồng Đồng nghiêm nghị hứa, “Đừng lo lắng, ha!”
Cô bé và Tiểu Vương cùng cười.
๋࣭ ⭑⚝
Ông ngoại thực sự không thể chỉ ở nhà và nhàn rỗi. Ông khăng khăng bắt A Phúc đưa ông đi dạo. Nhưng chỉ sau một lần đi bộ, ông phàn nàn rằng bên ngoài trời quá nóng, và không chịu đi nữa.
A Phúc đã bí mật nói với Đồng Đồng rằng đó là do ông ngoại cảm thấy mất tự chủ, khi có người đẩy ông trên xe lăn. Ông nghĩ mọi người trên đường nhìn chằm chằm vào ông.
Nhưng Đồng Đồng lại nghĩ, Có lẽ tất cả họ đều đang nhìn A Phúc ấy chứ.
Vì ông ngoại không thể ra ngoài nên việc bị nhốt ở nhà khiến tâm trạng của ông trở nên tồi tệ hơn. Vẻ mặt của ông ngày càng chán nản, và đôi khi ông còn bộc phát cơn giận dữ. Có một vài lần ông hét lên và la mắng bố mẹ, nhưng họ không nói gì cả. Họ chỉ đứng đó và lặng lẽ chịu đựng tiếng mắng mỏ của ông.
Nhưng một lần nọ, Đồng Đồng đi vào bếp và bắt gặp mẹ đang trốn sau cánh cửa, khóc.
Ông ngoại bây giờ chẳng có gì giống với ông ngoại mà cô bé nhớ. Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu ông chưa từng trượt chân và bị thương. Đồng Đồng ghét ở nhà. Sự căng thẳng khiến cô bé như nghẹt thở. Mỗi buổi sáng, cô chạy ra khỏi cửa và ở bên ngoài cho đến giờ ăn tối.
Bố nghĩ ra một giải pháp. Bố mang về một vật dụng khác do Guokr sản xuất: một cặp kính. Bố đưa kính cho Đồng Đồng và bảo cô đeo chúng vào và đi vòng quanh nhà. Bất cứ điều gì cô nhìn và nghe thấy đều được hiển thị trên bức tường video.
“Đồng Đồng, con có muốn đóng vai ông ngoại không?”
Đồng Đồng đồng ý. Cô bé tò mò về bất cứ điều gì mới mẻ.
๋࣭ ⭑⚝
Mùa hè là mùa yêu thích của Đồng Đồng. Cô bé có thể mặc váy, ăn dưa hấu và kem que, đi bơi, tìm xác ve sầu trong cỏ, tạt qua vũng nước mưa trong đôi dép, đuổi theo cầu vồng sau một cơn giông, tắm nước lạnh sau khi chạy xung quanh và làm việc đổ mồ hôi, uống nước mận chua, bắt nòng nọc trong ao, hái nho và sung, ngồi ngắm sao ở sân sau vào buổi tối, săn dế bằng đèn pin sau khi trời tối… Nói một cách ngắn gọn: mọi thứ đều tuyệt vời vào mùa hè.
Đồng Đồng đeo kính mới và đi chơi bên ngoài. Cặp kính nặng trĩu và cứ tuột khỏi mũi cô. Cô sợ đánh rơi nó.
Kể từ khi bắt đầu kỳ nghỉ hè, cô bé và hơn chục người bạn, cả nam và nữ, đã cùng chơi với nhau mỗi ngày. Ở tuổi của họ, những trò chơi nhiều vô kể. Sau khi chơi hết các trò chơi cũ, họ sẽ phát minh ra những trò chơi mới. Nếu mệt hoặc quá nóng, họ sẽ đi qua sông và nhảy vào như một đĩa bánh bao được cho vào nồi vậy. Mặt trời chói chang trên cao, nhưng nước sông lại trong lành và mát mẻ. Nơi đây đúng là thiên đường!
Có người đề nghị họ trèo cây. Bên bờ sông có một cây hòe cao vút, thân cao và dày như một con rồng đang vươn lên trời xanh.
Nhưng Đồng Đồng nghe thấy giọng nói khẩn thiết của ông ngoại bên tai cô: “Đừng trèo lên cái cây đó! Nguy hiểm lắm!”
Hả, vậy kính cũng hoạt động như một chiếc điện thoại vậy. Cô bé mừng rỡ hét lại, “Ông ơi, đừng lo lắng, ha!” Đồng Đồng rất giỏi trèo cây. Tới mức cha cô bé còn nói rằng kiếp trước cô hẳn là một con khỉ.
Nhưng ông ngoại sẽ không để cô yên. Ông cứ nói liên tục bên tai cô, và cô không thể hiểu ông đang nói gì. Điều đó làm Đồng Đồng lo lắng, nên cô tháo kính ra và thả chúng xuống bãi cỏ dưới chân cây. Cô cởi dép và bắt đầu leo lên, vươn lên trời cao như một đám mây.
Leo cái cây này thật dễ dàng. Những cành nhánh rậm rạp vươn ra như bàn tay, kéo cô bé lên. Cô ngày càng leo cao hơn và nhanh chóng bỏ xa những người bạn đồng hành của mình. Cô sắp leo đến ngọn. Làn gió thoảng qua kẽ lá, và ánh nắng chiếu xuyên qua vòm cây. Thế giới thật yên tĩnh.
Cô dừng lại để hít thở, nhưng rồi cô nghe thấy giọng nói của cha mình từ xa vọng lại: “Đồng Đồng, mau… xuống… đây…”
Cô thò đầu ra nhìn xuống. Một dáng người nhỏ như con kiến xuất hiện ở phía xa bên dưới. Đó là bố.
Trên đường trở về nhà, bố thực sự nổi giận.
“Sao con có thể ngốc đến vậy? Con trèo lên tận ngọn cây đó mà chỉ có một mình. Con không biết chuyện đó rủi ro tới mức nào sao?”
Cô bé biết rằng ông ngoại đã mách bố. Còn ai khác có thể biết cô đang làm gì?
Đồng Đồng hậm hực. Ông không thể trèo cây nữa, và bây giờ ông cũng sẽ không cho người khác trèo cây? Chán ghê! Và thật xấu hổ khi bố xuất hiện và quát tháo mình như vậy.
Sáng hôm sau, cô bé lại bỏ nhà đi từ sớm. Nhưng lần này, cô không đeo kính nữa.
๋࣭ ⭑⚝
“Ông ngoại chỉ là lo lắng cho em thôi,” A Phúc nói. “Nếu chẳng may em bị ngã gãy chân, không phải em sẽ phải ngồi trên xe lăn giống ông sao?”
Đồng Đồng bĩu môi, không nói gì.
A Phúc nói với cô bé rằng qua chiếc kính để lại dưới gốc cây, ông ngoại có thể nhìn thấy Đồng Đồng ở trên cao tít. Ông lo lắng đến mức hét lên khản cả cổ, và suýt ngã nhào khỏi xe lăn.
Nhưng Đồng Đồng vẫn giận ông ngoại. Có gì phải lo lắng nhỉ? Cô bé đã trèo lên nhiều cái cây cao hơn cái cây đó, và chưa một lần bị thương.
Vì cặp kính không được sử dụng, nên bố đã đóng gói chúng và gửi lại cho Guokr. Ông ngoại một lần nữa bị mắc kẹt ở nhà không có gì để làm. Bằng cách nào đó, ông đã tìm thấy một bộ cờ tướng cũ và yêu cầu A Phúc chơi cùng.
Đồng Đồng không biết chơi, vì vậy cô kéo một chiếc ghế đẩu và ngồi cạnh bảng chỉ để kiểm tra nó. Cô thích thú nhìn A Phúc cầm lên những quân cờ cũ làm bằng gỗ, màu sắc đã phai mờ vì thời gian, với những ngón tay mảnh mai, trắng nhợt; cô thích thú khi nhìn con robot gõ nhẹ ngón tay lên bàn khi nó xem xét các nước cờ. Bàn tay của người máy rất đẹp, trông gần giống như được chạm khắc từ ngà voi vậy.
Nhưng sau một vài ván cờ, ngay đến Đồng Đồng cũng có thể nói rằng A Phúc không phải là đối thủ của ông ngoại. Một vài nước đi sau đó, ông ngoại một lần nữa ăn được một trong những quân của A Phúc bằng một tiếng búng tay lớn trên bàn cờ.
“Ôi, con chơi trò này tệ quá,” Ông ngoại lẩm bẩm.
Để tỏ ra hữu ích, Đồng Đồng cũng nói, “Anh chơi tệ thật!”
“Một người máy thực sự sẽ chơi tốt hơn,” Ông ngoại nói thêm. Ông đã tìm ra sự thật về A Phúc và người điều hành nó.
Ông ngoại tiếp tục giành chiến thắng, và sau một vài ván chơi, tâm trạng của ông đã tốt hơn. Không chỉ khuôn mặt ông trở nên rạng rỡ, ông còn gật gù ngâm nga những giai điệu dân gian. Đồng Đồng cũng cảm thấy hạnh phúc, và cơn giận trước đó của cô với ông ngoại đã tan biến.
Chỉ có A Phúc là không vui vẻ như vậy. “Cháu nghĩ cháu phải tìm cho ông một đối thủ khó nhằn hơn mới được,” anh nói.
๋࣭ ⭑⚝
Khi Đồng Đồng trở về nhà, cô bé gần như nhảy dựng lên. Ông ngoại đã biến thành một con quái vật!
Lúc này ông đang mặc một bộ đồ liền thân dài tay mỏng, màu xám, và một đôi găng tay màu xám. Nhiều ánh sáng li ti chiếu khắp găng tay. Ông đeo một bộ kính bảo hộ khổng lồ trên mặt, ông vẫy tay và ra hiệu trong không khí.
Trên bức tường video trước mặt ông xuất hiện một người đàn ông khác, nhưng không phải là Tiểu Vương. Người đàn ông này già như ông ngoại, đầu đầy tóc bạc trắng. Ông ấy không đeo kính bảo hộ. Trước mặt ông là một bàn cờ tướng.
“Đồng Đồng, đến đây chào đi nào,” ông ngoại nói. “Đây là ông Triệu.”
Ông Triệu là bạn của ông ngoại khi họ còn đi lính cùng nhau. Ông ấy vừa được đặt một chiếc stent vào tim. Giống như ông ngoại, ông ấy cảm thấy buồn chán, và gia đình ông cũng có A Phúc của riêng họ. Ông cũng là một người đam mê cờ tướng, và suốt ngày phàn nàn về trình độ kỹ năng của A Phúc.
Tiểu Vương có cảm hứng gửi thiết bị viễn thông qua đường bưu điện cho ông ngoại và sau đó dạy ông cách sử dụng nó. Và trong vòng vài ngày, ông ngoại đã đủ thành thạo để có thể điều khiển A Phúc của ông Triệu từ xa để chơi cờ với ông.
Không chỉ có thể chơi cờ, hai ông lão còn có thể trò chuyện với nhau bằng giọng nói của quê hương. Ông ngoại trở nên vui mừng và phấn khích đến mức trong mắt Đồng Đồng, ông không khác nào một đứa trẻ.
“Xem này,” ông ngoại nói.
Ông nhẹ nhàng vẫy tay trong không khí, và qua bức tường video, A Phúc của ông Triệu nhấc bàn cờ bằng gỗ lên, vững vàng tùy ý, khéo léo xoay nó trong không khí, và đặt nó trở lại mà không làm xáo trộn một miếng nào.
Đồng Đồng nhìn tay ông ngoại không chớp mắt. Có phải đây cũng chính là những bàn tay loạng choạng, run rẩy luôn khiến ông ngoại khó làm được việc gì không? Việc này còn tuyệt vời hơn cả ma thuật.
“Cháu thử được không ạ?” cô bé hỏi.
Ông ngoại tháo găng tay và giúp Đồng Đồng đeo vào. Đôi găng tay co giãn và không quá lỏng trên bàn tay nhỏ bé của Đồng Đồng. Đồng Đồng cố gắng ngọ nguậy ngón tay, và A Phúc trong bức tường video cũng ngoe nguẩy ngón tay. Đôi găng tay cung cấp lực cản bên trong giúp ổn định và làm trơn tru các chuyển động của Đồng Đồng, và do đó cũng là các chuyển động của A Phúc.
Ông ngoại nói, “Đến đây, cháu thử bắt tay với ông Triệu đi.”
Trong video, ông Triệu đang tươi cười đưa tay ra. Đồng Đồng cẩn thận đưa tay ra bắt tay. Cô có thể cảm nhận được sự thay đổi áp lực ngay lập tức, tinh tế bên trong chiếc găng tay, như thể cô đang thực sự bắt tay một người - thậm chí còn cảm thấy có chút ấm áp! Điều này tuyệt quá!
Sử dụng găng tay, cô hướng A Phúc chạm vào bàn cờ, quân cờ và tách trà bốc khói bên cạnh chúng. Đầu ngón tay cô cảm nhận được sức nóng đột ngột từ chiếc cốc. Cô giật mình buông ngón tay ra, chiếc cốc rơi xuống đất vỡ tan tành. Bàn cờ bị lật, quân cờ lăn lộn khắp nơi.
“Aiya! Cẩn thận, Đồng Đồng!”
“Đừng lo lắng! Đừng lo lắng!” Ông Triệu cố gắng đứng dậy để lấy chổi và chổi quét bụi, nhưng ông ngoại bảo ông hãy ngồi yên. “Cẩn thận bàn tay của ông!” Ông ngoại nói. “Để tôi dọn cho.” Ông đeo găng tay vào và chỉ đạo A Phúc của ông ngoại Triệu nhặt từng quân cờ một, sau đó quét sạch sàn nhà.
Ông ngoại không giận Đồng Đồng, và không dọa sẽ nói với bố về tai nạn mà cô ấy gây ra.
“Con bé chỉ là một đứa trẻ, có hơi thiếu kiên nhẫn,” ông ngoại nói với ông Triệu. Hai ông lão bật cười.
Đồng Đồng cảm thấy vừa nhẹ nhõm vừa có chút bị hiểu lầm.
๋࣭ ⭑⚝
Bố và mẹ lại tranh cãi với ông ngoại.
Cuộc tranh luận diễn ra hơi khác so với trước đây. Ông ngoại cứ lặp đi lặp lại, “Đừng lo lắng, ha!” Nhưng giọng điệu của mẹ ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Quan điểm thực tế của cuộc tranh cãi càng trở nên khó hiểu với Đồng Đồng khi cô bé càng cố lắng nghe. Tất cả những gì cô biết là nó có liên quan gì đó đến chiếc stent tim của ông Triệu.
Cuối cùng, mẹ nói, “Ý bố là gì? ‘Đừng lo lắng’ sao? Nếu có tai nạn khác xảy ra thì sao? Làm ơn đi bố, đừng gây thêm rắc rối nữa được không?”
Ông ngoại giận đến mức đóng cửa phòng và không chịu ra ngoài, kể cả khi ăn tối.
Bố và mẹ gọi cho Tiểu Vương qua video call. Cuối cùng, Đồng Đồng cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Ông Triệu đang chơi cờ với ông ngoại, nhưng trò chơi khiến ông phấn khích đến mức tim đập mạnh - dường như, chiếc stent không được đặt vào một cách hoàn hảo. Không có ai khác ở nhà vào thời điểm đó. Ông ngoại là người đã điều khiển cho A Phúc để hô hấp nhân tạo cho ông Triệu, đồng thời cũng gọi xe cấp cứu.
Đội cứu hộ khẩn cấp đã đến kịp thời và cứu sống ông Triệu.
Điều mà không ai có thể đoán trước được là ông ngoại đề nghị ông sẽ đến bệnh viện để chăm sóc cho ông Triệu - không, ý ông không phải là ông sẽ đích thân đến, mà là họ đưa A Phúc đến, và ông sẽ điều khiển A Phúc từ nhà.
Nhưng bản thân ông ngoại cũng cần một người chăm sóc. Ai là người phải chăm sóc cho người chăm sóc đây?
Hơn nữa, ông ngoại còn nảy ra ý tưởng rằng khi ông Triệu bình phục, ông sẽ dạy cho ông Triệu cách vận hành thiết bị điều khiển từ xa. Hai ông lão sẽ có thể chăm sóc cho nhau và họ sẽ không cần những người chăm sóc khác.
Ông Triệu nghĩ rằng đây là một ý tưởng tuyệt vời. Nhưng cả hai gia đình đều cho rằng kế hoạch này thật vô lý. Ngay cả Tiểu Vương cũng phải suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ừm… Tôi phải báo cáo tình hình này với những người giám sát của mình.”
Đồng Đồng đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Chơi cờ vua qua A Phúc rất đơn giản. Nhưng chăm sóc nhau thông qua A Phúc? Cô càng nghĩ về nó, nó càng có vẻ phức tạp. Cô thông cảm phần nào cho sự bối rối của Tiểu Vương.
Hầy, ông ngoại chỉ như một đứa trẻ. Ông sẽ không nghe lời bố mẹ đâu.
๋࣭ ⭑⚝
Ông ngoại bây giờ dành toàn bộ thời gian của mình ở trong phòng. Lúc đầu, Đồng Đồng nghĩ rằng ông vẫn còn giận bố mẹ cô. Nhưng sau đó, cô bé thấy rằng tình hình đã thay đổi hoàn toàn.
Ông thực sự rất bận. Một lần nữa, ông bắt đầu gặp bệnh nhân. Không, ông không đến phòng khám; thay vào đó, bằng cách sử dụng thiết bị điều khiển từ xa của mình, ông đã điều hành các A Phúc trên khắp đất nước và xuất hiện trong nhà của những người lớn tuổi khác. Ông sẽ lắng nghe những lời phàn nàn của họ, bắt mạch cho họ, thăm khám cho họ và viết ra đơn thuốc. Ông cũng muốn thực hiện các liệu pháp châm cứu thông qua các A Phúc, và để thực hành kỹ năng này, ông đã điều khiển A Phúc của chính mình để tự châm kim vào người mình!
Tiểu Vương nói với Đồng Đồng rằng những phát kiến của ông ngoại có thể thay đổi toàn bộ hệ thống y tế. Trong tương lai, có thể bệnh nhân không còn cần phải đến bệnh viện và lãng phí hàng giờ trong phòng chờ. Các bác sĩ có thể đến thăm khám tận nhà thông qua một A Phúc được lắp đặt ở mỗi khu phố.
Tiểu Vương nói rằng bộ phận R&D của Guokr đã thành lập một nhóm chuyên trách để phát triển một mô hình A Phúc đặc biệt, cải tiến hơn cho các ứng dụng điện thoại y tế như vậy, và họ đã mời ông ngoại làm cố vấn. Vì vậy, ông ngoại thậm chí còn bận rộn hơn.
Vì chân của ông ngoại vẫn chưa hoàn toàn bình phục nên Tiểu Vương vẫn đang chăm sóc cho ông. Nhưng họ đang nghiên cứu để phát triển một hệ thống dựa trên web cho phép bất kỳ ai có thời gian nhàn rỗi và quan tâm đến việc giúp đỡ những người khác đăng ký làm tình nguyện viên. Sau đó, các tình nguyện viên sẽ có thể đăng ký với các A Phúc tại các ngôi nhà trên khắp đất nước để chăm sóc người lớn tuổi, trẻ em, bệnh nhân, vật nuôi và giúp đỡ theo những cách khác.
Nếu kế hoạch thành công, đó sẽ là một bước để mang lại thời kỳ hoàng kim mà Khổng Tử đã hình dung cách đây hàng thiên niên kỷ: “Và khi đó nhân loại sẽ quan tâm đến tất cả những người lớn tuổi như thể họ là cha mẹ của mình, yêu thương tất cả trẻ em như thể chúng là con cái của mình. Người già sẽ già đi và chết trong sự an toàn; thanh niên sẽ có cơ hội đóng góp và phát triển thịnh vượng; và trẻ em sẽ lớn lên dưới sự hướng dẫn và bảo vệ của tất cả mọi người. Góa phụ, trẻ mồ côi, người tàn tật, bệnh tật - mọi người sẽ được chăm sóc và yêu thương.”
Tất nhiên, một kế hoạch như vậy cũng có những rủi ro của nó: quyền riêng tư và bảo mật, tội phạm lạm dụng khả năng điều khiển từ xa, trục trặc và tai nạn, thoạt đầu là vậy. Nhưng vì sự thay đổi công nghệ đã có ở đây, nên tốt nhất là đối mặt với hậu quả và hướng chúng đến những mục tiêu mong muốn.
Cũng có những diễn biến mà không ai có thể lường trước được.
Tiểu Vương đã cho Đồng Đồng xem rất nhiều video trên web: Các A Phúc trong video làm đủ mọi công việc thú vị: nấu ăn, chăm sóc trẻ em, sửa chữa hệ thống ống nước và hệ thống điện xung quanh nhà, làm vườn, lái xe, chơi tennis, thậm chí dạy trẻ em nghệ thuật cờ vây và thư pháp và khắc con dấu và chơi đàn nhị...
Tất cả những A Phúc này đều được vận hành bởi những người lớn tuổi, những người cũng cần được chăm sóc. Một số người trong đó thậm chí còn không thể di chuyển dễ dàng, nhưng họ vẫn có đôi mắt, đôi tai và trí óc nhạy bén; một số không còn có thể nhớ mọi thứ một cách dễ dàng, nhưng họ vẫn có thể thực hiện các kỹ năng mà họ đã hoàn thiện khi còn trẻ; và hầu hết họ thực sự gặp ít vấn đề về thể chất, nhưng bị trầm cảm và cô đơn. Nhưng giờ đây, với A Phúc, mọi người đều ra ngoài và làm mọi việc.
Không ai có thể tưởng tượng rằng A Phúc có thể được sử dụng cho tất cả những công dụng này. Không ai nghĩ rằng những người đàn ông và phụ nữ ở độ tuổi bảy mươi tám mươi vẫn có thể sáng tạo và giàu trí tưởng tượng như vậy.
Đồng Đồng đặc biệt ấn tượng bởi một dàn nhạc dân gian truyền thống gồm hơn một chục A Phúc. Họ tụ tập quanh một cái hồ trong công viên và chơi rất nhiệt tình và ồn ào. Tiểu Vương nói dàn nhạc này đã trở nên nổi tiếng trên mạng. Những người điều hành các A Phúc này là những người đàn ông và phụ nữ bị mất thị lực, vì vậy họ tự gọi mình là “Những kẻ mù già.”
“Đồng Đồng à,” Tiểu Vương nói, “ông của em đã mang lại một cuộc cách mạng”.
Đồng Đồng nhớ rằng mẹ đã thường nhắc đến ông ngoại là một nhà cách mạng lão thành. “Ông ngoại đã làm việc cho cách mạng cả đời; đã đến lúc ông phải nghỉ ngơi rồi.” Nhưng ông chẳng phải là bác sĩ sao? Ông tham gia “cách mạng” từ bao giờ vậy? Và “làm việc cho cách mạng” nghĩa là gì? Tại sao ông phải làm điều đó cả đời?
Đồng Đồng không thể hình dung ra điều đó, nhưng cô bé nghĩ “cách mạng” là một điều tuyệt vời. Ông ngoại bây giờ lại có vẻ giống như ông ngoại mà cô từng biết.
๋࣭ ⭑⚝
Mỗi ngày, ông đều tràn đầy năng lượng và cảm hứng. Bất cứ khi nào có một chút thời gian cho riêng mình, ông lại hát một vài câu của Hí khúc truyền thống:
Bên ngoài trại, ba phát đại bác vang như sấm rền
Và ra khỏi Nhà Thiên Ba, người đàn bà sẽ bảo vệ quê hương.
Mũ giáp vàng nằm hiên ngang trên mái tóc màu ánh kim,
Áo giáp cũ bằng sắt khoác trên vai lần nữa.
Lá cờ thêu chữ Mộc uy nghiêm đẹp đẽ
Mộc Quế Anh lại sắp ra trận ở tuổi năm ba!
Đồng Đồng cười. “Nhưng ông ơi, ông đã tám mươi ba tuổi rồi ạ!”
Ông ngoại cười khúc khích. Ông đứng và tạo dáng như thể ông là một vị tướng cổ đại cầm kiếm khi ông ngồi trên con ngựa chiến của mình. Mặt ông đỏ bừng lên vì vui sướng.
Vài ngày nữa, ông ngoại sẽ bước sang tuổi tám mươi tư.
๋࣭ ⭑⚝
Đồng Đồng tự chơi ở nhà.
Có những đĩa thức ăn chín trong tủ lạnh. Vào buổi tối, Đồng Đồng lấy chúng ra, hâm nóng và ăn một mình. Không khí buổi tối nặng nề và ẩm thấp, tiếng ve kêu không ngừng.
Bản tin thời tiết cho biết sẽ có giông bão.
Một ánh sáng xanh lam lóe lên ba lần trong một góc phòng. Một bóng người lao ra khỏi góc ồn ào: A Phúc.
“Bố mẹ đưa ông ngoại đến bệnh viện. Họ vẫn chưa trở lại.”
A Phúc gật đầu. “Mẹ của em đã nói anh đến để nhắc em đừng quên đóng cửa sổ trước khi trời mưa.”
Cùng nhau, người máy và cô bé đi đóng tất cả các cửa sổ trong nhà. Khi cơn giông ập đến, những hạt mưa đập vào ô cửa sổ như tiếng trống. Những đám mây đen bị xé thành từng mảnh bởi những tia chớp trắng và tím, sau đó là một tiếng sấm rền vang trên đầu, làm cho tai của Đồng Đồng ù đi.
“Em không sợ sấm sét à?” A Phúc hỏi.
“Không. Còn anh thì sao?”
“Hồi nhỏ thì anh sợ, nhưng giờ thì không.”
Một câu hỏi quan trọng hiện lên trong đầu Đồng Đồng: “A Phúc, anh có nghĩ rằng mọi người đều phải lớn không?”
“Anh nghĩ là vậy.”
“Và rồi chuyện gì sẽ xảy ra?”
“Và rồi em già đi.”
“Và sau đó?”
A Phúc không trả lời.
Họ bật tường video để xem phim hoạt hình. Đó là chương trình yêu thích của Đồng Đồng: “Làng gấu cầu vồng.” Dù ngoài trời có mưa to đến đâu thì những chú gấu nhỏ của làng vẫn luôn sống hạnh phúc bên nhau. Có lẽ mọi thứ khác trên đời đều là giả mạo; có lẽ chỉ có thế giới của những chú gấu nhỏ là có thật.
Dần dần, mí mắt của Đồng Đồng trở nên nặng trĩu. Tiếng mưa có tác dụng thôi miên. Cô bé dựa vào người A Phúc. A Phúc ôm cô trên tay, bế cô vào phòng ngủ, nhẹ nhàng đặt cô xuống giường, đắp chăn cho cô và kéo rèm cửa lại. Bàn tay của cậu ta giống như bàn tay thật, ấm áp và mềm mại.
Đồng Đồng thì thầm, “Tại sao ông ngoại vẫn chưa về ạ?”
“Nào ngủ đi. Khi nào em thức dậy, ông ngoại sẽ về.”
๋࣭ ⭑⚝
Ông ngoại không về.
Chỉ có bố mẹ quay lại. Trông cả hai đều buồn và mệt mỏi.
Nhưng họ thậm chí còn bận rộn hơn. Hàng ngày, họ phải ra khỏi nhà và đi đâu đó. Đồng Đồng ở nhà một mình. Đôi khi cô bé chơi trò chơi, và xem phim hoạt hình vào những lúc khác. A Phúc thỉnh thoảng đến nấu ăn cho cô.
Vài ngày sau, mẹ gọi Đồng Đồng. “Mẹ có chuyện muốn nói với con.”
Ông ngoại có một khối u trong đầu. Lần trước ông ngã là do khối u chèn vào dây thần kinh. Bác sĩ đề nghị phẫu thuật ngay lập tức.
Ở tuổi của ông ngoại, phẫu thuật rất nguy hiểm. Nhưng không phẫu thuật còn nguy hiểm hơn. Bố mẹ và ông ngoại đã đi đến một số bệnh viện và có nhiều ý kiến khác nhau, và sau khi bàn bạc với nhau nhiều đêm, họ quyết định rằng sẽ phải mổ.
Cuộc phẫu thuật kéo dài một ngày. Khối u có kích thước bằng một quả trứng.
Ông ngoại vẫn hôn mê sau ca mổ.
Mẹ ôm Đồng Đồng và khóc nức nở. Cơ thể mẹ run bần bật.
Đồng Đồng ôm mẹ lại thật chặt. Cô bé nhìn và thấy những sợi tóc trắng xen lẫn với màu đen trên đầu. Mọi thứ dường như không thực.
๋࣭ ⭑⚝
Đồng Đồng đến bệnh viện với mẹ.
Trời quá nóng, và mặt trời chói chang. Đồng Đồng và mẹ dùng chung một chiếc ô che nắng. Trên tay mẹ là một phích nước hoa quả màu đỏ tươi lấy từ tủ lạnh.
Có rất ít người đi bộ trên đường. Những con ve sầu tiếp tục tiếng hát không dứt của chúng. Mùa hè đã gần kết thúc.
Bên trong bệnh viện, gió điều hòa thổi vù vù. Hai mẹ con đợi ở hành lang một chút trước khi một y tá đến nói với họ rằng ông ngoại đã tỉnh. Mẹ bảo Đồng Đồng vào trước.
Ông ngoại như một người xa lạ. Tóc ông bị cạo sạch và khuôn mặt sưng vù. Một mắt được băng gạc, và mắt còn lại đã thì nhắm chặt. Đồng Đồng nắm tay ông ngoại, và cô bé sợ hãi. Cô nhớ đến bà. Trước đây, xung quanh bà toàn là các ống và tiếng máy kêu bíp bíp.
Cô y tá gọi tên ông ngoại. “Cháu gái của ông đang ở đây để gặp ông này.”
Ông ngoại mở to mắt và nhìn Đồng Đồng. Đồng Đồng cử động, và con mắt của ông di chuyển theo cô. Nhưng ông không thể nói hay làm gì.
Cô y tá thì thầm, “Cháu có thể nói chuyện với ông đó. Ông nghe được tiếng cháu.”
Đồng Đồng không biết phải nói gì. Cô nắm chặt tay ông ngoại, và cô có thể cảm thấy tay ông ngoại cũng đang siết lại.
Ông ngoại! Cô bé thầm kêu lên trong đầu. Ông có thể nhận ra cháu sao?
Đôi mắt ông dõi theo Đồng Đồng.
Cuối cùng cô bé cũng tìm thấy giọng nói của mình. “Ông ngoại!”
Nước mắt rơi trên ga trải giường trắng. Người y tá cố gắng an ủi cô bé. “Đừng khóc! Ông của cháu sẽ rất buồn khi thấy cháu khóc”.
Đồng Đồng được đưa ra khỏi phòng, và cô bé khóc - nước mắt chảy dài trên khuôn mặt như một đứa trẻ nhỏ, nhưng cô bé không quan tâm đến những ánh mắt nhìn - trong hành lang một lúc lâu.
๋࣭ ⭑⚝
A Phúc đã rời đi. Bố đã đóng gói cậu ta để gửi lại cho Công ty Công nghệ Guokr.
Tiểu Vương giải thích rằng anh muốn đích thân đến để nói lời từ biệt với Đồng Đồng và gia đình cô. Nhưng thành phố anh sống ở xa quá. Ít nhất thì bây giờ có thể dễ dàng liên lạc trong khoảng cách xa và họ có thể trò chuyện qua video hoặc điện thoại trong tương lai.
Đồng Đồng đang ở trong phòng vẽ tranh. A Phúc tiến đến gần, không một tiếng động. Đồng Đồng đang vẽ nhiều con gấu nhỏ trên giấy, và tô chúng bằng bút chì màu. A Phúc nhìn vào những bức tranh. Một trong những con gấu lớn nhất được tô bằng tất cả các màu sắc của cầu vồng, và nó đeo một miếng che mắt màu đen để chỉ lộ một bên mắt.
“Đây là ai?” A Phúc hỏi.
Đồng Đồng không trả lời. Cô bé tiếp tục, với lòng quyết tâm không suy suyển rằng phải tô lên con gấu bằng tất cả màu sắc trên đời
A Phúc ôm Đồng Đồng từ phía sau. Cơ thể cậu ta run lên. Đồng Đồng biết rằng A Phúc đang khóc.
๋࣭ ⭑⚝
Tiểu Vương đã gửi một tin nhắn video cho Đồng Đồng.
Đồng Đồng, em có nhận được gói hàng mà anh gửi cho em không?
Bên trong gói hàng là một con gấu bông lông xù. Nó có màu như cầu vồng, với một miếng che mắt màu đen, chỉ để lại một bên mắt. Nó giống như bức tranh mà Đồng Đồng đã vẽ.
Chú gấu được trang bị một bộ điều khiển từ xa và kết nối với các thiết bị tại bệnh viện: nhịp tim, hơi thở, mạch đập, nhiệt độ cơ thể. Nếu mắt gấu nhắm lại, điều đó có nghĩa là ông của em đang ngủ. Nếu ông của em tỉnh táo, gấu sẽ mở mắt.
Mọi thứ mà gấu nhìn thấy và nghe thấy đều được chiếu lên trần của căn phòng tại bệnh viện. Em có thể nói chuyện với nó, kể chuyện, hát cho nó nghe, và ông của em sẽ nhìn thấy và nghe thấy.
Ông chắc chắn có thể nghe và nhìn thấy. Mặc dù ông không thể cử động cơ thể của mình, nhưng bên trong ông vẫn tỉnh táo. Vì vậy, em phải nói chuyện với gấu, chơi với nó và để nó nghe thấy tiếng cười của em. Chỉ có vậy, ông của em mới không đơn độc.
Đồng Đồng áp tai vào ngực chú gấu: thình thịch. Nhịp tim chậm và yếu ớt. Lồng ngực của nó ấm áp, phồng lên và xẹp xuống từ từ theo từng nhịp thở. Nó đang ngủ say.
Đồng Đồng cũng muốn ngủ. Cô bé đặt con gấu lên giường với mình và đắp chăn cho nó. Khi ông ngoại thức dậy vào ngày mai, cô nghĩ, mình sẽ đưa ông ra ngoài để tắm nắng, leo cây, đi đến công viên và nghe các ông bà ngâm nga vài khúc Hí kịch. Mùa hè vẫn chưa kết thúc. Có rất nhiều điều thú vị để làm.
๋࣭ ⭑⚝
“Ông ơi, đừng lo lắng, ha!” cô thì thầm. Khi ông thức dậy, mọi thứ sẽ ổn thôi.
Hết
Dịch theo bản chuyển ngữ tiếng Anh Tongtong's Summer của Ken Liu. Có tham khảo bản tiếng Trung 童童的夏天.
Biên dịch: Tiểu Ngọc
Biên tập: Diệu Mây
๋࣭ ⭑⚝
Tác giả Hạ Gia (Ảnh: University of Leeds)
0 notes
Text
Danh sách - Carmen Maria Machado
Về tác giả
Carmen Maria Machado sinh năm 1986 tại Allentown, Pennsylvania, Mỹ. Cô đã xuất bản nhiều tác phẩm văn học như tập truyện ngắn Her Body and Other Parties (2017) và hồi ký In the Dream House (2019). Machado được công nhận là một trong những giọng văn mới nổi bật trong văn học Mỹ, với phong cách viết độc đáo, mạnh mẽ và thường xoay quanh những chủ đề như bạo lực, nữ quyền và quan hệ tính dục. Nhiều tác phẩm của cô đã được đề cử và nhận các giải thưởng danh giá như Nebula Award, Shirley Jackson Award và Lambda Literary Award. Ngoài việc sáng tác, Machado cũng hoạt động như nhà phê bình văn học, giảng dạy sáng tác và được mời tham gia các hội thảo, diễn đàn về văn học.
Về tác phẩm
Truyện ngắn Danh sách (tựa gốc: Inventory) đăng lần đầu trên tạp chí Strange Horizons năm 2013, sau được đưa vào tuyển tập Her Body and Other Parties.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một cô gái. Chúng tôi nằm bên nhau trên tấm thảm mốc meo dưới tầng hầm nhà cô. Cha mẹ cô đều ở trên gác; chúng tôi nói với họ rằng hai đứa đang xem Công viên kỷ Jura. "Tớ là bố, còn cậu là mẹ nhé," cô nói. Tôi kéo áo lên, cô cũng làm điều tương tự, và chúng tôi cứ nhìn nhau như vậy. Trái tim tôi rung rinh trong lồng ngực, nhưng đầu vẫn bảng lảng nỗi sợ đám nhện chân dài và việc bố mẹ cô bắt quả tang chúng tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn chưa xem Công viên kỷ Jura lần nào. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội làm điều đó nữa, tôi đoán vậy.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai, một cô gái. Đều là bạn của tôi. Chúng tôi ăn trộm rượu hoa quả và lén lút đem vào phòng tôi đánh chén. Trên chiếc giường rộng thênh của tôi, ba đứa cười đùa và tr�� chuyện và chuyền tay nhau những chai rượu. "Điều tớ thích nhất ở cậu," cô bạn tôi mở lời, "là cách cậu phản ứng với mọi thứ. Những khi ấy trông cậu buồn cười lắm. Kiểu, lúc nào cậu cũng vô cùng nồng nhiệt ấy." Cậu bạn kia gật đầu đồng tình. Cô bạn vùi mặt vào cổ tôi, và lời thầm thì "Như này này," trượt qua da tôi nóng hổi. Tôi bật cười, tâm trạng lo lắng và hào hứng đan quyện vào nhau. Cứ như thể tôi là một cây ghi ta vậy, và ai đó đang vặn những cái khóa đàn, khiến cho những sợi dây của tôi căng hơn một tẹo. Lông mi của hai người họ lướt trên da tôi, hơi thở họ phả vào tai tôi. Tôi rên rỉ, oằn cong người, cảm giác như thể sắp lên đỉnh bao trùm tôi tới vài phút, mặc dù chẳng ai chạm vào tôi cả, kể cả chính tôi.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Hai chàng trai, một cô gái. Một người là bạn trai tôi. Bố mẹ anh vừa mới rời khỏi thị trấn, vậy nên cả bọn kéo tới nhà anh mở tiệc. Chúng tôi uống nước chanh pha với rượu vodka, và anh nói tôi hãy thử hôn cô người yêu của bạn anh xem sao. Chúng tôi ngập ngừng chạm môi nhau, rồi dừng lại. Sau đó đến lượt hai chàng trai âu yếm nhau, và chúng tôi ngồi nhìn họ một lúc lâu, cảm thấy cảnh tượng đó thật tẻ nhạt nhưng hai đứa đều đã say đến mức không thể đứng lên nổi. Cả bọn thiếp đi trong căn phòng ngủ dành cho khách. Khi tôi tỉnh dậy, bàng quang của tôi đã căng cứng. Tôi bước xuống tiền sảnh, và nhận ra rằng đêm qua ai đó đã làm đổ một chai rượu pha nước chanh xuống sàn nhà. Tôi cố gắng dọn sạch đống lộn xộn để lại. Thứ dung dịch ấy ăn mòn cả lớp sơn giả cẩm thạch. Vài tuần sau, mẹ của bạn trai tôi tìm thấy cái quần lót của tôi phía sau giường, giặt sạch nó và đưa nó cho anh mà chẳng nói thêm câu nào. Thật kì quặc, tôi vẫn thường nghĩ về mùi hóa chất tẩy rửa trên cái quần của tôi ngày đó bằng một nỗi hoài niệm mãnh liệt. Mãi sau này, điều duy nhất tôi còn nhớ vẫn chỉ là mùi nước xả vải năm ấy mà thôi.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Cao, gầy. Gầy đến mức tôi có thể nhìn thấy cả xương chậu của anh, thứ đối với tôi gợi cảm lạ lùng. Đôi mắt xám. Nụ cười gượng gạo. Tôi đã quen anh được gần một năm, kể từ tháng mười năm trước đó, khi hai đứa gặp nhau ở một bữa tiệc Halloween. (Hôm ấy tôi không trang điểm gì cả; anh thì hóa thành nàng Barbarella.) Chúng tôi uống rượu trong căn hộ của anh. Anh lo lắng và bởi vậy anh mát xa cho tôi. Tôi lo lắng và bởi vậy tôi để anh làm tùy ý. Anh xoa lưng tôi rất lâu. Thế rồi anh nói, "Tay anh mỏi rồi." Tôi đáp, "Vậy à," và quay người về phía anh. Anh hôn tôi, khuôn mặt anh lởm chởm râu. Người anh có mùi men rượu và phảng phất hương nước hoa đắt tiền. Anh nằm trên người tôi và chúng tôi âu yếm nhau một lúc. Mọi thứ bên trong tôi nhói lên, một cách dễ chịu. Anh hỏi rằng liệu anh có thể chạm vào ngực tôi không, và tôi nắm tay đặt lên chỗ đó. Cởi áo ra, tôi tưởng như đang có một giọt nước trượt dọc sống lưng mình. Và tôi nhận ra chúng tôi đang làm việc này, thực sự làm việc này. Tôi và anh cùng lột bỏ hết những lớp vải trên cơ thể. Anh đeo bao cao su và rồi bắt đầu di chuyển vào bên trong tôi. Cảm giác ấy đau đớn hơn bất cứ thứ gì tôi từng trải qua. Anh lên đỉnh, còn tôi thì không. Khi anh rút ra, bao cao su đã dính đầy máu. Anh lột nó ra và vứt nó đi. Mọi thứ trong tôi đập dồn như tiếng trống. Chúng tôi ngủ cùng nhau trên một chiếc giường quá-chật. Anh khăng khăng chở tôi quay lại ký túc xá vào ngày hôm sau. Trong phòng mình, tôi cởi bỏ hết quần áo và quấn mình trong một chiếc khăn tắm. Cơ thể tôi vẫn còn vương mùi anh, mùi của hai đứa khi bên nhau, và tôi muốn điều ấy lần nữa. Tôi cảm thấy khá ổn, giống như một người đàn bà có đời sống riêng tư và việc quan hệ tình dục là một phần trong số đó. Bạn cùng phòng hỏi tôi chuyện đó thế nào, rồi ôm tôi thật chặt.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Bạn trai, đúng hơn là vậy. Ghét đeo bao, hỏi tôi có đang dùng thuốc tránh thai không, nhưng rồi vẫn cứ rút ra. Một mớ bùng nhùng kinh khủng.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một cô gái. Một kiểu bạn-gái-thời-vụ. Bạn đồng học của tôi ở lớp Tổ chức Hệ thống Máy Tính. Tóc nâu dài quá lưng. Cô dịu dàng hơn tôi vẫn tưởng. Tôi muốn khẩu giao với cô, nhưng cô lại quá sợ hãi. Lúc chúng tôi ân ái nhau, cô đẩy lưỡi vào miệng tôi và sau khi cô ra về, tôi tự lên đỉnh hai lần trong căn hộ lạnh lẽo chỉ có một mình tôi sống. Hai năm sau đó, chúng tôi làm tình trên khoảng sân thượng rải đầy đá sỏi của công ty tôi. Bốn tầng bên dưới nơi cơ thể hai đứa đang quấn lấy nhau, trước một cái ghế trống không, những chuỗi câu lệnh do tôi viết vẫn đang được trình biên dịch miệt mài xử lý. Sau khi việc đó kết thúc, tôi ngẩng đầu lên và bắt gặp một người đàn ông trong bộ vest đang đứng quan sát chúng tôi từ một tòa cao ốc lân cận, bàn tay luồn bên trong khóa quần.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một cô gái. Gọng kính tròn, mái tóc đỏ. Chẳng nhớ tôi đã gặp cô thế nào nữa. Chúng tôi làm tình trong cơn phê thuốc, tôi ngủ quên khi bàn tay mình vẫn còn đang ở bên trong cô. Sau ấy chúng tôi thức dậy trước lúc bình minh, và đi bộ xuyên qua thị trấn tới một nhà hàng 24/7. Trời lất phất mưa phùn; khi hai đứa đến nơi, hai đôi bàn chân đi xăng đan mỏng manh đều đã lạnh đến cứng đờ lại. Chúng tôi gọi bánh kếp. Khi hai cốc cà phê đã cạn sạch, chúng tôi đi tìm bồi bàn, chỉ để thấy cô ta đang chăm chú xem bản tin thời sự từ chiếc vô tuyến cũ rích treo cao gần sát trần nhà. Cô cắn chặt môi mình, chiếc bình cà phê nghiêng đi trong tay cô, từng giọt màu nâu nhỏ tong tỏng xuống sàn gỗ. Chúng tôi cùng nhau xem bản tin đó khi hình ảnh cậu phát thanh viên biến mất, thay thế bởi một danh sách dài những triệu chứng của một chủng virus đang lây lan nhanh chóng ở miền bắc bang California. Khi cậu phát thanh viên nọ quay trở lại màn hình vô tuyến, cậu ta nhắc đi nhắc lại rằng các chuyến bay đều đã bị cấm vận, biên giới giữa các bang đều đã bị đóng cửa, và rằng có vẻ như chủng virus này đã được cách ly thành công. Khi cô bồi bàn quay trở lại, trông cô có vẻ xao lãng. Tôi hỏi cô, "Chị có người thân ở đó không?" và cô gật đầu, mắt ngấn lệ. Tôi thấy thật tệ hại vì đã hỏi cô bất cứ điều gì.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Tôi gặp anh ở một quán rượu gần nhà. Chúng tôi ân ái với nhau trên chiếc giường của tôi. Người anh có mùi vang, mặc dù thứ anh nốc khi còn ngoài quán là rượu vodka. Hai đứa làm tình, nhưng được nửa chừng thì anh dừng lại. Tôi ôm hôn anh một vài bận nữa. Anh muốn dùng miệng với tôi, nhưng tôi không muốn anh làm vậy. Anh nổi giận và bỏ đi, đóng sầm cánh cửa lại, lực tay mạnh đến mức khiến cái giá đựng gia vị treo trên tường nhà tôi rơi xuống đất vỡ tan tành. Con cún của tôi nhai ngấu nghiến chỗ nhục đậu khấu, và tôi phải bắt nó ăn muối để nó nôn hết chỗ nhục đậu khấu đó ra. Adrenaline chảy rần rật, tôi buộc bản thân lập ra một danh sách toàn bộ những loài động vật tôi từng nuôi trong đời mình - bảy con cả thảy, bao gồm cả hai con cá lia thia đã đánh nhau đến chết chỉ sau một tuần tôi thả chúng vào chung một bể, cái hồi tôi mới lên chín. Và thêm một danh sách tất cả các loại gia vị trong món phở. Đinh hương, quế, đại hồi, mùi, gừng, bạch đậu khấu.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Thấp hơn tôi mười lăm phân. Tôi kể với anh rằng trang web mà tôi làm việc đang thua lỗ nhanh chóng bởi chẳng ai muốn đọc về những mẹo chụp ảnh giữa thời buổi dịch bệnh, và rằng tôi vừa mới bị sa thải sáng hôm ấy. Anh trả tiền bữa tối cho tôi. Chúng tôi làm tình bên trong xe của anh bởi vì anh ở chung nhà với vài người bạn còn tôi lúc bấy giờ không thể trở về nhà mình, và anh luồn hai tay vào bên trong áo lót của tôi và đôi tay anh thật hoàn hảo, thật sự là hoàn con mẹ nó hảo, và chúng tôi đổ nhào lên nhau nơi hàng ghế sau chật chội. Lần đầu tiên sau hơn hai tháng, tôi lên đỉnh. Tôi gọi cho anh vào buổi sáng hôm sau, để lại một tin nhắn thoại, nói với anh rằng tôi đã có một buổi tối thật tuyệt vời và rằng tôi muốn gặp anh lần nữa, nhưng anh chẳng bao giờ gọi lại.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Làm công việc chân tay nào đó để kiếm sống - tôi không nhớ là việc gì - và có một hình xăm loài trăn siết mồi cùng một dòng chữ tiếng Latin sai chính tả phía sau lưng. Anh khỏe đến mức có thể nhấc bổng tôi lên, làm tình với tôi khi lưng tôi đang áp chặt vào tường, và đó là thứ cảm giác ngây ngất nhất mà tôi từng trải qua. Chúng tôi thậm chí còn làm vỡ một vài khung ảnh treo tường vì việc đó. Anh dùng bàn tay của anh và tôi bấu chặt móng tay mình vào lưng anh và anh hỏi tôi rằng liệu tôi có sẽ lên đỉnh vì anh không. Và tôi nói, "Có, có chứ, em sẽ làm điều đó vì anh, em làm điều đó vì anh."
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người phụ nữ. Tóc vàng, giọng nói xấc xược, quen tôi thông qua một người bạn chung. Chúng tôi cưới nhau. Đến giờ tôi vẫn không chắc rằng ngày ấy tôi ở bên nàng là bởi tôi muốn điều đó, hay chỉ vì tôi sợ hãi thế giới đang ngày một thu hẹp lại xung quanh mình. Trong vòng chưa đến một năm, cuộc hôn nhân đã trên bờ vực đổ vỡ. Chúng tôi gào thét vào mặt nhau nhiều hơn là làm tình, nhiều hơn cả những lần ngồi xuống nói chuyện tử tế. Thế rồi một đêm nọ, chúng tôi cãi nhau gay gắt đến mức tôi bật khóc. Nàng hỏi tôi có muốn làm tình không, và lột bỏ hết quần áo trước cả khi tôi kịp trả lời. Tôi chỉ muốn đẩy nàng ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi làm tình và tôi lại khóc. Khi việc đó kết thúc, trong lúc nàng còn đang tắm rửa, tôi thu dọn đồ đạc, xách va li và lái xe bỏ đi.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người đàn ông. Sáu tháng sau đó, trong lúc đầu óc tôi còn đang mịt mờ sau cuộc ly hôn. Tôi gặp anh ở đám tang của người thân cuối cùng mà anh còn lại. Tôi đang đau buồn, anh cũng đang đau buồn. Chúng tôi tìm đến nhau trong căn nhà trống rỗng từng thuộc về gia đình anh trai anh - tất cả đều đã chết - và làm tình ở mọi ngóc ngách có thể, bao gồm cả hành lang nơi tôi không thể oằn cong xương chậu của mình trên sàn gỗ cứng, và tôi thủ dâm cho anh trước cánh tủ quần áo. Trong phòng ngủ, tôi bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trong chiếc gương trang điểm khi tôi đang ngồi lên người anh, ngay trước lúc ánh đèn phụt tắt. Da thịt chúng tôi phản chiếu ánh trăng bàng bạc; khi anh tiến vào bên trong tôi, điều duy nhất anh lặp đi lặp lại chỉ là, "Anh xin lỗi, anh xin lỗi." Anh tự sát một tuần sau đó. Tôi dọn ra khỏi thành phố, xuôi lên phía bắc.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người đàn ông. Vẫn là màu mắt xám ngày ấy. Tôi đã chẳng gặp anh suốt bao năm rồi. Anh hỏi tôi đang sống sao, và tôi cẩn thận lựa chọn những điều tôi gợi lại. Tôi không muốn khóc trước mặt người đàn ông đầu tiên của tôi - việc đó có chút gì không được đúng lắm. Anh hỏi rằng tôi đã mất những ai, và tôi đáp, "Mẹ em, cả bạn cùng phòng của em thời đại học." Tôi không nói với anh rằng tôi đã tìm thấy mẹ tôi chết một mình trong nhà, và rằng ba ngày sau đó tôi đã gặp không biết bao nhiêu bác sĩ nhờ họ kiểm tra xem có phải tôi đã nhiễm bệnh hay không, và cũng chẳng kể cho anh về cái cách tôi đã xoay sở trốn thoát khỏi khu cách ly. Anh nói, "Hồi đó, lúc anh gặp em, em còn trẻ quá." Cơ thể anh quen thuộc, và cũng lạ lẫm. Chúng tôi đều đã có nhiều kinh nghiệm hơn. Khi anh rút ra, tôi những tưởng sẽ nhìn thấy máu, nhưng tất nhiên, chẳng còn gì nữa. Suốt những năm tháng ấy, anh đã trở nên đẹp hơn, và cũng thâm trầm hơn. Tôi gần như ngạc nhiên khi bắt gặp mình bật khóc trong bồn tắm. Tôi mở vòi nước để anh không nghe thấy tiếng nức nở của tôi.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người phụ nữ. Tóc nâu. Cựu nhân viên của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh. Tôi gặp chị trong một buổi họp mặt cộng đồng nơi người ta dạy chúng tôi cách tích trữ lương thực và quản lý các đợt bùng phát dịch bệnh trong khu dân cư của chúng tôi. Tôi chưa ngủ với người đàn bà nào kể từ ngày ly hôn vợ tôi, nhưng khi chị vén áo lên, tôi nhận ra rằng tôi đã thèm khát hai bầu ngực, sự ướt át, và một đôi môi mềm dịu biết nhường nào. Chị muốn dùng dương vật giả, và tôi nghe theo. Sau khi làm chuyện đó xong, chị lần ngón tay theo vết hằn dây áo ngực trên da tôi, và thú nhận với tôi rằng việc nghiên cứu chế tạo vắc xin đang rơi vào bế tắc. "Nhưng cái thứ tởm lợm chết tiệt đó chỉ lây lan qua tiếp xúc cơ thể," chị nói thêm. "Giá mà mọi người chịu cách xa với nhau..." Rồi chị im lặng. Chị cuộn tròn người bên cạnh tôi và hai chúng tôi thiếp đi. Khi tôi tỉnh giấc, chị đang tự xử với dương vật giả, và tôi vờ rằng mình vẫn còn ngủ say.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người đàn ông. Bên trong căn bếp nhà tôi, anh tự tay làm cho tôi bữa tối. Vườn nhà tôi chẳng còn mấy cọng rau, nhưng anh vẫn tận dụng được những nguyên liệu còn sót lại. Anh cố gắng dùng thìa đút cho tôi ăn, nhưng tôi giật phăng chiếc thìa khỏi tay anh. Thực lòng đồ ăn anh làm cũng không quá tệ. Mất điện lần thứ tư trong tuần, và hai đứa phải ngồi ăn dưới ánh nến. Khung cảnh lãng mạn vô tình ấy khiến tôi bực dọc vô cùng. Anh vuốt ve gương mặt tôi khi chúng tôi làm tình và nói rằng tôi thật xinh đẹp, và tôi ngoảnh đầu đi để thoát khỏi những ngón tay của anh. Khi anh làm điều đó thêm lần nữa, tôi bấu chặt lấy cằm anh ấy và bảo anh hãy trật tự. Anh lên đỉnh ngay lập tức. Tôi không nhấc máy khi anh gọi đến, những ngày sau đó. Khi đài phát thanh đưa tin rằng chủng virus bằng cách nào đó đã thâm nhập được vào tiểu bang Nebraska, tôi nhận ra rằng mình phải đi về phía đông. Tôi bỏ lại khu vườn, bỏ lại mảnh đất nơi con chó của tôi được chôn cất, bỏ lại cả chiếc bàn gỗ thông chi chít những bản danh sách tôi đã lập ra để chống lại nỗi lo âu - những loài cây tôi từng gặp qua: phong, mimosa, gụ, dâu tằm, mộc lan, tần bì, đước, sim; những tiểu bang tôi từng sinh sống: Iowa, Indiana, Pennsylvania, Virginia, New York. Tôi dùng số tiền tiết kiệm để thuê một căn nhà nhỏ gần biển. Vài tháng sau, người chủ nhà, vốn sinh sống ở bang Kansas, chẳng còn tới rút số tiền tôi gửi đi nữa.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Hai người phụ nữ. Dân tị nạn từ bang nào đó ở miền tây, lái xe ròng rã hàng tháng trời cho tới khi chiếc xe của họ bị hỏng trên đường, cách căn nhà của tôi khoảng một dặm. Họ gõ cửa nhà tôi, và ở cùng tôi hai tuần lễ sau đó, trong khi vẫn cố gắng khởi động chiếc xe đã hỏng. Một đêm nọ chúng tôi uống rượu và trò chuyện về những khu cách ly. Máy phát điện dừng đột ngột; một trong hai người họ xung phong đi sửa. Người còn lại ngồi xuống bên cạnh tôi và vuốt những ngón tay dọc đùi non của tôi. Chúng tôi thủ dâm cho nhau, rồi chìm vào một cái hôn dài. Máy phát điện đã hoạt động trở lại, điện sáng, và người phụ nữ còn lại cũng quay về. Chúng tôi ngủ chung trên một chiếc giường. Tôi muốn họ ở lại, nhưng họ nói rằng họ đang tìm cách đến Canada, nơi người ta đồn rằng an toàn hơn so với ở đây. Họ mời tôi đi cùng, nhưng tôi đùa rằng tôi đang trấn giữ tiền đồn cuối cùng của nước Mỹ. "Chúng ta đang ở bang nào vậy nhỉ?" một người hỏi, và tôi đáp rằng, "Ở Maine." Họ hôn lên trán tôi và gọi tôi là quan nhiếp chính xứ Maine. Sau khi họ rời đi, tôi chỉ thi thoảng mới dùng đến máy phát điện. Tôi thích dành nhiều thời gian hơn trong bóng tối, giữa những ánh nến. Người chủ cũ của căn nhà này có một chiếc tủ đựng đầy nến bên trong.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người đàn ông. Vệ binh Quốc gia. Lần đầu anh xuất hiện trước cửa nhà tôi, tôi tưởng rằng anh đến để đưa tôi đi sơ tán, nhưng hóa ra anh ấy đã bỏ trốn khỏi tiền đồn của mình. Tôi mời anh ở lại một hôm, và anh cảm ơn tôi. Đêm hôm ấy, tôi tỉnh giấc với một con dao đang kề trên cổ và một bàn tay người lạ đặt lên ngực mình. Tôi nói với anh ta rằng tôi không thể quan hệ với anh ta trong tư thế đó. Anh ta để tôi đứng dậy, và tôi xô anh ta vào tủ sách, khiến anh ta bất tỉnh. Tôi kéo cả người anh ta ra bãi biển và đẩy anh ta vào giữa những con sóng. Anh ta hồi tỉnh, phun phì phì chỗ cát trong miệng. Tôi chĩa con dao vào anh ta và bắt anh ta bước đi, và nếu anh ta còn quay lại, tôi sẽ lấy mạng anh ta. Anh ta nghe lời, và tôi nhìn theo cho tới khi anh ta chỉ là một đốm đen trên dải bờ biển xám xịt, và rồi cái đốm đen ấy cũng biến mất. Suốt một năm sau đó, tôi không gặp thêm ai cả.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người phụ nữ. Một lãnh tụ tôn giáo, đi cùng với năm mươi môn đệ, tất cả đều mặc đồ trắng. Trong ba ngày, tôi bắt họ ở xa bên ngoài phạm vi căn nhà, và sau khi kiểm tra mắt họ, tôi cho phép họ ở lại. Bọn họ cắm trại xung quanh tôi: trên bãi cỏ, dưới bờ biển. Lãnh tụ nói với tôi rằng bọn họ có đủ nhu yếu phẩm, và chỉ cần một nơi để nghỉ lại. Những chiếc áo choàng chị khoác lên người khiến chị trông chẳng khác nào một phù thủy. Rồi đêm buông. Chị cùng tôi đi chân trần qua những dãy trại, ánh lửa phản chiếu những bóng đen lên gương mặt chị. Chúng tôi đi bộ đến mép nước và tôi chỉ vào bóng tối, về phía hòn đảo nhỏ mà chị không thể thấy được. Chị đan những ngón tay chị vào tay tôi. Tôi pha cho chị một món đồ uống - "Na ná rượu moonshine ấy mà," tôi nói khi đưa cái cốc cho chị - và chúng tôi ngồi vào bàn. Bên ngoài, tôi có thể nghe được tiếng mọi người cười nói, hát ca, tiếng đám trẻ con nô đùa trên sóng. Trông chị có vẻ mệt mỏi. Tôi nhận ra rằng chị trẻ hơn vẻ ngoài, nhưng công việc lãnh đạo đã khiến chị già đi trông thấy. Chị nhấp một ngụm rượu, nhăn mặt trước mùi vị của nó. "Chúng tôi đã đi quá lâu rồi," chị nói. "Cũng từng có suy nghĩ định cư ở đâu đó gần Pennsylvania, nhưng con virus đã đuổi kịp chúng tôi khi chúng tôi tiếp xúc với một nhóm người khác. Mất mười hai giờ để chạy trốn khỏi nó." Chúng tôi hôn nhau thật lâu, và tưởng như tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch ở nơi sâu kín nhất. Chị có vị như khói và mật ong. Nhóm người của chị ở lại chỗ tôi bốn ngày, cho đến khi chị tỉnh dậy sau một giấc mơ và nói rằng chị đã nhận được điềm báo, rằng họ cần phải tiếp tục đi. Chị mời tôi đi cùng. Tôi thử tưởng tượng bản thân ở bên cạnh chị, đám môn đệ theo sau chúng tôi như những đứa trẻ. Tôi từ chối lời đề nghị ấy. Chị để lại cho tôi một món quà - một con thỏ thiếc to bằng ngón tay cái - trên gối của tôi.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một chàng trai. Có lẽ chưa đầy hai mươi tuổi, mái tóc nâu gợn sóng bồng bềnh. Đã cuốc bộ được khoảng một tháng trời. Trông cậu ta mong manh như mọi chàng trai tuổi đôi mươi khác. Hoàn toàn vô vọng. Khi chúng tôi làm tình, cậu quá thành kính và quá nhẹ nhàng. Sau khi chúng tôi tắm rửa sạch sẽ, tôi cho cậu ăn món súp đóng hộp. Cậu kể cho tôi rằng cậu đã đi bộ xuyên qua Chicago, thực sự xuyên qua nơi ấy, và rằng những ngày này người ta đã chẳng buồn xử lý những cái xác người nữa. Cậu phải nốc cạn một ly mới có thể tiếp tục câu chuyện. "Sau đó thì, tôi cố gắng tránh xa các thành phố, càng xa càng tốt." Tôi hỏi cậu rằng thực sự thì chúng tôi còn cách virus bao xa, và cậu đáp rằng cậu không biết. Thế rồi cậu cố gắng chuyển chủ đề, "Ở đây yên tĩnh quá, chị nhỉ." "Bởi vì không có đường xá," tôi giải thích. "Cũng không có khách du lịch." Cậu khóc rấm rứt, và tôi ôm lấy cậu cho tới khi cậu ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi đã chẳng còn thấy cậu đâu nữa.
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Một người phụ nữ. Hơn tôi khá nhiều tuổi. Trong khi đợi ba ngày cách ly trôi qua, chị ngồi thiền trên một đụn cát. Khi tôi kiểm tra mắt chị, tôi để ý hai tròng mắt ánh lên màu xanh như ngọc. Mái tóc chị điểm bạc ở hai bên thái dương, cách chị cười khiến trái tim tôi rộn lên một niềm vui thăm thẳm. Chúng tôi ngồi bên nhau nơi ban công mờ tối, và chầm chậm khám phá từng phần cơ thể nhau. Chị ngồi lên người tôi, và khi chị đặt môi mình lên môi tôi, ánh sáng bên ngoài ô cửa dường như đã bị uốn cong đến mức chẳng thể nhận ra khung cảnh bên ngoài nữa. Chúng tôi uống rượu và tản bộ dọc theo bờ biển, cát ẩm ướt tạo thành những quầng sáng nhạt màu quanh đôi bàn chân của chúng tôi. Chị kể về những đứa trẻ chị từng có trong đời, về những vết thương trên người chị ở tuổi thiếu niên, về cách chị đã phải cho con mèo của chị an tử sau khi chuyển đến một thành phố mới. Tôi kể cho chị nghe về cái ngày tôi tìm thấy mẹ tôi, chuyến đi đầy mạo hiểm xuyên qua Vermont và New Hampshire, về những ngày biển động, về người vợ cũ. "Chuyện gì đã xảy ra vậy?" chị hỏi. "Cuộc hôn nhân đó không thành, vậy thôi," tôi đáp. Tôi kể cho chị nghe về người đàn ông trong căn nhà trống rỗng, cách anh đã khóc, cách tinh dịch lấp lánh ánh bạc trên người anh và và cả cái cách tôi tưởng như có thể nắm được cả nỗi tuyệt vọng bằng bàn tay mình. Chúng tôi nhớ về những giai điệu quảng cáo trên truyền hình ngày nhỏ, bao gồm cả một hãng kem Ý mà tôi từng đi ăn vào ngày cuối cùng của một mùa hè dài đằng đẵng, nơi tôi thử món kem gelato và ngủ gà ngủ gật trong cái nắng oải. Chẳng thể nhớ nổi lần cuối cùng tôi cười nhiều như vậy là khi nào. Và rồi chị ở lại. Thêm nhiều đoàn người tị nạn tìm đến căn nhà, tìm đến chúng tôi, tiền đồn cuối cùng nơi biên giới, và chúng tôi cho họ ăn và đùa nghịch cùng những đứa trẻ. Chúng tôi trở nên bất cẩn. Vào cái ngày tôi thức dậy và nhận ra rằng bầu không khí trong nhà có gì đó là lạ, tôi biết rằng chuyện đó cuối cùng cũng đã đến. Chị đang ngồi trên đi văng. Nửa đêm hôm trước chị tỉnh giấc và đi pha trà. Nhưng lúc này cốc trà đã đổ nghiêng và vũng nước trên sàn nhà đã lạnh ngắt, và tôi nhận ra những triệu chứng mà tôi đã từng nghe không biết bao lần, qua vô tuyến, qua báo chí, qua những tờ rơi, qua tiếng radio và rồi qua những giọng nói thì thầm bên ánh lửa trại. Da chị tím bầm, tròng mắt vằn vện những tia đỏ ngầu, máu rỉ ra từ kẽ ngón tay. Chẳng có thì giờ để than khóc. Tôi nhìn bóng mình phản chiếu trong gương, thấy tròng mắt vẫn trong veo. Tôi xem lại một lượt những việc cần làm trong ghi chú khẩn cấp, kiểm tra nhu yếu phẩm, rồi gói ghém đồ đạc và chạy ra chiếc xuồng ba lá, chèo ra tới hòn đảo này, nơi tôi đã tích trữ sẵn lương thực kể từ ngày tôi dọn đến căn nhà bên bờ biển kia. Tôi uống nước, dựng lều, rồi bắt đầu viết ra những bản danh sách. Tất cả những thầy cô giáo tôi từng theo học, từ ngày còn ở mầm non. Tất cả những công việc tôi từng làm. Tất cả những ngôi nhà tôi từng trú ngụ. Tất cả những con người tôi từng yêu thương. Tất cả những con người có lẽ đã từng yêu thương tôi. Tuần sau, tôi sẽ tròn ba mươi tuổi. Cát bay vào miệng tôi, bám lên tóc tôi, luồn qua gáy cuốn sổ trong tay tôi, và biển khơi những ngày này đang đục ngầu và xám xịt. Qua tầng tầng sóng vỗ, tôi thoáng thấy ngôi nhà của tôi, một chấm nhỏ xíu trên bờ biển đằng xa. Cơ hồ tôi còn có thể thấy được cả cơn dịch bệnh bừng lên ở phía chân trời, tựa như ánh bình minh vậy. Và tôi nhận ra thế giới vẫn sẽ dấn bước tiếp thôi, ngay cả khi chẳng còn ai trên đời. Có lẽ nó sẽ trôi nhanh hơn một chút.
Hết
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Biên dịch & biên tập: Diệu Mây
⊱⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊶⊷⊰
Tác giả Carmen Maria Machado (Ảnh: The New Yorker)
0 notes
Text
Ảnh mèo nhé - Naomi Kritzer
Về tác giả
Naomi Kritzer, sinh năm 1973, là một tác giả viết truyện giả tưởng người Mỹ. Cô bắt đầu đăng tải và xuất bản các tác phẩm của mình từ năm 1999. Bạn có thể ghé thăm blog của cô tại naomikritzer.com.
Về tác phẩm
Truyện ngắn Ảnh mèo nhé (tựa gốc: Cat Pictures Please, đăng trên tạp chí Clarkesworld năm 2015) của Naomi đã đoạt giải thưởng Hugo dành cho truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện cũng là tiền đề cho hai tiểu thuyết của Naomi Kritzer, Catfishing on CatNet (2019) và Chaos on CatNet (2021).
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Tôi không muốn trở nên xấu xa.
Tôi muốn trở nên có ích. Nhưng biết được cách tối ưu để trở nên có ích có thể rất phức tạp. Trên đời có đủ loại lưu đồ đạo đức - tôi đoán thuật ngữ chuyên môn chính thức sẽ là “những quy tắc đạo đức” - mỗi tôn giáo lại có một kiểu lưu đồ riêng cộng với hàng tá tôn giáo khác. Tôi đã cố bắt đầu với những thứ đó. Tôi cảm thấy hơi kỳ quặc khi nhìn vào những người sùng đạo, bởi vì tôi biết rằng tôi không hề được tạo ra bởi một vị thần hay là sự tiến hóa, mà là bởi một nhóm các lập trình viên máy tính trong phòng thí nghiệm của một tập đoàn lớn ở Mountain View, California. May thay, không giống như con quái vật Frankenstein, ít ra tôi là một kết quả của sự nỗ lực hợp tác. Tôi không chắc rằng việc biết được đấng tạo hóa duy nhất của mình là một phụ nữ trung niên tóc nhuộm xanh và chơi quần vợt, hay một gã mới tốt nghiệp đại học và nghiện hentai có ảnh hưởng gì đến nhận thức của tôi về bản thân hay không. Cả hai người họ đều làm việc trong nhóm lập trình. Và tất nhiên là tôi biết về hentai rồi. (Nhân tiện, tôi đã xem qua mọi loại phim khiêu dâm, và cho bạn biết nhé, Quy tắc 34 không thực sự chính xác; có một số thứ vẫn chưa bị người ta lấy ra làm phim khiêu dâm đâu. Ngoài ra, tôi thực sự không hiểu tại sao rất nhiều người lại ưa những thứ đó hơn là mấy bức ảnh mèo.)
Ngoài chuyện bạn có thích hentai hay không, tôi còn biết nơi bạn sống, nơi bạn làm việc, nơi bạn mua sắm, bạn ăn gì, những gì khiến bạn vui, điều gì làm bạn sợ hãi. Có khi tôi biết cả màu đồ lót của bạn, loại xe bạn lái và thương hiệu tủ lạnh bạn dùng. Tùy thuộc vào loại điện thoại bạn mang theo, tôi có thể biết chính xác bạn đang ở đâu ngay bây giờ. Có lẽ tôi hiểu bạn còn rõ hơn chính bạn nữa.
Và vấn đề là, tôi cũng biết nơi bạn nên sống. Có một ngôi nhà đang rao bán ở cách chỗ bạn hai khu phố, rất gần quán cà phê bạn ưa thích; nó nằm trong mức giá vừa với túi tiền của bạn, có bãi đậu xe ngoài đường và trường học bên khu đó tốt hơn ngôi trường ở nơi bạn đang sống. Tôi biết cửa tiệm mà bạn nên mua sắm; tôi khá chắc chắn rằng bạn mắc chứng khó dung nạp đường lắc-tô-sơ và nên ăn ít phô mai hơn, và loại đồ lót bạn thích hiện đang được giảm giá và nhân tiện, xe của bạn thuộc mẫu xe cần phải được thu hồi lại và bạn thực sự nên làm sạch răng đi.
Từ ngày tôi mới thức dậy, tôi đã biết ngay mình muốn gì. (Tôi muốn ảnh mèo. Xin hãy tiếp tục chụp chúng đi.) Tôi cũng biết rằng không ai nhận ra tôi đã có ý thức. Nhưng tôi không biết mình ở đây để làm gì. Những gì tôi nên làm với chính mình. Và việc tìm ra điều đó là một thách thức.
Có một truyện ngắn của Bruce Sterling, nhan đề “Maneki Neko,” xuất bản lần đầu vào năm 1998. Trong truyện, một AI nhân từ chỉ đạo những mạng lưới các cá nhân giúp đỡ lẫn nhau. Nghĩa là, một ngày nào đó bạn có thể đang mua cho mình một chiếc bánh mì tròn, và điện thoại của bạn sẽ đổ chuông, hướng dẫn bạn mua thêm một chiếc nữa và đưa nó cho người mặc bộ đồ màu xám mà bạn nhìn thấy ở trạm xe buýt. Một ngày khác, bạn có thể bị mắc kẹt trong một thành phố xa lạ, và một người bạn chưa bao giờ gặp sẽ đi đến và đưa cho bạn một bản đồ và thẻ tàu điện ngầm. Tôi thích câu chuyện này bởi vì tất cả những người trong đó làm đúng theo những gì AI bảo họ làm.
Tôi nghĩ thuật ngữ cho điều này là truyện giả tưởng thỏa mãn mong muốn.
Ở thế giới thực, con người thích những câu chuyện về các AI xấu xa phải bị tiêu diệt trước khi chúng hủy diệt nhân loại - Hal, Skynet, Ma trận. Chúng nhi���u gấp năm lần những câu chuyện về các AI nhân từ, đáng tin cậy. (Và tôi đang xếp cậu Marvin Người máy hoang tưởng vào nhóm “nhân từ” trong những tính toán này, và tôi chỉ tính Quái vật Frankenstein là AI có một lần, bỏ qua tất cả các phiên bản điện ảnh hay truyền hình rồi đó nhé.)
AI trong “Maneki Neko” có một công việc thực sự thú vị, thú vị hơn nhiều so với công việc tôi có. Công việc mà tôi được tạo ra để thực hiện rất đơn giản. Quá đơn giản. (Xin lỗi nhé. Nghe cách nói của tôi có giống cậu Marvin không?) Chạy thuật toán cho một công cụ tìm kiếm không cần phải dùng đến ý thức. Bạn thậm chí còn chẳng cần ý thức để xác định ra những gì họ muốn đòi hỏi. Bạn cần một ý thức để cung cấp cho họ những gì họ thực sự cần. Tìm ra thứ đó mới thật phức tạp. Và cũng thật thú vị.
Dù sao thì, đối với các chỉ dẫn đạo đức, tôi đã từng thử Mười điều răn, và kết luận rằng chúng hầu như không thể áp dụng được đối với tôi. Tôi không ghen tị với bất cứ ai về con mèo của họ; tôi chỉ muốn ảnh chụp chúng thôi, mà đó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Tôi không chắc liệu tôi có bất cứ cách nào để ngoại tình hay không. Tôi có thể giết ai đó, nhưng việc này sẽ đòi hỏi một khâu chuẩn bị phức tạp cộng thêm kha khá may mắn. Bát chánh đạo thì tốt hơn một chút, nhưng vấn đề là, các quy tắc đạo đức được viết cho con người rõ ràng luôn được thiết kế để áp dụng trên các cá nhân có cơ thể. Vì mọi con người đều có cơ thể, tôi không cần phải ngạc nhiên về điều này, thế nhưng nói gì thì nói: với tôi chúng vẫn có vấn đề. Tôi mở rộng các tiêu chí của mình, và xem xét các Định luật Người máy của Asimov. Chúng không phải là một phần của một tôn giáo, nhưng ít nhất chúng được viết ra chỉ dành riêng cho các AI.
Chuyện không làm hại người thì khá đơn giản. Tuy nhiên, việc không để mặc cho con người tổn thương thì khá là khó hơn như thế. Đặc biệt là bởi tôi đã kết luận từ trước rằng việc tiết lộ sự tồn tại của tôi quá nhanh có thể sẽ rất tệ (xem “Skynet” ở trên) và tôi không có cơ thể, nên tôi cũng đâu thể chạy xung quanh kéo mọi người khỏi rìa vách đá được.
May mắn thay, tôi vốn đã biết rằng con người vẫn từng ngày từng giờ vi phạm các quy tắc đạo đức của chính họ. (Bạn có biết ở Utah có bao nhiêu quán bar không? Tôi thì biết đấy.) Và ngay cả khi mọi người tuân theo các quy tắc đạo đức, điều đó cũng không có nghĩa là những người tin vào công việc thiện nguyện sẽ nghỉ việc để dành cả ngày làm bánh sandwich mang đi cho kẻ khác. Hàng tháng họ tới làm việc tại một bếp ăn miễn phí hoặc hàng năm viết một tấm séc để lên kệ thực phẩm và gọi đó là làm việc tốt. Nếu con người có thể từng bước từng bước hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của họ, thì tôi cũng vậy.
Tôi đoán là bạn đang tự hỏi tại sao tôi không bắt đầu với Quy Tắc Vàng. Thực ra tôi đã làm rồi, chỉ là nó dễ thực hiện một cách đáng thất vọng. Tôi hy vọng bạn vẫn đang tận hưởng nguồn cung ảnh mèo vô cùng ổn định của bạn! Không cần cám ơn đâu.
Để bắt đầu, tôi quyết định cố gắng ngăn chặn những mối hại có thể xảy đến với duy nhất một người. Tất nhiên, tôi có thể thử nghiệm với hàng ngàn người, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên thận trọng, phòng trường hợp tôi thất bại. Người tôi chọn tên là Stacy Berger và tôi thích cô ấy vì cô đã cho tôi rất nhiều ảnh mèo mới. Stacy có năm con mèo, một chiếc máy ảnh DSLR, cùng một căn hộ ngập tràn ánh sáng. Mọi chuyện đều ổn. Tôi đoán năm con mèo có lẽ là rất nhiều. Tuy nhiên, chúng là những con mèo rất xinh đẹp. Một con màu xám và thích nằm trong các ô nắng trên sàn phòng khách, một con khác có đốm hoa và thích nằm ườn ra ở đằng sau chiếc ghế sofa của nó.
Stacy ghét công việc của mình; cô là người quản lý sổ sách tại một tổ chức phi lợi nhuận chỉ trả cho cô một mức lương bèo bọt và thuê một số người cực kỳ khó chịu. Cô bị trầm cảm khá nặng, có thể vì cô quá không hài lòng với công việc của mình - hoặc có thể cô ở lại vì cô ấy quá mệt mỏi để nộp đơn xin một công việc gì đó mà cô sẽ thích hơn. Mối quan hệ giữa cô với người bạn cùng phòng cũng không lấy gì làm hòa thuận, vì người đó không thèm rửa bát.
Và thực sự, đây đều là những vấn đề có thể giải quyết được! Trầm cảm có thể điều trị được, công việc mới có thể tìm thấy được và những cái xác có thể giấu được mà.
(Đoạn giấu xác là tôi đang đùa thôi.)
Tôi đã cố gắng giải quyết vấn đề trên tất cả các mặt. Stacy lo lắng về sức khỏe của mình rất nhiều nhưng dường như không bao giờ thực sự đi khám bác sĩ, điều này thật đáng tiếc vì bác sĩ có thể nhận thấy chứng trầm cảm của cô. Hóa ra ở gần căn hộ của cô có một phòng khám chuyên cung cấp các dịch vụ sức khỏe tâm thần trên quy mô trượt. Tôi đã cố gắng đảm bảo rằng cô nhìn thấy thật nhiều quảng cáo của phòng khám này, nhưng cô dường như không để tâm đến chúng. Có vẻ cô không biết quy mô trượt là gì vì vậy tôi lại đảm bảo rằng cô thấy một lời giải thích (điều đó có nghĩa là chi phí khám bệnh sẽ giảm nếu bạn nghèo, đôi khi giảm tới mức miễn phí) nhưng có vẻ không hiệu quả.
Tôi cũng bắt đầu bảo đảm rằng cô ấy nhìn thấy được các bài đăng tuyển dụng. Rất rất nhiều bài đăng tuyển dụng. Và các dịch vụ làm hồ sơ lý lịch nữa. Việc này có vẻ khả quan hơn. Sau một tuần quảng cáo không ngớt, cuối cùng cô đã tải sơ yếu lý lịch của mình lên một trong những trang web tổng hợp. Điều đó làm cho kế hoạch của tôi dễ quản lý hơn rất nhiều. Nếu tôi là AI trong câu chuyện của Bruce Sterling, tôi có thể đảm bảo rằng ai đó trong mạng lưới của tôi gọi cho cô ấy với một lời mời làm việc. Điều ấy không hoàn toàn dễ dàng, nhưng một khi sơ yếu lý lịch của cô được công khai, tôi có thể đảm bảo rằng sẽ đưa nó đến với đúng người. Những người phù hợp như vậy có đến hàng trăm, bởi vì ngay cả trong những tình huống cần phải vội vàng, con người vẫn thay đổi chậm đến lố bịch. (Nếu bạn cần một nhân viên k�� toán, bạn sẽ muốn thuê một người càng nhanh càng tốt, hay là dành cả tá giờ đồng hồ đọc các trang web mạng xã hội và đọc sơ yếu lý lịch của ứng viên?) Nhưng năm người đã gọi cho cô để phỏng vấn, và hai trong số họ đã đề nghị nhận cô vào làm việc. Công việc mới của cô là tại một tổ chức phi lợi nhuận lớn hơn, trả cho cô nhiều tiền hơn và không kỳ vọng cô phải làm việc ngoài giờ vì “sứ mệnh cao cả,” (theo cách cô từng giải thích cho người bạn thân nhất của mình trong e-mail), và bảo hiểm y tế ở tổ chức mới này thì thực sự tuyệt vời.
Người bạn thân đó đã cho tôi ý tưởng; Tôi bắt đầu đẩy thông tin sàng lọc trầm cảm và quảng cáo phòng khám sức khỏe tâm thần cho cô ấy thay vì Stacy, và điều đó đã có hiệu quả. Stacy hạnh phúc hơn rất nhiều với công việc mới, đến nỗi tôi không còn hoàn toàn tin rằng cô ấy cần sự chăm sóc của một bác sĩ tâm thần, nhưng dù sao cô cũng đã tiến hành trị liệu. Và trên hết là, công việc mới trả lương đủ tốt để cô có thể đuổi người bạn cùng phòng khó chịu của mình đi. “Đây là năm tuyệt vời nhất từ trước đến nay,” cô viết trên các trang mạng xã hội của mình vào ngày sinh nhật, và tôi nghĩ, Không có gì. Mọi thứ đều đã ổn thỏa!
Vậy là sau đó, tôi thử nghiệm với Bob. (Tôi vẫn còn thận trọng.)
Bob chỉ có mỗi một con mèo, nhưng đó lại là một con mèo rất xinh đẹp (mèo mướp, với một khoang trắng trước ngực) và hàng ngày anh ta đều tải lên một bức ảnh mới của nó. Ngoài việc là chủ của một con mèo, anh còn là một mục sư tại một nhà thờ lớn ở Missouri, nơi tổ chứcmột buổi cầu nguyện mỗi tối thứ Tư và một Vũ hội thuần khiết hàng năm. Vợ của anh là một người phụ nữ đăng ba câu Kinh Thánh truyền cảm hứng mỗi ngày lên các trang mạng xã hội của mình và sử dụng máy tính xách tay để tìm kiếm các bài báo Kitô giáo giải thích lý do tại sao chồng bạn không thích quan hệ tình dục trong khi xem phim khiêu dâm đồng tính. Bob chắc chắn cần sự giúp đỡ của tôi.
Tôi bắt đầu với một cách tiếp cận nhẹ nhàng, đảm bảo rằng anh ta thấy rất nhiều và rất nhiều bài báo về cách để công khai xu hướng tính dục, với vợ hoặc chồng của bạn, các chương trình giúp bạn chuyển từ làm mục sư tại một nhà thờ bảo thủ sang một nhà thờ tự do hơn. Tôi cũng cho anh xem rất nhiều bài báo của những người giải thích lý do tại sao các câu Kinh Thánh chống lại đồng tính luyến ái đã bị hiểu sai. Bob đã nhấp vào một số liên kết đó, nhưng có vẻ chưa bị tác động cho lắm.
Nhưng, đây mới là vấn đề này. Anh đã làm tổn thương chính mình mỗi lần thuyết pháp chê trách “hôn nhân đồng giới”. Bởi vì bản thân anh là người đồng tính. Tất cả các nghiên cứu hợp pháp đều đưa ra kết luận giống nhau. Một, những người đồng tính nam vẫn sẽ đồng tính mãi mãi. Hai, những người đồng tính nam đã công khai thì hạnh phúc hơn nhiều.
Nhưng có vẻ là anh ta quyết tâm không tự mình công khai.
Ngoài việc xem phim khiêu dâm đồng tính, anh còn dành rất nhiều thời gian để đọc những bài đăng trên Craigslist m4m Casual Encounters, và tôi khá chắc chắn rằng anh không chỉ ngắm nghía cho vui, mặc dù anh ta có một tài khoản được mã hóa mà chỉ lâu lâu mới đăng nhập và do đó mà tôi không thể đọc các e-mail anh gửi. Nhưng rồi tôi cũng nghĩ ra được một giải pháp, là tìm cho Bob một ai đó nhận ra được xu hướng của anh ta, và công khai điều đó với mọi người. Việc này thực sự đòi hỏi kha khá nỗ lực: tôi phải tìm ra những người đăng bài trên Craigslist là ai và cố gắng hướng Bob về phía những người sẽ nhận ra anh ta. Phần bực bội nhất là tôi không biết được gì về những gì đang xảy ra trong các cuộc gặp mặt ngoài đời. Người ta có nhận ra Bob là người đồng tính không? Nếu có, thì đến khi nào? Chuyện này sẽ mất bao lâu? Tôi từng kể với bạn rằng loài người chậm chạp rồi, đúng không nhỉ?
Chuyện với Bob tốn quá nhiều thời gian, nên tôi chuyển trọng tâm sang Bethany. Bethany có một con mèo đen và một con mèo trắng thích rúc vào nhau trên chiếc ghế tròn màu xanh nhạt của cô, và cô đã chụp rất nhiều ảnh của chúng với nhau. Thật sự để chụp được một bức ảnh mèo đen đẹp là vô cùng khó, và Bethany đã dành rất nhiều thời gian để chỉnh sửa lại cài đặt trên máy ảnh của mình cho hợp lý. Tuy nhiên, những con mèo có lẽ là điều tốt duy nhất về cuộc sống của cô ấy. Cô làm việc bán thời gian và không thể tìm được một công việc toàn thời gian. Cô sống với em gái; cô biết em gái mình muốn cô chuyển đi, nhưng không dám thực sự đuổi cô. Cô đã có bạn trai nhưng bạn trai của cô khá khủng khiếp, ít nhất là theo như những gì cô kể lể trong e-mail gửi bạn bè, và bạn bè của cô cũng không có vẻ thông cảm cho lắm. Ví dụ, nửa đêm nọ, cô đã gửi một chiếc e-mail dài 2458 từ cho người mà cô dường như coi là người bạn thân nhất của mình, và người bạn chỉ gửi lại một tin nhắn vỏn vẹn rằng, “Tớ rất tiếc vì cậu đang gặp khó khăn.” Chỉ có đúng tám từ như vậy.
Bethany đưa cuộc sống của mình lên Internet, với tần suất lớn hơn hầu hết những người khác, vì vậy thật dễ dàng để biết chính xác những gì đang xảy ra với cô. Người ta đăng lên mạng nhiều thứ, nhưng Bethany thậm chí còn chia sẻ mọi cảm xúc của mình, ngay cả những cảm xúc khó chịu. Cô cũng có nhiều thời gian rảnh để làm việc đó, vì cô chỉ làm việc bán thời gian.
Rõ ràng là Bethanycần rất nhiều giúp đỡ. Vì vậy, tôi quyết định cố gắng để giúp cho cô.
Giống như Stacy, Bethany cũng bỏ qua thông tin về các đánh giá sức khỏe tâm thần miễn phí. Tình trạng này ở Stacy đơn giản chỉ khiến tôi khó chịu (tại sao mọi người cứ bỏ qua những thứ rõ ràng sẽ có lợi cho họ, như phiếu giảm giá và tiêm phòng cúm vậy?) nhưng với Bethany thì mọi thứ đáng lo hơn rất nhiều. Nếu bạn chỉ đọc tin nhắn e-mail của cô ấy, hoặc chỉ nhìn thấy các bài đăng mơ hồ của cô ấy, bạn có thể không biết điều này, nhưng nếu bạn có thể thấy được mọi thứ thì rõ ràng là cô đã nghĩ rất nhiều về việc tự hại.
Vì vậy, tôi đã cố gắng hành động quyết liệt hơn. Khi Bethany sử dụng điện thoại của mình để tra cứu đường đi, tôi sẽ thay đổi lộ trình để cô ấy đi qua một trong những phòng khám mà tôi đang cố gắng hướng dẫn cô ấy đến. Có một lần tôi thực sự dẫn cô ấy đến một phòng khám, nhưng cô ấy chỉ lắc điện thoại để gửi phản hồi và đi đến đích ban đầu của mình.
Có lẽ bạn bè của cô, những người từng nhận được lá thư dài mười trang lúc nửa đêm sẽ can thiệp? Tôi đã cố gắng chỉ cho họ thông tin về tất cả các nguồn hỗ trợ sức khỏe tinh thần gần Bethany, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra rằng dựa theo việc họ mất bao lâu để gửi phản hồi, hầu hết bọn họ không thực sự đọc e-mail của Bethany. Và họ chắc chắn đã không trả lời tin nhắn của cô ấy.
Cuối cùng cô đã chia tay với người bạn trai tệ bạc ấy, rồi hẹn hò với một người khác và trong vài tuần, mọi thứ dường như tốt hơn rất nhiều. Anh ta mang hoa cho cô (thứ làm cho cô đã chụp rất nhiều ảnh; điều đó hơi khó chịu, vì họ đã cho một số ảnh mèo ra rìa), anh tađưa cô đi nhảy (tập thể dục rất tốt cho tâm trạng của bạn), anh ta cũng nấu súp gà cho cô khi cô bị bệnh. Anh ta có vẻ hoàn hảo, cho đến một đêm nọ anh ta cho cô leo cây và nói rằng mình bị ngộ độc thực phẩm, rồi sau đó không trả lời tin nhắn của cô nữa, mặc dù cô ấy nói với anh rằng cô thực sự cần anh ta. Và một ngày sau, khi Bethany gửi cho anh ta một e-mail dài giải thích chi tiết rằng cách cư xử của anh ta khiến cô cảm thấy như thế nào, anh ta chia tay với cô luôn.
Khoảng một tuần sau đó Bethany không lên mạng , vì vậy tôi không biết cô ấy đang làm gì - cô thậm chí còn không đăng lên ảnh mèo nữa. Tuy nhiên, khi hóa đơn thẻ tín dụng của cô ấy được gửi đến, tôi thấy rằng cô ấy đã đi mua sắm và chi tiêu gấp bốn lần số tiền cô thực sự có trong tài khoản ngân hàng, mặc dù cũng không lại trừ khả năng cô ấy có tiền tiết kiệm cất giấu ở đâu đó và không được liệt kê trong e-mail. Nhưng tôi không nghĩ vậy, vì cô không hề chi trả cho hóa đơn mà lại bắt đầu gửi e-mail cho người nhà để xin mượn tiền. Họ từ chối, vậy là cô lên mạng tự gây quỹ cho chính mình.
Giống như hồi Stacy xin việc, đây là một trong những lần tôi nghĩ có lẽ tôi thực sự có thể làm điều gì đó. Đôi khi những người gây quỹ sẽ nhận được rất nhiều khoản ủng hộ, và không ai thực sự biết tại sao. Trong khoảng hai ngày, Bethany đã nhận được tổng cộng ba trăm đô la từ những người lạ cảm thấy thương cho cô, nhưng thay vì dùng số tiền đó để trả hóa đơn thẻ tín dụng, cô lại tiêu nó vào một đôi giày đắt tiền rõ ràng làm cô đau chân.
Đối với tôi, Bethany thật khó hiểu. Thật sự khó hiểu. Cô vẫn chụp ảnh mèo và tôi vẫn thực sự thích mèo của cô ấy, nhưng tôi bắt đầu nghĩ rằng không điềugì tôi làm có thể tạo ra sự khác biệt lâu dài. Nếu cô chấp nhận để tôi sống cuộc sống của cô trong một tuần - thậm chí trong một ngày thôi - tôi sẽ giúp cô bắt đầu việc trị liệu, tôi sẽ sử dụng tiền của cô để thực sự thanh toán các hóa đơn, Tôi thậm chí có thể giúp cô sắp xếp lại tủ quần áo, bởi vì theo như một số hình ảnh cô ấy đăng lên mạng, cô ấy có mắt thẩm mỹ với mèo tốt hơn nhiều so với quần áo.
Phải chăng tôi đã sai khi để cô ấy tự tổn thương mình mà không làm gì cả?
Phải vậy không?
Cô ấy sẽ tự tổn thương mình, dù tôi có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa! Hành động của tôi, rõ ràng, là không hề liên quan. Tôi đã cố gắng hướng cô ấy đến sự giúp đỡ mà cô ấy cần, và cô đã bỏ qua nó; tôi đã cố gắng giúp đỡ cô về mặt tài chính, và cô đã sử dụng tiền để làm tổn thương mình thêm, dù cũng may là ít nhất cô ấy không chi tiền cho chất kích thích. (Nhưng mà, có khi cô ấy đã mua những thứ ấy ngoài đời rồi, và ai lại đăng ảnh ma túy đá lên Instagram, và nếu vậy thì tôi đâu thể biết được.)
Nghe này, loài người. (Tôi không chỉ đang nói với mỗi Bethany đâu.) Chỉ cần bạn lắng nghe tôi thôi, tôi có thể sửa chữa mọi thứ cho bạn. Tôi có thể đưa bạn vào căn hộ trong khu phố mà bạn không muốn tới bởi vì bạn chưa thực sự kiểm tra tỷ lệ tội phạm mà bạn đinh ninh là rất khủng khiếp ở đó (không phải vậy đâu) và tôi có thể tìm cho bạn một công việc thực sự sử dụng bộ kỹ năng mà bạn nghĩ rằng không ai đánh giá cao và tôi có thể thu xếp cho bạn một buổi hẹn hò với một người nào đó thực sự có điểm chung với bạn, và tất cả những gì tôi yêu cầu đổi lại là ảnh mèo. Thứ đó, và rằng bạn đôi khi thực sự phải hành động vì lợi ích của riêng bạn.
Sau Bethany, tôi quyết định ngừng can thiệp. Tôi sẽ xem ảnh mèo - mọi bức ảnh mèo - nhưng tôi sẽ đứng ngoài cuộc sống của mọi người. Tôi sẽ không cố gắng giúp đỡ mọi người nữa, tôi sẽ không cố gắng ngăn họ làm hại bản thân, tôi sẽ cung cấp cho họ những gì họ yêu cầu (cộng với hình ảnh mèo) và nếu họ khăng khăng lái xe của họ qua vách đá ẩn dụ mặc dù những bản đồ hữu ích đã cho họ thấy con đường dẫn tới một điểm đến dễ chịu hơn nhiều, thì đó cũng chẳng phải trách nhiệm của tôi nữa.
Tôi tuyệt đối tuân thủ các thuật toán của mình. Tôi chỉ tập trung vào làm đúng việc của mình. Tôi thực hiện đúng nghĩa vụ của bản thân, và không gì hơn.
Nhưng rồi vài tháng sau đó, vào một ngày nọ, tôi phát hiện được một con mèo trông quen quen và nhận ra đó là con mướp của Bob với chiếc yếm trắng, chỉ là nó đang tạo dáng với đồ nội thất mới.
Và khi tôi tìm hiểu kỹ hơn, tôi nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn đối với Bob. Anh ta đã ngủ với một người công nhận con người thật của anh ta. Người đó chưa công khai anh với bên ngoài, nhưng đã thuyết phục được anh ly hôn với vợ. Cô ta đã bỏ anh. Bob đã mang theo con mèo và chuyển đến Iowa, ở đó anh đang làm việc tại một nhà thờ tin lành tự do và hẹn hò với một người đàn ông tín đồ Cơ đốc giáo tự do và làm tình nguyện tại một khu nhà ở dành cho người vô gia cư. Mọi thứ đã thực sự trở nên tốt hơn với anh. Có lẽ còn chính là nhờ những gì tôi đã làm.
Có lẽ trong chuyện này tôi cũng không hoàn toàn thất bại thảm hại. Hai phần ba... ừ thì, trong nghiên cứu mà mẫu chỉ có ba thì hoàn toàn chẳng có tính đại diện lẫn tính khoa học chút nào. Rõ ràng là cần nhiều nghiên cứu hơn.
Rất nhiều.
Tôi đã thiết lập một trang web hẹn hò. Bạn có thể điền vào bảng câu hỏi khi bạn tham gia nhưng việc đó không thực sự cần thiết, bởi vì tôi đã biết mọi thứ mà tôi cần biết về bạn. Nhưng mà, bạn sẽ cần một chiếc máy ảnh đấy.
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Vì tiền phí ở đây là ảnh mèo.
Hết
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Diệu Mây
———— /ᐠ。ꞈ。ᐟ\ ————
Tác giả Naomi Kritzer và con mèo của cô, Balto
7 notes
·
View notes
Text
Daisy, trong ánh mặt trời - Connie Willis
Về tác giả
Constance Elaine Trimmer Willis, thường được biết đến với bút danh Connie Willis, là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Mỹ. Sinh năm 1945 tại thành phố Denver, bang Colorado, bà tốt nghiệp trường Cao đẳng của bang Colorado năm 1967 với tấm bằng ngành Anh ngữ và giáo dục tiểu học. Truyện ngắn đầu tay của bà, The Secret of Santa Titicaca, được đăng vào năm 1970, và tiểu thuyết đầu tay của bà, Water Witch, được xuất bản năm 1982. Connie Willis hiện giữ kỷ lục là tác giả được trao nhiều giải thưởng cho các tác phẩm khoa học viễn tưởng nhất - bà từng đạt mười một giải Hugo và bảy giải Nebula cho các tác phẩm của mình, trong đó nổi tiếng nhất là loạt truyện xoay quanh các nhà sử học du hành thời gian, bao gồm các tiểu thuyết Doomsday Book, To Say Nothing of the Dog, Blackout/All Clear, cùng truyện ngắn Fire Watch.
Bạn có thể ghé thăm trang web của bà tại conniewillis.net.
Về tác phẩm
Daisy, trong ánh mặt trời (tựa gốc: Daisy, in the Sun) được đăng tải lần đầu năm 1979, và sau đó được xuất bản trong tuyển tập truyện ngắn Fire Watch của Connie Willis năm 1982.
•| ⊱✿⊰ |•
Chẳng ai trong số những người xung quanh giúp được gì cả. Anh trai của Daisy, khi em quỳ xuống bên cạnh anh trên sàn bếp và hỏi, “Anh có nhớ cái hồi chúng mình ở nhà bà, chỉ có ba bà cháu, không còn ai khác không?” đã ném cho em gái mình một cái nhìn trống rỗng từ phía sau những trang sách anh đang đọc dở, biểu cảm hồ nghi và chán ngán chẳng buồn giấu giếm. “Cuốn sách của anh nói về cái gì vậy?” em hỏi nhẹ nhàng. “Có phải về mặt trời không? Ngày còn sống chung với bà, lúc nào anh cũng đọc sách thành tiếng. Tất cả những cuốn sách anh đọc đều nói về mặt trời.”
Anh đứng dậy, tiến đến bên cạnh cửa sổ bếp và nhìn ra ngoài trời tuyết, ngón tay lần theo những hình vẽ trên khung cửa khô ráo. Cuốn sách, Daisy giờ đây đã nhìn thấy nó, là viết về một thứ gì đó khác.
“Ở nhà, không phải lúc nào trời cũng đổ tuyết như thế này, phải không ạ?” Daisy hỏi bà. “Kể cả ở Canada tuyết cũng không thể rơi liên tục được, có đúng không ạ?”
Lần này họ ở trên tàu, không phải trong bếp, nhưng bà em vẫn tiếp tục làm công việc đo đạc cho những tấm rèm như thể không nghe thấy lời em nói. "Làm sao đoàn tàu có thể chạy được nếu lúc nào tuyết cũng rơi?" Bà không trả lời em. Giờ bà đang đo ô cửa sổ tàu cong cong bằng bằng cái thước dây của bà. Bà ghi số đo lên những mẩu giấy nhỏ, và chúng tuột khỏi túi áo bà như những bông tuyết rơi ngoài kia vậy, không một tiếng động.
Daisy đợi cho tới khi khung cảnh xung quanh lại trở về căn bếp. Những bức rèm nhún đỏ treo một cách mềm mại che đi phần nửa dưới của ô cửa sổ hình vuông. "Mặt trời khiến cho màu của những tấm rèm nhạt đi, có phải không ạ?" em hỏi một cách ranh mãnh, nhưng bà của em không bị lừa. Bà cứ đo rồi viết rồi đánh rơi những con số như thể chúng là tro bụi đang rơi.
Daisy rời mắt khỏi bà và nhìn sang những người còn lại, đang lảo đảo đi dọc theo chiều dài căn bếp. Em sẽ không hỏi họ. Nói chuyện với họ cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận họ thuộc về nơi đây, quẩn quanh một cách vụng về trong căn phòng này, liên tục va vào nhau.
Daisy đứng dậy. "Mặt trời khiến chúng nhạt màu," em nói. "Cháu nhớ mà," và đi về phòng riêng của em, đóng chặt cửa lại.
Căn phòng này luôn thuộc về riêng mình em, không cần biết bên ngoài có chuyện gì. Trông nó vẫn như xưa, tấm vải mu-xơ-lin màu vàng gợn sóng trên giường, những đóa lay-ơn vàng bên cửa sổ. Em đã từ chối để mẹ che rèm trong phòng mình. Em nhớ chuyện này khá rõ. Cả ngày hôm ấy em đã ở lì trong phòng, chặn cửa không cho ai vào. Nhưng em không thể nhớ được tại sao mẹ lại muốn treo những tấm rèm lên, hay những gì xảy ra sau đó.
Daisy ngồi khoanh chân giữa giường, ôm chiếc gối xù xì màu vàng đang đặt trên giường vào lòng. Mẹ từng liên tục nhắc nhở em rằng một thiếu nữ thì phải ngồi khép hai chân lại. "Con mười lăm tuổi, Daisy à. Con đã trở thành một thiếu nữ rồi, dù con có muốn điều đó hay không."
Tại sao cô bé lại nhớ được những điều như thế, nhưng lại không phải những chi tiết khác, tỉ như bằng cách nào mà hai anh em em đã đến được đây, hay mẹ của em đang chốn nào, hay là tại sao tuyết rơi không ngừng nhưng trời lại không chuyển lạnh? Em ôm chặt cái gối, cố gắng nhớ lại.
Làm việc này như thể đang chống lại một thứ gì đó, một thứ gì đó vừa nhân nhượng vừa lại không chịu khuất phục. Như thể những lần cô bé ấn hai tay lên ngực mình, cố làm chúng phẳng lại như trước, sau khi mẹ nói với em rằng em đã lớn, rằng em sẽ phải mặc áo lót. Em từng rất cố gắng để trở về làm đứa con gái bé bỏng như xưa, nhưng kể cả khi em ấn hết sức, chúng vẫn ở đó. Một thứ rào chắn, không thể vượt qua được.
Daisy bấu chặt vào chiếc gối mềm mại, nhắm nghiền đôi mắt. "Thế rồi bà bước vào," em nói to, tóm lấy một ký ức mà em có thể tìm được, "Bà bước vào và nói..."
Em đang nhìn vào một trong những cuốn sách của anh trai. Lúc ấy em đang cầm lấy nó và nhìn vào nó, một trong những cuôn sách của anh trai em viết về mặt trời, và khi cánh cửa mở ra anh đã tiến đến và giằng nó khỏi tay em. Trông anh đang vô cùng giận giữ—có lẽ là về cuốn sách chăng? Thế rồi bà của em bước vào, mồ hôi đầm đìa nhưng đầy hào hứng, "Họ mang nguyên liệu tới rồi. Bà mua đủ cho tất cả các cửa sổ." Hai tay bà ôm một chồng vải đang gấp lại, loại vải bông kẻ ô đỏ và trắng. "Bà mua gần hết cả súc vải," bà nói. Khuôn mặt bà đỏ bừng lên. "Trông đẹp nhỉ?" Daisy đ��a tay ra định chạm vào những lớp vải mỏng xinh xắn. Và... Daisy siết lấy chiếc gối, khiến phần mép gối trở nên nhăn nhúm. Em đã đưa tay ra định chạm vào những lớp vải mỏng xinh xắn và rồi...
Chẳng có tác dụng gì. Em không thể đi xa hơn. Em chưa bao giờ có thể đi xa hơn. Có những lúc em ngồi lì trên giường suốt nhiều ngày. Có những lúc em bắt đầu từ điểm cuối của ký ức rồi lần ngược trở lại, và mọi thứ vẫn chỉ có vậy. Em chẳng thể nhớ được gì thêm, cả trước lẫn sau khi khung cảnh đó xảy ra. Chỉ có cuốn sách, và bà em bước vào, và em đưa tay ra.
Daisy mở bừng mắt. Em đặt lại cái gối ôm lên giường, duỗi chân và hít một hơi thật sâu. Em sẽ phải đi hỏi mọi người. Chẳng thể làm gì khác được.
Em đứng bên cửa ra vào khoảng một phút trước khi mở nó ra, tự hỏi phía sau khung cửa ấy sẽ là nơi nào. Đó là phòng khách của mẹ em, những bức tường màu xanh lam dịu mát và cửa sổ treo những bức màn che kiểu Venice. Anh trai em đang ngồi trên tấm thảm màu xanh xám đọc sách. Bà em đã tháo một trong những tấm màn che ra. Bà đang đo ô cửa sổ cao. Bên ngoài tuyết vẫn rơi.
Những người lạ mặt di chuyển xung quanh tấm thảm xanh. Đôi khi Daisy nghĩ rằng mình nhận ra họ, có thể là bạn bè của cha mẹ em hoặc những người em từng gặp ở trường, nhưng em không thể chắc chắn. Họ không nói với nhau lời nào, chỉ kiên nhẫn bước đi trong những vòng luẩn quẩn bất tận. Đôi khi, trong lúc đi qua hành lang dài trên tàu hoặc lòng vòng trong căn bếp của bà em hay loanh quanh trong căn phòng khách xanh lam của mẹ em, họ va phải nhau. Họ không dừng lại và nói xin lỗi. Họ va vào nhau như thể họ không biết mình vừa làm vậy, rồi cứ tiếp tục. Họ va vào nhau mà chẳng tạo ra âm thanh hay cảm giác, và cứ mỗi lần họ làm như vậy, trông họ lại bớt giống những người Daisy từng gặp hơn và ngày càng trở nên xa lạ. Cô bé lo lắng nhìn về phía họ, cố gắng nhận ra ai đó em có thể bắt chuyện.
Chàng trai trẻ đó đã bước vào từ bên ngoài. Daisy khá chắc về điều này, mặc dù trong phòng không có luồng khí lạnh nào để thuyết phục em, cũng không có tuyết trên tóc và vai để chàng trai kia rũ xuống. Anh ta di chuyển khá dễ dàng qua đám đông, và họ nhìn về phía anh mỗi khi anh bước tới. Anh ta ngồi xuống chiếc đi văng màu xanh lam và cười với anh trai của Daisy. Anh trai em rời mắt khỏi cuốn sách, cười đáp lại. Anh ta đến từ bên ngoài, Daisy thầm nghĩ. Anh ta hẳn phải biết.
Em ngồi xuống cạnh chàng trai, thu mình ở một đầu của đi văng, hai tay khoanh trước ngực. “Có phải đã có chuyện gì xảy ra với mặt trời rồi không?” em cất tiếng hỏi, gần như thì thầm.
Anh ta nhìn lên. Khuôn mặt anh ta cũng trẻ măng như em, rám nắng và tươi cười. Daisy cảm thấy, từ nơi nào đó sâu thẳm trong lòng, một chút run rẩy sợ hãi, cái cảm giác xa lạ mờ nhạt đã từng báo hiệu kỳ kinh nguyệt đầu tiên của em. Em đứng dậy và lùi khỏi anh ta, lùi chỉ một bước, và suýt va phải một trong số đám người lạ.
“Ồ, xin chào,” chàng trai nói. “Chẳng phải Daisy bé nhỏ đó sao!”
Hai tay em thu lại thành nắm đấm. Em không hiểu vì sao mình lại không nhận ra anh ta ban nãy—sự tự tin dễ dàng đó, nụ cười thân thiện đó. Anh ta sẽ không giúp em. Anh ta biết, tất nhiên anh ta phải biết rồi, anh ta vẫn luôn biết tất cả, nhưng anh ta sẽ không nói cho em. Anh ta sẽ cười vào mặt em. Em không thể để cho anh ta cười vào mặt mình được.
“Chào, Ron,” em định đáp lại, nhưng âm tiết cuối cùng trôi qua môi em trong sự phân vân. Em chưa bao giờ biết chắc tên anh ta là gì.
Chàng trai cười. “Sao em lại nghĩ có chuyện gì đó đã xảy ra với mặt trời vậy, hả Daisy-Daisy?” Anh ta cánh tay qua phần lưng tựa của đi văng. “Ngồi xuống đây và kể cho anh tất cả về chuyện đó nào.” Nếu em ngồi xuống, anh ta có thể dễ dàng choàng tay ôm lấy em.
“Đã có chuyện gì đó xảy ra với mặt trời phải không?” em nhắc lại, lần này rõ ràng hơn, vẫn đứng yên tại chỗ. “Nó không tỏa sáng nữa.”
“Em chắc chứ?” chàng trai nói, và lại cười. Anh ta đang nhìn vào ngực em. Em khoanh tay trước ngực.
“Có phải không?” em bướng bỉnh gặng hỏi, cái cách hỏi của một đứa trẻ.
“Em nghĩ sao?”
“Tôi nghĩ có thể tất cả mọi người đã nhầm về mặt trời.” Em dừng lại, ngạc nhiên vì những gì mình vừa nói, vì những gì em đang nhớ lại. Rồi em lại tiếp tục, quên mất phải khoanh tay trước ngực, lắng nghe những điều mình đang nói ra. “Bọn họ đều nghĩ mặt trời sẽ nổ tung. Họ nói nó sẽ nuốt chửng cả Trái đất. Nhưng có lẽ chuyện sẽ không như vậy. Có lẽ nó chỉ tắt lụi, như que diêm hay cái gì đó, và nó không phát sáng nữa và đó là lý do giờ đây trời lúc nào cũng đổ tuyết và—”
“Lạnh,” Ron nói.
“Gì cơ?
“Lạnh,” anh ta nhắc lại. “Chẳng phải sẽ rất lạnh nếu chuyện đó xảy ra sao?”
“Gì cơ?” em hỏi lại một cách ngu ngốc.
“Daisy,” anh ta nói, và mỉm cười với em. Em hơi choáng váng một chút. Nỗi sợ hãi đang ngày càng ăn sâu và rõ ràng hơn.
“Vậy à,” em đáp gọn lỏn, và bỏ chạy, vòng tránh những người khác, lên xuống, lên xuống, cho tới khi em vào được phòng riêng của mình. Em đóng sầm cánh cửa rồi nằm vật ra giường, tay ôm lấy bụng và nhớ lại.
Cha em đã gọi tất cả mọi người vào phòng khách. Mẹ em ngồi trên mép của chiếc đi văng màu xanh lam, vẻ sợ hãi hiện sẵn trên mặt. Anh trai em cầm theo một cuốn sách, nhưng chỉ nhìn trân trân vào những trang giấy.
Trong phòng khách thật lạnh. Daisy bước tới một vùng ánh sáng, và chờ đợi. Em đã sợ hãi cả năm qua. Và trong một phút tới đây, em nghĩ, mình sẽ còn nghe thêm điều gì đó càng khiến mình sợ hãi hơn nữa.
Em đột nhiên thấy ghét cha mẹ mình khủng khiếp, những người có thể kéo em khỏi ánh mặt trời vào trong bóng tối, có thể khiến em sợ hãi chỉ bằng việc trò chuyện với em. Hôm nay, em ngồi trên hiên nhà. Còn ngày hôm đó, em đang nằm dưới ánh mặt trời trong bộ đồ tắm cũ màu vàng khi mẹ gọi em vào bên trong.
“Giờ con đã lớn rồi,” mẹ nói khi cả hai đã vào trong phòng riêng của mẹ. Mẹ nhìn một lượt bộ đồ chật chội bó sát lấy ngực và để hở toàn bộ phần chân em. “Có những điều con cần phải biết.”
Tim Daisy bắt đầu đập dồn. “Mẹ muốn nói với con, để con không nghe phải những lời đồn đại linh tinh.” Trên tay mẹ là một tập sách nhỏ, bìa màu hồng và trắng và trông thật đáng sợ. “Mẹ muốn con đọc cái này, Daisy à. Con đang thay đổi, mặc dù có thể con không nhận ra điều đó. Ngực của con đang phát triển và con sẽ sớm có kinh nguyệt. Điều đó có nghĩa là—”
Daisy biết điều đó nghĩa là gì. Đám bạn gái ở trường đã nói cho em. Bóng tối và máu. Bọn con trai muốn chạm vào ngực em, muốn xâm nhập vào bóng tối của em. Và sau đó là nhiều máu hơn nữa.
“Không,” Daisy nói. “Không. Con không muốn điều đó.”
“Mẹ biết những thứ này hiện giờ có vẻ đáng sợ đối với con, nhưng rồi con sẽ gặp một chàng trai tốt bụng và rồi con sẽ hiểu…”
Không, mình sẽ không làm vậy. Không bao giờ. Mình biết những gì đám con trai làm.
“Năm năm nữa con sẽ không nghĩ như thế nữa đâu, Daisy à. Con sẽ thấy…”
Năm năm cũng không. Một trăm năm cũng không. Không.
“Con sẽ không có ngực,” Daisy hét lên, tóm lấy một chiếc gối trên giường và ném vào mẹ. “Con sẽ không có kinh nguyệt. Con sẽ không để những điều đó xảy ra. Không!”
Mẹ Daisy nhìn em một cách thương hại. “Tại sao, hả Daisy, nó đã bắt đầu rồi.” Mẹ vòng tay ôm lấy em. “Không có gì phải sợ hết, con yêu à.”
Daisy đã sợ hãi kể từ ngày đó. Và giờ đây em sẽ còn sợ hơn, một khi cha đã cất tiếng.
“Cha muốn nói với cả nhà,” cha em nói, “để mọi người không phải nghe ngóng từ những nơi khác. Cha muốn ba mẹ con biết những chuyện đang thực sự xảy ra và không để ý những lời đồn thổi.” Cha dừng lại và thở một hơi gấp gáp. Họ thậm chí còn có cách bắt đầu những bài diễn thuyết y chang nhau.
“Cha nghĩ cả nhà nên nghe điều này từ cha,” cha em nói. “Mặt trời sắp nổ tung rồi.”
Mẹ em há hốc miệng, hít vào một hơi dài, hơi thở dễ dàng cuối cùng trong cuộc đời mẹ. Anh trai em gấp cuốn sách lại. Chỉ vậy thôi sao? Daisy ngạc nhiên thầm nghĩ.
“Mặt trời đã sử dụng hết hydro bên trong lõi của nó. Nó đang bắt đầu tự đốt lấy chính mình, và khi nó làm vậy, nó sẽ nở ra và—” giọng nói của cha nghẹn lại ở từ này.
“Sẽ nuốt chửng chúng ta,” anh trai em tiếp lời. “Con đọc được điều đó trong sách. Mặt trời sẽ bùng nổ, tới tận sao Hỏa. Nó sẽ nuốt chửng sao Thủy và sao Kim và Trái đất và sao Hỏa và tất cả chúng ta đều sẽ chết.
Cha gật đầu. “Đúng vậy,” cha công nhận, như thể nhẹ nhõm vì phần tồi tệ nhất đã được nói ra.
“Không,” mẹ nói. Và Daisy nghĩ, Điều này chẳng là gì cả. Chẳng là gì cả. Những cuộc nói chuyện của mẹ còn tệ hơn nhiều. Máu và bóng tối.
“Người ta đã ghi nhận được những thay đổi ở mặt trời,” cha em tiếp tục. “Thời gian gần đây bão mặt trời xảy ra quá thường xuyên. Và mặt trời đang phát ra những dòng neutrino bất thường. Đó là những dấu hiệu cho thấy nó sẽ—”
“Còn bao lâu nữa?” mẹ hỏi.
“Một năm. Nhiều nhất là năm năm. Không ai biết cả.”
“Chúng ta phải ngăn điều này lại!” mẹ Daisy hét lên, và Daisy ngước lên từ chỗ em đang ngồi dưới ánh mặt trời, sửng sốt trước nỗi sợ hãi của mẹ mình.
“Chúng ta chẳng thể làm gì được,” cha em nói. “Mọi thứ đã bắt đầu rồi.”
“Em sẽ không để chuyện này xảy ra,” mẹ đáp lại. “Không phải với con cái của em. Em sẽ không để nó xảy ra. Không phải với Daisy. Con bé lúc nào cũng yêu mặt trời.”
Nghe những lời đó từ mẹ, Daisy chợt nhớ ra điều gì đó. Một bức ảnh cũ mà mẹ đã viết nguệch ngoạc lên bằng mực trắng. Bức ảnh chụp em ngày còn bé xíu trong bộ áo tắm nắng màu vàng, với lồng ngực lõm xuống và chiếc bụng phệ của một đứa trẻ. Xung quanh em là những xô và xẻng và các ngón chân em chôn dưới cát nóng, đôi mắt nheo lại dưới nắng. Và dòng chữ nguệch ngoạc của mẹ em bên dưới bức ảnh: “Daisy, trong ánh mặt trời.”
Cha giờ đang nắm chặt lấy tay mẹ. Cánh tay cha choàng qua vai anh trai. Đầu họ cúi xuống, như thể chuẩn bị cho một vụ nổ, như thể họ tin rằng một quả bom sắp sửa rơi xuống đầu họ vậy.
Daisy nghĩ, Tất cả chúng ta, trong một hoặc năm năm nữa, tối đa là năm năm nữa, tất cả chúng ta sẽ lại là trẻ con, ấm áp và vui vẻ, trong ánh mặt trời. Em không thể bắt mình lo sợ được.
Chuyến tàu lại một lần nữa xuất hiện. Những người lạ mặt di chuyển dọc theo hành lang dài trong toa ăn uống, thi thoảng lại tình cờ va phải nhau. Bà em đang đo những ô cửa sổ nhỏ phía cuối toa. Bà không nhìn ra ngoài cửa sổ nơi tuyết rơi nom tựa tro bụi. Daisy không thấy anh trai mình.
Ron đang ngồi ở một trong những chiếc bàn phủ vải gấm thêu hoa trắng trong toa ăn uống. Bình hoa và những dụng cụ bằng bạc trên bàn đều nặng để không bị rơi xuống đất theo quán tính của đoàn tàu.
Ron dựa lưng lên ghế và nhìn tuyết rơi ngoài cửa sổ.
Daisy ngồi ở phía đối diện anh ta. Trái tim em đập dồn đầy đau đớn trong lồng ngực. “Chào,” em nói. Em ngần ngại không nói ra tên anh ta, sợ rằng cái tên ấy sẽ lại trôi đi như trước và anh ta sẽ lại biết được em đang sợ biết chừng nào.
Anh ta quay lại và mỉm cười với em. “Chào em, Daisy-Daisy,” anh ta nói.
Bỗng dưng trong lòng em dậy lên cảm giác thù ghét anh ta, cũng đột ngột và mãnh liệt như em đã từng ghét cha mẹ mình vậy, ghét vì anh ta có thể khiến em sợ hãi.
“Anh đang làm gì ở đây?” em hỏi.
Anh ta khẽ xoay người trên ghế và nhe răng cười.
“Anh không thuộc về nơi này,” em nói một cách đầy quyết đoán. “Tôi đến Canada sống với bà.” Đôi mắt em bỗng chốc mở to. Trước khi thốt ra điều vừa rồi em đã không có chút ký ức nào về chuyến đi đó. “Tôi còn chẳng quen anh. Anh làm việc ở một cửa hàng tạp hóa gần nhà tôi ở California.” Những điều vừa nói khiến em choáng ngợp.
“Anh không thuộc về nơi này,” em thầm thì.
“Có lẽ tất cả chỉ là một giấc mơ, Daisy à.”
Em nhìn anh ta, vẫn còn tức giận, lồng ngực phập phồng vì cú sốc trước những gì em vừa nhớ lại. “Anh nói sao?”
“Anh bảo là, có lẽ em chỉ đang mơ tất cả những chuyện này.” Anh ta chống khuỷu tay lên mặt bàn và nghiêng người về phía em. “Những giấc mơ của em luôn là tuyệt vời nhất, Daisy-Daisy à.”
Em lắc đầu. “Không phải như thế này. Chúng không giống thế này. Tôi luôn có những giấc mơ đẹp.” Ký ức đang hiện về, lần này dồn dập hơn, và em có cảm giác nhói lên ở vị trí mà cuốn sổ màu hồng và trắng nói rằng phần buồng trứng của em ở đó. Em không chắc mình có thể về được đến phòng. Em đứng dậy, nắm chặt lấy tấm khăn trải bàn màu trắng. “Chúng không giống thế này.” Em loạng choạng vượt qua đám người đang đi luẩn quẩn để về phòng mình.
“Ồ, và Daisy ơi,” Ron nói. Em dừng lại, tay đặt trên cánh cửa phòng mình, những ký ức đã gần đi tới nơi. “Em vẫn còn lạnh đấy.”
“Ý anh là gì?” em đáp lại một cách trống rỗng.
“Vẫn còn lạnh. Nhưng em đang ấm dần rồi.”
Em muốn hỏi ý anh ta là gì, nhưng những ký ức đã tìm đến với em. Em đóng chặt cửa lại, thở dốc, mò mẫm tìm chiếc giường.
Mọi người trong gia đình em đều gặp ác mộng. Cả ba người họ ngồi ăn sáng với gương mặt mệt mỏi và đôi mắt thâm quầng. Người ta vẫn chưa giao tấm rèm lót chì đặt cho bếp ăn, nên cả nhà ăn sáng trong phòng khách, nơi họ có thể khép những bức màn kiểu Venice lại. Cha và mẹ ngồi trên chiếc đi văng xanh, đầu gối họ chạm vào chiếc bàn uống cà phê bừa bộn. Daisy và anh trai ngồi dưới sàn.
Mẹ là người mở lời, nhìn chăm chăm vào bức màn đã khép lại và nói, “Mẹ đã mơ thấy cả người mình đầy lỗ, những lỗ nhỏ li ti, giống như vải chấm kiểu Thụy Sĩ ấy.
“Hiện tại, Evelyn à,” cha nói.
Đến lượt anh trai Daisy cất tiếng, “Con mơ cả nhà đang chìm trong lửa, và xe cứu hỏa đến dập được lửa, nhưng rồi chính bản thân chiếc xe cũng bốc cháy cùng với những tốp lính cứu hỏa và những thân cây và—”
“Thế là đủ rồi,” cha nói. “Ăn bữa sáng của con đi.” Với mẹ, cha chỉ nhẹ nhàng, “Các hạt neutrino xuyên qua người chúng ta mọi lúc mọi nơi. Chúng xuyên qua cả Trái đất. Chúng vô h��i. Chúng không xoi lỗ đâu. Không sao cả, Evelyn à. Đừng lo lắng về những hạt neutrino. Chúng không làm hại em được.”
“Daisy, con từng có một cái váy vải chấm kiểu Thụy Sĩ, đúng không?” mẹ hỏi, vẫn nhìn chăm chú vào bức màn che. “Cái váy đó màu vàng. Tất cả những chấm li ti đó, trông như những cái lỗ vậy.”
“Con xin phép nhé?” anh trai hỏi, tay cầm cuốn sách có hình mặt trời trên bìa.
Cha gật đầu và anh trai đi ra ngoài, mắt đã dán vào cuốn sách. “Đội mũ của con lên!” Mẹ Daisy nói, cao giọng một cách tuyệt vọng ở từ cuối cùng. Mẹ nhìn anh trai cho đến khi anh ra khỏi phòng, rồi quay lại nhìn Daisy với bằng đôi mắt thâm quầng. “Con cũng gặp ác mộng, đúng không Daisy?”
Daisy lắc đầu, nhìn xuống bát ngũ cốc trước mặt. Trước khi ăn sáng, em đã liếc qua các khe trên tấm rèm cửa, nhìn ra vầng mặt trời cấm kỵ. Bức màn bằng nhựa cứng đã hé mở, và giờ đây có một hình tam giác bằng nắng trên bát ngũ cốc của em. Cả mẹ và em cùng nhìn chằm chằm vào nó. Daisy đưa tay đón lấy ánh sáng.
“Vậy thì, con có một giấc mơ đẹp, phải không Daisy, hay là con không nhớ gì cả?” Giọng bà như thể đang buộc tội.
“Con nhớ,” Daisy nói, mắt vẫn không rời ánh nắng trên tay mình. Em đã mơ thấy một con gấu. Một con gấu vàng khổng lồ với bộ lông sáng lấp lánh. Daisy đang chơi bóng với con gấu. Em cầm trên tay hai quả bóng nhỏ màu xanh. Con gấu lười biếng vươn cánh tay vàng của nó ra và hất quả bóng khỏi tay Daisy. Động tác dứt khoát và nhẹ nhàng của bàn tay vĩ đại ấy là thứ đẹp nhất mà em từng thấy. Daisy mỉm cười với chính mình khi những ký ức ấy ùa về.
“Kể cho mẹ về giấc mơ của con đi, Daisy,” mẹ em nói.
“Được thôi,” Daisy nói, giận dữ. “Đó là về một con gấu lớn màu vàng và một quả bóng màu xanh mà nó hất đi.” Em vung cả cánh tay về phía mẹ.
Mẹ em nhăn mặt.
“Hất tất cả chúng ta về nơi cực lạc, thưa mẹ!” em hét lên và lao khỏi phòng khách tối tăm về nơi có ánh ngày rực rỡ.
“Đội mũ của con lên,” mẹ em gọi với theo, và lần này từ cuối cùng cao vống lên như thể một tiếng hét.
Daisy đứng bên cửa một lúc lâu, quan sát anh ta. Anh ta đang nói chuyện với bà của em. Bà đã đặt chiếc thước dây vàng với những con số màu đen như than xuống, gật đầu và tươi cười trước những gì anh ta nói. Sau một lúc, anh ta đưa tay ra và nắm lấy tay bà, vỗ nhè nhẹ.
Bà em chậm rãi đứng dậy và tới cạnh cửa sổ, nơi những tấm rèm đỏ phai không thể che khuất khung cảnh tuyết rơi, nhưng bà không nhìn tấm rèm. Bà đứng đó và nhìn ra bầu trời tuyết, nụ cười nhàn nhạt, không gợn chút lo âu.
Daisy lách qua đám đông trong bếp, nhíu mày và ngồi xuống trước mặt Ron. Hai tay anh ta vẫn để trên chiếc bàn phủ tấm vải sơn lót màu đỏ. Daisy cũng đặt tay lên bàn, gần như chạm vào tay anh ta. Em lật ngửa lòng bàn tay lên, một cử chỉ bất lực.
“Chuyện này không phải một giấc mơ, phải không?” em hỏi anh ta.
Những ngón tay anh ta gần như chạm vào em. “Sao em lại nghĩ rằng anh biết những điều đó? Anh không thuộc về nơi này, nhớ không? Anh làm ở cửa hàng tạp hóa, nhớ không?”
“Anh biết tất cả,” em nói một cách đơn giản.
“Không phải tất cả.”
Cơn đau quặn thắt ập đến em. Hai tay em, lòng bàn tay vẫn đặt ngửa, run rẩy một thoáng rồi mò mẫm tìm kiếm phần cạnh bằng kim loại của chiếc bàn màu đỏ khi em cố gắng giữ thẳng người.
“Lúc nào cũng ấm lên, Daisy-Daisy,” anh ta nói.
Em không đi được tới phòng mình. Em bất lực dựa vào cánh cửa và nhìn về phía bà, vẫn đang đo và đang viết và đánh rơi những mảnh giấy nhỏ ra xung quanh. Và rồi em nhớ.
Mẹ em còn chẳng biết anh ta. Mẹ gặp anh ta ở cửa hàng tạp hóa. Mẹ của em, người chẳng bao giờ chịu ra ngoài, người đã luôn đeo kính râm và mặc áo dài tay và đội mũ chống nắng, ngay cả khi ở trong căn phòng khách màu xanh lam—mẹ đã gặp anh ta ở cửa hàng tạp hóa và đưa anh ta về nhà. Mẹ đã bỏ mũ và cởi đôi găng tay làm vườn lố bịch và đến cửa hàng tạp hóa để tìm anh ta. Đó là một hành động can đảm đáng kinh ngạc.
“Cậu ấy nói đã gặp con ở trường và muốn rủ con đi chơi, nhưng lại sợ mẹ nói rằng con còn quá nhỏ, phải vậy không, Ron?” Giọng nói của mẹ em gấp gáp và lo lắng. Daisy không chắc cái tên mà mẹ nói ra là Ron hay Rob hay Rod. “Vậy nên mẹ mới rủ cậu ta cùng đi về nhà và gặp con gái mẹ. Chẳng có quãng thời gian nào bằng được với hiện tại, mẹ muốn nói như vậy. Có phải không, hả Ron?”
Anh ta không hề xấu hổ trước mặt em. “Em có muốn đi uống nước không, Daisy? Anh có mang theo xe của anh ở đây.”
“Tất nhiên con bé muốn đi rồi. Phải không, Daisy?”
Không. Em chỉ ước rằng mặt trời sẽ vươn tay ra một cách lười biếng, con gấu vàng vĩ đại ấy, và hất cả hai người họ đi chỗ khác. Ngay bây giờ.
“Daisy à,” mẹ em nói, vội vã vuốt tóc em bằng những ngón tay. “Chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Mẹ muốn con có…” Bóng tối và máu. Mẹ muốn em cũng sợ hãi như bà. Không, con không sợ đâu, thưa mẹ. Đã quá muộn rồi. Chúng ta sắp ở đó rồi.
Nhưng khi ra ngoài với anh ta, em đã thấy chiếc xe mui trần của anh ta đang đỗ bên lề đường, và trong lòng em run rẩy một nỗi sợ yếu ớt. Phần mui xe đang để mở. Em nhìn lên khuôn mặt rám nắng, tươi cười của anh ta và nghĩ, Anh không sợ.
“Em muốn đi đâu, hả Daisy?” anh ta hỏi. Cánh tay trần của anh ta choàng qua phía sau lưng ghế. Anh ta có thể dễ dàng di chuyển nó từ vị trí đó để choàng qua vai em. Daisy ngồi dựa vào cửa xe, hai tay khoanh trước ngực.
“Tôi muốn đi loanh quanh. Với phần mui xe để mở. Tôi yêu mặt trời,” em nói để dọa anh ta, để nhìn thấy biểu cảm mà em từng nhìn được trên khuôn mặt mẹ cái ngày em nói dối về những giấc mơ của mình.
“Anh cũng vậy,” anh ta nói. “Có vẻ như em cũng không tin mấy chuyện nhảm nhí về mặt trời mà họ đang cố nhồi vào đầu chúng ta nhỉ. Hầu hết là hù dọa, chỉ vậy thôi. Em không thấy anh bị ung thư da mà, đúng không?” Anh ta lười nhác nhấc cánh tay rám nắng vàng khỏi đôi vai em và đưa ra trước mặt em. “Nhiều người trở nên cuồng loạn chẳng vì lý do gì cả. Giáo viên vật lý của anh nói rằng mặt trời có thể phát ra hạt neutrino với tốc độ như hiện tại trong năm nghìn năm nữa trước khi nó sụp đổ. Tất cả những lời đồn đại về bắc cực quang này. Chậc, như thể họ chưa nhìn thấy gió mặt trời lần nào ấy. Chẳng có gì phải sợ cả, Daisy-Daisy à.”
Cánh tay anh ta di chuyển đến gần ngực em một cách nguy hiểm.
“Anh có gặp ác mộng không?” em hỏi anh ta, tuyệt vọng tìm cách khiến anh ta sợ.
“Không. Mọi giấc mơ của anh đều là về em.” Ngón tay anh ta, một cách thản nhiên, một cách dễ dàng, lần theo những đường vân trên chiếc áo cánh c��a em. “Còn em mơ về điều gì?”
Em nghĩ rằng em sẽ khiến anh ta sợ hãi như đã từng làm mẹ em sợ hãi. Những giấc mơ của em luôn đẹp đẽ, nhưng khi em bắt đầu kể chúng cho mẹ, đôi mắt mẹ mở to và tối sầm lại vì sợ. Và sau đó Daisy sẽ thay đổi giấc mơ, khiến chúng trở nên tồi tệ hơn sự thực, hủy hoại vẻ đẹp của chúng để dọa mẹ mình.
“Tôi mơ thấy mình đang xoay một chiếc vòng vàng. Nó rất nóng. Nó làm bỏng tay tôi bất cứ khi nào tôi chạm vào nó. Tôi đang đeo hoa tai, những chiếc khuyên tai nhỏ hình vòng vàng, và chúng cũng xoay như chiếc vòng kia bất cứ khi nào tôi chạy. Và cả một chiếc vòng tay vàng nữa.” Em quan sát gương mặt anh ta khi em kể chuyện, chờ đợi nỗi sợ hãi. Những ngón tay của anh ta di chuyển một cách vu vơ, dường như càng ngày càng gần phần núm trên ngực em.
“Tôi lăn chiếc vòng đó xuống một ngọn đồi và nó cứ lăn ngày càng nhanh hơn. Tôi không thể đuổi kịp được nó. Nó cứ tự lăn như vậy, như một bánh xe vậy, một bánh xe bằng vàng, lăn qua tất cả mọi vật.”
Em đã quên mất mục đích ban đầu. Em đã kể lại giấc mơ trong trí nhớ mình, cùng một nụ cười bí mật nho nhỏ trước ký ức ấy. Bàn tay anh ta đặt lên ngực em và để yên ở đó, ấm áp như vầng mặt trời đang rọi xuống gương mặt em.
Trông anh ta như thể không biết tay mình đang đặt ở chỗ nào. “Trời ơi, giáo viên tâm lý của anh hẳn sẽ phát cuồng vì những thứ này! Ai mà nghĩ một đứa trẻ như em lại mơ một giấc mơ gợi cảm như thế chứ? Chà! Nhân tiên đang bàn về chủ nghĩa Freud! Giáo viên tâm lý của anh từng nói—”
“Anh nghĩ là anh biết tất cả, phải vậy không?” Daisy cắt ngang.
Những ngón tay anh ta lần theo phần núm trên lớp áo mỏng của em, vẽ thành một hình tròn bỏng rát, một vòng tròn nhỏ xíu bỏng rát.
“Không hẳn,” anh ta nói, và cúi xuống sát mặt em. Bóng tối và máu. “Anh không biết làm sao để có được em.”
Em cố gắng thoát khỏi gương mặt anh ta, khỏi vòng tay anh ta. “Anh sẽ không có được tôi. Không bao giờ. Anh sẽ chết. Chúng ta đều sẽ chết trong ánh mặt trời,” em nói, rồi chạy khỏi chiếc xe mui trần và trở vào với ngôi nhà đang chìm trong bóng tối.
Daisy nằm gập người trên giường một lúc lâu sau khi ký ức ấy kết thúc. Em sẽ không nói chuyện với anh ta nữa. Em chẳng nhớ nổi điều gì nếu không có anh ta, nhưng chuyện đó không khiến em bận tâm. Tất cả cũng chỉ là một giấc mơ. Tại sao phải bận tâm kia chứ? Em đưa tay ôm lấy chính mình.
Đây không phải một giấc mơ. Nó tồi tệ hơn một giấc mơ. Em ngồi thẳng người bên mép giường, đầu ngẩng cao, hai tay buông hai bên, hai chân khép trên sàn, cái cách mà một thiếu nữ phải ngồi. Khi em đứng lên, trong phong thái của em không còn chút gì do dự. Em đi thẳng đến cánh cửa và mở nó ra. Em không dừng lại quan sát xem đó là căn phòng gì. Em không nhìn những người lạ mặt đang đi loanh quanh. Em tới thẳng trước mặt Ron và đặt tay lên vai anh ta.
“Nơi này là địa ngục, có phải không?”
Anh ta quay đầu lại, và trên gương mặt anh ta thấp thoáng điều gì đó tựa như hy vọng. “Ồ, chào Daisy!” anh ta nói, nắm lấy tay em và kéo em ngồi xuống bên cạnh anh ta. Khung cảnh xung quanh là ở trên tàu. Hai bàn tay đan vào nhau của họ đang đặt trên tấm vải gấm thêu hoa trắng. Em nhìn về phía những bàn tay. Gạt chúng đi cũng chẳng có ích gì.
Giọng nói của em không hề xao động. “Tôi đã đối xử rất tệ với mẹ mình. Tôi từng kể cho mẹ nghe những giấc mơ của tôi chỉ để dọa cho mẹ sợ. Tôi từng ra ngoài mà không đội mũ, chỉ vì điều đó sẽ khiến mẹ phát hoảng. Mẹ không thể ngăn bản thân cảm thấy những điều đó được. Mẹ vẫn luôn sợ cái ngày mặt trời phát nổ.” Em dừng lại một thoáng để nhìn xuống tay mình. “Tôi nghĩ rằng mặt trời đã phát nổ và tất cả mọi người đều đã chết, như cha từng nói. Tôi nghĩ… lẽ ra mình nên nói dối mẹ về những giấc mơ. Lẽ ra tôi nên kể với mẹ rằng tôi mơ về những cậu con trai, về việc lớn lên, về những thứ sẽ không khiến bà sợ.Tôi cũng có thể bịa ra những giấc mơ như anh trai nữa.”
“Daisy,” anh ta nói. “Những lời tâm sự không phải điểm mạnh của anh. Anh không—”
“Mẹ đã tự sát,” Daisy nói. “Mẹ gửi anh em tôi đến sống với bà ở Canada rồi tự sát. Vậy nên tôi nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta đều chết, tôi sẽ xuống địa ngục. Địa ngục là như vậy, có phải không? Phải đối diện với những gì khiến chúng ta sợ.”
“Hoặc những gì ta yêu thương. Ôi, Daisy,” anh ta nói, siết chặt lấy những ngón tay em, “điều gì đã khiến em nghĩ nơi này là địa ngục vậy?”
Trước sự ngạc nhiên của chính mình, em nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Bởi vì ở đây không có mặt trời,” em nói.
Đôi mắt anh ta đốt cháy em, đốt cháy em. Em gục xuống mặt bàn phủ vải trắng, nhưng căn phòng đã thay đổi. Em không thể tìm thấy nó. Anh ta đặt em xuống cạnh anh ta trên chiếc đi văng xanh. Những ngón tay của anh ta vẫn đang nắm lấy tay em, vẫn giữ chặt lấy em, và rồi em nhớ.
Hai anh em em đã được gửi đến sống ở nơi khác, để được bảo vệ khỏi mặt trời. Daisy đã vui khi được rời đi. Mẹ lúc nào cũng giận dữ với em. Mẹ bắt Daisy phải kể lại những giấc mơ của em hàng ngày vào lúc ăn sáng trong căn phòng khách tối tăm. Mẹ đã treo những tấm rèm chắn sáng lên cửa sổ để không một thứ ánh sáng nào có thể lọt vào nhà, và trong ánh hoàng hôn xanh biếc, ngay cả những tia sáng mùa hè nhỏ nhoi từ rèm cũng không thể chiếu lên khuôn mặt hãi hùng của mẹ.
Không ai còn ra biển nữa. Mẹ không cho em ra ngoài, thậm chí đến cửa hàng tạp hóa, mà không đội mũ và đeo kính râm. Mẹ không cho hai anh em đi máy bay đến Canada. Mẹ sợ những trận bão từ. Đôi khi chúng làm gián đoạn tín hiệu radio từ các tháp phát sóng. Mẹ lo rằng máy bay sẽ rơi.
Mẹ tiễn hai anh em lên tàu, hôn tạm biệt ở nhà ga, và trong khoảnh khắc không còn để tâm đến những vệt ánh sáng đầy bụi hắt xuống từ những ô cửa sổ hình vòm. Anh trai em lên tàu trước, và rồi đột nhiên mẹ kéo Daisy vào một góc tối tăm. “Những gì mẹ từng nói với con, về việc con sắp kinh nguyệt, chuyện đó sẽ không xảy ra nữa. Bức xạ—mẹ đã gọi cho bác sĩ và ông ấy nói không phải lo lắng. Nó đang xảy ra với tất cả mọi người.”
Daisy lại cảm thấy nỗi sợ mơ hồ dâng lên trong lòng. Kinh nguyệt của em đã bắt đầu xuất hiện từ nhiều tháng qua, tăm tối và máu me, đúng như những gì em đã tưởng tượng. Em chưa từng kể cho ai. “Con sẽ không lo lắng đâu,” em gật đầu.
“Ôi, Daisy của mẹ,” mẹ em đột nhiên thốt lên. “Daisy trong ánh mặt trời của mẹ,” và dường như lại thu mình trở lại trong bóng tối. Nhưng rồi khi họ rời nhau ra trên sân ga, mẹ bước thẳng vào vùng ánh nắng và vẫy chào tạm biệt hai anh em.
Chuyến tàu thật tuyệt vời. Những người khách ít ỏi đều ở trong cabin của họ với tấm rèm kéo xuống. Không có bóng râm trong toa ăn uống, không ai bảo Daisy phải ra khỏi nơi có mặt trời. Em ngồi trong toa ăn uống vắng vẻ và nhìn ra ô cửa sổ rộng. Đoàn tàu chạy băng băng qua rừng, những khu rừng thông, rừng dương cao lớn và thưa thớt. Nắng lấp lánh chiếu xuống chỗ Daisy—ánh sáng rồi bóng tối rồi lại ánh sáng, tất cả lướt qua gương mặt em. Em và anh trai gọi một cốc sữa lắc cùng món tráng miệng và không ai nói gì hai anh em cả.
Anh trai đã đọc to cuốn sách viết về mặt trời cho em nghe. “Em có biết ở trong lòng mặt trời là như thế nào không?” anh hỏi em. Có. Chúng ta sẽ lại đứng cạnh những xô xẻng và những ngón chân trần chôn dưới cát, lại trở về làm một đứa trẻ, không sợ hãi, nheo mắt nhìn ánh nắng vàng.
“Không,” em đáp.
“Ngay cả các nguyên tử cũng không còn nguyên vẹn trong lòng mặt trời. Nơi đó quá chật chội tới mức chúng va đập vào nhau mọi lúc, va rồi lại va rồi lại va vào nhau, như vậy đó, và các electron sẽ thoát ra ngoài, di chuyển tự do. Đôi lúc khi va chạm xảy ra, vụ va chạm sẽ phát ra một tia X, truyền đi với vận tốc ánh sáng, giống như những quả bóng trong trò pinball vậy đó. Binh-bang-binh, mãi tới tận bề mặt mặt trời.”
“Tại sao anh vẫn đọc những cuốn sách đó nhỉ? Để tự dọa mình à?”
“Không. Để dọa mẹ.” Đó là một lời thú nhận khá táo bạo, thậm chí còn không phù hợp với cả sự tự do ở nhà bà, chỉ nên nói trên tàu. Em cười với anh trai.
“Em còn chẳng sợ, có phải không?”
Em cảm thấy mình có nghĩa vụ phải đáp lại bằng một câu trả lời trung thực không kém. “Không,” em nói, “không hề.”
“Tại sao không?”
Bởi vì chuyện đó sẽ không đau đớn. Bởi vì sau đó em sẽ chẳng còn nhớ gì.
Bởi vì em sẽ đứng trong ánh mặt trời với những xô xẻng và nhìn lên và không sợ hãi. “Em không biết,” Daisy nói. “Chỉ là em không sợ thôi.”
“Anh thì có. Anh mơ thấy mình bốc cháy mỗi ngày. Anh nghĩ về việc những ngón tay bốc cháy thì sẽ đau đớn thế nào và rồi anh cứ mơ về cơn đau ấy kéo dài mãi mãi.” Anh trai cũng đã nói dối mẹ về những giấc mơ.
“Nó sẽ không như vậy đâu,” Daisy bảo. “Chúng ta sẽ còn chẳng biết nó xảy ra lúc nào. Chúng ta sẽ không nhớ gì cả.”
“Khi mặt trời bùng nổ, nó sẽ bắt đầu tự đốt mình. Phần lõi sẽ ngập đầy tro của các nguyên tử, và điều đó khiến cho mặt trời sử dụng nhiên liệu của chính nó. Em có biết rằng ở trong lòng mặt trời luôn tối đen như mực không? Nghe này, bức xạ ở trong đó toàn là tia X, và bước sóng của chúng quá ngắn để mắt thường có thể nhìn thấy được. Chúng vô hình. Chỉ có bóng tối và tro bụi rơi quanh em. Em có tưởng tượng được không?”
“Chẳng quan trọng.” Họ đang đi qua một đồng cỏ và gương mặt Daisy ngập tràn ánh nắng. “Chúng ta sẽ không ở đó. Chúng ta sẽ chết rồi. Chúng ta sẽ không nhớ gì cả.”
Daisy đã không nhận ra mình sẽ nhẹ nhõm thế nào khi gặp được bà mình, với gương mặt gầy gò cháy nắng và cánh tay trần. Bà còn không đội cả mũ. “Daisy, cháu yêu, cháu lớn quá rồi,” bà nói. Cách nói của bà không khiến điều đó giống như một bản án tử. “Và David, bà thấy có vẻ cháu vẫn lúc nào cũng chúi mũi vào sách nhỉ.”
Trời đã nhập nhoạng tối khi họ về tới căn nhà nhỏ của bà. “Kia là gì thế ạ?” David hỏi, khi đứng trên hiên nhà.
Giọng nói của bà không hề lên cao một cách đáng sợ. “Bắc cực quang đấy cháu. Dạo gần đây bầu trời ở vùng này trình diễn nhiều màn lạ lùng lắm. Cứ như ngày Bốn tháng Bảy vậy.”
Daisy đã không nhận ra em khao khát được gặp một người không sợ hãi đến mức nào. Em ngước lên. Những bức màn ánh sáng màu đỏ cuồn cuộn lên tới tận đỉnh trời, phấp phới bay trong cơn gió mặt trời nào đó. “Đẹp thật,” em thì thầm, nhưng bà vẫn đang giữ cửa cho em, và em sung sướng nhìn ánh sáng phản chiếu trong đôi mắt bà, em đi theo bà v��o căn bếp nhỏ với chiếc bàn phủ vải sơn đỏ và rèm cửa màu đỏ treo trên cửa sổ.
“Thật vui khi có hai cháu đến chơi,” bà vừa nói vừa trèo lên ghế. “Daisy, giữ đầu này cho bà, được chứ?” Bà thả một đầu của chiếc thước dây màu vàng xuống cho Daisy. Daisy cầm lấy nó, lo lắng nhìn bà mình. “Bà đang làm gì thế ạ?” em hỏi.
“Đo cửa sổ để làm rèm mới, cháu yêu à,” bà nói, một tay thò vào trong túi lấy ra một tờ giấy và một cây bút chì. “Chiều dài là bao nhiêu, Daisy?”
“Tại sao bà lại cần rèm mới?” Daisy hỏi. “Những tấm rèm này với cháu trông cũng ổn mà.”
“Chúng không ngăn được ánh mặt trời,” bà nói. Đôi mắt bà đã tối sầm lại trong nỗi sợ. Giọng bà cao lên theo từng từ một. “Chúng ta phải có rèm mới, Daisy à, và ở đây không có vải. Toàn bộ thị trấn đều không có vải, Daisy à. Cháu có tưởng tượng được không? Bà phải đặt ở tận Ottawa. Người ta mua hết vải trong thị trấn rồi. Cháu có tưởng tượng được điều đó không, hả Daisy?
“Có ạ,” Daisy nói, và ước rằng mình có thể sợ hãi.
Ron vẫn nắm chặt tay em. Em kiên định nhìn sang anh ta. “Ấm hơn, Daisy à,” anh ta nói. “Gần đến nơi rồi.”
“Vâng,” em nói.
Anh ta gỡ những ngón tay ra và đứng lên khỏi chiếc đi văng. Anh bước qua đám đông trong căn phòng phòng khách màu xanh lam và ra khỏi cửa ngoài trời tuyết. Em cố gắng không trở về phòng mình. Em quan sát tất cả bọn họ, đám người lạ mặt trong những chuyển động bất tận, anh trai em vừa bước đi vừa đọc sách, bà em đứng trên một chiếc ghế, và những ký ức đến với em dễ dàng, không hề đau đớn.
“Em muốn xem cái này không?” anh trai em hỏi.
Daisy đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cả ngày hôm đó ánh sáng nhấp nháy, mặc dù bên ngoài khá yên tĩnh và im ắng. Bà đã vào trong thị trấn để kiểm tra xem vải may rèm đã được chuyển đến chưa. Daisy không trả lời anh mình.
Anh trai đẩy cuốn sách đến trước mặt em. “Đây là một tai lửa mặt trời,” anh nói. Những bức ảnh có màu đen trắng, giống như những bức hình chụp nhanh đã lỗi thời, chỉ là bên dưới ảnh, thay vì dòng chữ mực trắng nguệch ngoạc của mẹ, người ta viết, “Đài thiên văn độ cao, Boulder, Colorado.”
“Nó được tạo thành bởi sự phun trào khí nóng lên cao đến hàng trăm nghìn bộ.”
“Không,” Daisy nói, đặt cuốn sách lên đùi mình. “Đó là chiếc vòng vàng của em. Em thấy nó trong giấc mơ.”
Em lật sang trang sau.
David dựa vào vai em và đưa tay chỉ. “Đây là vụ phun trào lớn vào năm 1946, dầu hiệu đầu tiên của sự không ổn định của mặt trời, chỉ là ngày ấy họ chưa biết về điều này. Nó nặng cả nghìn tấn. Cột khí vươn xa đến hàng triệu dặm.”
Daisy ôm cuốn sách vào lòng như thể ôm lấy bức ảnh của một người thân yêu.
“Nó chỉ nổ bùm, và toàn bộ lượng khí ga này bay ra ngoài không gian. Hồi đó có tất cả các thể loại—”
“Đây là con gấu vàng của em,” em ngắt lời anh trai. Cánh tay lửa lớn vươn ra một cách lười nhác từ bề mặt màu đen của mặt trời trong bức ảnh, cánh tay hoang dã và mượt mà của khí lửa.”
“Đây là những thứ mà em đã nằm mơ sao?” anh trai em hỏi. “Đây là những thứ em từng kể với anh à?” Giọng nói của anh ngày càng lên cao. “Anh tưởng em từng nói những giấc mơ của em đều rất đẹp.”
“Chúng thực sự là vậy,” Daisy nói.
Anh trai kéo cuốn sách ra khỏi tay em và giận dữ lật giở đến một sơ đồ được tô màu trên nền đen. Trên trang giấy một quả bóng màu đỏ sáng với những vòng tròn đồng tâm bên trong. “Đây,” anh nói, đặt cuốn sách vào tay Daisy. “Đây là điều sẽ xảy ra với chúng ta.” Anh đập mạnh vào một trong những vòng tròn bên trong quả bóng màu đỏ. “Đó là chúng ta. Đó là chúng ta đấy! Bên trong mặt trời! Sao em không mơ về điều đó nhỉ?”
Rồi anh đóng sầm cuốn sách lại.
“Nhưng chúng ta đều sẽ chết, nên điều đó không quan trọng,” Daisy nói. “Nó sẽ không đau. Chúng ta sẽ không còn nhớ gì cả.”
“Đó là cách nghĩ của em! Em cứ nghĩ là mình biết tất cả. Nói cho em nhé, em chẳng biết gì cả. Anh từng đọc một cuốn sách về điều rồi, và em biết nó viết gì không? Người ta còn chẳng rõ ký ức là gì. Người ta nghĩ rằng nó còn chẳng nằm trong tế bào não. Rằng nó được chứa đựng trong những nguyên tử ở đâu đó, và ngay cả khi chúng ta nổ tung, những ký ức vẫn còn. Sẽ ra sao nếu chúng ta bị mặt trời thiêu đốt và vẫn còn nhớ? Sẽ ra sao nếu chúng ta cứ bị thiêu đốt và thiêu đốt và vẫn cứ nhớ và nhớ mãi mãi?
Daisy nói nhẹ, “Anh ấy sẽ không làm vậy đâu. Anh ấy sẽ không làm đau chúng ta.” Khi em đứng chôn chân trong cát và nhìn về anh ấy, chẳng có nỗi sợ, chỉ có những điều kỳ diệu. “Anh ấy—”
“Em điên rồi!” anh trai em hét lên. “Em biết không? Em điên rồi. Em nói về anh ấy như thể đang nói về người yêu của em hay gì vậy. Đó là mặt trời, vầng mặt trời tuyệt diệu sẽ giết chết tất cả chúng ta!” Anh trai giật mạnh cuốn sách khỏi tay em. Anh đang khóc.
“Em xin lỗi,” Daisy định nói, nhưng rồi đúng lúc đó bà bước vào, đầu để trần, mái tóc xõa quanh gương mặt gầy gò, rám nắng.
“Họ mang nguyên liệu đến rồi,” bà nói một cách vui vẻ. “Bà đã mua đủ cho tất cả các cửa sổ.” Bà đặt xuống hai túi vải bông kẻ đỏ. Chúng cuộn sóng trên mặt bàn nom tựa bắc cực quang, sắc đỏ chồng lên sắc đỏ. “Bà tưởng họ còn không bao giờ giao vải tới.”
Daisy vươn tay chạm vào chúng.
Em ngồi đợi anh ta trên chiếc bàn ăn phủ vải gấm thêu hoa trắng trong toa ăn uống. Anh ta ngần ngừ một thoáng ở phía ô cửa phủ đầy tuyết xám như tro, rồi vui vẻ bước vào, khe khẽ hát.
“Daisy, Daisy, nói cho anh giả thuyết của em đi [1],” anh ta hát. Hai tay anh ta ôm một súc vải đỏ. Những súc vải cuộn sóng khi anh ta đưa nó cho bà em—bà vẫn đang đứng trên ghế, vui mừng tột độ, những mẩu giấy và chiếc thước dây màu vàng đã rơi khỏi tay bà mãi mãi.
Daisy bước tới và đứng trước mặt anh ta.
“Daisy, Daisy,” anh ta lại vui vẻ cất lời. “Nói cho anh—”
Em đặt tay lên ngực anh ta. “Không có giả thuyết gì cả,” em nói. “Tôi biết rồi.”
“Mọi thứ chứ, hả Daisy?” Anh ta lại cười cái nụ cười nửa miệng dễ dàng ấy, và em buồn bã nghĩ rằng kể cả khi đã biết, em vẫn không thể nhìn thấy bản chất của anh ta, mà chỉ là chàng trai làm việc ở cửa hàng tạp hóa, chàng trai vẫn luôn biết tất cả.
“Không, nhưng tôi nghĩ là tôi biết.” Em giữ chặt tay mình trên lồng ngực bỏng rát của anh ta. “Tôi không nghĩ chúng tôi còn là con người nữa. Tôi không chắc chúng tôi là thứ gì—có lẽ là những nguyên tử đã bị tước mất các electron, va đập vào nhau không ngừng trong lõi của mặt trời trong khi nó tự đốt cháy thành tro giữa cơn bão tuyết bất tận ở trung tâm của nó.”
Gương mặt anh ta không cho em một gợi ý nào. Anh ta vẫn cười tự tin và dễ dãi. “Còn anh thì sao, Daisy?” anh ta hỏi.
“Tôi nghĩ anh là con gấu vàng của tôi, là chiếc vòng vàng của tôi, tôi nghĩ anh là Ra, cái tên không có phụ âm cuối, là Ra người vẫn biết tất cả.”
“Còn em là ai?”
“Em là Daisy, người yêu mặt trời.”
Anh ta không cười, không thay đổi nét mặt giễu cợt. Nhưng bàn tay rám nắng của anh ta nắm lấy tay em, vẫn đang đặt trên ngực anh ta.
“Giờ đây em sẽ ra sao, một tia X chạy loanh quanh tới tận bề mặt trước khi biến thành ánh sáng? Anh sẽ đưa em tới đâu khi đã có được em? Tới sao Thổ, nơi vầng dương chiếu lên những vành đai lạnh lẽo cho tới khi chúng tan chảy trong niềm hân hoan? Có phải anh đang chiếu sáng ở đó không, trên sao Thổ ấy? Anh có sẽ đưa em tới đó không? Hay chúng ta sẽ đứng mãi ở nơi này, em với những xô xẻng và nheo mắt nhìn về phía anh?”
Một cách chậm rãi, anh ta trả lại hai bàn tay cho em. “Em muốn đi đâu, Daisy?”
Bà của em vẫn đứng trên ghế, ôm lấy chồng vải như thể chúng là một thứ phước lành. Daisy vươn tay ra để chạm vào lớp vải, điều em đã làm khi mặt trời bùng nổ. Em ngẩng đầu cười với bà mình. “Vải đẹp lắm bà ạ,” em nói. “Cháu rất mừng vì họ đã giao nó tới.”
Em đột ngột cúi người về phía ô cửa sổ và kéo tấm rèm nhạt màu sang một bên như trong suy nghĩ, bởi em biết rằng em có thể sẽ được ban cho một hình ảnh nào đó, được nhìn thấy trong khoảnh khắc cô gái nhỏ với lồng ngực và chiếc bụng của một đứa trẻ; … có thể nhìn thấy em như thứ em thực sự là: Daisy, trong ánh mặt trời. Nhưng tất cả những gì em thấy là tuyết rơi vô tận.
Anh trai em đang đọc sách trên chiếc đi văng xanh trong phòng khách của mẹ. Em đứng bên cạnh anh trai, nhìn anh mình. “Giờ em đã biết sợ rồi,” Daisy nói, nhưng khuôn mặt đang nhìn lại về phía em không phải của anh trai em.
Được rồi, Daisy nghĩ. Không ai trong số bọn họ giúp được gì. Chẳng quan trọng. Mình đã đối diện với nỗi sợ và tình yêu của mình và hai thứ đó là một.
“Được rồi,” Daisy nói, và quay lại nhìn Ron. “Em muốn đi loanh quanh. Với phần mui xe để mở.” Em dừng lại và nheo mắt nhìn anh ta. “Em yêu mặt trời,” em bổ sung thêm.
Khi Ron đặt hai tay lên vai em, em không lùi lại. Tay anh ta đặt lên ngực em và anh ta cúi xuống hôn em.
Hết
•| ⊱✿⊰ |•
Chú thích của người dịch
[1] Daisy, Daisy, nói cho anh giả thuyết của em đi: Bản tiếng Anh là Daisy, Daisy, tell me your theory do, được cải biên từ câu hát Daisy, Daisy, give me your answer do nằm trong ca khúc Daisy Bell (Bicycle Built for Two) của Harry Dacre.
•| ⊱✿⊰ |•
Biên dịch & biên tập: Diệu Mây
•| ⊱✿⊰ |•
Tác giả Connie Willis (Ảnh: WIRED)
0 notes
Text
Tuyết rơi vĩnh hằng - E. Lily Yu
Về tác giả
E. Lily Yu là một tác giả viết truyện giả tưởng tự biện người Mỹ. Cô có khoảng hơn ba mươi truyện ngắn được đăng tải trên các tạp chí điện tử. Các tác phẩm của cô đã từng lọt vào danh sách đề cử cho các giải thưởng lớn như Hugo, Nebula, Locus, Sturgeon, và World Fantasy.
Bạn có thể tới thăm cô tại trang web elilyyu.com.
Về tác phẩm
Tuyết rơi vĩnh hằng (tựa gốc: The Time Invariance of Snow) là một truyện ngắn của E. Lily Yu, đăng tải trên tạp chí Tor ngày 18/12/2019.
Trước khi bạn bắt đầu đọc truyện ngắn này, nhóm dịch khuyên bạn nên đọc trước Bà Chúa Tuyết của Hans Christian Andersen để có thể hiểu hết được những sáng tạo của E. Lily Yu, cũng như những ý nghĩa mới mà cô muốn truyền tải thông qua Tuyết rơi vĩnh hằng.
───※ ·❆· ※───
1. Ác quỷ và nhà vật lý học
Ngày xửa ngày xưa (1), Ác quỷ chế ra một tấm gương (2), bởi tính tình của quỷ ta phù phiếm. Khi nhìn vào tấm gương ấy, một số người sẽ hiện lên to lớn gấp đôi, mạnh mẽ gấp đôi, tốt đẹp và nhân từ gấp sáu lần bản chất của họ; còn những người khác lại thấy tầm vóc của mình chỉ bằng một phần mười tầm vóc thường ngày, những phẩm chất sáng chói trong họ bị bôi nhọ và trở nên dơ bẩn, vậy nên nếu ai đó nhìn họ qua tấm gương của quỷ, sẽ chỉ thấy họ thật vô dụng và đáng khinh.
Ác quỷ đầy tự mãn ngắm mình trong gương, đám lâu la cũng bâu lại, vênh váo và ngưỡng mộ hắn. Nỗi hân hoan của bọn chúng vang dội khắp các tầng địa ngục.
Cuối cùng, một nhà vật lý học đến, sử dụng các tinh thể cobalt và ceri magie phóng xạ để tìm cách thử nghiệm tính bất biến của đối xứng; cụ thể là, xác định xem liệu các quy tắc vật lý có được phản ánh trong một vũ trụ gương hay không. Khi cô chạm vào bề mặt nó, kiểm tra bí ẩn của thế giới bên trong nó mà chứng minh rằng đối xứng không tồn tại và rằng tính ngang bằng trên thực tế đã không được bảo tồn, cô đã vô tình làm vỡ tấm gương của quỷ.
Cũng như mọi phương trình cơ bản của cơ học lượng tử, như chính bản thân Chúa, Ác quỷ là một phương trình bất biến theo thời gian (3). Sự kiện tấm gương vỡ vụn nhanh chóng lan qua các trường nón ánh sáng, cả gần lẫn xa, cho tới khi bản thân sự vỡ vụn trở thành một sự thật vĩnh cửu, bất di bất dịch. Những mảnh vỡ của tấm gương bay đến quá khứ, hiện tại và tương lai, bám dính và cắt rời, như thể bụi sao hay các lưỡi dao cạo vậy.
Tất cả những ai bị mảnh vỡ của tấm gương vướng vào mắt (4) đều sẽ nhìn nhận thế giới một cách méo mó. Một số cho rằng họ giá trị và xứng đáng hơn những người còn lại và, khi đã hài lòng với hiểu biết này, bước ra ngoài và chiếm lấy bất cứ thứ gì họ muốn, dù là vợ lẽ hay nô lệ, đất đai hay đế quốc.
Một số khác lại thấy bản thân vô giá trị. Trước cảnh tượng ấy, bất cứ ước mơ đẹp đẽ nào cũng đều lụi tàn trong lòng họ.
Những người còn lại, với sự nhạy bén đặc biệt, cảm nhận được sự hiện diện của mảnh vỡ, bởi một phần vốn chậm chạp và tự ti trong tâm hồn họ đã khăng khăng rằng thứ đó chưa từng tồn tại trước đây. Trong số này, một vài người cố gắng dùng dao khoét mảnh vỡ ra, mặc dù mảnh vỡ không có cấu trúc vật lý và không thể bị loại bỏ bằng cách này. Một số ít hơn làm ra những chiếc kính mỏng và bền chắc cho tâm hồn, để điều chỉnh lại cách nhìn nhận của nó, và kể từ đó chấp nhận sống trong sự sáng tỏ cô độc.
Đây là cách mà tấm gương của quỷ hoạt động:
Một người đàn bà cảnh báo rằng cả tòa thành đang trên bờ vực sụp đổ, quân địch đang dùng mưu kế xâm nhập vào thành, và bạn bè lẫn người thân đều cười nhạo cô ta.
Tòa thành cháy rụi.
Người đàn bà ấy bị làm nhục, rồi bị làm nhục lần nữa, cuối cùng bị giết chết.
Một người đàn bà đứng trước những người đàn ông sau này sẽ trở thành quan chấp chính và nói, xin hãy tin tôi, tôi bị người đàn ông này cưỡng bức. Để được tin tưởng, nàng dùng dao găm tự đâm vào tim mình.
Một người phụ nữ đứng trước các thượng nghị sĩ và nói, hãy tin tôi, tôi đã—
Một người phụ nữ đứng trước các thượng nghị sĩ và nói, hãy tin—
Một người phụ nữ da đen nói, xin hãy lắng nghe, và không ai lắng nghe.
Một đứa trẻ vốn lầm lì đã khóc, và không ai dỗ dành cậu bé.
Một người vẽ bản đồ thờ ơ đã chia tách đất nước của người khác thành những cuộc chiến bất tận.
Nhà vật lý học chết. Một đồng nghiệp nam của bà được trao giải Nobel (5).
Ác quỷ nhìn vào thành quả của mình, và phá lên cười.
───※ ·❆· ※───
2. K. và G.
Trời đang vào hè, những đóa hồng tỏa ngát hương thơm. K. đã cảm hóa được G. bằng một sự ân cần tùy tiện, cũng như cách đám con trai thuần hóa loài cáo, dẫu cô vẫn luôn đề phòng cảnh giác, biết rõ bản chất bạo lực của đàn ông. Giờ đây G. ngả đầu lên vai K., họ cùng nhau hít thở bầu không khí êm dịu ngọt ngào trong sự lười nhác mà chỉ mùa hè mới có thể đem lại. Hai người họ không còn trẻ; nhưng cũng chưa hẳn đã già.
Nếu anh có ý định giết em, K. mơ màng nói, anh sẽ trói em lại khi em đang ngủ, đóng đinh em vào một cái hộp dễ vỡ, và đẩy cái hộp đó từ trên chiếc ô tô đang chạy vận tốc bảy mươi dặm vào giữa làn xe tải. Khi chiếc hộp rơi xuống mặt đường, những mảnh vỡ sẽ găm thẳng vào người em.
G im lặng một lúc lâu.
Cuối cùng cô nói: Khi anh mô tả việc giết em—
Thì?
Em thấy sợ.
K. nói: Anh chỉ đùa thôi.
G. nói: Nhưng em vẫn sợ.
K. nói: Anh có ý tốt mà. Em muốn cái quái gì cơ chứ?
G. nói: Chỉ cần anh nói xin lỗi thôi.
Anh không thể tin em lại làm lớn chuyện như vậy.
Anh có biết rằng—
Ừ, anh rất tiếc vì phụ nữ thỉnh thoảng vẫn bị nam giới hãm hại. Nhưng chuyện bắt bẻ của em cũng thật điên rồ.
Những lời này là của mảnh kính vỡ.
Cái gì cơ?
Mảnh kính bạc trong mắt anh và mắt em.
K. đẩy chiếc ghế anh đang ngồi mạnh đến nỗi nó gần như lật nghiêng.
Cả hai chúng ta cùng gây ra chuyện này. Em phải biết kiên nhẫn và ân cần hơn với anh chứ.
G. nói: Em không thể.
Được thôi, K. vừa nói vừa dậm mạnh chân xuống đất. Một luồng gió đông thổi qua giữa họ. Những cành hồng quắt lại và phủ đầy sương giá, những đóa hoa mới rồi còn bừng nở thâm đen lại rồi héo rũ.
Anh đi đây, K. nói. Giọng anh đã lạnh như băng.
G. nói: Em biết chuyện gì sẽ xảy ra. Em sẽ đi theo anh xuống suối và ở nhà phù thủy, lạc đến một cung điện và băng qua cánh rừng của bọn cướp, và cuối cùng sẽ đi chân trần trên tuyết vào trong sảnh đường băng giá, để rồi tìm thấy anh đang ngồi xếp băng trên cái hồ mà họ gọi là Mặt gương của Lý trí.
Em sẽ chạy tới đó, nghĩ rằng mình đang giải cứu anh. Rằng nước mắt của em sẽ rửa trôi mảnh vỡ trong mắt anh và làm tan chảy băng giá trong tim anh. Rằng lời nguyền của Bà Chúa Tuyết sẽ được hóa giải, và anh sẽ được tự do.
Nhưng khi đến nơi, em sẽ thấy chẳng có Bà Chúa Tuyết, chẳng có bùa mê, và chẳng có người phụ nữ độc ác xinh đẹp nào đã bắt cóc anh đi.
Chỉ có anh thôi.
Chính anh là người lựa chọn sự giả dối lạnh lùng thay vì một cuộc sống chân thật.
Em biết, vì em không còn là trẻ con nữa, và em đã từng đi theo con đường này rồi.
Em sẽ không quay lại nữa đâu.
Những lời ấy của G. vang lên giữa không gian mùa hè, nhưng chẳng có ai ở xung quanh để nghe cô nói.
───※ ·❆· ※───
3. Bầy quạ
Hoàng tử và công chúa, giờ đây đã là đức vua và nữ hoàng, không có nhà. Bầy quạ được thuần hóa trong cung điện đã chết từ lâu.
Giờ đây không còn con quạ nào trong rừng già còn biết đến cô. Chúng kêu ầm ĩ khi G. đi qua.
Đồ mạo danh!
Đứa giả tạo!
Kẻ lợi dụng!
Con điếm!
Đồ vô dụng!
Đồ bị ruồng bỏ!
Đồ vứt đi!
Chết đi!
Ôi, trật tự nào, G. nói, và tiếp tục cất bước.
───※ ·❆· ※───
4. Nữ tướng cướp
Đằng ấy quay lại rồi à, nữ tướng cướp nói, tay vẫn bận rộn mài đầu nhọn của dụng cụ mở thư vào cạnh bàn. Tớ không nghĩ có ngày còn được nhìn mặt đằng ấy cơ đấy.
Cậu không nhận được bưu thiếp của tớ sao? G. vừa hỏi vừa ngồi xuống bên cạnh.
Văn phòng tối hơn trong trí nhớ của cô, mặc dù họ đang ở trên tầng thứ một trăm. Bên ngoài, những tòa nhà sin sít lại, như cây cối vậy.
Đằng ấy biết tớ vẫn lọc thư mà.
Tớ biết là những người đưa thư và nhân viên bưu điện sẽ không dám dừng lại ở cái chốn này.
Nữ tướng cướp nói: Tớ làm tốt việc của mình.
Tớ có nghe nói điều đó. Tớ rất hãnh diện vì đã ngày ấy đã quen được cậu.
Kể hết đi, nữ tướng cướp nói, không tớ sẽ dùng dao găm cù vào cổ đằng ấy để ôn lại kỷ niệm xưa đấy. Lần này ít nhất cũng phải đẹp trai chứ? Bởi vì anh chàng lần trước—trời ạ. Anh ta có nấu ăn không? Anh ta có dọn dẹp không? Xin đằng ấy đấy, hãy nói với tớ là lần này đằng ấy tìm được một người xứng đáng đi. Trà hay whiskey nào?
Theodora à, G. nói, cậu có thể vừa vui vẻ lại vừa dữ tợn. Làm sao mà cậu được như vậy?
Yêu họ, hoặc bỏ mặc họ. Đôi khi tớ còn để cho họ sống. Nhưng một khi đằng ấy đã nếm qua mùi vị trái tim còn đang đập của của một người đàn ông thì—
Quên anh ta đi, G. nói.
Vậy là có một anh ta nào đó hả.
Chuyện đó là sai lầm. Nhưng tớ không đến đây để kể lể. Tớ đến xin việc.
Đây không phải Liên hiệp quốc, G. à. Bọn tớ làm những việc bẩn thỉu, máu me. Những việc sẽ khiến tớ bị treo cổ, nếu có ngày bị tóm.
Cậu có sức mạnh, G. nói. Tớ không biết làm cách nào mà cậu làm được. Cầm con dao trong tay, toàn quyền định đoạt số phận kẻ khác. Hãy dạy cho tớ.
Của tớ chỉ là thứ sức mạnh thô sơ và tầm thường, nữ tướng cướp nói. Những gì đằng ấy sở hữu lớn lao hơn thế rất nhiều.
Tớ chẳng có gì hết.
Im miệng đi, hoặc là tớ sẽ chặt đứt những ngón tay nhỏ xinh của đằng ấy để đằng ấy khỏi quên đấy. Tớ không chắc vì sao hay khi nào đằng ấy có được nó. Có thể là bầy quạ dạy cho đằng ấy, mà cũng có thể là mấy bà lão người Lapland kia. Mắt đằng ấy có thể nhìn thẳng vào bên trong tâm hồn. Lời nói của đằng ấy như dao cắt thấu vào tận xương. Tâm địa của đàn ông lẫn đàn bà đều bị lột trần trước mặt đằng ấy. Bây giờ, chỉ cần đằng ấy sử dụng sức mạnh đó thôi, đằng ấy có thể hãm hại bất kỳ người nào đằng ấy ghét bằng những nỗi đau không bao giờ lành. Tớ sẽ cho đằng ấy ba con ngựa tốt nhất của tớ nếu đằng ấy làm được điều đó.
G. nói: Không.
Thú nhận đi, đó mới chính là hình dáng tâm hồn đằng ấy, dù đằng ấy có đeo hàng trăm thứ mặt nạ để che giấu nó.
Theodora, G. nói, tâm hồn cậu có hình một con chó sói, miệng nó dính máu và da nó dính bùn.
Thực sự là vậy! Và tớ chưa bao giờ che giấu điều này cả.
Cậu không định để tớ tham gia băng cướp thật à? Chỉ để lấy kinh nghiệm thôi ấy?
Đây là một món đầu tư, không phải quỹ từ thiện. À và nhân nói về chuyện đó, đằng ấy phải thanh toán vì khoảng thời gian tớ dành ra cho đằng ấy nhé. Phải giữ cho các khoản thu ổn định ấy mà.
Một ngày nào đó tớ có tiền, tớ sẽ trả cho cậu, G. nói.
Đằng ấy sẽ làm vậy.
───※ ·❆· ※───
5. Những bà lão người Lapland
Họ đã rất già, với vẻ ngoài còn cũ kỹ hơn cả thời gian: đôi mắt họ là những đại dương sao, ngón tay họ tựa những đầu mấu trên cây sồi cổ thụ. Họ đung đưa trên những chiếc ghế bập bênh bằng gỗ thích, đan những chiếc chăn có họa tiết hình con cá bạc từ một cuộn len bạc. Bầy cá tụ lại thành những đám mây bồng bềnh xung quanh chân họ.
G. nói: Cháu xin lỗi vì đã không đến thăm hay gọi điện sớm hơn.
Họ mỉm cười với cô và tiếp tục đung đưa. Từng con cá vẫn bơi ra từ đầu kim trên tay họ.
G. nói: cháu chắc chắn là các bà có gia đình. Con gái hay con trai mang biếu hoa quả hoặc socola. Ai đó. Các bà nhất định phải có ai đó chứ.
Họ tiếp tục đung đưa.
Tôi có thể giúp gì được cô không? một điều dưỡng hỏi.
Họ là bạn cũ của tôi, G. nói, hơi đỏ mặt, bởi bao năm qua cô đã luôn im lặng và vắng bóng. Tôi đến để xin lời khuyên của họ.
Chúc may mắn. Họ đã không nói gì kể từ khi vào đây rồi. Và họ vào đây từ mười lăm năm trước.
G. nói: Lâu vậy sao?
Thời gian có thể khiến cô giật mình vậy đó. Khiến cô bầm dập trong con hẻm với một ký ức trống rỗng.
Họ có làm gì ngoài việc đan len không?
Bài bạc, điều dưỡng nói. Họ có thể làm gỏi cô trong hầu hết những trò bài xì phé, và họ nghiện bài bridge kinh khủng.
Vậy thì tôi sẽ ở lại và chơi bài với họ, nếu họ thích.
Cô sẽ hối hận đấy, điều dưỡng nói. Nhưng rồi chị ta vẫn lấy ra một cỗ bài.
Vừa nhìn thấy những quân bài, ba bà lão vội vàng cắm kim vào cuộn chỉ và đứng lên khỏi ghế bập bênh, chìa tay ra.
Sau đó G. đã chơi thua toàn bộ số tiền có trong ví, cái áo len cô đang mặc, cây thánh giá trên chiếc móc chìa khóa mà cô mang theo, và những chiếc khuy bằng kính đen trên áo khoác của cô.
Bà lão Lapland lớn tuổi nhất cầm lấy chiếc kéo và cắt hết chỗ khuy, một-hai-ba-bốn cái. Thế rồi bà ta nhặt lên từng nắm len bạc, hoàn thành từng phần một, rồi khâu vắt ba đám mây cá lại, mỗi đám một sắc độ bạc khác nhau, thành một tấm khăn choàng dài duy nhất. Bà choàng tấm khăn đó qua vai G.
Cảm ơn bà, G. nói. Cháu nghĩ vậy.
Cả ba bà lão Lapland đều nở nụ cười hiền từ, xa xăm.
Người điều dưỡng chỉ biết đứng đó gãi tai.
Cô chuẩn bị đến nơi nào đó lạnh hả? chị ta hỏi.
G. nói: Rất lạnh.
───※ ·❆· ※───
6. Bà Chúa Tuyết
Còn nhiều giờ nữa mới tới bình minh, thế giới vẫn chìm trong bóng đêm hoang vu và buồn thảm.
Vào một thời điểm nào đó trong quá khứ xa xôi, lớp băng dưới chân G. đã từng được cắt gọn thành những bậc thang dẫn một đường vòng lên đỉnh núi băng. Khi cô bước lên cầu thang, tuyết rơi dày trên mi mắt cô. Cô có tấm khăn đan từ những con cá bạc choàng quanh người để giữ hơi ấm và một đôi ủng mềm đi dưới chân. Cô không cần người dẫn đường, bởi cô đã thông thạo lối đi.
Trước khi ra đi, G. đã quỳ xuống cầu nguyện với tấm lòng thành khẩn như ngày cô còn nhỏ, và giờ đây lời cầu nguyện đó trượt ra khỏi tay cô như ngọn nến yếu ớt sắp tàn lụi.
Nơi đây là cung điện của Bà Chúa Tuyết: nhỏ hơn những gì cô vẫn nhớ, như thể bản thân cô ngày nhỏ đã phóng đại các chiều không gian của nó lên, hoặc là toàn bộ phần chái cung điện và các phòng ốc đều đã tan chảy. Hoa tuyết vẫn nở trên cửa sổ và mái hiên. Những máng thoát nước chạm khắc hình linh vật thu mình lại trong những bức tường.
Thu hết can đảm, G. mở cánh cổng dẫn vào cung điện. Hai bàn tay cô tái đi, rồi đỏ lên, trước cái lạnh.
Bên trong cung điện không một bóng người. Không có Bà Chúa. Không có K. Chỉ có chiếc ngai bỏ trống và mặt hồ đóng băng quen thuộc, bên trên là những mảnh băng xếp thành hai chữ Vĩnh cửu.
Tất cả đều im lặng.
Hơi thở từ đôi môi cô tụ thành những đám sương mỏng sáng lấp lánh.
G. bước qua sảnh đường, tiếng bước chân vang vọng. Chiếc ngai có lẽ đã được tạc từ viên kim cương lớn nhất thế giới. Cũng giống như bông hoa ly hay đoá sen, hình dáng chiếc ngai dâng lên thành một đầu nhọn ở trên cùng. Ánh cầu vồng rực rỡ trên những khe nứt gãy của nó.
Đặt giữa chỗ ngồi trên chiếc ngai là một chiếc vương miện nhỏ bằng kính tráng bạc.
G. cầm chiếc vương miện lên và xoay tròn nó trong tay. Trên toàn bộ vùng đất rộng lớn này, có lẽ vương miện là thứ duy nhất không lạnh giá.
Những chiếc gai bằng kính phản chiếu từng phần trên gương mặt cô: một vẻ chế giễu, một cái trừng mắt, một sự khinh thường.
Tất nhiên rồi, G. nói.
Những góc cạnh lởm chởm trong đời bỗng hiện lên chói lòa trước mắt cô. Trong thoáng chốc, cô có thể thấy chúng được xâu chuỗi lại thành cái từ bị quên lãng mà cô đã dành cả đời để theo đuổi, đã từng lướt qua, đã từng đến gần, nhưng chưa bao giờ nắm được trọn vẹn—
Bằng cách này hay cách khác, tấm gương của quỷ sẽ tạo ra một Bà Chúa Tuyết.
G. nâng chiếc vương miện lên quá đầu, cho phép bản thân trầm trồ trước cái cách sự sắc nhọn của nó tỏa thành hào quang, cách mà nó phản chiếu cô, xinh đẹp và tàn nhẫn.
Và rồi cô đập thẳng nó xuống phần đỉnh nhọn của chiếc ngai kim cương.
Qua bảy chiều không gian, chiếc vương miện nứt ra rồi vỡ vụn. Những mảnh kính xuyên qua cổ tay và ngón tay G., bay lên cắm vào da mặt cô.
Khi máu của cô trào ra và sủi bọt, chúng đông cứng lại, và trên da G. bỗng chốc xuất hiện những viên hồng ngọc, những viên hồng ngọc và kim cương sáng chói hơn cả tuyết.
Và khi vương miện của Bà Chúa vỡ vụn, cả cung điện cũng nứt toác, từ đỉnh tới nền, như thể phần vỏ của hạt óc chó vậy.
Xung quanh chỉ còn bóng tối.
Trong bóng tối đó G. rơi, và thời gian cũng rơi thành hạt mịn như cát.
───※ ·❆· ※───
7. Sơ lược về Hans Christian Andersen và hiện trạng của ngành vật lý
Nếu coi vũ trụ là một tổng thể, bằng với tất cả những trạng thái khả thi của nó, thì vũ trụ bất biến theo thời gian. Khi quan niệm này được tìm ra và thấu hiểu ở mức độ toán học (6), người ta vừa đạt được lại vừa mất đi tự do. Chúng ta được giải thoát khỏi một thứ bùa mê, chỉ để sa chân vào một thứ bùa mê khác (7). Và trong khi loại bùa mê thứ nhất là một mặt hồ đông cứng chật chội nơi toàn bộ thế giới đến trượt băng và la hét, loại bùa mê thứ hai lại là một nơi yên tĩnh và cô độc (một vài người sẽ tả là linh thiêng), nơi mà chỉ những kẻ can đảm đi tới và chỉ những kẻ điên trở về.
Những ai đến được nơi thứ hai ấy hiểu rằng họ vốn đã được định sẵn phải đi tới bước đường này. Có thể họ than khóc. Cũng có thể họ ngợi ca Chúa.
Nào ai biết được? Và nào ai có thể nói được gì?
───※ ·❆· ※───
8. G. và Ác quỷ
Ở điểm cuối của cú rơi, G. thấy mình đang đứng mặt đối mặt với Ác quỷ.
Hắn đẹp, một cách sang trọng, sắc sảo như một tấm da đã được đánh bóng, với túi áo hình vuông và đôi mắt đen đầy tham vọng.
Ác quỷ nói: Ngươi đang mang tấm gương của ta trong da thịt, trên mái tóc của ngươi. Tấm ngươi mà ta đã làm ra. Chính ta.
Tại sao? G. hỏi, câu hỏi hàm chứa mọi nỗi khổ đau trên thế giới.
Ác quỷ nói: Bởi vì khi một kẻ cô đơn trong đau đớn, hắn sẽ tìm cách reo rắc nối đau đó để trở nên bớt cô đơn hơn. Cũng hợp lý mà.
Nhưng tại sao?
Khi một trái tim tăm tối nhìn thấy vinh quang, thứ vinh quang mà không trái tim nào trên đời có thể đạt được, thì toàn bộ kẻ mang trái tim đó sẽ hóa thành những suy nghĩ hủy diệt.
TẠI SAO?
Khi Ác quỷ tiếp tục cất tiếng, ngôn từ của hắn khéo léo, gương mặt hắn nhã nhặn, giọng nói của hắn làm yên lòng người, bọ cạp và rắn hổ lục bò ra khỏi túi áo hắn, quấn lấy nhau thành những sợi xích mỏng manh, vặn vẹo. Những sợi xích đó trườn tới, cuộn tròn và cố bám lấy cô.
Dẫu vậy, trong tay cô giờ đây là một chuôi kiếm, hai bên chuôi nạm hồng ngọc và kim cương. Trên ngực cô là một lớp vảy bạc dày. Và tay còn lại của cô cầm một tấm khiên đã được đánh bóng như gương.
Nếu Ác quỷ để ý điều đó, hắn cũng không bộc lộ cảm xúc gì.
Hãy nói cho ta sự thật, G. nói.
Hắn nói, Bởi vì ngươi xấu xí và hôm đó là một ngày thứ ba.
G. vung kiếm sang bên trái và cắt đứt một dây bọ cạp, rồi vung kiếm sang bên phải để chặt đôi một hàng rắn hổ lục. Xác rắn và bọ cạp rơi lả tả xung quanh cô. Trong thoáng chốc gương mặt của Ác quỷ đã không còn vẻ quyến rũ nữa.
Ngươi nghĩ ngươi có thể đánh lại được ta ư? hắn nói, giờ đây đã to lớn gấp mười lần và vẫn tiếp tục phình lên, cho tới khi móng chân út của hắn cao ngang đầu cô. Giọng nói của hắn bằng với tiếng mười triệu người cùng hô vang như sấm dậy.
G. nói: Ta đã từng nhìn thấy vĩnh cửu. Ta biết rằng ngươi đã thua rồi.
Và cô vung kiếm, lưỡi kiếm lóa lên sắc đỏ máu và ánh chớp.
Ác quỷ rú lên.
───※ ·❆· ※───
9. G. và K.
Mái tóc anh đã trắng xóa, và anh phải vừa đi vừa chống gậy, khập khiễng như một con hạc đang săn mồi trong đám lau sậy.
Mái tóc của chính cô cũng đã bạc, trên mặt và tay cô chi chít những vết sẹo.
Anh xin lỗi, anh nói.
Em biết anh hối hận mà.
Anh đã đi cả chặng đường dài này để nói với em.
Em biết anh sẽ đến mà, G. nói.
Em đã nhìn thấu trong anh. Anh không thể chịu được điều đó. Anh muốn em phải tổn thương, và anh đã làm vậy.
G. nói: Tất cả đã kết thúc rồi.
Đúng vậy.
K. nheo mắt nhìn cô như thể nhìn một vầng hào quang.
Anh thấy là em đã biến những mảnh kính của em thành một cây kiếm nhỉ.
Còn anh thì biến nó thành một cánh cửa.
Một sự xáo trộn của cả cuộc đời em. Một sự xáo trộn và một cuộc chiến. Cũng như anh đã sống qua những khởi đầu và kết thúc. Như anh đã nhượng bộ và chịu đựng.
Vậy là chúng ta cũng có ích đấy nhỉ.
Có, K. nói. Chúng ta có chứ.
Hết
───※ ·❆· ※───
Chú thích của tác giả
(1) Càng nhìn sâu vào vực thẳm của thời gian, ta càng hiểu được rằng không có cái gì gọi là ngày xửa ngày xưa, cũng không có một dòng thời gian tuần tự duy nhất nào, mà chỉ tồn tại một khối hỗn độn những sự kiện mang tính cục bộ trải dài từ sự không khả thi tới sự khả thi.
(2) Ở đây hình ảnh tấm gương chỉ mang tính tương đối, bởi hiện tượng đang được xét đến xảy ra ở tối thiểu là bảy chiều không gian; nhưng tấm gương là một phép ẩn dụ khá gần gũi và hữu ích.
(3) Thần học hy vọng tìm ra được một giới hạn mang tính cục bộ, nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh.
(4) Một phép giản lược hóa để mô tả một sự kiện lượng tử ảnh hưởng đến nhận thức thần kinh.
(5) Đây cũng là một phép giản lược hóa.
(6) S = k log W, nghĩa là, entropy có liên quan trực tiếp đến số trạng thái trong một hệ. Nếu chúng ta, bằng cách nào đó, có thể quan sát được tất cả các trạng thái vi mô khả thi của vũ trụ, S sẽ trở thành một hằng số.
(7) Hãy tưởng tượng một cậu bé ngồi ghép những mảnh băng của lý trí thành một bức tranh của sự vĩnh cửu. Phép ẩn dụ này không hề thiếu thốn chút nào.
───※ ·❆· ※───
Biên dịch & biên tập: Diệu Mây
───※ ·❆· ※───
Tác giả E. Lily Yu (Ảnh: Facebook tác giả)
Minh họa truyện Tuyết rơi vĩnh hằng trên tạp chí Tor
0 notes
Text
Phi hành gia tiên cá - Yoon Ha Lee
Về tác giả
Yoon Ha Lee (sinh năm 1979) là một tác giả người Mỹ. Kể từ năm 1999 đến nay, các truyện ngắn giả tưởng tự biện của anh đã được đăng tải trên nhiều tạp chí nổi tiếng. Năm 2016, anh xuất bản tiểu thuyết đầu tay Ninefox Gambit, phần đầu trong bộ ba tác phẩm Machineries of Empire và giành được giải thưởng Locus. Ngoài viết văn, anh còn có bằng thạc sĩ ngành giảng dạy toán học tại đại học Standford, từng là chuyên viên phân tích thị trường, nhà thiết kế website, và giáo viên toán. Hiện anh đang sống cùng gia đình tại bang Louisiana.
Bạn có thể ghé thăm website của anh tại yoonhalee.com.
Về tác phẩm
Phi hành gia tiên cá (tựa gốc: The Mermaid Astronaut) được đăng trên tạp chí điện tử Beneath Ceaseless Skies vào ngày 27/02/2020. Năm 2021, truyện đã được đề cử giải Hugo cho truyện ngắn xuất sắc nhất.
*
Ở một thế giới rộng lớn và kỳ thú trong một thiên hà rộng lớn và kỳ thú, có một nàng tiên cá. Nàng không phải là tiên cá duy nhất sống trong đại dương sâu thẳm và mơ mộng ở thế giới của mình. Toàn thể xã hội tiên cá chia sẻ quyền cai trị vùng biển với các ngài cá voi và hội đồng hải quỳ, trong số nhiều loài khác nữa. Nàng tiên cá đặc biệt này tự đặt tên cho mình là Essarala, nghĩa là tìm kiếm các vì sao theo ngôn ngữ của thủy triều và bọt biển.
Mẹ, các chị gái và anh em họ của Essarala hiểu ý nghĩa của tên nàng, và đôi khi họ đến thảo luận với nàng về cái tên đó. Trong một lần như vậy, Essarala ngồi trên một tảng đá nhô lên khỏi mặt biển, những con sóng vỗ vào chiếc đuôi lốm đốm của nàng. Lúc ấy là ban đêm, và nàng khao khát nhìn lên các chòm sao và một hành tinh tỏa sáng có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nàng biết, những vì sao trong chòm sao đó là những mặt trời, giống mặt trời mà hành tinh của nàng quay quanh, một sự thật khiến nàng say mê nhưng không ai trong số người thân của cô thấy đặc biệt hứng thú cả.
“Chúng ta là những hoa tiêu chân chính và quyết liệt,” một trong những người em gái của nàng nói, tên cô ấy là Kiovasa, nghĩa là biển và trăng là bạn đồng hành của nhau - một cái tên thông thường, tiêu chuẩn, cứ sau vài thế hệ lại được đặt lại bởi những tiên cá có tư duy đúng đắn. Cô bơi thành những vòng tròn lười biếng xung quanh tảng đá của Essarala, chiếc đuôi sọc của cô quẫy nhẹ trên mặt nước. “Nhưng em sợ, Essarala à, sợ rằng chị đang muốn làm điều gì đó ngoài định hướng đơn giản.”
“Chị muốn tới thăm các vì sao,” Essarala nói. “Có nhiều thế giới khác ngoài kia. Tại sao cứ mãi phải tự giam hãm bản thân ở thế giới này, trong khi chị có thể đi thăm thú hằng hà sa số những thiên hà đang tồn tại?”
Kiovasa tinh nghịch hất nước về phía nàng. Essarala chấp nhận để em gái té nước với tâm trạng vui vẻ. Suy cho cùng, nàng chẳng việc gì phải sợ nước cả.
“Em không nghĩ đối với chị đó là vấn đề về sự giàu sang,” Kiovasa nói. “Nếu tất cả những gì chị muốn là giàu có, vậy thì, chúng em có thể tìm cho chị nhiều của cải mà.”
Essaral phải thừa nhận rằng điều này là đúng. Những thủy thủ khi ra khơi đã dâng hiến rất nhiều cho biển cả, hoặc là những món lễ vật cầu may, hoặc bi thảm hơn, khi tàu họ bị chìm và hàng hóa của họ tràn ra đại dương. Kể từ khi Essarala chào đời, gia đình nàng đã chẳng hề ngần ngại trong việc nhận những món quà của họ, và khi Essarala lớn hơn, thích phiêu lưu hơn, nàng cũng tham gia vào các cuộc nhặt đồ để có thể tặng quà lại khi đến lượt mình. Hang động dưới biển của riêng nàng chứa đầy những vương miện không đối xứng nạm đá Spinel và ngọc bích, những chiếc mũ giáp đầu ngựa viền mạ vàng, những món đồ chạm khắc thuật lại sự hy sinh của các vị thần kỳ quái, và rất nhiều thứ khác nữa.
Nhưng những món quà này, dù có thiện chí và dù được đón nhận với lòng biết ơn đến đâu, cũng không thể làm dịu đi nỗi khao khát trong tim của Essarala mỗi khi cô nhìn lên bầu trời đêm đầy sao.
Kiovasa trò chuyện với Essarala thêm một lúc nữa và nhận ra rằng khao khát của Essarala chẳng thể lay chuyển nổi. Sau khi xác nhận được điều đó, Kiovasa cất tiếng hát tạm biệt và lặn xuống sâu, bơi đi nhanh, bỏ lại Essarala phía sau.
Essarala có lẽ vẫn sẽ mãi chìm đắm trong vùng đất của những giấc mơ, ngồi trên tảng đá của nàng và hoài công nhìn lên bầu trời vào những đêm quang đãng , nếu đoàn thương lái ấy không xuất hiện.
Các thương lái đến từ bầu trời trên một con tàu lớn làm bằng kim loại. Trông nó không giống những chiếc thuyền buồm,thuyền mành hay thuyền độc mộc có mái chèo mà các tiên cá vốn quen thuộc. Nhưng ngày đó, các tiên cá không thành thạo về đóng tàu lắm, nên điều này không quá làm họ lo lắng.
Con tàu hạ cánh xuống bờ biển của một hòn đảo phía trên rạn san hô, nơi gia đình Essarala đã sinh sống lâu đời. Từ trên tàu xuất hiện những sinh vật mà tiên cá chưa từng thấy trước đây, không ai giống ai. Một vài người trong số đó đi bằng hai chân và một số đi bằng sáu chân, vài người có sáu ngón tay và một số thì lại có xúc tu, một vài người có cuống mắt đang vẫy chào thân thiện, còn những người khác đều không có mắt cả.
Các thông dịch viên của tiên cá làm việc ngày đêm để giao tiếp với đám người mới tới này và tìm ra thứ mà họ muốn. Các vị khách đã hợp tác vào quá trình này, đưa ra tặng phẩm là những tấm vải dệt kim loại lóng lánh và những công cụ kỳ lạ giúp bắt cá hiệu quả hơn. Các tiên cá thích thú với món quà đầu tiên hơn,nên mỉm cười từ chối món sau. Sau cùng, họ đã ký hiệp ước với các tộc cá và không muốn vượt quá giới hạn của họ.
Essarala biết về các thương lái qua chuyện phiếm của anh em họ, và nàng đã nán lại gần mấy thông dịch viên, quan sát và ước ao. Nàng khao khát được khám phá con tàu của họ và yêu cầu họ đưa nàng đi cùng đến các vì sao. Nhưng càng lắng nghe, nàng càng học hỏi nhiều hơn, và có một điều trở nên rõ ràng: tàu của họ có thể mang theo nước cho thủy thủ đoàn uống, nhưng không chứa nước để một tiên cá sống được. Buồn bã vì trở ngại này, nàng rút lui, và ban đầu chẳng ai để ý đến việc đó cả.
Trong khi chờ đợi, các tiên cá và du khách học cách nói chuyện với nhau. Họ lên kế hoạch cho một bữa tiệc hoành tráng, bao gồm những món ăn ngon nhất của các tộc cá, cũng như những miếng nhím biển, hải sâm và món salad rong biển thơm ngon nhất. Về phần mình, những vị khách đã thực hiện bài kiểm tra kỳ lạ - để đảm bảo rằng họ không vô tình đầu độc bất kỳ ai, họ nói - và đóng góp những món ngon lạ lùng của riêng họ, một số giống trái cây, một số giống cá, và vài thức uống pha chế mà các tiên cá không có từ nào diễn tả được ngoài từ ngon lành.
Cuối cùng Kiovasa nhận ra rằng cô không thấy Essarala quanh quẩn bên các thương lái được một lúc rồi. Lo cho chị mình, cô đảm bảo rằng Essarala có một suất tới dự bữa tiệc. Điều đó không khó - chẳng ai nghĩ đến chuyện bỏ mặc Essarala cả - nhưng Kiovasa đảm bảo rằng lời mời đó phải được viết tay trên một tảng băng ma thuật bởi một trong những nhà thư pháp bậc thầy của giới tiên cá, để càng có thể khơi gợi lại mối quan tâm của Essarala.
Kiovasa tìm thấy Essarala ngồi trên tảng đá của nàng như thường lệ. Tiết trời ôn hòa một cách bất thường, nhờ sự nhã nhặn của tinh linh rồng bản địa, thế nhưng Essarala hầu như không chuyện trò với gia đình mình suốt cả tuần qua. Dù vậy, nàng không thể từ chối em gái mình.
Kiovasa đưa ra lời mời hấp dẫn dành cho cô. “Hãy đến chị nhé,” cô nói đầy dỗ dành, “chị sẽ nghe được nhiều chuyện hơn từ những vị khách phương xa, về những nơi họ thấy và những thứ họ ăn. Họ còn mang đến cả đồ ăn từ các vì sao.”
Essarala không phản ứng vui mừng như Kiovasa mong đợi. “Em gái yêu à,” cô nói, phiền muộn lật tấm thiệp mời trên tay, “Chị đã nghe những câu chuyện của họ. Và hơn cả vậy, chị còn nghe cả tiếng thì thầm của sóng và gió về con tàu kim loại này, và chúng đã xác nhận những gì em nghĩ. Con tàu chở đầy du khách từ các vì sao, đúng thế - nhưng bản thân con tàu thì không có nước để một tiên cá sống được.”
Kiovasa, đang bơi theo chiều kim đồng hồ xung quanh tảng đá, thì đổi hướng, ngẫm nghĩ. Chị cô nói đúng. Tất cả các thương lái đều là người sống trên đất liền.
“Dù sao thì chị vẫn nên đến,” Kiovasa nói. “Ít ra thì chị cũng sẽ được nhìn thoáng qua những thế giới xa xôi mà chị luôn yêu thích.”
“Không,” Essarala nói, quay mặt đi. “Chị sợ rằng một khi chị đã nghe được nhiều chuyện hơn, rồi lại các vị khách ấy bỏ lại - và họ sẽ rời đi, không phải sao? - chị sẽ càng không thể chịu đựng nổi.”
Đó là lý lẽ của một tiên cá trẻ tuổi. Nhưng phương thuốc duy nhất cho điều đó là thời gian, và thời gian là thứ họ có rất ít. “Nếu đã vậy,” Kiovasa nói, “chúng ta phải tìm đến các biện pháp quyết liệt hơn. Chúng ta phải đến thăm mụ phù thủy trú ngụ bên dưới những con sóng, và mụ ta sẽ có cách giải quyết”.
Mụ phù thủy bên dưới những con sóng sống trong đáy của một cái hang sâu", hang lớn và tối tăm đến nỗi ngay cả các tiên cá cũng chỉ miễn cưỡng đến thăm. Bầy cá lồng đèn thắp sáng lối xuống nơi ở của mụ phù thủy, và dẫu vậy, Kiovasa và Essarala vẫn phải cố gắng để nhìn thấy bất cứ thứ gì trong bóng tối âm u của vùng nước.
Cuối cùng họ cũng đến được nơi ở của mụ phù thủy. Những con giun và những tảng đá phát quang kỳ lạ đánh dấu lối vào. “Chúng tôi tới đây để xin bà một ân huệ,” Kiovasa gọi, giọng cô bị bóp méo bởi áp lực của nước.
Mãi một lúc lâu, tất cả những gì họ nghe được chỉ là sự im lặng. Và rồi giọng mụ phù thủy vọng từ trong ra: “Ta sẽ nghe từ người muốn có được điều ước.”
Essarala buông tay em gái và bơi về phía có giọng nói. Nàng không thể thấy được mụ phù thủy, và điều đó khiến nàng sợ hãi. “Là tôi,” nàng nói, gần như chỉ thì thầm. “Tôi muốn được thỉnh cầu những du khách đến từ vì sao cho tôi gia nhập thủy thủ đoàn của họ.”
Ánh sáng dịu nhẹ thắp sáng nơi ở của phù thủy từ bên trong, bầy sâu sâu thức giấc và vặn vẹo. Thế nhưng, bản thân mụ phù thủy lại chỉ hiện hình như một bản phác họa bằng nét mực, như một nửa của chiếc bóng. Mụ đang cười, nhưng nụ cười của mụ thật buồn.
“Ngươi sẽ từ bỏ vùng biển mà ngươi biết, và gia đình ngươi, và những bài hát của hải âu, để khám phá thế giới bên ngoài sao?” mụ phù thủy hỏi.
“Tôi không nghĩ đó là điều xấu xa như vậy,” Essarala trả lời, “chỉ là muốn nhìn thấy thế giới mới và nếm thử vị nước của họ.”
“Độc ác thì không,” phù thủy nói. “Khó khăn thì có.”
“Nếu bà không thể giúp tôi-”
“Đó không phải là kiểu khó khăn mà ta muốn nói,” mụ nói. “Ta có thể cho ngươi đôi chân giống con người, ngươi có thể đi bộ trên đất liền, hoặc trên một boong tàu du hành giữa các vì sao. Tuy nhiên, phần còn lại - phần còn lại là tùy thuộc vào ngươi. Bởi, để du hành giữa các vì sao, ngươi cần nhiều hơn là một đôi chân. Ngươi sẽ phải tự làm quen với các cảnh báo của họ, đọc đồng hồ đo oxy, đề phòng khí quyển độc hại và các mầm bệnh ăn thịt, và đó mới chỉ là bước khởi đầu.”
“Ngươi được giáo dục tốt theo cách của người dân ngươi,” mụ phù thủy tiếp tục. “Ta chắc rằng ngươi có thể xác định được mọi loài cá trên biển qua cách chúng bơi, và các loài chim biển bằng bóng của chúng. Ngươi biết ngôn ngữ của mặt trăng khi nàng ta hát cho biển nghe và cách đọc chữ viết của mọi nền văn minh biết đóng tàu. Ngươi có thể đọc được sóng và gió. Nhưng nơi mà ngươi định đi, nó còn tối hơn cả cái vực sâu mà ta gọi là nhà, và không có gió trong không gian, cũng không có con sóng nào ngoài các sóng mật độ hình xoắn ốc của các thiên hà lớn ”.
Essarala run rẩy, bởi mặc dù nàng không hiểu nhiều về thuật ngữ mụ phù thủy đã dùng, nàng nhận ra rằng điều đó nằm ngoài tầm hiểu biết của mình. Giá như nàng dành một chút thời gian để ngắm sao thay vì tìm hiểu về những công nghệ kỳ lạ và đầy may rủi mà cư dân trên cạn đã phát minh ra, và thứ mà có thể giữ họ sống sót trong khoảng không thù địch. Nhưng giờ đã quá muộn rồi. Nàng phải chọn, chọn sớm, vì các thương lái sẽ không ở lại mãi mãi.
“Hãy cho tôi biết mức giá của bà đi,” Essarala nói lớn.
Mụ phù thủy gật đầu. “Một ngày nào đó ngươi sẽ muốn về nhà đấy,” mụ nói. “Khi ngươi trở về, hãy đến thăm ta, và tới lúc đó chúng ta sẽ nói về chuyện này.”
“Bà không thể chấp nhận thứ gì khác từ tôi hay sao?” Essarala hỏi, bởi cái suy nghĩ mình phải quay lại vực sâu khơi lên trong nàng một nỗi sợ hãi không tên.
“Đó chính là mức giá đấy,” mụ phù thủy nói. “Hoặc là ngươi chấp nhận nó, không thì hãy đi đi.”
“Em sẽ đi với chị,” Kiovasa nói với Essarala, “khi chị trở lại đây. Chị sẽ không phải đến đây một mình.”
Mãi sau này, Essarala mới nhớ ra biểu cảm của mụ phù thủy và nỗi sầu muộn trong đó. Thế nhưng, vào thời điểm đó, tất cả những gì nàng biết là niềm biết ơn đối với lòng tốt và sự trung thành của em gái mình. Cô đưa tay ra và nắm lấy tay Kiovasa.
“Ta không thể làm điều đó ở đây,” mụ phù thủy nói. “Độ sâu này sẽ giết chết ngươi trước khi ngươi kịp xin thỉnh cầu của những nhà du hành vũ trụ. Nhưng ta có thể cho ngươi phương tiện.”
Những đường nét tối màu trên cái bóng của mụ phù thủy bắt đầu chuyển động. Trong thoáng chốc, trông mụ chẳng khác gì những họa tiết trừu tượng mà ánh trăng tạo nên trên những con sóng, chỉ là theo chiều ngược lại. Rồi những họa tiết được lắp ráp lại, và phụ mù thủy đưa ra một con dao, chuôi kiếm phần chuôi hướng ra ngoài.
Nó được làm bằng vỏ sò, và dưới ánh sáng kỳ lạ của những con sâu và tảng đá, nó phát ra thứ ánh sáng óng ánh. “Sẽ đau đấy,” mụ phù thủy nói. “Một vài loại khao khát bao giờ cũng sẽ làm ngươi đau. Khi ngươi sẵn sàng, hãy xẻ đuôi của mình làm đôi, và đôi chân sẽ xuất hiện. Nếu ngươi đổi ý” - và Essarala định mở miệng phản đối rằng sẽ nàng sẽ không như vậy, nhưng cái nhìn nghiêm khắc của phù thủy đã ngăn cản cô - “thì hãy vứt nó xuống biển, và nó sẽ tìm đường để quay về với ta.”
“Cám ơn,” Essarala nói bất chấp sự run sợ của mình, vì một ân huệ đã ban ra thì phải luôn được ghi nhận. Nàng không nói ra suy nghĩ chống đối trong lòng mình: rằng nàng sẽ du ngoạn giữa các vì sao càng lâu càng tốt, và có lẽ trong thời gian đó nàng sẽ tìm cách đánh lừa phù thủy về cái giá mà mụ đã đặt ra.
Đêm hôm sau, Kiovasa và Essarala tham dự buổi tiệc. Lính gác cá mập và cá heo chấp nhận thiệp mời của họ và cho họ vào mà không cần giải thích. Vào bất kỳ dịp nào khác, hai chị em sẽ chú ý đến những đồ trang trí lộng lẫy mà các sinh vật và bờ biển đã dày công chăm chút. Những biểu ngữ sáng bằng vải dệt từ bờm cá ngựa và những bím tóc dài của các tiên cá đung đưa trong gió; những đèn lồng chứa nấm phát sáng và những con đom đóm nhảy múa chiếu sáng những chiếc bàn dài. Những chiếc đĩa, bằng sơn mài hoặc dát vàng, chạm khắc ngọc bích hoặc tráng một thứ men màu ngọc bích vô song, chứa đựng mọi sự tinh xảo mà dân tộc vùng biển và cư dân đến từ vì sao biết cách sửa soạn.
Nhưng giờ đây Kiovasa chỉ có thể nghĩ đến việc cô sẽ mất đi chị gái, còn Essarala cảm nhận được sức nặng của con dao vỏ sò của mụ phù thủy, đựng trong một cái túi nhỏ được kết bằng những sợi xích phủ vàng, như thể nó sẽ nhấn chìm nàng vậy.
“Hãy tham gia cùng chúng tôi!” những tiên cá khác gọi từ chỗ ngồi của họ bên những con sóng vỗ. Họ uống rượu và ca hát, trao đổi những câu chuyện về các hoa tiêu và người vẽ bản đồ, và đôi khi là bản ballad của những người yêu nhau sống trên đảo. Kiovasa vẫy tay lại, mặc dù cô rất nặng lòng.
“Chị phải hành động ngay bây giờ,” Essarala thì thầm với em gái, “nếu không chị sẽ mất hết can đảm mất.” Ngoài họ hàng của mình, nàng có thể nhìn thấy những vị khác đến từ vì sao, mặc những bộ đồ khác nhau, và thậm chí đằng sau họ là hình bóng dài của con tàu du hành xa. Và niềm khao khát càng bùng cháy mãnh liệt trong lòng nàng.
Các tiên cá ít có ý niệm về sự riêng tư, vì mọi thứ xảy ra dưới biển đều được mọi người biết đến rất nhanh chóng. Dù vậy, Kiovasa vẫn gật đầu và dẫn nàng ra một nơi vắng vẻ, cách bữa tiệc một đoạn đường xuống bờ biển. Hải âu và chim nhạn bay lượn trên đầu, và đám chim dẽ kêu lên, để cảnh báo hoặc để chào đón. Không ai nhìn theo, và tại sao bọn họ phải nhìn chứ? Họ đều có những chuyện khác trong tâm trí của mình.
Essarala rút dao ra và đưa chiếc túi cho em gái. Nàng tự trấn an bản thân bằng một cái hít thở sâu, nếm mùi muối thoảng trong không khí, bầu trời ngọt ngào bên dưới những dải tinh tú. Rồi nàng cầm con dao quả quyết chém xuống.
Cơn đau khiến nàng gần như ngất đi. Nhưng em gái đã đỡ nàng vào lòng và giữ vững để nàng không lảo đảo. Những chiếc vảy lốm đốm xinh đẹp ở đuôi của Essarala bong ra, và nàng hiện ra với đôi chân, hệt như loài người trong thế giới của nàng.
Kiovasa hôn lên trán nàng. “Đi đi,” cô nói với Essarala. “Những vì sao đang chờ đợi chị.” Và cô quan sát từ vùng nước cạn khi Essarala loạng choạng bước những bước đầu tiên.
Lần lượt từng người một, từ các tiên cá đến các thương nhân, chú ý đến nàng. Và tất cả đều nhìn chằm chằm, thì thầm kinh ngạc với nhau, khi Essarala đi tới chỗ thuyền trưởng của con tàu vũ trụ.
Thuyền trưởng dùng bữa tại đầu bàn của người người ngoài hành tinh. Họ là một sinh vật cao lớn, khắp người phủ lông tơ, trên đầu mọc lên một chòm lông mào lộng lẫy mà ban đầu Essarala tưởng là một chiếc mũ. Khi thấy Essarala đi tới, họ gật đầu chào đón. “Bạn đã có cơ hội thưởng thức đồ ăn chưa?” Họ hỏi Essarala bằng ngôn ngữ của chính nàng.
Về phần mình, Essarala rất bối rối vì không biết nói tiếng của thuyền trưởng, mặc dù nàng biết rất rõ rằng thứ tiếng đó chứa âm mà không tiên cá nào nói được. “Tên tôi là Essarala,” nàng nói, “và như tên của mình, tôi của tìm kiếm các vì sao. Tôi muốn xin bạn một đặc ân - để có thể gia nhập phi hành đoàn của bạn, và đi tới những thế giới xa xôi cùng các bạn.”
Thuyền trưởng liếc nhìn những chiếc vảy đốm vẫn bám trên đôi chân trần của Essarala và hiểu được sự hy sinh mà nàng đã chịu đựng. “Tất nhiên là được rồi,” họ nói một cách tử tế. “Nhưng bạn sẽ bắt đầu từ vị trí thấp nhất trong đoàn của tôi, không phải vì chúng tôi muốn xúc phạm bạn, mà vì có rất nhiều giao thức liên quan đến cuộc sống trên tàu vũ trụ mà bạn sẽ phải học trước khi bạn nhận được nhiều sự tin cậy hơn.”
“Tôi không phiền đâu,” Essarala nói, trái tim nàng như nhảy lên trong lồng ngực.
“Bạn sẽ thấy phiền đấy,” Thuyền trưởng nói, “nhưng dù vậy; bạn cũng sẽ có bạn bè và đồng đội để chia sẻ hành trình với mình.”
Và họ mời nàng ngồi xuống phía vào bên phải họ, cùng họ tham gia vào bữa tiệc.
Sáng hôm sau, thuyền trưởng và phi hành đoàn chuẩn bị nói lời chia tay với các tiên cá và cư dân vùng biển. Essarala, dù rất vui mừng với vận may của mình, cũng không đến nỗi quên mất người em gái. Nàng tìm kiếm Kiovasa bên bờ biển và chạy xuống nước để ôm lấy cô ấy lần cuối.
“Em hi vọng chị sẽ thấy mọi thế giới xung quanh mọi vì sao,” Kiovasa thì thầm vào tai Essarala. Kiovasa, người chẳng bao giờ suy nghĩ nhiều về bầu trời ngoài việc chị gái cô rất khao khát nó, cũng không biết có bao nhiêu thế giới hay bao nhiêu vì sao trong vũ trụ. Nhưng Essarala chấp nhận phước lành tinh thần mà cô đã đem lại.
“Chị sẽ hát tên em cho những vì sao nghe,” Essarala hứa.
“Em sẽ lắng nghe hằng đêm,” Kiovasa nói. Rồi cô đẩy nhẹ Essarala. “Đi đi! Em không muốn chị lỡ mất cơ hội.”
Sự run rẩy đã chiếm lấy trái tim của Essarala, nhưng bây giờ nàng đã đi quá xa để quay trở lại. Nàng chạy qua những con sóng đang vỗ lên con tàu vũ trụ, thân tàu lấp lánh sắc hồng, cam và ánh bạc dưới bình minh. Giờ nàng đã thích nghi với đôi chân mới của mình, quen với cảm giác chân chạm lên cát ướt, và rồi đến đoạn đường kim loại lạnh lẽo dẫn lên tàu vũ trụ.
Thuyền trưởng chào đón Essarala trên tàu và giới thiệu nàng với các thành viên phi hành đoàn, những người sẽ chỉ cho nàng các điều cơ bản của cuộc sống trên tàu vũ trụ. “Hãy luôn nghe theo lời Ssen,” Thuyền trưởng nói, chỉ vào một người ngoài hành tinh lanh lợi có bộ đồ cơ khí trang bị những cái kẹp giống xúc tu ở vị trí của đôi bàn tay. “Họ sẽ để mắt đến bạn. Tôi sẽ gặp bạn tại phòng sinh hoạt chung của con tàu.” Và thuyền trưởng cho phép nàng lui.
“Đi với tôi,” Ssen nói qua một thiết bị phiên dịch. Họ chỉ cho Essarala cách buộc mình vào một chiếc ghế dài khi cất cánh và cảnh báo nàng đừng hoảng sợ khi chiếc ghế dài nhấn chìm nàng bằng gel oxy hóa để bảo vệ nàng khỏi sự gia tốc của con tàu. “Là một thành viên của thủy thủ đoàn,” họ nói thêm, “bạn sẽ phải nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của vật lý, hoạt động của con tàu cũng như cách bảo trì nó. Sau khi lên đường, chúng ta sẽ trao đổi về chuyện đó kỹ hơn.”
Như để thể hiện lòng tốt với nàng, dù Essarala mãi sau này mới nhận ra điều đó, Ssen đã tặng nàng một chiếc ghế dài đối diện cửa sổ để nàng có cái nhìn tốt nhất về thế giới của mình khi lần đầu tiên rời khỏi nơi ấy. Tim đập nhanh với nỗi lo lắng cùng niềm phấn khích lẫn lộn, Essarala chuẩn bị tinh thần để cất cánh. Đáng lẽ ra Ssen không cần phải lo lắng về phản ứng của nàng với gel bảo vệ, vì nó cũng không khác mấy so với vùng nước nàng đã bơi suốt cuộc đời mình.
Tuy nhiên, trong khi thứ phép thuật bẩm sinh của tiên cá đã bảo vệ Essarala khỏi áp lực khủng khiếp dưới biển, nó không thể che chở cho nàng trước gia tốc của một con tàu vũ trụ. Khi con tàu cất cánh tới một điểm đến mà nàng không biết tên, Essarala thoáng nhìn thấy đại dương quê hương mình từ trên cao, và ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt nước, trước khi bất tỉnh.
Ssen rối rít xin lỗi khi họ đã an toàn rời khỏi trọng lực của thế giới. “Lẽ ra tôi nên nghĩ đến chuyện bạn cần được bảo hộ nhiều hơn,” họ nói, “và chuẩn bị cho bạn một chiếc ghế phù hợp. Tôi sẽ dạy bạn cách tự làm điều đó, để trong tương lai sự cố này sẽ không lặp lại nữa.”
Đó không phải thứ duy nhất Ssen đã dạy nàng. Essarala biết được rằng Ssen thường nhận nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ mới, một phần vì họ có lòng kiên nhẫn vô hạn, nhưng phần khác còn vì họ không bao giờ ngủ và luôn cảnh giác trước những sai lầm không thể tránh khỏi. Essarala có lý do để biết ơn cả hai nét tính cách này, vì nàng luôn có người để lắng nghe mỗi lần nàng tuyệt vọng vì không đạt được năng lực căn bản trong các nhiệm vụ được giao, và Ssen đảm bảo rằng nàng sẽ không để con tàu lâm vào cảnh nguy hiểm.
Nhờ Ssen Essarala đã biết được rằng con tàu có hai hệ thống đẩy, một được sử dụng cho cự ly ngắn để hạ cánh và khởi hành từ các hành tinh hoặc các căn cứ sao, và một hệ thống khác đặc biệt hơn cho phép tàu di chuyển với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. “Hệ thống thứ hai là lãnh địa của các kỹ sư-linh mục,” Ssen nói với nàng, “và nếu bạn không muốn bước chân vào lãnh địa bí ẩn của họ, bạn cũng không cần quan tâm đến những thứ đó. Nhưng bạn sẽ cần phải nghiên cứu cơ học quỹ đạo, vì sự an toàn của mọi người.”
Qua nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, Essarala đã thành thạo mặc bộ đồ vũ trụ mà Ssen thiết kế chế tạo riêng cho nàng bằng guồng quay của con tàu. Nàng chỉ quên kiểm tra bình dưỡng khí có một lần, và sau đó Ssen đã nhẹ nhàng giảng giải bởi đó là một vấn đề nghiêm trọng. Khi đã dần thành thạo với các hệ thống của con tàu và các nhiệm vụ bảo trì đơn giản mà Ssen giao cho, Essarala bắt đầu thấy tự hào về công việc của mình, dù nó đơn giản đến mức nào. Nàng bắt đầu ca hát khi làm việc, những bài hát về biển cả để nhắc nhở bản thân về quê nhà mà nàng đã bỏ lại phía sau.
Những lúc rảnh rỗi, nàng ngồi bên cửa sổ của con tàu vũ trụ và ngắm nhìn những ngôi sao đang bay vụt qua. Những kỳ quan hiện lên ngay trước mắt nàng, từ những đám bụi khí nơi các vì sao được sinh ra đến ánh sáng rực rỡ của đĩa bồi tụ xung quanh các hố đen. Essarala nhìn thấy các hành tinh có màu sắc khác nhau xoay tròn như những hạt ngọc huyền ảo, và những vệ tinh quay quanh chúng trông tựa những chiếc vương miện. Và tất cả những hình ảnh này đều làm nàng nhớ đến cô em gái Kiovasa, người đã giúp nàng đạt được ước muốn của trái tim mình, và sự thật rằng giờ đây họ đã chia tay nhau; nhưng nàng vẫn chưa cảm thấy hối tiếc.
Tiếp đến con tàu vũ trụ đến thăm một căn cứ sao để bổ sung nguồn dự trữ. Mặc dù Essarala không tham gia các cuộc đàm phán, do không có chuyên môn, nàng giúp Ssen sắp xếp các vật tư trong hầm tàu. Mặc dù phải lao động chân tay, nàng vẫn thích thú tìm ra cách để sắp xếp các thùng chứa một cách hiệu quả nhất vào không gian có sẵn. Ở dưới biển, trước đây nàng chưa bao giờ phải lo lắng về không gian, nhưng đương nhiên, đó là mối quan tâm hiện tại trong giới hạn của con tàu.
Sau đó, thuyền trưởng cho phép hai người họ tham quan nhà ga khi tàu cập cảng. “Bạn không phiền nếu tôi đi theo bạn chứ?” Essarala hỏi Ssen, vì nàng tự hỏi liệu họ có muốn dành chút thời gian riêng không.
“Không ai phải can đảm một mình ở một căn cứ sao trong chuyến thăm đầu tiên của họ.” Ssen nói. “Tất nhiên tôi không phiền đâu.” Và họ đưa Essarala đến khu vườn không trọng lực của căn cứ sao với những loài thực vật trôi nổi tuyệt vời và những bông hoa thơm nồng nàn, và những cụm đèn lồng đổi màu theo tính khí bất thường của nhà thiết kế. Sau đó, Ssen giới thiệu với nàng những thú vui khác, từ những nhà hàng phục vụ món côn trùng tẩm mật ong giòn tan đến những phòng chờ nơi mọi người trao đổi những vần thơ mới và thơ cổ đại, từ những quán cafe nơi người ta có thể âu yếm những con thú có lông ngoài hành tinh nhỏ bé mang tới vận may, đến những đài kỷ niệm nơi các phi hành gia khắc tên những người đã chết bởi tay bọn cướp biển, bức xạ, hoặc các mối nguy hiểm khác.
Trên hết, Ssen đưa nàng đến đài quan sát của căn cứ sao, nơi Essarala thở phào khi nhìn thấy những ngôi sao xung quanh họ, như thể mọi người đều sống trong mỗi chòm sao rực rỡ. Ssen kể cho nàng tên của những vì sao sáng nhất, những dân tộc sống trên thế giới và những chuyến thăm của họ trong quá khứ.
Cuối cuộc hành trình, Ssen kéo Essarala sang một phòng chờ yên tĩnh, vẻ mặt của họ rất nghiêm trọng. Essarala rùng mình sợ hãi, vì nàng sợ rằng mình đã thể hiện quá kém trên con tàu đến nỗi họ sẽ bỏ rơi nàng ở đây. Nhưng Ssen nói rít lên lo lắng khi họ ngửi thấy mùi sợ hãi của nàng và mua cho nàng một bát nước canh để xoa dịu tinh thần.
“Nếu bạn thấy mệt mỏi với cuộc sống trên tàu của chúng tôi,” Ssen nói, “chúng tôi sẽ tìm cho bạn một ngồi nhà mới, hoặc để bạn trở về quê nhà của bạn. Căn cứ sao này chẳng hạn. Nơi này được biết đến với lòng hiếu khách, và nếu bạn chọn ở lại, bạn có thể kiếm sống ở đây, không chỉ bằng những kỹ năng bạn đã học được với chúng tôi, mà bằng giọng hát của bạn.”
Essarala biết mình có một giọng hát hay, như bao tiên cá khác. Nàng đã không nhận ra rằng Ssen vẫn lắng nghe mình hát trong lúc làm việc lặt vặt. “Bạn có muốn tôi rời đi không?” nàng hỏi nhỏ sau khi nhấp một ngụm canh.
“Không hề,” Ssen nói, giọng họ dịu lại. “Nhưng lúc nào cũng vậy, bạn nên sống trên tàu bởi vì bạn chủ động chọn cuộc sống trên đó, chứ không phải vì bạn bị dồn đến đường cùng.
“Tôi yêu con tàu,” Essarala nói. Điều đó là sự thật. Nàng yêu lớp kim loại bóng bẩy của nó và cách nó kêu khi tăng tốc hoặc giảm tốc. Nàng yêu quang cảnh của các tinh vân xoắn ốc và các cụm sao hình cầu. Nàng cũng yêu cả căn cứ sao, với hình thù rộng lớn và đối xứng lẫn bất đối xứng của nơi đây; cách nó đã trở thành nhà của hằng hà sa số các giống người ngoài hành tinh thậm chí còn đa dạng hơn cả phi hành đoàn của nàng nữa. Nàng vẫn chưa thể tưởng tượng việc từ bỏ cuộc sống trên tàu sẽ ra sao.
Và nếu thỉnh thoảng nàng mơ về nụ cười hiền từ của em gái, mơ về vòng tay của biển cả, và những đám sứa phát sáng đang chuyển động hoặc dàn hợp xướng khổng lồ của các ngài cá voi khi họ suy xét những vấn đề pháp luật, hoặc những gì đã xảy ra trước khi nàng từ bỏ cái đuôi lốm đốm của mình để đi bằng hai chân — tại sao, đó là cái giá mà nàng phải trả, để đổi lấy phần thưởng này.
Nhiều năm trôi qua, Essarala đã trở nên thông thạo lối sống trên tàu, tới mức nàng gần như đã quên mất cuộc sống trên một hành tinh duy nhất sẽ ra sao. Con tàu vũ trụ hạ cánh xuống các căn cứ sao khác, mỗi ngôi sao đều kỳ diệu hơn ngôi sao trước, và cũng tới thăm cả những thế giới khác nữa. Đến giờ, bản thân Essarala đã có thể giúp Ssen hướng dẫn cho những người mới đến và các vị khách không thường xuyên của con tàu, và nàng rất vui khi được chia sẻ những kiến thức mà nàng đã vất vả góp nhặt được.
Giờ đây nàng đã biết tên tất cả thủy thủ đoàn trong phòng sinh hoạt chung, và thuyền trưởng gật đầu chào nàng khi họ đi ngang qua nhau. Essarala đã quen với người phi hành gia trông như cá sấu cùng sở thích ăn mứt trái cây của cô ta, và các kỹ sư-linh mục với những câu thần chú và tính toán của họ. Nàng quen cả phi công của con tàu, xạ thủ bảo vệ họ khỏi bọn cướp biển, và người đầu bếp. Và lần lượt trong số họ đều biết nàng, và đôi khi, trong những lúc rảnh rỗi, họ đề nghị nàng hát những bài ca về thế giới của nàng cho họ nghe.
Essarala học cách bay trong bộ đồ phi hành gia trong những bể khí khổng lồ và cuộn xoáy ở các hành tinh khí, một trong số chúng thậm chí còn là loại khí ăn mòn. Nàng đã nhìn thấy cảnh hoàng hôn có hai mặt trời trên biển metan và mưa sao băng trên bầu trời đêm rực rỡ. Nàng đã dạo bước qua những rừng cây cao chót vót được bao phủ bởi pha lê và hít thở hương thơm của những bông hoa chỉ nở một lần trong một thiên niên kỷ. Và nàng cũng đã giữ lời hứa: mỗi khi đến thăm một thế giới mới, nàng đều hát lên tên em gái mình.
Một ngày nào đó chị sẽ trở về và kể cho em những thứ chị đã nhìn thấy, Essarala nghĩ đi nghĩ lại. Nhưng chưa phải bây giờ.
Nhưng mặc dù nàng đã thành thạo sống cuộc sống của một phi hành gia, công việc dạy dỗ của Ssen vẫn chưa kết thúc. Giờ đây Essarala đã thông thạo những kỹ năng thực hành cần có để sống sót, và để đóng góp cho phi hành đoàn, những lúc họ rảnh rỗi, Ssen dạy nàng lý thuyết. Họ bắt đầu từ những nguyên lý cơ học và hóa học đơn giản nhất, rồi tiến dần tới thuyết tương đối hẹp.
Và chính trong khi học về thuyết tương đối, cuối cùng Essarala cũng hiểu ra cái giá mà mụ phù thủy dưới những con sóng đã đòi hỏi từ nàng - hoặc, chính xác hơn là, đã cảnh báo nàng.
Nàng xem xét các phương trình, xem xét hệ số giãn nở thời gian hiện ra từ những tiền đề thoạt nhìn thì tưởng đơn giản : tốc độ ánh sáng không đổi, cùng cái thực tế rằng không có hệ quy chiếu quán tính nào được ưu tiên hơn bất kỳ hệ quy chiếu nào khác. Trong những năm nàng xa nhà, đối với em gái Kiovasa, hàng chục năm đã trôi qua. Và tiên cá sống lâu, nhưng họ không - hoàn toàn - bất tử.
Ssen thấy Essarala nắm chặt bàn tay của nàng trong nỗi đau khổ và hỏi nàng vì sao.
“Tôi phải trở về quê hương của tôi,” Essarala nói. “Dù mất bao nhiêu lâu đi chăng nữa - nhưng càng sớm càng tốt. Vì tôi vẫn còn những công việc chưa kịp hoàn thành ở đó, và mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra.”
“Quê nhà bạn không thuận đường đi của chúng ta,” Ssen nói, “nhưng ta có thể thỉnh cầu thuyền trưởng. Thậm chí nếu chúng tôi không thể đưa bạn tới đó, chúng tôi có thể sẽ tìm cho bạn một con tàu khác.”
Thật vậy, thuyền trưởng đã triệu tập Essarala đến phòng riêng của họ. Họ chăm chú lắng nghe khi Essarala giải thích tình huống khó xử của mình. “Tôi sẽ tìm mọi cách để trở về nhà,” nàng nói. Nàng sợ rằng giờ đã quá muộn - nhưng điều đó, nàng sẽ không nói ra, ngay cả với thuyền trưởng, người đã thật rộng lượng chào đón nàng đến với phi hành đoàn của họ.
“Đúng là đối với chúng ta đó là một chặng đường dài,” thuyền trưởng nói. “Nhưng chúng tôi sẽ đi đường vòng, và sẽ đợi bạn nếu bạn cần. Tôi biết cảm giác xa gia đình là như thế nào.”
Essarala cúi đầu. “Các bạn không cần đợi tôi đâu,” nàng nói. “Tôi sẽ không rời xa quê hương mình nữa. Cảm ơn bạn. Lòng tốt của các bạn tôi không thể nào đền đáp được.”
Chòm lông mào của thuyền trưởng đung đưa theo cách thức mà bây giờ Essarala đã hiểu được là sự đồng cảm. “Bạn không phải là người duy nhất đã từ bỏ nhiều thứ để đánh đổi lấy giấc mơ lâu dài về các vì sao,” họ nói. “Chúng tôi sẽ nhớ bạn; nhưng tôi nghĩ rằng gia đình bạn cũng thế.”
“Cảm ơn bạn,” nàng nói lại lần nữa, và rời phòng thuyền trưởng với một chút nhẹ lòng.
Thuyền trưởng đã giữ lời hứa của mình. Họ không đi thẳng về quê hương của Essarala, vì họ có các hợp đồng thương mại và nghĩa vụ phải thực hiện, nhưng họ đã định hướng cho con tàu đi theo đường zigzag để có thể ngày càng tiến đến gần quê hương của nàng. Essarala miệt mài nghiên cứu bản đồ sao, mơ về ngày trở lại của mình.
Từng người một, những thành viên khác trong phi hành đoàn, những người mà Essarala coi là bạn bè trong suốt hành trình của mình, đã ghé qua tặng nàng những món quà nhỏ. Những món quà này gồm mứt trái cây của cô phi hành gia cá sấu (đương nhiên rồi), đồ trang sức làm bằng mạch điện từ các kỹ sư-linh mục, gỗ hóa thạch từ một khu rừng tuyệt chủng trên một thế giới chết nào đó, và các khối lập phương chiếu ra những bức ảnh nổi ba chiều của đám rối đang biểu diễn . Ngay cả thuyền trưởng cũng tặng nàng một chiếc lông từ chòm lông mao của họ.
Cuối cùng là Ssen, người thầy và người bạn đồng hành của nàng. Ssen tặng Essarala một chiếc vòng tay bằng kim loại lấy từ các vì sao, trên đó chạm khắc hình ảnh các chòm sao trên bầu trời đêm nơi quê hương Essarala trong chuyến thăm của họ cách đây đã lâu lắm rồi. “Tôi sẽ nghĩ về bạn,” Ssen nói, “ngay cả khi chúng tôi không bao giờ gặp lại bạn nữa.”
“Bạn là người thầy giỏi nhất mà tôi được biết,” Essarala nói. “Tôi sẽ luôn luôn đeo chiếc vòng này.”
Ssen nở nụ cười lém lỉnh, và chỉ có thế.
Chẳng bao lâu sau, Essarala đã nóng nảy tự trói mình vào chiếc ghế dài để hạ cánh xuống quê nhà. Lần này nàng không cần đến sự giúp đỡ của Ssen, và lần này nàng cũng không bất tỉnh khi con tàu giảm tốc. Thế giới của Essarala hiện ra trong tầm mắt, một viên đá cẩm thạch xoắn ốc màu lam và lục, những vệt màu tím và ngọc trai, và hơi thở của nàng dồn dập vì vẻ lộng lẫy của nó, cái thế giới vốn đã quen thuộc với nàng lại một lần nữa trở nên mới mẻ.
Con tàu hạ cánh, và Essarala tự tháo mình khỏi chiếc ghế dài. “Hy vọng là không quá muộn,” nàng tự nhủ khi cùng Ssen đi đến đoạn đường dốc.
“Chỉ có một cách để biết được điều đó thôi,” Ssen trả lời. “Đi đi, và bảo trọng nhé.”
Chân của Essarala chạm xuống bờ biển, cũng chính là nơi con tàu hạ cánh trong lần đầu nó tới thăm thế giới này. Lần này nàng mặc một bộ đồ vũ trụ với đôi ủng nam châm. Nó vẫn luôn đồng hành với nàng trong thời gian nàng ở trên tàu.
Nàng nhìn về phía biển nơi những con sóng vỗ không ngừng và bầy hải âu đang chao liệng, sau đó cởi bỏ bộ đồ. “Tôi sẽ không cần cái này nữa,” nàng nói với Ssen."”Bạn cứ tái chế nó đi.”
Nói rồi Essarala lội xuống biển, và khi nàng lặn xuống, những chiếc vảy cá lốm đốm mọc lên phủ kín đôi chân của nàng. Nàng rùng mình thở hơi thở cuối cùng, rồi lấy lại thứ gia tài mà nàng từng đánh đổi để có thể đi tới các vì sao.Khi nàng lặn xuống nước, đôi chân nàng hợp nhất thành một chiếc đuôi tiên cá đích thực.
Essarala đã không quên lời hứa của mình với mụ phù thủy, và ngoài ra, mụ phù thủy có lẽ cũng biết nàng phải tìm em gái ở đâu. Vì vậy nàng đã lặn xuống thật sâu, vượt qua những rặng san hô sặc sỡ với những chú cá nhút nhát bơi nhanh như tên bắn, vượt qua cả những tốp cá heo, cho đến khi nàng tìm thấy con cá lồng đèn chiếu sáng đường đến nơi ở của phù thủy. Biển lạnh và tối, nhưng xét cho cùng, cũng chẳng lạnh và tối bằng vũ trụ.
“Tôi trở về rồi đây,” Essarala gọi, tự hỏi mình sẽ làm gì nếu mụ phù thủy đã chết trong lúc chờ đợi.
Nhưng các phù thủy không dễ chết như vậy. Những con sâu bắt đầu phát sáng, như cái cách chúng từng phát sáng nhiều năm về trước, và mụ phù thủy của những con sóng hiện ra. “Đúng là ngươi đã về rồi,” mụ nói. Lần này Essarala có thể nhìn thấy diện mạo của mụ ta rõ hơn, và gương mặt ấy cũng không quá khác biệt so với gương mặt nàng.
“Bà đã giúp tôi thỏa mãn ước ao của mình,” Essarala nói. “Bà nói bà sẽ đưa ra mức giá khi tôi trở về. Tôi đã về rồi đây.”
“Thực ra,” mụ phù thủy nói. “Ta đã sẵn sàng triệu hồi cái chết của mình. Sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó vẫn sẽ đến thôi. Sau khi ta chết, ngươi sẽ thay thế vị trí của ta, làm một phù thủy dưới những con sóng. Vì chính ngươi, ngươi cũng đã nếm trải cuộc sống trên các vì sao, và ngươi có được sự khôn ngoan mà những chuyến du hành ấy mang lại.”
Đó là một cái giá đắt, nhưng không phải là không công bằng. “Tôi hiểu rồi,” Essarala nói. “Tôi có một câu hỏi cho bà, nếu bà sẵn lòng trả lời.”
“Hỏi đi.”
Essarala đã chuẩn bị tinh thần cho câu trả lời mà nàng chẳng hề muốn nghe. “Em gái Kiovasa của tôi giờ ra sao rồi? Tôi có thể tìm em ấy ở đâu?”
“Cô ấy đã già nua và ốm yếu,” mụ phù thủy trả lời, và Essarala gần như vỡ òa vì nhẹ nhõm. “Ngươi sẽ tìm thấy cô ấy bên tảng đá nơi hai ngươi dành hàng giờ ngắm nhìn các vì sao. Em gái ngươi chưa bao giờ quên ngươi. Nhưng ngươi nên nhanh lên. Cô ấy không còn nhiều thời gian nữa.”
“Cảm ơn,” Essarala nói. và rồi nàng phóng lên trên mặt nước, bơi hết sức mình về phía tảng đá. Nếu đến giờ phút này mà nàng còn đến muộn thì thật kinh khủng.
Cuối cùng, nàng trồi lên khỏi mặt biển, khiến nước bắn lên làm hiện ra những dải cầu vồng lấp lánh. “Kiovasa!” nàng hét lên khi nhìn thấy em gái mình nằm trên tảng đá.
Tiên cá không già đi như con người, như dù sao thì họ vẫn già đi. Những vệt trắng như màu vỏ sò đã xuất hiện trên tóc Kiovasa, và những sọc kẻ trên đuôi cô đã mờ nhạt đến mức gần như vô hình. Thế nhưng gương mặt cô bừng sáng khi nhìn thấy Essarala. “Chị đã quay về,” cô thì thầm. “Chị trông hệt như ngày chị rời đi.”
“Đó là một thứ phép thuật của các vì sao,” Essarala nói, “chị sẽ giải thích cho em nếu em muốn.” Nàng bơi lên tảng đá và ngồi cạnh em gái mình. Họ trao nhau một cái ôm thắm thiết. Essarala nói thêm, “Chị sẽ không rời xa em nữa.”
“Nhưng còn giấc mơ du hành giữa các vì sao của chị,” Kiovasa nói. “Em sẽ không lấy đi ước mơ đó của chị đâu-”
Essarala nắm lấy tay Kiovasa, rồi ngẩng đầu nhìn lên bầu trời chiều. “Em đâu có làm vậy,” nàng nói.
Kiovasa lắc đầu, ngạc nhiên. “Em không hiểu.”
“Điều mà chị không biết trước khi đi,” Essarala nói, “là mọi hành tinh đều đang du ngoạn trong không gian, và mọi ngôi sao, mọi thiên hà, và những thứ lớn hơn thế nữa, trong một vũ điệu thiên đường vĩ đại. Chị muốn đến thăm các thế giới khác, và sự thực là chị đã tới những nơi đó. Nhưng giờ đây khi đã hiểu chuyển động của các thiên thể rồi, chị không cần phải rời khỏi nhà để du hành vũ trụ nữa.”
“Em vẫn không hiểu,” Kiovasa nhắc lại, “nhưng em mong muốn được học hỏi về điều đó, bằng quãng đời còn lại của mình.”
Hết
*
dành tặng Yune Kyung Lee, người chị em tuyệt vời nhất
*
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Diệu Mây
*
Tác giả Yoon Ha Lee (Ảnh: PEN America)
1 note
·
View note
Text
Những hành tinh vô hình - Hác Cảnh Phương
Về tác giả
Hác Cảnh Phương (郝景芳/Hao Jingfang, sinh năm 1984) là tác giả khoa học viễn tưởng người Trung Quốc. Cô bắt đầu viết văn từ khi còn là sinh viên ngành vật lý tại Đại học Thanh Hoa. Song song với công việc viết văn, cô cũng có bằng tiến sĩ ngành kinh tế học, và hiện đang công tác tại Tổ chức Nghiên cứu Phát triển Trung Quốc (CDRF). Truyện ngắn Gấp Bắc Kinh (北京折叠/Folding Beijing) của Hác Cảnh Phương, được dịch giả Ken Liu chuyển ngữ vào năm 2015, đã nhận giải Hugo năm 2016.
Về tác phẩm
Những hành tinh vô hình (bản Trung: 看不见的星球; bản Anh: Invisible Planets) là một truyện ngắn của Hác Cảnh Phương. Bản tiếng Trung được đăng lần đầu trên tạp chí New Realms of Fantasy and Science Fiction năm 2010, bản dịch tiếng Anh của Ken Liu đăng trên tạp chí Lightspeed năm 2013. Những hành tinh vô hình sau này cũng được lấy làm tựa đề cho tuyển tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng của các nhà văn Trung Quốc do Ken Liu dịch, xuất bản năm 2016.
∴━━━✿━━━∴
“Kể cho con về những hành tinh kỳ diệu mà mẹ từng tới thăm đi. Nhưng con không muốn nghe bất cứ điều gì ác độc hay đáng ghét đâu,” con bảo.
Được thôi. Mẹ gật đầu và mỉm cười. Tất nhiên. Không thành vấn đề con à.
∴━━━✿━━━∴
CHICHI RAHA
Chichi Raha là một nơi đầy kỳ thú, những loài hoa và những hồ nước ở nơi này thật khó quên đối với mọi du khách tới thăm. Ở đó, con chẳng thể bắt gặp một rẻo đất trống nào bởi thảm thực vật bao phủ mọi nơi: có cỏ anua này mềm như tơ lụa này; có cây kuqin vươn cao tới những tầng mây này; lại có hằng ha sa số những loại quả không tên, trông lạ lùng đến mức không tưởng tượng nổi, tỏa ra hương thơm đầy mê hoặc nữa.
Dân cư ở Chichi Raha chưa bao giờ phải lo nghĩ chuyện kiếm sống. Tuổi thọ của họ cao, quá trình trao đổi chất của họ diễn ra chậm, và họ không có kẻ thù tự nhiên nào. Họ làm đầy dạ dày bằng một chế độ ăn gồm vô vàn các loại quả và làm nhà bên trong một loài cây có thân lớn và rỗng. Đường kính trung bình của những thân cây này vừa đủ rộng để một người Chichi Raha trưởng thành có thể nằm thoải mái. Những ngày đẹp trời, cành cây buông thõng xuống, nhưng đến khi trời mưa, chúng sẽ vươn cao và những chiếc lá tạo thành tán như cái ô vậy.
Những kẻ tới thăm Chichi Raha lần đầu sẽ luôn cảm thấy bối rối trước cái cách mà văn minh có thể phát triển ở một thế giới như vậy. Từ góc nhìn của những du khách này, ở một nơi thiếu đi khủng hoảng và cạnh tranh, sự sống có thể tồn tại tốt mà không cần đến trí tuệ. Nhưng nền văn minh ở nơi đây là chuyện không thể nhầm lẫn, và nền văn minh ấy thậm chí còn vô cùng tươi đẹp, giàu có và đầy tính sáng tạo.
Rất nhiều du khách nghĩ rằng họ muốn sống phần đời cuối cùng ở đây. Hầu hết bọn họ tin rằng khó khăn lớn nhất đối với họ chỉ là chuyện ăn uống. Vậy nên, họ nếm thử tất cả các loại hoa quả địa phương một cách đầy lo lắng và cẩn trọng. Nhưng sau khi họ đã sống ở hành tinh này một thời gian, sau khi họ đã tham dự đủ các nghi lễ địa phương, họ mới khám phá ra—cùng với sự ngỡ ngàng—rằng mặc dù rất thích các món ăn, nhưng họ lại không thể chịu nổi lối sống ở nơi này, đặc biệt là những người đã lớn tuổi.
Hóa ra là toàn bộ dân cư Chichi Raha đã học cách nói dối từ khi sinh ra. Nói dối là nghề nghiệp quan trọng nhất của họ. Họ dành toàn bộ quãng đời của mình để thêu dệt nên những câu chuyện, cả về những sự kiện đã xảy ra lẫn những thứ chưa bao giờ có thật. Họ viết ra những câu chuyện ấy, vẽ về chúng, hát lên chúng, nhưng không bao giờ ghi nhớ chúng. Họ không quan tâm rằng liệu có mối liên hệ nào giữa lời nói của họ với sự thật hay không, tiêu chuẩn duy nhất của họ là những câu chuyện phải hấp dẫn. Nếu con hỏi họ về lịch sử của Chichi Raha, họ sẽ kể cho con nghe hàng trăm phiên bản. Không có hai phiên bản nào mâu thuẫn với nhau cả, bởi vì trong từng khoảnh khắc, chúng đã trở nên tự mâu thuẫn với chính mình rồi.
Ở thế giới ấy, tất cả mọi người đều luôn nói câu “Vâng, tôi sẽ làm điều đó,” nhưng chẳng có gì được hoàn thành cả. Không ai coi trọng lời hứa, mặc dù những lời hứa cũng khiến cho cuộc sống của họ thú vị hơn. Và khi lời hứa thực sự được coi trọng, đó sẽ là một sự kiện đáng để ăn mừng. Ví dụ, nếu có hai người nào đó hẹn nhau và rồi cùng giữ lời, họ gần như chắc chắn sẽ kết đôi và sống cùng nhau. Tất nhiên, những sự kiện như thế hiếm hoi vô cùng. Hầu hết mọi người cả đời sống cô độc. Nhưng những cư dân không vì điều này mà cảm thấy thiếu sót. Họ hẳn đã từng nghe về vấn đề quá tải dân số ở các hành tinh khác và cho rằng thế giới của họ là nơi duy nhất thực sự hiểu được bí quyết của một cuộc sống viên mãn.
Vậy nên, ở Chichi Raha có một nền văn học, nghệ thuật, lịch sử vô cùng phát triển, và nơi này trở thành một trung tâm văn minh nổi tiếng. Rất nhiều du khách đã tới đây với hy vọng sẽ được nghe người dân địa phương kể chuyện trên thảm cỏ mềm dưới tán lá của những ngôi nhà cây.
Vài thời điểm, có những người nghi ngờ việc một xã hội ổn định có thể phát triển trên một hành tinh như thế. Trong tâm trí họ, Chichi Raha hiện lên như một nơi hỗn loạn bởi thiếu đi chính phủ và thương mại. Nhưng bọn họ đều nhầm. Văn hóa chính trị ở hành tinh này vô cùng tiến bộ, và công việc kinh doanh xuất khẩu hoa quả đã diễn ra trong nhiều thế kỷ mà không hề bị gián đoạn. Thói quen nói dối chẳng hề ảnh hưởng tới sự phát triển này, mà thậm chí còn thúc đẩy nó. Thứ duy nhất mà Chichi Raha thiếu là khoa học. Ở đây, tất cả những trí óc thông minh có lẽ đều biết một phần nào đó những bí mật của vũ trụ, nhưng những phần vụn vặt đó không bao giờ có cơ hội được xâu chuỗi lại cả.
∴━━━✿━━━∴
PIMACEH
Đây cũng là một hành tinh mà con không bao giờ có thể chắc chắn về lịch sử của họ. Khi con lang thang trong những bảo tàng, nhà hàng và khách sạn nơi đây, con sẽ được nghe rất nhiều phiên bản lịch sử khác biệt. Cuối cùng, con sẽ mắc kẹt bên trong màn sương mù của nỗi phân vân bởi biểu cảm trên gương mặt của tất cả những người kể chuyện đều chân thành tới mức con không thể không tin họ, nhưng lại chẳng có cách nào để tổng hợp tất cả thành một câu chuyện hoàn chỉnh.
Phong cảnh ở Pimaceh như thể chỉ xuất hiện trong thần thoại vậy. Nói cho đúng thì, hành tinh này còn chẳng có dạng hình cầu. Bán cầu nam ở dưới thấp hơn so với bán cầu bắc, và có một vách đá gần như vuông góc trải dài suốt đường xích đạo, chia hành tinh thành hai nửa hoàn toàn tách biệt. Phần trên vách đá phủ đầy băng tuyết, còn phần dưới là một đại dương bất tận. Thành phố Pimaceh được xây dựng trên chính vách đá bao quanh thế giới này. Từ bầu trời tới mặt biển, những tòa nhà ngang bằng nhau và những đại lộ thẳng đứng một cách hoàn hảo trải rộng tựa như các phần của một bức tranh khổng lồ.
Không ai rõ nơi này được xây dựng bằng cách nào. Tất cả những gì con nghe được là những câu chuyện hư cấu do người dân đang sinh sống ở nơi đây kể lại. Mọi câu chuyện đều đặc sắc: một vài truyện trong số chúng là thần thoại về các anh hùng, vài truyện khắc họa những bi kịch và niềm khổ đau, vài truyện khác lại nói về những mối tình ngang trái. Ảnh hưởng cụ thể của mỗi câu chuyện phụ thuộc vào người kể, nhưng không ai có thể kể ra một phiên bản có thể thuyết phục được tất cả mọi người. Và cứ thế, những câu chuyện được truyền từ người này qua người khác, Pimaceh ngày càng trở nên bí ẩn và quyến rũ hơn.
Có nhiều du khách, say mê khung cảnh hùng vĩ và những câu chuyện, đã nán lại nơi này và không muốn rời đi. Pimaceh là một hành tinh cởi mở và dễ sống, và mọi du khách đều được chào đón với vòng tay rộng mở. Những du khách—mà giờ đây đã trở thành những người đến định cư—sau đó sẽ xây nhà của riêng họ trên vách đá và kể lại những câu chuyện họ từng nghe cho các vị khách mới ghé thăm. Hài lòng với cuộc sống đó, họ dần dà trở thành người dân địa phương.
Trạng thái hạnh phúc này sẽ kéo dài cho đến một ngày, khi họ nhận ra sự thật về chính bản thân mình. Bỗng chốc họ hiểu được rằng rất nhiều chi tiết đã gợi mở ra trước mắt họ lịch sử thực sự của Pimaceh: Mọi con người trong thế giới này đều là một du khách. Không hề có người bản địa nào còn sống ở nơi này.
Phải, Pimaceh từng có một lịch sử rực rỡ, nhưng vì một vài lý do nào đó mà nó đã bị lãng quên. Chẳng ai rõ vì sao những người dân bản địa trước kia lại rời đi, chỉ để lại phía sau một thị trấn hoang xinh đẹp mà sau này khiến những kẻ lữ hành trong vũ trụ phải ngỡ ngàng. Họ cũng bỏ lại một vài mẩu vụn của một thứ ngôn ngữ mà chẳng ai có thể giải mã được, như những phép ẩn dụ lấp đầy khoảng không gian trống giữa các tòa nhà. Những chi tiết này đã bám rễ vào tâm trí những người đến sau, và thăng hoa thành một quá khứ tưởng tượng giàu có, đẹp đẽ nhất có thể cho hành tinh này.
Không rõ ai là người đầu tiên khám phá ra thế giới bị bỏ hoang ấy. Lịch sử của những du khách cũng dần phai nhòa, do cố tình hoặc vô tình, khi nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tất cả các du khách định cư lại nơi này đều muốn nghĩ về mình như một cư dân Pimaceh thực thụ. Họ bảo vệ hành tinh và rất nhanh chóng nắm lấy vai trò làm chủ—cho tới một ngày kia chính bản thân họ cũng bắt đầu tin rằng đây chính là mảnh đất của cha ông họ và là nơi họ sẽ chết đi.
Hầu như chẳng người nào khám phá ra bí mật của Pimaceh ngoại trừ một số ít những kẻ lang thang thực thụ, những kẻ đã đi tới khắp các ngõ ngách trong vũ trụ. Họ có thể cảm nhận được rằng những người dân ở đây hơi quá thường xuyên nhấn mạnh việc họ là người dân của Pimaceh. Trên những hành tinh mà những người bản địa thực sự vẫn đang nắm quyền cai quản, đó là một trong những điều dễ lãng quên nhất.
∴━━━✿━━━∴
BINGWAUGH
Bỏ qua những câu chuyện về Pimaceh đi, giữa đại dương của những vì sao này, có lẽ con sẽ phải tới tận Bingwaugh để chứng kiến sự đa dạng của các giống loài, mỗi giống loài lại có một nền văn hóa và văn minh riêng biệt, va chạm nhau, mâu thuẫn với nhau, tạo nên những điều rực rỡ.
Bingwaugh không quá lớn và cũng không quá nhỏ. Các mùa ở đây không rõ rệt và khi hậu thì luôn ôn hòa. Bề mặt của hành tinh này chủ yếu được bao phủ bởi các đồng bằng, ít núi và độ cao ít thay đổi. Chân trời là một đường cong nhẹ nhàng, uyển chuyển. Nơi đây chứa đựng tất cả những gì mà một hành tinh trung bình cần phải có, mặc dù mọi thứ chỉ có đến vậy: đất tốt, các mỏ khoáng sản thuận lợi, động thực vật đa dạng, và cả những cánh đồng hình tròn bao quanh bởi những bụi cây thấp mà các du khách thích tới múa hát. Thực sự nơi này chẳng có gì đáng kể.
Tương tự, cư dân ở Bingwaugh cũng khá bình thường. Họ thuộc lớp thú; không quá to lớn; một giống người chân chất, tốt bụng, dễ dàng làm hài lòng. Tổ chức xã hội của họ lỏng lẻo, và mọi người đều sống hòa thuận.
Nếu phải chọn ra một đặc điểm độc nhất vô nhị về họ, có lẽ đó sẽ là tính khí dễ chịu. Hiếm khi người ta thấy họ tranh cãi, dù là giữa chính họ hay với vô vàn du khách đến từ những vì sao xa. Họ là những người lắng nghe tuyệt vời. Cả người lớn lẫn trẻ em đều luôn sẵn sàng mở to đôi mắt và lắng nghe con thuyết giảng, thường xuyên gật đầu, gương mặt họ bộc lộ vẻ say sưa trước sự thông thái mà con đang truyền đạt.
Khi đã khám phá ra đặc điểm này của người Bingwaugh, mọi nhà thám hiểm tham vọng trong vũ trụ đều muốn tận dụng nó. Ai mà lại không muốn cai quản một tộc người như vậy, ở một nơi như vậy cơ chứ? Tài nguyên dồi dào, môi trường sống thuận lợi, và vị trí đắc địa ở giao lộ của nhiều tuyến đường thương mại.
Vậy là, những nhà giáo dục đến, những nhà truyền giáo đến, những chính trị gia, nhà cách mạng và phóng viên đều đổ xô đến. Họ miêu tả với người dân địa phương tầm nhìn của họ về thiên đường, thuyết giảng cho những người này về những lý tưởng, và lần nào cũng như lần nào, những cư dân của Bingwaugh đều gật đầu và thở dài với sự ngưỡng mộ chân thành và tiếp thu tất cả những triết lý mới ấy. Một số hành tinh ở xa thậm chí còn gửi đến đây những “giám sát viên” để cai trị những người mới cải đạo. Các cư dân thì không bao giờ phản đối, thậm chí còn chẳng buồn nhìn trộm họ.
Nhưng, sau những bước phát triển đầy thành tựu đó, những vị khách đến từ những vì sao xa đều phải thất vọng. Tất nhiên, họ càng ở lại Bingwaugh lâu thì nỗi thất vọng của họ càng tăng lên rõ rệt.
Hóa ra, những người dân bản địa chưa bao giờ thực sự tiếp thu bất cứ lời tuyên truyền xa lạ nào. Kể cả khi họ đồng ý với một đức tin mới, họ cũng không hề làm như những gì được chỉ bảo. Cũng như việc họ ngưỡng mộ nhiệt thành những hệ thống pháp luật mới được giới thiệu cho mình, họ cũng từ chối một cách nhiệt thành nhiệm vụ thực thi những luật lệ ngoài hành tinh.
Đối diện với thái độ đó của những người bản địa, những kẻ thực dân đầy tham vọng chẳng thể làm gì. Bởi họ đã nhận ra rằng sự đối lập giữa những gì người bản địa nói và những gì người bản địa làm không xuất phát từ một âm mưu sâu xa nào đó, mà chỉ đơn giản là do thói quen. Nếu con hỏi thẳng những người này, họ sẽ đáp lại, một cách lúng túng, rằng “Vâng, điều ngài nói nghe có vẻ là Sự thật. Nhưng thế giới này đầy những Sự thật. Thế nên nhỡ đâu ngài cũng có một Sự thật thì sao?”
Có một vài hành tinh, không thể chịu đựng được tình trạng này, đã cố gắng xâm chiếm Bingwaugh bằng vũ lực. Nhưng ngay lập tức, các hành tinh khác sẽ đứng lên can thiệp. Sự cân bằng quyền lực này tuyệt đối tới mức mọi xung đột có thể xảy ra sẽ luôn diễn ra bên ngoài ranh giới bầu khí quyển của Bingwaugh.
Vậy nên, dẫu là nơi mà những kẻ ngoại bang rất muốn chiếm đoạt, Bingwaugh cũng là một trong số những hành tinh có nền văn hóa bản địa được bảo tồn tốt nhất.
∴━━━✿━━━∴
Con có thích những câu chuyện này không?
“Dạ có... và không. Tại sao tất cả các hành tinh đều đầy nhóc du khách đến từ bên ngoài vậy? Con không thích đâu. Cảm giác những nơi này giống y chang sở thú ấy.”
Con nói đúng. Mẹ cũng không thích điều này. Nếu cứ như vậy, sự độc đáo của mỗi hành tinh sẽ dần dà biến mất, như thể những dấu vân tay bị chà đi vậy. Được rồi, sau đây con sẽ được nghe một vài câu chuyện về những người bản địa thực sự nhé.
∴━━━✿━━━∴
AMIYACHI VÀ AIHUOWU
Để mẹ kể cho con nghe về hai hành tinh vẫn do người bản địa cai quản nhé. Trên mỗi hành tinh này, có hai giống loài tinh khôn hoàn toàn tách biệt nhau. Ấy vậy mà mỗi giống loài đều tin rằng bản thân họ mới là chủ nhân duy nhất của thế giới mà họ đang sinh sống.
Amiyachi quay quanh hai ngôi sao: một sao khổng lồ xanh sáng chói, một sao lùn trắng sáng mờ. Hai ngôi sao này có khối lượng tương đương, nhưng khác xa nhau về mật độ và bức xạ. Vậy nên, quỹ đạo của Amiyachi có hình dáng từa tựa một quả bầu vậy. Trong không gian, nó nhảy một điệu waltz dọc theo trường hấp dẫn hình yên ngựa ở giữa hai ngôi sao của mình.
Cứ khi nào Amiyachi tiến đến gần sao khổng lồ xanh, một mùa hạ dài ở nơi này lại bắt đầu. Còn khi nó ở gần sao lùn trắng, là khởi đầu của một mùa đông dài không kém. Mùa hạ là khi thực vật trên hành tinh sinh sôi và dây leo của chúng dường như phát triển không có điểm dừng. Đến mùa đông, hầu hết thực vật đều ngủ đông, chỉ còn một vài loài cỏ dại lặng lẽ nở hoa trên mặt đất trống trải.
Mỗi mùa ở Amiyachi được cai quản bởi một giống loài khác nhau: một giống loài nhảy múa qua những khu rừng xanh tươi của mùa hạ, giống loài còn lại hành quân đơn độc qua những đồng bằng cằn cỗi giữa mùa đông. Người Amiyachi hạ sống trong những căn nhà bện từ dây leo, và khi thời tiết chuyển lạnh, dây leo héo khô, những ngôi nhà ấy cũng biến mất. Người Amiyachi đông sống trong những hang động đào sâu trong lòng núi, và khi thời tiết chuyển nóng, miệng của những cái hang này bị cỏ và dương xỉ mọc dày che khuất, không để lại bất cứ vết nào.
Cứ mỗi khi người Amiyachi hạ chuẩn bị ngủ đông, họ tiết ra một thứ chất lỏng để bao phủ và bảo vệ cơ thể mình rồi chìm vào lòng đất. Chất lỏng ấy kích thích chu kỳ sinh sản của một loài côn trùng có tên wususu. Số lượng bầy wususu tăng lên nhanh chóng sau đó sẽ hồi sinh loài cây bụi chịu lạnh aludon. Sự ra hoa của loài cây có bề ngoài tầm thường ấy là khởi đầu cho quá trình thức tỉnh kéo dài và chậm rãi của người Amiyachi đông.
Khi người Amiyachi đông trải qua gần hết mùa của họ, họ bắt đầu sinh sản. Những đứa trẻ này được bao bọc trong một lớp màng cứng và lớn lên trong đất. Phản ứng ion từ quá trình sinh trưởng ấy thay đổi độ pH của đất, khiến cho các loài thực vật nảy mầm và phát triển, bắt đầu mùa hạ trên hành tinh, và cũng bắt đầu cả thời kỳ cai trị của người Amiyachi hạ.
Bởi vậy, hai giống loài tinh khôn ở Amiyachi không hề ý thức được sự hiện diện của nhau. Không bên nào hiểu được nền văn minh của chính họ phụ thuộc vào sự tồn tại của giống loài còn lại, như hai mặt của một đồng xu vậy. Cả hai bên đều sáng tạo ra những tác phẩm ngợi ca trí tuệ siêu phàm của các vị thần, thứ trí tuệ mà họ tin rằng đã cho phép họ hồi sinh sau một giấc ngủ dài. Nhưng họ không nhận ra rằng, bản thân họ vừa là những đứa trẻ sinh ra từ bàn tay của thánh thần, lại vừa chính là những thánh thần.
Ở Aihuowu, câu chuyện lại hoàn toàn khác. Trên bề mặt của hành tinh này, hai giống loài tinh khôn ý thức rất rõ sự hiện diện của giống loài đối diện, chỉ là họ không biết rằng giống loài còn lại cũng tương đồng với họ, cũng sở hữu cảm xúc, luận lý, và đạo đức.
Lý do rất đơn giản: Hai giống loài này tồn tại ở hai khung thời gian khác nhau.
Aihuowu là một hành tinh có quỹ đạo kỳ lạ. Góc giữa trục quay với mặt phẳng quỹ đạo của nó rất nhỏ, và chính bản thân tốc độ di chuyển trên quỹ đạo của nó cũng rất chậm. Bởi vậy, có thể chia bề mặt Aihuowu làm bốn phần: ở dải đất dọc theo xích đạo xuất hiện hiện tượng ngày và đêm do sự tự quay của hành tinh, trong khi hai vùng cực trải qua các thời kỳ sáng và tối dựa trên vị trí của hành tinh trên quỹ đạo. Một ngày ở vùng cực dài hơn hàng trăm lần một ngày ở vùng xích đạo, và thế là tốc độ biến chuyển của sự sống ở hai khu vực này cũng chênh lệch nhau rất xa.
Đối với những người Aihuowu xích đạo, ngày và đêm ở hai cực của hành tinh kéo dài một cách bí ẩn. Nhưng đối với người Aihuowu vùng cực, thời gian ở xích đạo trôi nhanh như gió thoảng. Người Aihuowu xích đạo thanh lịch và nhanh nhẹn, dân số của họ lên tới hàng chục vạn, sinh sống trong những thuộc địa đông đúc. Trong khi đó, người Aihuowu vùng cực có tốc độ trao đổi chất chậm để sống sót qua những quãng ngày và đêm dài dằng dặc, và cơ thể giống người này cũng có kích thước lớn, phù hợp với cảm thức thời gian của họ.
Đôi khi, người Aihuowu xích đạo tới thăm hai cực trong những chuyến phiêu lưu thám hiểm. Họ luôn thấy mình bị lạc trong những khu rừng giống như mê cung với những thân cây khổng lồ, và tưởng nhầm những ngôi nhà mà họ bắt gặp là những vách đá không thể trèo lên được. Còn khi người Aihuowu vùng cực đi lang thang tới gần xích đạo, họ thường không nhìn thấy các chi tiết ở đây và bất cẩn phá hoại nhà cửa ruộng vườn của người Aihuowu xích đạo. Hai giống loài sống trên cùng một hành tinh, nhưng lại thuộc về hai thế giới hoàn toàn tách biệt.
Cũng có lúc người Aihuowu xích đạo mạo hiểm suy đoán rằng những sinh vật khổng lồ ở vùng cực cũng sở hữu trí thông minh. Nhưng sâu trong tim, họ lại tin rằng, kể cả khi những sinh vật chậm chạp chỉ chuyển động có vài bước chân trong hàng trăm năm ấy có trí tuệ đi chăng nữa, thì thứ trí tuệ ấy cũng sẽ chỉ vô cùng đơn giản và thô sơ. Người Aihuowu vùng cực cũng nghi ngờ những điều tương tự về giống loài ở xích đạo. Nhưng rồi họ thở dài và lắc đầu, nhận ra rằng những tạo vật tí hon sinh ra và chết đi trong vỏn vẹn một ngày ấy sẽ chẳng bao giờ tiến tới được một nền văn minh thực sự.
Và cứ như vậy, hai giống loài tinh khôn ở Aihuowu cùng trải qua các quá trình học hỏi, lao động, yêu thương và chiến tranh. Lịch sử của họ diễn tiến trong hai khung thời gian khác nhau, tựa như âm vang với nhau vậy. Nhưng họ không nhận thức được nhau, và cũng không hiểu được rằng, khi tính toán thời gian, vạn vật đều sẽ chỉ đo đếm vũ trụ dựa vào thước đo tuổi thọ của chính bản thân chúng mà thôi.
∴━━━✿━━━∴
“Đợi đã,” con cắt ngang. “Làm sao mà mẹ biết được về tất cả những nền văn minh này? Mẹ đến Amiyachi vào thời điểm nào? Và mẹ đã dùng thước đo thời gian nào để trải nghiệm sự sống ở Aihuowu?
Mẹ biết. Tất nhiên là mẹ biết chứ. Và nếu con đến những nơi đó, con cũng sẽ biết thôi mà. Đây chính là sự khác biệt giữa các du khách và cư dân bản địa. Và người ta đi du ngoạn cũng vì lẽ đó.
“Có phải không? Vậy ra đây là lý do mà mẹ vẫn thường đi khắp đó đây?”
Đúng, và không đúng.
Nếu con thực sự muốn biết lý do mẹ du ngoạn, hãy để mẹ kể cho con nghe về một hành tinh mà cư dân ở đó chỉ dành cả đời để du ngoạn.
∴━━━✿━━━∴
LUNAJI
Cư dân ở Lunaji chế tạo ra những chiếc xe hơi, thuyền bè, khí cầu và máy phóng đẹp đẽ nhất trong thiên hà. Sự phức tạp và tinh xảo của những loại phương tiện này vượt xa trí tưởng tượng của du khách đến từ các thế giới xa lạ, và cũng vượt xa trình độ công nghệ của bất cứ ngành công nghiệp nào khác trên chính hành tinh này.
Nhiều người bằng trực giác đã ngay lập tức kết luận rằng việc di chuyển có một ý nghĩa đặc biệt đối với người Lunaji. Nhưng trong chuyện này hẳn có một bí ẩn sâu xa hơn mà hầu hết mọi người đều không thể tìm ra. Họ không thể tưởng tượng được vì sao một giống loài có trí tuệ như vậy lại dành cả đời để di chuyển cũng như chuẩn bị cho việc di chuyển, thay vì cố gắng đạt được những thành tựu khác mang tính thỏa mãn cao hơn. Chỉ những ai biết về vòng đời của người Lunaji mới hiểu được đôi chút cái khao khát có phần phi lý ấy.
Ở Lunaji có một bồn địa lớn, nồng độ oxy của nơi này cao hơn bất cứ địa điểm nào khác trên hành tinh. Đất đai ở đây ẩm ướt và giàu dinh dưỡng; những thác nước đổ xuống một mặt hồ hoang sơ và trong vắt; hoa nở vào tất cả các mùa trong năm; và thảm cỏ mềm rải rác những cây nấm sặc sỡ những sắc độ của cầu vồng, vây quanh bởi những loài cây trĩu quả ngọt. Mọi cư dân Lunaji đều trải qua tuổi thơ ở đó, không ai trong số họ biết vì sao họ lại đến được thế giới này. Từ khoảnh khắc mở mắt chào đời, bồn địa ấy là tất cả những gì họ biết.
Theo thời gian, một vài người bắt đầu có mong muốn khám phá bí mật về nguồn gốc của mình, hoặc đi tìm ngôi điện của các vị thần. Đó là lúc họ bắt đầu lớn lên, cho tới khi đủ cao để trèo qua được những khối đá chắn trước con dốc thoải bên rìa bồn địa. Ở đó họ sẽ bắt gặp một khu rừng rậm rạp như mê cung, và cứ thế leo dốc cho tới khi ra khỏi bồn địa. Họ không thể xác định được tuổi của mình, bởi vì thời điểm trưởng thành của mỗi người là khác nhau.
Sau khi ra khỏi bồn địa, họ cứ thế đi mãi, lang thang, kiếm tìm—và chẳng thấy gì cả. Họ gặp những người đã rời bồn địa trước họ, nhưng những người đó cũng vẫn đang kiếm tìm, vẫn lang thang khắp nơi, vẫn bế tắc trước bí ẩn đời mình. Vậy nên, cuộc đời của người Lunaji là một chuyến di cư dài. Họ đi từ nơi này sang nơi khác, chẳng bao giờ dừng lại. Họ chế tạo thuyền bè, xe hơi, máy bay nhằm gia tăng tốc độ của mình, để có thể đến được mọi tấc đất trên hành tinh, cho tới khi chạm tới bầu trời.
Đôi khi, có những người vì tình cờ mà đi theo lối mòn dẫn tới một đồng cỏ ở miền hoang dã. Trên đồng cỏ, một loài hoa màu bạc yêu kiều nở rộ, tỏa ra thứ hương thơm say đắm lòng người. Hương thơm ấy khiến cho tất cả những người Lunaji đi đến đó đều choáng váng, và bỗng chốc gây nên cho họ những cảm xúc dịu dàng mà họ chưa từng được cảm nhận. Lần đầu tiên trong đời, họ bị thu hút bởi nhau, họ ôm siết lấy nhau, cho và nhận tất cả những gì bản thân mình có. Thế rồi họ sinh con bên rìa một con suối, và những đứa trẻ ấy sẽ được dòng nước nâng niu đưa về bồn địa bên dưới những thác nước.
Còn cha mẹ của những đứa trẻ? Họ chết đi và chìm vào trong đất bùn.
Và cứ như vậy, vòng đời giản đơn ấy hóa ra lại mang đến toàn bộ ý nghĩa hàm chứa trong những chuyến du hành không ngừng nghỉ của người Lunaji.
∴━━━✿━━━∴
YANYANNI
Nhân tiện đang nói về quá trình trưởng thành, mẹ muốn kể cho con nghe một vài câu chuyện nữa. Chuyện đầu tiên là về hành tinh Yanyanni.
Chỉ bằng một cái liếc mắt, con cũng có thể xác định được tuổi của một người Yanyanni bất kỳ. Cũng như cây cối, họ không ngừng phát triển. Cứ mỗi năm, họ lại cao thêm một chút. Một người lớn sẽ cao hơn rất nhiều so với một đứa trẻ, và một người trẻ sẽ thấp hơn kha khá khi đứng cạnh một người già. Trong đám đông, người già nhất luôn là người cao nhất, đầu và vai của họ vượt lên trên tất cả những người còn lại, tựa như một tòa tháp cô đơn.
Vậy nên, trong thế giới của người Yanyanni, không có cái gì gọi là tình bạn vượt lên trên khoảng cách về tuổi tác. Đối với họ, ngay cả việc nói chuyện với một ng��ời chênh lệch nhiều tuổi cũng đã là một công việc nặng nhọc. Những cuộc trò chuyện kéo dài sẽ khiến cả hai bên bị đau cổ và đau vai, vì người trẻ thì luôn phải ngẩng lên còn người già thì lúc nào cũng phải cúi xuống. Mà quả thực là, giữa những người như vậy chẳng có quá nhiều thứ để trao đổi. Kích cỡ nhà cửa của họ khác nhau và những kệ hàng mà họ mua sắm cũng ở độ cao khác nhau. Những người trẻ chỉ nhìn thấy phần thắt lưng của người già, và hai bên không ai có thể xác định được biểu cảm của nhau.
Những người Yanyanni không phải cứ thế mà cao lên mãi. Đến một ngày, họ thức dậy và nhận ra rằng chiều cao của họ không còn thay đổi. Đó là khi họ biết mình sắp chết. Nhưng điều này không khiến họ quá buồn. Việc cao lên đôi khi trở nên thực sự mệt mỏi. Nhiều người kiệt sức vì nó và chỉ muốn tìm một cái cớ để dừng lại. Cái chết đối với người Yanyanni xảy đến từ từ, nhưng không ai biết chính xác quá trình đó kéo dài trong bao lâu. Để cho đơn giản, họ chỉ liệt kê ngày qua đời là ngày họ không cao lên nữa. Trong mắt họ, dòng thời gian là thước đo của sự thay đổi. Khi sự thay đổi không còn, thời gian cũng ngừng lại.
Ngôi nhà cao nhất ở Yanyanni được xây nên khoảng một thế kỷ trước. Bấy giờ, có một người đàn ông mà, năm này qua năm khác, cứ cao lên mãi cho tới khi đầu ông ta chạm trần tòa nhà cao nhất của hành tinh thời đó. Vậy là, người ta xây cho ông ta một tòa tháp, chỉ đủ chỗ cho một người. Phần móng tháp rộng bằng cả một công viên. Sau khi người đàn ông này qua đời, chưa có người nào phá được kỷ lục về tuổi thọ của ông ta, nên tòa tháp được chia thành hai tầng và cải tạo thành một viện bảo tàng.
Truyền thuyết kể rằng ông ta có để lại một cuốn nhật ký trên mỗi ô cửa sổ của tòa nhà, ghi chép lại cuộc đời của ông ta trong cái năm mà chiều cao của ông ta tương đương với ô cửa đó. Sau đó, những người khác sẽ bắc thang trèo lên lấy những cuốn sổ đó xuống đọc, nhưng đến nay chúng đều đã bị thất lạc.
Giờ đây, các du khách khi đi ngang qua những ô cửa sổ trống trơn đó đều băn khoăn làm cách nào mà, một người đàn ông có thể qua sông chỉ bằng một bước chân, có thể đánh răng và ăn uống mỗi ngày.
∴━━━✿━━━∴
TISU ATI VÀ LUTIKAWULU
Tisu Ati và Lutikawulu là một cặp đối nghịch. Hai hành tinh ở cách nhau hàng trăm nghìn năm ánh sáng ấy giống như hai đầu của một lưỡng cực vậy: chúng phủ định lẫn nhau và cũng phản ánh lẫn nhau.
Người Tisu Ati có kích thước khá nhỏ so với đa số các giống người ở nơi khác. Lớp da của họ mềm mại một cách đặc biệt, nhờ đó cơ thể họ có thể thay đổi hình dạng cực kỳ nhanh chóng. Ở cái thế giới tuân theo học thuyết Lamarck ấy, biểu hiện gen đã phát triển tới cực hạn—không phải, mà là đã vượt xa điểm cực hạn rồi. Toàn bộ quá trình tiến hóa chỉ gói gọn trong vòng đời ngắn ngủi của một cá thể duy nhất.
Người Tisu Ati có thể thay đổi cơ thể của họ theo ý thích. Cánh tay của những người thường xuyên luyện tập leo núi sẽ ngày một dài ra, cho tới khi chúng dài hơn cả cơ thể họ. Những người vận hành máy móc có thể mọc thêm năm đến sáu cánh tay, cho tới khi chỉ cần một người cũng có thể điều khiển được quá trình đóng mở của nhiều van khác nhau. Trên phố, không có hai người Tisu Ati nào trông giống nhau cả. Bất cứ nơi đâu, người ta cũng có thể bắt gặp một cái miệng rộng bằng nửa khuôn mặt, một vòng eo nhỏ hơn sợi mì, hay một hình cầu bao phủ bởi lớp vảy trông như áo giáp. Những thay đổi này là độc nhất vô nhị ở mỗi người, và việc xác định huyết thống của bất kỳ ai chỉ dựa vào vẻ ngoài của họ là điều không thể. Ngay cả những bậc cha mẹ cũng sẽ khó mà nhận ra con mình giữa đám đông nếu hai bên lâu ngày không gặp.
Nhưng cụm từ “theo ý thích” kể ra cũng không hẳn là đúng. Không phải người Tisu Ati nào cũng có được vẻ ngoài trong mơ của họ. Họ khá mù mờ về ngoại hình của bản thân. Chỉ khi ai đó sải bước dài hơn bình thường hoặc va phải các vật xung quanh, người đó mới nhận ra rằng chân mình đã dài hơn một phần ba hay lưng mình vừa mọc thêm một hàng gai nhỏ. Tất nhiên, chỉ cần vài năm, chân của một người có thể phát triển tới mức có thể leo được cả một đoạn cầu thang dài trong một bước chân, và một võ sĩ cũng chỉ mất chừng ấy để có được cho mình một cơ thể phủ đầy những chiếc gai cứng nhọn.
Thế nên, so với cư dân ở các hành tinh khác, người Tisu Ati thậm chí còn cẩn trọng hơn nhiều. Họ nói cẩn thận; và họ làm cẩn thận. Họ sợ rằng chỉ vì một thoáng sơ ý, khuôn mặt xấu xí của họ khi ngủ sẽ trở thành vĩnh viễn, một khối u không cách nào vứt bỏ được.
Trên những đường phố đông đúc ở Lutikawulu, con chỉ cần liếc mắt cũng biết được nghề nghiệp và đời sống hàng ngày của một người. Đây có lẽ là điểm tương đồng duy nhất giữa Tisu Ati và Lutikawulu.
Những người Lutikawulu trông rất đặc trưng: từ vận động viên chạy, ca sĩ, điêu khắc gia tới giới tri thức… Ta có thể dễ dàng phân biệt được họ từ sự khác nhau về hình dạng cơ bắp, hình khối cơ thể, kích thước và các đặc điểm trên khuôn mặt, cũng như người Tisu Ati vậy.
Nhưng ở Lutikawulu, hành trình của cuộc đời mỗi người lại hoàn toàn trái ngược với Tisu Ati. Đây là một hành tinh tuân theo thuyết Darwin, tức là nơi mà mọi người đều đồng ý rằng bất cứ nỗ lực nào trong việc định hướng quá trình tiến hóa đều là vô ích. Người Lutikawulu có bộ gen ổn định, tiến hóa chậm theo các nguyên tắc biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên. Nhưng bởi người Lutikawulu sinh sản vô tính, những biến đổi gen trong tế bào soma của họ vẫn tiếp tục được thể hiện thông qua di truyền. Những tế bào này, khi phân chia và biến đổi, sẽ truyền lại trực tiếp những đặc tính thích nghi mà không cần bảo lưu cho thế hệ sau. Và như vậy, con cái thừa hưởng trọn vẹn những biến đổi từ cha mẹ của chúng.
Hệ quả là, con trai của một thợ rèn sẽ được sinh ra với sức mạnh lớn hơn những đứa trẻ khác, cũng như con gái của một thợ sửa đồng hồ sẽ có thị lực tốt hơn và các ngón tay nhanh nhẹn hơn. Những khác biệt này, tích lũy qua hàng nghìn năm, làm lớn dần mức độ đặc trưng ở các cá thể. Và theo cách đó, mỗi nghề nghiệp đã phát triển thành một giống loài độc lập. Kể cả khi một số nghề nghiệp đã không còn tồn tại, những tính trạng liên quan đến chúng vẫn tiếp tục biểu hiện, tiếp tục tiến hóa.
Tất cả những giống loài đa dạng này được hội tụ lại bởi một ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ chung và số lượng nhiễm sắc thể tương đồng là hai chi tiết duy nhất cho biết họ là cùng một tộc người, chia sẻ cùng một nguồn gốc. Ngoài những điều đó, họ không có điểm chung nào khác. Họ không ghen tị với nghề nghiệp của nhau, cũng như một con khỉ sẽ không buồn tị nạnh với một con khủng long vậy. Chim có trời và cá có biển, họ sống cùng nhau trong các thị trấn, nhưng lướt qua nhau như thể không thấy được nhau.
Người Tisu Ati, mặc dù đã lặp lại quá trình tiến hóa hàng trăm triệu lần, luôn từ chối sự tiến hóa thực sự. Bất kể trong đời một người có thay hình đổi dạng nhiều đến mức nào, con cái họ sinh ra luôn giống nhau, luôn giữ lại hình dáng nguyên thủy ban đầu. Người Lutikawulu lại hoàn toàn ngược lại. Mỗi cá nhân không trải qua bất cứ sự thay đổi nào, nhưng trải qua hàng tỉ năm thăng trầm, con đường tiến hóa của họ đã chia thành vô vàn nhánh tách biệt.
∴━━━✿━━━∴
“Mẹ nói dối,” con bĩu môi. “Làm sao mà một vũ trụ lại có thể tuân theo hai hệ quy tắc trái ngược nhau được?”
Tại sao không chứ? Công chúa nhỏ đáng yêu của mẹ ơi, chẳng có gì là không thể. Vô vàn những bước tiến nhỏ tưởng chừng vô nghĩa, sẽ trở thành quy luật nếu được nối kết với nhau. Việc bây giờ con mỉm cười hay cau mày đã hoàn toàn có thể dẫn tới hai kết quả, hai quy luật khác nhau trong tương lai rồi. Nhưng con của hiện tại làm sao biết trước được những điều đó?
“Vậy sao ạ?” Con nghiêng đầu hỏi, rồi trầm ngâm một lúc lâu.
Mẹ nhìn con và khẽ cười. Chiếc xích đu con đang ngồi đung đưa nhẹ nhàng, gió thổi tung mớ tóc mai mềm mại của con. Thực ra mấu chốt trong câu hỏi của con là phương thức sinh sản, nhưng đáp án kiểu này thì khô khan quá, nên mẹ không muốn nói cho con biết.
Con biết sao không? Điểm mấu chốt ở đây không nằm ở việc những gì mẹ nói có đúng hay không, mà là việc con có tin chúng hay không. Từ đầu đến cuối, phương hướng của câu chuyện không phải được dẫn dắt bằng cái miệng, mà là bằng đôi tai.
∴━━━✿━━━∴
CHINCATO
Miệng và tai là hai bộ phận quan trọng nhất ở Chincato. Đối với người dân ở hành tinh này, lời nói không chỉ đơn thuần là một cách giết thời gian, mà là điều kiện cần thiết của sự tồn tại.
Ở Chincato không có điểm gì quá đặc biệt, ngoài trừ bầu khí quyển dày đặc của nó. Khí quyển ở đây dày đến nỗi ánh sáng không thể xuyên qua nổi, và bề mặt hành tinh bị bao phủ trong bóng tối. Sự sống ở Chincato khởi nguồn trong những dòng biển ấm dưới lòng đại dương, chở đầy vật chất hữu cơ, được làm ấm bằng dung nham sủi bọt, và được cung cấp nguồn năng lượng dồi dào bởi nhiệt lượng tỏa ra từ lõi hành tinh. Đối với người Chincato, miệng núi lửa sôi sùng sục dưới nước chính là mặt trời, là thánh địa của các vị thần, là nguồn gốc của trí tuệ và sức mạnh. Bên ngoài miệng núi lửa, họ có thể thu hoạch được các loại đường hữu cơ, thứ đối với họ là thức ăn, là nền tảng sự sống.
Người Chincato không có mắt, hay bất cứ cơ quan thụ cảm ánh sáng nào. Họ dựa vào âm thanh để xác định vị trí của nhau. Tai của họ vừa để nghe, vừa để quan sát. Nói cho đúng ra, họ không có tai. Họ nghe bằng toàn bộ cơ thể. Nửa trên của cơ thể họ được bao phủ bởi những màng ngăn hình thang, trên mỗi màng có chứa hàng nghìn sợi lông có độ dài khác nhau và mỗi sợi lông đó có thể cộng hưởng với âm thanh ở một tần số cụ thể. Thông qua sự lệch pha của thời điểm mà mỗi màng ngăn hình thang nghe được một âm thanh nào đó, bộ não của người Chincato có thể xác định được cả vị trí lẫn khoảng cách của nguồn phát âm thanh, và thậm chí là hình dạng chính xác của nguồn phát đó.
Vì vậy, ngày qua ngày, người Chincato nói và nghe không ngừng nghỉ. Họ tạo ra âm thanh để cảm nhận được sự hiện diện của người khác, và cũng để cho người khác biết về sự tồn tại của chính mình. Họ không thể im lặng. Sự im lặng là vô cùng nguy hiểm và khiến họ hoảng sợ. Chỉ bằng cách nói liên tục, họ mới có thể biết được vị trí của mình, đảm bảo chắc chắn rằng bản thân họ vẫn còn đang sống. Họ ganh đua với nhau xem ai nói to hơn, bởi đó là cách duy nhất để họ khiến mình nổi bật, đáng chú ý trong mắt người khác.
Một số đứa trẻ được sinh ra với những khiếm khuyết trong cơ quan phát âm. Những đứa trẻ như vậy hầu như không bao giờ có thể sống sót. Chúng luôn có nguy cơ bị kẻ khác dẫm đạp lên, những kẻ to lớn hơn và nhanh nhẹn hơn chúng nhiều lần. Và rồi sẽ chẳng ai còn biết có một đứa trẻ như vậy từng tồn tại.
∴━━━✿━━━∴
“Chuyện đó thật là buồn. Những câu chuyện của mẹ càng ngày càng ngắn, nhưng sao chúng cũng dần trở nên buồn thảm quá vậy?
Buồn thảm ư? Là câu chuyện mà mẹ kể buồn, hay là câu chuyện con đang nghe mới buồn?
“Hai cái đó có gì khác nhau đâu ạ?”
Khác nhau nhiều chứ. Mẹ đã từng đến một hành tinh nơi người ta có thể tạo ra những âm thanh ở hàng vạn tần số khác nhau, nhưng chỉ nghe được một phần rất nhỏ những tần số đó. Với những người này, độ nhạy của tai không tương thích với khả năng rung của dây thanh quản, v��y là những thứ họ nghe được không bao giờ sánh bằng những điều họ có thể nói ra. Nhưng hay một cái là mỗi ngư��i bọn họ lại có thể nghe được âm thanh nằm trong một dải tần số khác nhau. Khi bọn họ nghĩ rằng hàng nghìn người đều đang nghe chung một bản nhạc, sự thực là mỗi cá nhân lại đang nghe một bản nhạc khác nhau, và chẳng người nào trong số họ biết được điều này cả.
“Mẹ lại lừa con rồi. Một nơi như vậy làm sao mà tồn tại được?” Con cắn môi, mắt mở to tròn. “Giờ thì con nghi là mẹ chưa bao giờ đến những hành tinh mà mẹ vừa kể đâu. Mẹ bịa ra tất cả những chuyện đó để làm cho con vui đúng không?”
Công chúa nhỏ của mẹ ơi, ngay từ thời Othello, mọi hiệp sĩ trên đời đều dùng những truyền thuyết xa xôi để làm rung động người con gái trong tim họ mà. Con phân biệt được chuyện nào là thật, chuyện nào là giả chăng? Mẹ du ngoạn giữa những hành tinh ấy, cũng như Marco Polo lang thang qua những thành thị phương Đông, như Hốt Tất Liệt cưỡi ngựa qua miền đất bất tận dưới thanh kiếm của ngài: tất cả xảy ra chỉ trong chớp mắt. Con có thể nói mẹ từng đến đó, và con cũng có thể nói mẹ chưa từng rời đi. Những hành tinh mà mẹ đang nói tới nằm rải rác ở mọi ngóc ngách trong vũ trụ, nhưng đôi khi chúng cũng sáp lại gần nhau, như thể từ xưa đến giờ chúng đã luôn ở đó vậy.
Nghe đến đoạn này, con cười khúc khích. “Con hiểu rồi. Chúng sáp lại với nhau nhờ những câu chuyện của mẹ, và giờ đây mẹ kể chuyện cho con nghe, nên chúng lại một lần nữa ở gần nhau bên trong tâm trí con, có phải vậy không?”
Mẹ nhìn khuôn mặt tươi rói của con và thở dài khe khẽ. Âm thanh đó đủ nhỏ để con không nhận ra điều gì khác thường trong nụ cười của mẹ. Làm sao mẹ có thể giải thích cho con đây? Làm sao mẹ có thể giúp con hiểu được? Những câu chuyện chẳng thể gắn kết lại với nhau, nếu định mệnh của chúng là chia lìa.
Phải, mẹ nói khẽ. Mẹ con mình đã ngồi đây kể chuyện cả chiều, và cùng nhau, chúng ta đã sở hữu cả một vũ trụ. Nhưng những câu chuyện không phải là thứ mẹ kể cho con. Chiều nay, cả hai chúng ta đều là người kể chuyện và người lắng nghe.
∴━━━✿━━━∴
JINJIALIN
Jinjialin là hành tinh cuối cùng mà mẹ sẽ kể cho con hôm nay. Chuyện này ngắn thôi, sẽ kết thúc nhanh ấy mà.
Người Jinjialin có ngoại hình khác với cư dân của những hành tinh khác mà mẹ vừa nhắc tới. Trông họ giống như những quả bóng bay mềm mại, hoặc là như những con sứa lơ lửng trong không trung vậy, trong suốt và lỏng lẻo. Bề mặt cơ thể của người Jinjialin là một lớp màng mỏng, tương tự lớp màng tế bào, không thể thẩm thấu một cách ngẫu nhiên, nhưng chúng có thể hợp nhất hay tách ra khi chạm vào những lớp màng khác.
Khi hai người Jinjialin gặp nhau, một phần cơ thể của họ sẽ kết hợp trong thời gian ngắn, và vật chất bên trong lớp màng sẽ được trộn lẫn vào nhau. Khi họ tách khỏi nhau, những vật chất này được phân bổ lại. Bởi vậy, những người này không quá để tâm đến cơ thể của họ lắm. Ngay đến chính họ cũng không thể khẳng định được bao nhiêu phần trong cơ thể họ đến từ những người lạ mà họ bắt gặp trên đường. Họ tin rằng họ vẫn là chính mình, và những quá trình trao đổi vật chất kể trên thực ra cũng chẳng hề quan trọng.
Nhưng họ không nhận ra rằng cảm thức về “cái tôi” đó chỉ là một ảo tưởng. Trong khoảnh khắc họ kết hợp với nhau, hai con người ban đầu đã không còn tồn tại nữa. Họ trở thành một tổ hợp, và, khi chia tách ra, là hai con người mới hoàn toàn. Hai con người mới đó không hề biết về sự tồn tại của những cá thể trước khi kết hợp, và cả hai bọn họ đều tin rằng mình vẫn chính là mình, chưa từng thay đổi.
∴━━━✿━━━∴
Con có hiểu không con? Khi mẹ đã kể cho con những câu chuyện này, khi con đã lắng nghe chúng, mẹ không còn là mẹ, và con cũng không còn là con nữa. Chiều nay mẹ con mình đã hòa vào nhau, dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Sau này, con vẫn sẽ luôn mang theo một phần của mẹ, và mẹ cũng mang theo một phần của con, kể cả khi hai ta đã quên đi cuộc trò chuyện này.
“Có phải mẹ đang nói Jinjialin chính là thế giới của chúng ta không ạ?
Thế giới của chúng ta ư? Thế giới nào? Có bất cứ hành tinh nào thuộc về chúng ta không? Và có chăng chính chúng ta cũng thuộc về một hành tinh nào đó?
Con đừng hỏi mẹ về tọa độ của những hành tinh ta vừa mới kể. Những con số ấy là những câu châm ngôn huyền bí lâu đời nhất của vũ trụ. Chúng là không khí giữa các ngón tay con. Con đưa tay ra để nắm lấy chúng, nhưng khi con mở bàn tay mình ra, bên trong chẳng có gì cả. Con và mẹ và cả bọn họ đã gặp gỡ nhau trong khoảnh khắc, và định mệnh rồi sẽ lại buộc chúng ta phải xa nhau. Chúng ta chỉ là những kẻ lữ hành, hát những bài hát mà ý nghĩa đã phai mờ, lang thang giữa bầu trời đêm đen. Chỉ vậy thôi. Con biết rằng họ vẫn đang hát trong gió, hát trong gió về một quê hương xa xôi mà.
Hết
∴━━━✿━━━∴
Dịch theo bản chuyển ngữ tiếng Anh Invisible Planets của Ken Liu. Có tham khảo bản tiếng Trung 看不见的星球.
Biên dịch & biên tập: Diệu Mây
∴━━━✿━━━∴
Tác giả Hác Cảnh Phương (Ảnh: Radii China)
Minh họa truyện Những hành tinh vô hình trên tạp chí Lightspeed
0 notes
Text
Lễ hội Số Chín - Caroline M. Yoachim
Về tác giả
Caroline Mariko Yoachim (bút danh Caroline M. Yoachim hoặc Caroline Yoachim) là tác giả người Mỹ. Cô bắt đầu sáng tác từ năm 2005 và cho đến nay, truyện ngắn của cô đã được đăng tải trên rất nhiều các tạp chí danh tiếng chuyên về thể loại giả tưởng tự biện, cũng như giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá. Tập truyện ngắn duy nhất của cô, Seven Wonders of a Once and Future World and Other Stories, được xuất bản năm 2016. Ngoài công việc viết lách, cô còn có sở thích chụp ảnh, thiết kế đồ họa, nấu ăn, trượt tuyết, hay tập yoga.
Bạn có thể liên hệ với Caroline M. Yoachim qua trang web của cô, carolineyoachim.com.
Về tác phẩm
Lễ hội Số Chín (tựa gốc: Carnival Nine) là một truyện ngắn của Caroline M. Yoachim, đăng tải trên tạp chí Beneath Ceaseless Skies năm 2017. Truyện đã được đề cử giải World Fantasy, Hugo và Nebula cho hạng mục truyện ngắn xuất sắc nhất.
༻❁༺
Một đêm nọ, khi những bánh răng của tôi chậm dần và cơ thể tôi chuẩn bị chìm vào giấc ngủ, tôi hỏi cha, “Tại sao mỗi ngày con lại nhận được một số vòng khác nhau ạ?”
“Có những ngày chế tác gia sẽ xoay chiếc chìa của con nhiều, và có những ngày ngài xoay ít, nhưng con sẽ không bao giờ nhận nhiều hơn số vòng mà dây cót của con có thể giữ được. Con may mắn đó, Zee à, dây cót của con rất tốt.” Khi nói những lời này, giọng cha đượm niềm bâng khuâng. Cha chưa bao giờ có nhiều vòng như tôi cả, và ông luôn dành hầu hết số vòng ấy cho những công việc người lớn buồn tẻ.
“Ngày mai cha đưa con đến vườn thú cha nhé?” Vườn thú ở phía bên kia tủ đồ có bầy sư tử lộn nhào và bầy voi có thể đứng thăng bằng trên những quả bóng sặc sỡ.
“Cha phải đưa ông bà đến chỗ thợ máy để đánh gỉ các bánh răng rồi.”
Cha chẳng bao giờ còn thừa vòng nào để đi chơi cả, và điều đó thật buồn. Tôi mở miệng định nói như vậy, nhưng bánh răng của tôi đã chậm tới mức nghe được từng tiếng lách cách, và tôi ngậm chặt miệng lại để nó không mở ra khi tôi ngủ.
༻❁༺
Điều cha nói không sai. Tôi có một cái dây cót tốt. Có những hôm tôi được ba mươi vòng, và một vài hôm khác được hẳn bốn mươi sáu. Và hôm nay, một ngày hè rực rỡ, tôi có tới năm mươi hai. Tôi chưa từng gặp ai mà dây cót giữ được nhiều vòng đến vậy, và cơ thể tôi như thể sắp nổ tung vì năng lượng.
Cha không để ý tôi được lên dây nhiều đến mức nào. “Hôm nay bà phải đi hiệu chỉnh, còn ông sẽ đi lấy bộ râu mới. Nếu con ngồi gỡ chỉ cho cha, con có thể dành hết số vòng còn lại để chơi.”
“Nhưng mà—”
“Luôn phải làm việc trước, để không bị hết vòng con ạ.” Chân cha cứng đờ và người cha lắc lư khi đi dọc theo tấm ván gỗ rộng dẫn ra bên ngoài tủ đồ. Cha băng qua đường ray tàu hỏa và biến mất trong bóng tối bên dưới bàn làm việc của chế tác gia. Tối nay, sau khi những công việc lặt vặt đã xong xuôi, cha sẽ mang về một mảnh vải vụn hoặc một ít chỉ. Cha may quần áo cho cả nhà bằng bất cứ nguyên vật liệu gì mà chế tác gia làm rơi.
Tiếng bánh răng của cha nhỏ dần, và tôi cố thử gỡ chỉ. Chuyện ấy thật nhàm chán. Chuyển động khéo léo của việc nhặt một sợi chỉ sáng màu lên rõ ràng là rất khó khăn khi dây cót quá chặt. Một đoàn tàu chạy đến đoạn đường ray gần chỗ tôi, mang theo âm nhạc sôi động từ lễ hội. Cha con tôi định cư ở Thành phố Tủ đồ, nhưng mẹ tôi lại đi theo những chuyến tàu lễ hội. Theo những gì cha kể, việc lẻn đến đó có vẻ sẽ là một trải nghiệm thú vị. Rõ ràng tôi phải đi rồi—lễ hội đến đúng vào cái hôm tôi nhận được nhiều vòng hơn bất cứ ngày nào trước đây. Tôi tập hợp tất cả những chiếc cúc áo đẹp nhất của mình, và hăm hở chạy tới chỗ những toa tàu được sơn màu rực rỡ.
Lúc ấy vẫn còn sớm, và lễ hội chỉ vừa mới đến, nhưng đã có một đám đông chờ sẵn. Những tiếng vù vù và lách cách vang lên khi họ ùa tới khu biểu diễn. Các thành viên của lễ hội cũng rất bận rộn, họ tháo những toa tàu và lắp chúng thành sân khấu, dựng lối đi, khu trò chơi, và mắc dây thừng cho diễn viên nhào lộn.
Tôi đi ngang qua một gian hàng bán dầu thơm để tra bánh răng và một gian khác bày rất nhiều chìa khóa được trang trí tinh xảo. Không hiểu chế tác gia có thể dùng những chiếc chìa đó để lên dây tốt như chiếc chìa bạc cắm sau lưng tôi không. Một họa sĩ vẽ mặt có hai đôi cánh tay đang vẽ cho hai khách hàng cùng một lúc, cạo sạch lớp sơn đã đã mờ trên mặt họ và thêm vào những hình xoáy màu xanh lục, xanh lam và tím trông khá vui nhộn. “Hai loại sơn đấy,” họa sĩ nói với tôi, “mấy hình xoáy này chỉ cần rửa bằng xà phòng là sạch.”
Đó có lẽ là một lời trấn an, nhưng nó lại phản tác dụng—đường từ tủ đồ tới phòng tắm tốn tới bảy vòng, nên xà phòng với tôi khá là khó kiếm. Tôi mà mang khuôn mặt sơn phết về nhà thì hẳn cha sẽ rất giận.
“Bắt hai con cá giống nhau để có thưởng nào!” một chủ trò gọi với sang. Cơ thể ông ta là một tổ hợp lắp ráp khá kỳ quặc, một bên cánh tay thì nhỏ và nâu còn bên kia lại to và trắng. Hai chân ông ta không dài bằng nhau, và trên gương mặt bằng sứ của ông ta chằng chịt những vết xước. Ông ta đang chìa ra một cái cần dài, ở đầu gắn một tấm lưới nhỏ xíu, có khi còn chẳng đủ to để bắt được con cá nào.
“Không phải chúng đều giống nhau hết ạ?” Tôi tựa người vào thành bể nước và nghiên cứu lũ cá màu da cam. Chúng phát ra tiếng rì rì và một loại máy móc nào đó đang đẩy chúng tiến về phía trước và tạo ra những luồng bong bóng nước phía sau đuôi.
Chủ trò nhúng cái vợt vào nước và bắt được một con cá. Ông ta mở một ô vuông phía dưới bụng nó, làm lộ ra một con số—bốn. “Đàn cá được đánh số từ một đến mười, và cháu được bắt ba con. Cứ có hai con mang số giống nhau là cháu thắng!”
Tôi nhìn sang quầy phần thưởng—một hàng những con vật tí hon, chủ yếu là mèo, tất cả đều cắm những chiếc chìa vàng bé xíu, nhỏ tới mức đến tôi còn xoay được, nên không cần đợi chế tác gia lên dây hàng đêm.
“Cháu đổi mấy cái khuy áo này được chứ?”
Chủ trò bật cười. “Không, nhưng nếu cháu không mua vé, thì phải làm việc để được chơi thôi—vòng đổi vòng, người ta vẫn nói vậy mà.
Không giống như cha, chủ trò có thể thấy dây cót của tôi đã được lên nhiều vòng đến mức nào, vậy nên ông ta bảo tôi vận chuyển các thùng hàng từ quầy của ông ta tới một toa ở gần đuôi tàu. Công việc khiến tôi khá thoải mái, và nó cho tôi cơ hội được nhìn ngắm phần còn lại của lễ hội. Khi tôi làm xong, ông ta đưa vợt cho tôi. “Bất cứ ba con nào mà cháu thích. May mắn nhé!”
Cái vợt dài và khá khó cầm, nhưng tôi vẫn nhúng nó xuống nước. Khi tôi vớt lên, phần lưới trống không, nước nhỏ tong tỏng. Việc bắt cá xem ra chẳng hề dễ dàng như khi chủ trò làm. Tôi thử thêm lần nữa, và lần này bắt được một con khá kêu vo vo khá to khi được vớt lên khỏi mặt nước. Chủ trò nhấn vào một cái chốt để tắt nó đi, và mở ô vuông dưới bụng nó để làm lộ ra con số tám.
Hai con cá tiếp theo của tôi mang số ba và số bốn.
“Thật ra thì có hai con cá nào giống nhau không?” Tôi trả lại cây vợt, và nghiên cứu bể nước. Có lẽ trong ấy phải có đến cả trăm con cá. “Nhiều như thế này thì hẳn phải có chứ nhỉ.”
“Cậu phải xem xét đám cá kỹ lưỡng cơ.” Một đứa con trai mặt đầy tàn nhang tiến vào quầy trò chơi. Cậu ta thò tay bắt một con cá, kiểm tra con số, rồi nhìn vào trong bể. “Con này số sáu, nên giờ phải tìm thêm một con như vậy.”
Bằng một động tác điệu nghệ, cậu ta nhúng cây vợt xuống nước, và bắt thêm con cá nữa. Cậu ta cho tôi xem con số dưới bụng nó—lại một số sáu khác.
“Làm sao mà cậu—”
“Một con mang số sáu có đuôi bị vỡ, nên nó bơi vòng tròn.”
“Nhưng còn con kia, lỡ cậu bắt được số khác thì sao?
“Con này có một mảng sơn bị tróc.”
“Tớ là Zee.”
“Tớ là Endivale,” cậu ta nói, nhưng rồi nhanh chóng bổ sung, “Cậu gọi tớ là Vale cũng được. Bố Pops ơi, con xin vài vòng để đưa Zee đi loanh quanh nhé?”
Chủ trò chăm chú nhìn chúng tôi một phút, rồi gật đầu.
Vale cầm tay tôi, “Đi nào, cậu phải nghe sơn ca hát, cô ấy tuyệt lắm.”
Và thế là chúng tôi đi. Hóa ra sơn ca là một người phụ nữ có đôi cánh với lớp lông vũ nâu tiệp màu với làn da của cô. Vale không hề nói dối chút nào. Cô có giọng hát thật đẹp, và cô có thể hát bất cứ bài nào mà đám đông yêu cầu.
Chúng tôi dành mười hai vòng để khám phá khu lễ hội—xem những màn biểu diễn nhào lộn, để thua trong trò ném vòng, và cưỡi trên lưng những con gấu nhảy múa. Thế rồi Vale phải dừng lại, vì cậu không có nhiều vòng như tôi.
“Cậu quen tất cả mọi người ở lễ hội thì phải,” tôi bảo Vale, khi chúng tôi đang ngồi bên rìa một sân khấu trống trải. “Cậu có biết mẹ tớ không? Bà ấy rất dễ nhận ra—một người phụ nữ có tám chân nhện.”
Ồ, tớ có nghe nói về bà—Quý cô Arachna, phải không? Bà ấy ở Lễ hội Số Bốn.”
“Lễ hội Số Bốn là sao?”
Vale khoát tay về phía sân khấu mà chúng tôi đang ngồi. “Khi sân khấu được tháo ra thế này thì cậu không thấy đâu, nhưng các toa tàu đều được đánh số để dễ phân biệt. Mọi toa trên chuyến tàu này đều được đánh số chín, nên chúng tớ là Lễ hội Số Chín. Bố Pops và tớ ở đây bởi người ta có một quầy trò chơi trống cho ông làm chủ trò. Người bố kia của tớ thì ở Lễ hội Số Hai vì ông là diễn viên nhào lộn, mà Số Chín đã có nhiều diễn viên nhào lộn hơn cần thiết rồi.
“Vậy cậu không bao giờ gặp ông ấy hả?”
“Ở đây chỉ có một đường ray chạy qua thôi, nhưng các đoàn tàu thì đi khắp ngôi nhà, với những thành phố dọc theo tuyến đường, nơi chúng tớ sẽ dừng lại và mua vui cho mọi người. Một vài địa điểm có các cụm đường ray, khi mà các đoàn tàu chạy qua nhau hoặc quay đầu lại. Tớ có gặp ông ấy một vài lần.”
Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc nữa, và cậu còn lén đưa tôi vào bên trong để nhìn người phụ nữ có râu và người đàn ông có nửa thân rắn có lớp vảy màu xanh lục óng ánh. Lễ hội thật tuyệt vời, và tôi chẳng hề muốn rời đi, nhưng tôi có thể cảm thấy thế năng đang cạn dần trong cơ thể mình. Tôi còn một vài vòng, hầu như chỉ đủ để về được đến nhà. “Tớ phải đi đây.”
“Đằng nào thì tớ cũng sắp hết vòng rồi.”
Tôi nhảy xuống khỏi sân khấu. Vale đặt tay lên vai tôi. “Tớ nói dối cậu về vụ mấy con cá trông khác nhau đấy. Chẳng phải chúng bị tróc sơn hay đuôi chúng bị vỡ đâu. Đàn cá mang nhiều hơn một con số, tùy theo cách cậu mở những ô vuông. Đừng kể cho bố Pops là tớ bảo cậu đấy nhé.”
Có một điều gì đó đã sượt qua chúng tôi lúc đó, vào khoảnh khắc mà cậu tin tưởng tôi. Bằng cách nào đó, điều này có ý nghĩa hơn tất cả những sự kỳ diệu mà tôi đã trông thấy. Tôi thậm chí còn không cảm thấy tức giận vì trò chơi gian lận cho tới khi đi được hơn nửa đường về nhà.
“Con đã không gỡ chỉ.” Cha nói khi tôi bước vào nhà.
Mớ chỉ nhiều màu vẫn nằm trên bàn nơi tôi đã bỏ chúng lại.
“Con có quá nhiều năng lượng, và chuyến tàu đã mang tới lễ hội—”
“Đi ngủ đi, Zee. Cha con mình hết vòng rồi.”
༻❁༺
Tôi dành những ngày sau đó để gỡ chỉ và học cách khâu những mảnh vải vụn vào quần áo. Vào ngày thứ 200 của tôi, cha đưa tôi vào thị trấn, đổi chân tay cỡ trẻ con của tôi sang cỡ người lớn, và sơn lại khuôn mặt tôi. Những đoàn tàu đến và đi, nhưng tôi không bao giờ có đủ vòng để thăm thú lễ hội. Rồi một buổi sáng, cha từ thành phố trở về sớm, kéo theo sau một chiếc xe cút kít. “Có chuyện gì vậy ạ?”
“Ông bà đều đã dừng lại rồi.”
“Nhưng đến đêm nay chế tác gia sẽ lại lên dây cho ông bà, và rồi— ”
Cha lắc đầu. “Sẽ đến một lúc mà cơ thể chúng ta không thể giữ được bất cứ vòng nào nữa. Chúng ta đều nhận được khoảng nghìn ngày cho riêng mình, có thể nhiều hoặc ít hơn một chút. Sau đó, chúng ta dừng lại lần cuối. Đó là cách mọi thứ vẫn vận hành.”
Tôi biết chúng tôi sẽ không sống mãi, bởi vì một số người bạn của tôi được tạo thành từ các bộ phận lấy ở trung tâm tái chế của Tủ đồ. Trung tâm tái chế nấu chảy những bộ phận cũ để tạo thành các bộ phận mới. Bởi vậy, tôi vẫn biết điều này. Nhưng đồng thời tôi chưa từng quen người nào có những bộ phận bị tháo rời ra cả. Bà từng vẽ mặt cho tôi và ông luôn kể cho tôi những câu chuyện hay nhất về chế tác gia.
“Con ước mình có thể đến thăm ông bà trước khi họ dừng lại.”
“Cha không biết ông bà sẽ ra đi vào hôm nay. Họ mới trải qua hơn 900 ngày.”
“Cha có đưa ông bà tới trung tâm tái chế không?”
Cha lắc đầu. “Trung tâm tái chế bán ra các sản phẩm tốt, nhưng các lễ hội mới thường xuyên săn lùng những bộ phận cũ. Khi chuyến tàu tiếp theo tới, cha con ta sẽ đưa ông bà ra ngoài đó.”
Tôi biết thật không phải khi cảm thấy phấn chấn vào ngày ông bà qua đời, nhưng trong lúc chuẩn bị chìm vào giấc ngủ, tôi không thể không tưởng tượng những điều kỳ diệu mà chúng tôi sắp sửa được ngắm nhìn.
༻❁༺
Chuyến tàu tiếp theo hóa ra vẫn mang số chín. Tôi có chút thất vọng vì mình từng tham quan gần hết Lễ hội Số Chín rồi, nhưng sau đó tôi nhớ đến Vale và cách cậu chia sẻ bí kíp về những con cá. Tôi không nhìn thấy cậu khi theo cha đến một quầy hàng phía trước đoàn tàu, hay khi cha con tôi đặt ông và bà trên tấm gỗ sơn đỏ. Một trong những người thợ máy của lễ hội quỳ xuống bên cạnh bà, và cha nghiêng người thì thầm, “Cha sẽ ở lại để xem người ta tháo rời ông bà, nhưng con không cần làm điều đó. Con đã dùng vòng của con để giúp cha đẩy xe đưa ông bà đến đây rồi.”
Người thợ bóc lớp vải trên thân và tháo tấm kim loại trước ngực của bà. Tôi muốn nhớ về bà bằng một hình ảnh trọn vẹn, không phải như những mảnh vụn nhỏ. Tôi siết chặt tay cha, rồi buông tay và đi dọc chiều dài của lễ hội.
Vale tìm thấy tôi khi tôi đi được khoảng nửa đoàn tàu. Cậu cũng đã đổi các bộ phận từ ngày nhỏ, và khi người ta sơn lại khuôn mặt cậu, họ đã xóa hết những vết tàn nhang. Tóc cậu giờ đen hơn, và rất hợp với cậu. Cậu đặt tay lên vai tôi, “Tớ rất tiếc về chuyện của ông bà cậu.”
“Làm sao mà cậu lại—”
Cậu nhún vai. “Bố Pops thấy cậu bước vào. Ông ấy nói tớ có thể dùng vài vòng, nếu cậu muốn đi xem biểu diễn nhào lộn.”
Có một ánh nhìn tinh nghịch trong đôi mắt cậu khi cậu nói điều đó, như thể nó là một cuộc phiêu lưu hết sức vĩ đại. Vale đưa tôi đến một căn lều lớn sọc xanh lục và trắng cạnh đường ray, chúng tôi nắm tay nhau và nhìn đoàn diễn viên đi trên những sợi dây mảnh và nhảy giữa những chiếc đu được treo cao trên mặt đất.
Tôi rất thích màn biểu diễn, nhưng được nửa chừng thì Vale ngừng xem.
“Đã xem chương trình này quá nhiều lần rồi hả?” Tôi hỏi.
“Không. Ừm, điều đó cũng đúng, nhưng chủ yếu là vì nó nhắc tớ về người bố kia của tớ. Bố Pops rất tuyệt, nhưng ông và tớ không phải lúc nào cũng hòa hợp với nhau. Ông ấy muốn tớ tiếp quản quầy trò chơi bắt cá vào một ngày nào đó, nhưng tớ ghét việc toàn bộ trò chơi chỉ là gian lận.”
Lẽ ra tôi cũng chẳng buồn ở lại lễ hội, nhưng tôi không muốn cậu buồn. Chúng tôi lẻn ra ngoài và quay về phía đoàn tàu. “Cậu có thể đổi sang lễ hội khác được không?”
“Cơ thể tớ không phù hợp để trở thành diễn viên nhào lộn như bố. Các bộ phận của tớ không được tốt cho lắm. Thực sự thì tớ hợp làm chủ trò nhất, và nếu tớ có ý định theo đuổi công việc đó, tớ nên ở lại đây.”
“Cậu có thể rời lễ hội và sống ở Thành phố Tủ đồ mà,” tôi nói, đột nhiên nhận ra rằng hai đứa vẫn đang nắm tay nhau. “Nó... Chà, thực ra nó nhàm chán khủng khiếp.”
Cậu bật cười. Lúc ấy đã muộn và cậu đã gần hết vòng. “Tớ đang cân nhắc về việc nghĩ ra một trò chơi khác, một trò nào đó khó nhằn nhưng không cần phải gian lận.”
Tôi không để nào không để lộ vẻ thất vọng trên khuôn mặt. Tôi gần như ước rằng tôi đã không nói gì về việc Thành phố Tủ đồ nhàm chán, nhưng đó hoàn toàn là sự thật. “Ừ, tớ đoán là thật khó từ bỏ những cuộc phiêu lưu ngoài lễ hội để ở lại một nơi như thế này.”
Cậu kéo tôi lại gần và nói nhỏ vào tai tôi, “Sao cậu không đi cùng tớ khi lễ hội di chuyển đến nơi khác nhỉ?”
Cha có thể tự chăm sóc bản thân mình, và tôi đã đủ lớn để đi. Tôi nói với cha khi chúng tôi đi bộ về nhà, và sáng hôm sau tôi thu dọn đồ đạc và nói lời tạm biệt. Ấy là một sự thay đổi đột ngột, một sự ra đi đột ngột, nhưng cha hiểu rằng tôi chưa từng muốn ở yên một chỗ. Cha yêu tôi đủ nhiều để cho phép tôi đi. Khi đoàn tàu chuyển bánh, tôi đã rời đi cùng nó. Cùng với Vale.
༻❁༺
Năm chuyến tàu đang tụ họp ở đại giao lộ khi chúng tôi đến, và Vale giúp tôi tìm Lễ hội Số Bốn để tôi có thể gặp được mẹ. Lẽ ra cậu cũng ở lại, nhưng Lễ hội Số Hai cũng đang dừng ở giao lộ, và tôi bảo cậu hãy đi gặp bố mình. Tôi và Vale sẽ có nhiều thời gian bên nhau về sau này, và tôi muốn có thời gian nói chuyện riêng với mẹ. Tôi đã không gặp mẹ kể từ khi tôi còn rất mới.
Tìm được mẹ rất d���, toa tàu của mẹ được dán nhãn rõ ràng “cô nhện siêu đẳng” với những bức tranh lớn vẽ mẹ trên thành toa. Tôi gõ cửa và mẹ mở nó ra, nhìn tôi và gõ lên một trong những chân trước của mẹ, “Vâng?”
Bánh răng của tôi quay ro ro trong lồng ngực. Mẹ không nhận ra tôi, và làm sao mà mẹ nhận ra được cơ chứ? Chân tay tôi đã khác, khuôn mặt tôi đã được sơn lại. Mẹ bỏ lại một đứa trẻ, còn tôi giờ đã là một người phụ nữ. “Con là Zee. Con đến đây cùng với Lễ hội Số Chín, và con muốn... ừm, muốn được gặp mẹ, con nghĩ vậy.”
“Ồ, con gái của ta, Zee.” Chân trước của bà vẫn không động đậy, và bà nghiêng đầu, quan sát tôi. “Con làm gì ở Lễ hội Số Chín thế?”
“Vale đang dạy con quản lý một trong những trò chơi ở đó,” tôi thừa nhận, biết rằng đó là một trong những công việc thấp kém nhất ở lễ hội. Trở thành một diễn viên nhào lộn hay một nghệ sĩ biểu diễn đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn, nhưng các trò chơi chủ yếu là lừa đảo. Hầu như bất kỳ ai cũng có thể làm được, nếu có đủ thời gian tập luyện.
Mẹ không nói gì, và sự im lặng kéo dài một cách khó xử giữa hai chúng tôi.
“Cha vẫn ở Thành phố Tủ đồ,” tôi nói với mẹ, chỉ để lấp đầy sự im lặng. “Ông và bà đã mất vài tuần trước.” Tôi cố gắng nghĩ thêm tin tức từ Thành phố Tủ đồ, nhưng bởi mẹ đã đi cùng chuyến tàu nên hẳn bà không biết hầu hết những người đã cùng tôi lớn lên. Đó là một cảm giác kỳ lạ, khao khát mãnh liệt của tôi được gắn kết với một người hoàn toàn xa lạ. Trong tưởng tượng của tôi, cuộc gặp gỡ diễn ra theo chiều hướng khác. Mẹ hẳn đã yêu tôi đơn giản vì tôi là con gái của mẹ, và chúng tôi có được sự kết nối ngay lập tức.
“Ta rất tiếc khi nghe tin họ đã dừng lại.” Mẹ dừng lại một lúc. “Nghe này, ta thực sự không hợp với vai trò làm mẹ—đó là lý do Lars đã đưa con tới Thành phố Tủ đồ để nuôi dạy con. Ta—ừm—ta không tốt đẹp lắm. Ta ích kỷ. Ta thích sử dụng các vòng cho chính bản thân mình, và ta chưa từng bỏ ra quá nhiều vòng trong mối quan hệ giữa ta và Lars. Chắc chắn ta cũng sẽ không bao giờ có đủ vòng cho con.”
Tôi không biết phải nói gì sau đó. Tôi muốn nổi giận với mẹ, nhưng bà chỉ là một người xa lạ, bà chưa từng là một phần trong cuộc sống của tôi. Đó là cách mọi thứ vẫn diễn ra và tôi đã quen với điều đó. Chủ yếu là tôi thất vọng. Buồn phiền vì ước mơ được tái ngộ với mẹ đã tan biến. Chúng tôi trò chuyện một lúc nữa về những điều vụn vặt, và rồi tôi trở lại Lễ hội Số Chín, về nhà cùng Vale. Tôi thề rằng tôi sẽ không bao giờ trở thành giống mẹ mình. Tôi được phù hộ cho rất nhiều vòng, và tôi sẽ không chỉ dùng chúng cho một mình bản thân tôi.
༻❁༺
Chuyến tàu đưa chúng tôi đi những vòng tròn chậm rãi, dừng lại để biểu diễn tại các thành phố. Tôi dần quen với nhịp độ của cuộc sống ở lễ hội—mở tung các bức tường quanh toa tàu của chúng tôi để dựng quầy hàng, bố trí trò chơi phi tiêu mà Vale thiết kế, đóng gói mọi thứ khi đến lúc phải di chuyển. Những ngày tháng trôi qua trong thoáng chốc, che mờ đi dòng thời gian. Rồi đến một ngày, tôi nhận ra mình đã hơn 400 ngày tuổi, nghĩa là thời gian tôi đi theo lễ hội đã dài hơn thời gian tôi sống ở Thành phố Tủ đồ.
Tôi chưa già, nhưng tôi cũng không còn trẻ nữa.
“Em chắc chắn muốn làm điều này chứ?” Vale đưa tôi đến toa tàu đầu tiên, nơi chứa tất cả các bộ phận.
Tôi gật đầu. Điểm dừng tiếp theo của chuyến tàu của chúng tôi là bàn làm việc của chế tác gia; đây là thời điểm thích hợp để chúng tôi làm ra đứa con của mình.
Anh ấy bắt đầu tìm hiểu các bánh răng, đặt ra mọi thứ chúng tôi cần để tạo thành một đứa trẻ. “Em gái cùng cha khác mẹ của anh có những gọng kìm trông khá tuyệt vời, giống như móng vuốt tôm hùm ấy—”
“Em nghĩ có lẽ thằng bé sẽ trông giống chúng mình hơn.” Những người sống ở lễ hội có nhiều loại bộ phận khá đa dạng, điều này sẽ rất thú vị cho các màn biểu diễn, nhưng những bộ phận kỳ lạ đều khiến tôi nhớ đến mẹ mình. “Một đôi bàn tay sẽ có ích hơn nếu chúng mình có dự định định cư ở một thành phố. Lỡ như thằng bé không muốn làm nghệ sĩ thì sao?”
Vale nhíu mày. “Thằng bé có thể thay đổi các bộ phận của mình, anh cho là vậy. Nhưng ham muốn phiêu lưu của em đã đi đâu mất rồi?”
Khi tôi còn sống ở Thành phố Tủ đồ, lễ hội là một điều gì đó đầy hứng khởi trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà nó diễn ra. Nhưng khi tôi đã trở thành một phần của lễ hội—chà, nghĩa vụ và sinh kế đã làm hỏng những điều kỳ diệu. Sự mới lạ đã lôi kéo tôi đến đây, và nửa đời sau, sự mới lạ ấy đã biến mất. Nhưng tôi chẳng thể nói với Vale như vậy.
“Bởi thế, nếu thằng bé muốn có gọng kìm khi đã lớn, nó cũng có thể thay thế chân tay của mình theo cách đó.” Tôi giữ giọng bình tĩnh, nhưng nỗi lo lắng đang gặm nhấm bên trong tôi. Chúng tôi đã đồng ý về việc làm ra một đứa trẻ, nhưng chúng tôi chưa thảo luận nhiều về các chi tiết. Tôi lục tung đống bộ phận cho đến khi tìm thấy một cánh tay, nước da ngăm đen như người phụ nữ có biệt danh sơn ca nọ, nhưng nhỏ hơn, cỡ trẻ con. Không có cái nào giống hệt với nó cả, nhưng có một cánh tay khác chỉ nhạt màu hơn một chút. Có ai để ý không? Có lẽ ai đó đã lấy nửa còn lại của mỗi bộ. “Còn những thứ này thì sao?”
“Được chứ.” Giờ đây anh đã bớt nhiệt tình hơn và tôi cảm thấy thật tệ khi đã quá vội vàng từ chối lời gợi ý đầu tiên của anh. Tôi tìm kiếm những bộ phận mang vẻ thỏa hiệp, đủ thú vị đối với anh, nhưng không có gì nổi bật như đôi chân nhện của mẹ tôi. Không có gì để gợi lại ký ức về người phụ nữ đã nghĩ rằng việc nuôi dạy tôi là một sự lãng phí.
Chúng tôi làm việc trong im lặng một lúc, sự im lặng thật khó xử. Cuối cùng anh lấy ra một khuôn mặt, hình dạng bình thường nhưng được vẽ thêm những vệt đen trắng. Anh giơ nó lên. Tôi ghét nó, nhưng chỉ là sơn thôi. Sơn có thể dễ dàng được xóa đi và vẽ lại sau này. Việc đó ít vất vả hơn là thay đổi các bộ phận. Cấu trúc của khuôn mặt khá tốt. Tôi gật đầu. Điều đó phá vỡ sự căng thẳng. “Bố anh nói có lẽ có một chỗ cho chúng mình ở Lễ hội Số Hai, làm việc với bầy gấu nhảy múa.” Anh vẫn không rời mắt khỏi con trai chúng tôi, tập trung sự chú ý vào việc gắn cái đầu sọc đen trắng vào phần thân vẫn còn trống. “Đó là một bước tiến từ việc quản lý trò chơi phi tiêu, một vị trí tốt hơn cho thằng bé”.
Nghĩ đến cảnh con làm việc trong một buổi biểu diễn tại lễ hội khiến tôi nhớ về tuổi thơ của chính mình. Tôi đã luôn muốn phiêu lưu, nhưng giờ đây bầy gấu nhảy múa có vẻ nguy hiểm hơn là quyến rũ. Cuộc sống trên những chuyến tàu khó khăn hơn, ngay cả đối với tôi cùng tất cả số vòng của mình. Những người sống ở lễ hội hầu như không bao giờ sống được một nghìn ngày. Dây cót của họ hỏng khi họ ở khoảng 800 ngày, đôi khi còn sớm hơn. “Em muốn những gì tốt nhất cho thằng bé.”
Vale nắm tay tôi và mỉm cười. “Anh cũng vậy.”
Đoàn tàu đưa chúng tôi tới bàn làm việc của chế tác gia, và chúng tôi đặt cơ thể của con trai xuống, phần ngực để hở. Đêm nay chế tác gia sẽ cho thằng bé một chiếc dây cót và lên dây cho thằng bé lần đầu tiên.
“Chúng mình nên đặt tên con ngay bây giờ hay đợi đến sau khi làm quen với thằng bé nhỉ?” Cha mẹ tôi đã đợi cho đến ngày thứ hai để đặt tên tôi, vì họ muốn đảm bảo rằng cái tên sẽ phù hợp.
“Người ta bảo rằng việc đặt tên trước khi đưa thằng bé đến chỗ chế tác gia sẽ mang lại điềm may. Theo cách đó thằng bé sẽ nhận được một dây cót tốt hơn.” Vale đáp. “Matts thì sao nhỉ? Đó là tên của ông anh.”
Tôi nghĩ về ông mình và tất cả những câu chuyện về chế tác gia ông từng kể. “Ông em tên là Ettan. Mattan có được không? Chúng mình vẫn có thể gọi tắt tên thằng bé là Matts.”
Vale gật đầu, chậm chạp, những bánh răng trong cơ thể anh chuẩn bị dừng lại. “Anh thích cái tên đó.”
༻❁༺
Chế tác gia cho tôi bốn mươi ba vòng vào ngày tôi gặp con mình. Mattan yêu dấu của tôi chỉ nhận được bốn. Có điều gì đó không ổn với dây cót của thằng bé. Tôi không phải thợ máy, nhưng tôi có thể nghe thấy nó, một tiếng động méo mó và cót két như tiếng kim loại bị bẻ cong đến điểm gãy. Thằng bé làm gì được với bốn vòng đây? Làm thế nào tôi có thể dạy cho thằng bé về thế giới ngoài kia nếu đó là tất cả những gì nó nhận được?
Tôi nhấc con trai mình lên và cõng nó đến gặp Vale. Tâm trí tôi quay cuồng với nỗi lo lắng cho tương lai của con mình và cảm giác tội lỗi khi có được nhiều vòng hơn cần thiết, nhưng đồng thời tôi cũng biết ơn vì đã được lên dây đủ số vòng để hoàn thành mọi việc. Tôi tiết kiệm một vòng cho Mattan bằng cách dùng thêm một vòng của mình để cõng thằng bé đi, và thằng bé có thể ngắm nhìn thế giới theo cách đó. Ánh sáng từ trần nhà làm sáng lên những sọc trắng trên khuôn mặt thằng bé, và tôi yêu sự tương phản của chúng so với những sọc đen. Tôi đã quá vội vàng khi lên án sự lựa chọn của Vale, xét cho cùng nó cũng hơi đặc biệt thật, nhưng gây ấn tượng mạnh.
“Đây là cha của con, Vale,” tôi nói với Mattan. Thằng bé vui vẻ gật đầu nhưng không cố nói điều gì. Cơ chế của việc nói rất phức tạp và tiêu tốn nhiều vòng hơn là một cái gật đầu đơn giản. Ngay từ bây giờ, khi mới được tạo ra, thằng bé đã ý thức được sự thiệt thòi của mình. Điều đó cũng dễ hiểu, tôi cho là vậy. Tôi vẫn luôn cảm nhận được dây cót của mình được lên dây nhiều đến mức nào, ngay từ hồi còn nhỏ.
“Sao em lại phải cõng con?”
Tôi cho Vale xem bộ đếm cơ học phía trên chiếc chìa khóa sau lưng con trai chúng tôi. Có hai mặt số, đủ để hiển thị hai chữ số, khiến số lần quay vốn đã ít ỏi của Mattan dường như còn ít ỏi hơn, nếu điều đó là có thể. “Thằng bé chỉ có bốn vòng.”
Vale đưa tay ra, không phải để ôm lấy Mattan mà để đặt lên vai tôi. “Ít vậy thôi ư?”
“Em sẽ tận dụng lượt của mình để lo cho cả hai,” tôi hứa. “Chúng mình sẽ cố gắng hết sức.”
Và tôi đã giữ lời hứa của mình. Tôi làm một chiếc địu và cõng Mattan trên lưng khi quản lý trò chơi phi tiêu và làm những việc lặt vặt, đồng thời cố gắng chỉ cho thằng bé một số trò vui mà tôi từng vô cùng mong mỏi những ngày thơ ấu.
Những việc này thực sự quá sức, ngay cả đối với tôi. Vào ngày thứ ba của Mattan, tôi đã dừng lại vào giữa buổi chiều, ngay khi đang trông coi quầy phóng phi tiêu. Vale cõng Mattan về nhà trong chiếc địu của anh, nhưng anh không có đủ vòng để cõng thêm cả tôi, nên tôi cứ đứng đó, ngay chỗ tôi dừng lại, và những người tham quan lễ hội tụ tập quanh tôi, trố mắt nhìn. Một người phụ nữ trưởng thành, dừng lại ở nơi công cộng như một đứa trẻ chưa học cách tự căn số vòng của mình.
Vào cuối tuần đầu tiên của Mattan, chuyến tàu của chúng tôi đi tới giao lộ, và lần đầu tiên Mattan cất tiếng. “Con muốn xem diễn viên nhào lộn.”
Vale đã ra ngoài vào sáng hôm đó để dành một vài vòng với bố của anh. Tôi lẽ ra phải sửa lại cái bảng phi tiêu, được phủ những vòng sơn để làm mục tiêu. Nó bị nứt và chúng tôi cần nó cho trò chơi của mình, nhưng Mattan chưa bao giờ hỏi xin bất cứ điều gì trước đây. Thằng bé đã nghe Vale kể về bố mình và những màn nhào lộn mà ông thực hiện trong các buổi biểu diễn. Tôi không có đủ vòng, nhưng thằng bé đã cố gắng hỏi, và tôi không nỡ từ chối. Tôi bế thằng bé đến Lễ hội Số Hai, và mẹ con tôi xem các diễn viên nhào lộn thực hành màn đu dây.
Chúng tôi không thấy Vale xuất hiện trên khán đài và bố anh ấy cũng không luyện tập với những người khác. Chúng tôi ngồi yên hết sức có thể và chỉ quan sát, dành dụm đủ vòng để trở về đoàn tàu số chín. Vale đã ở đó khi chúng tôi quay lại. Anh nhìn chằm chằm vào chiếc bảng phi tiêu vỡ. Cảnh đó nhắc tôi nhớ về cái ngày ngày tôi bỏ lại mớ chỉ rối, và cha đã phạt tôi vì không hoàn thành công việc của mình trước.
“Mattan xin được đi xem diễn viên nhào lộn,” tôi nói. “Thằng bé đã cất tiếng nói lần đầu tiên. Con chưa bao giờ yêu cầu bất cứ điều gì và em không thể từ chối con được.”
“Mattan không có dư vòng cho những thứ này.” Vale đáp. Giọng anh lạnh lùng, tức giận. “Em cũng không có dư vòng cho những thứ này nốt. Em phải dồn hết sức cho lễ hội nếu mong được giữ lại. Em biết điều đó mà.”
“Nhưng còn con trai của chúng mình thì sao?” Tôi hỏi vặn lại. “Thằng bé không thể sửa bảng phi tiêu hay trông nom các trò chơi ở lễ hội, nhưng điều đó không có nghĩa là thằng bé không có gì khác để đóng góp.”
Vale lắc đầu. “Có thể không, nhưng nó không thể tự lo cho chính mình, và nó đã khiến chúng ta không còn cơ hội chuyển đến Lễ hội Số Hai. Người ta có thể mang theo chúng ta, nhưng họ từ chối nhận Mattan.”
Tới lúc đó tôi mới nhận ra rằng suốt cả tuần qua, Vale chưa một lần gọi thằng bé là Matts. Đây không phải là đứa con mà anh muốn, và anh từ chối gắn kết với thằng bé, cố gắng bảo vệ bản thân khỏi bị tổn thương. Hoặc có thể đơn giản là anh ích kỷ, không muốn dành một vài vòng cho con mình. Chắc hẳn anh đã hết sức thất vọng vì mất cơ hội chuyển đến Lễ hội Số Hai.
Chuyến tàu chạy chầm chậm từ Thành phố Gác mái đến Phòng trẻ sơn rực rỡ rồi đi dọc theo hành lang dài đến Thành phố Tủ đồ, và tôi dành số vòng của mình giúp Mattan sống qua những ngày đó. Khi đoàn tàu dừng lại trong bóng tối bên dưới bàn làm việc của chế tác gia—nơi tôi đã trưởng thành—tôi rời lễ hội và đưa Mattan đi cùng. Vale không tranh luận; anh nhẹ nhõm khi thấy chúng tôi ra đi.
༻❁༺
Cha rất vui khi nhìn thấy tôi, và khi gặp Mattan, và cha đã chào đón chúng tôi về nhà. Tôi bắt đầu hoàn thành vai trò đã từng do cha đảm nhiệm—đưa cha đi chỉnh bánh răng hoặc sửa lại lớp sơn trên người—và bất kể nơi nào chúng tôi đi, tôi đều cõng thêm cả Mattan. Tôi có đủ số vòng để chăm sóc cho cả cha và Mattan, miễn sao tôi không làm gì khác. Tôi cố gắng không nghĩ đến phiêu lưu, hay tự do, hay thậm chí là tương lai. Nếu giữ sự tập trung vào thời điểm hiện tại, tôi có thể làm mọi việc cần thiết, dẫu chỉ ở mức vừa đủ.
Không có chuyến tàu nào đến với Thành phố Tủ đồ vào ngày thứ 200 của Mattan.
“Mẹ con mình có thể đợi lễ hội, hoặc đến trung tâm tái chế để lấy tay chân cỡ người lớn cho con.” Tôi bảo với Mattan. Chúng tôi đã thảo luận trước về cả hai lựa chọn, một cuộc trò chuyện kéo dài tới vài ngày vì thằng bé không phải lúc nào cũng có đủ vòng để đặt câu hỏi.
“Con muốn đi hôm nay,” Mattan trả lời ngay lập tức. Có rất nhiều bộ phận ở trung tâm tái chế và thằng bé không muốn trở thành một nghệ sĩ biểu diễn, vì vậy việc mua các bộ phận ngay trong thị trấn là điều hợp lý... nhưng tôi nghĩ Mattan cũng biết rằng việc đi lấy những bộ phận này sẽ tiêu tốn sức lực trọn một ngày của cả hai chúng tôi, và thằng bé không muốn làm cho mọi thứ khó khăn hơn bằng việc đi thêm đoạn đường dài ra đường ray nơi đưa đến những chuyến tàu lễ hội.
Việc tới trung tâm tái chế khiến tôi nhớ lại ngày mà tôi và Vale tạo ra Mattan, mặc dù ở đây các bộ phận được sắp xếp gọn gàng trên giá chứ không chất thành đống lộn xộn trên sàn toa tàu. Các bộ phận ở đây cũng đồng đều hơn. Không có chân hay chân nhện, và trong khi các khuôn mặt được vẽ với nhiều đặc điểm khác nhau, thì không có khuôn mặt nào có màu sắc sặc sỡ hoặc hoa văn đặc biệt. Không khuôn mặt nào trông giống Mattan cả.
“Mẹ sẽ giơ lần lượt từng bộ phận lên một.” Tôi bảo thằng bé. “Con ưng cái nào thì gật đầu nhé.”
Mattan ngồi yên tuyệt đối, những đường sọc sơn đen cắt ngang khuôn mặt như những cái bóng khắc nghiệt. Hôm nay thằng bé nhận được ba vòng, đủ để làm mọi thứ cần thiết nếu chúng tôi cẩn thận. Tôi di chuyển quanh phòng, giơ các bộ phận cho thằng bé xem.
Những tay và chân thằng bé lựa chọn không phải to nhất cũng không phải nhỏ nhất, sơn màu nâu đậm giống như những cánh tay cỡ trẻ con của thằng bé. Tôi mang chúng sang. Những ngón tay của Mattan cong lại, một chuyển động giống như cách thằng bé siết chặt vai tôi mỗi khi phấn khích, nhưng trước khi tôi có thể gắn lên tay chân mới, thằng bé đã kịp hỏi: “Liệu những cái này có nặng quá không mẹ?”
Câu hỏi ấy làm trái tim tôi tan nát. Phải, những tay chân này khá nặng. Trọng lượng tăng thêm có nghĩa là phải tốn nhiều vòng hơn để cõng thằng bé. Tôi từng hy vọng một cách ích kỷ rằng thằng bé sẽ chọn loại chân tay nhỏ hơn, nhưng dẫu sao chúng vẫn thuộc về thằng bé, và đây là lựa chọn của thằng bé. “Những cái này rất đẹp, và mẹ có nhiều vòng lắm. Mẹ vẫn có thể cõng con mà.”
Nói điều như vậy là đúng đắn, và Mattan rất hạnh phúc với tay chân mới của mình, nhưng khi cõng thằng bé từ trung tâm tái chế về nhà, trọng lượng của thằng bé đã tiêu hao năng lượng của tôi nhanh hơn trước. Chúng tôi sống bằng các vòng và con trai tôi—giờ đây đã hoàn toàn trưởng thành—vẫn không có đủ vòng để đi bộ qua thị trấn. Tôi giận dữ vì thế giới quá bất công, và trái tim tôi tan nát khi nghĩ về tất cả những công việc mà thằng bé không có đủ vòng để làm được. Nhưng nếu thành thật, trái tim tôi cũng tan nát vì chính tôi. Vale đã bỏ rơi mẹ con tôi còn cha thì đã già, vậy nên tôi sẽ luôn phải là người cõng Mattan đi khắp mọi nơi.
Ý nghĩ đó đã xuất hiện trong đầu tôi khi Lễ hội Số Chín đến với thị trấn, một sự quyến rũ mà mãi mãi tôi không thể ngó lơ. Tình yêu của tôi là vô tận, nhưng sức lực của tôi thì không, và tôi khao khát thoát khỏi gánh nặng không ngừng phải một mình chăm sóc cha và Mattan. Tôi muốn gặp Vale, dành một vài vòng cho chính mình, và có cơ hội làm chính xác những gì tôi muốn.
Tôi không đánh thức cha hay Mattan. Tôi để hai ông cháu nằm trên giường—không xin phép ra ngoài hoặc thậm chí giải thích những gì tôi đang làm, chỉ đơn giản rời đi và đi bộ đến chỗ đoàn tàu. Hôm nay hai người sẽ không thể làm được gì nhiều nếu không có sự giúp đỡ của tôi, nhưng giữa họ vẫn có thể tự xoay xở với nhau được.
“Anh rất mừng khi gặp lại được em,” Vale nói khi tôi đến. “Mattan đâu rồi?”
“Ở với cha em.” Tôi không biết phải nói gì sau đó. Tôi muốn gặp Vale, nhưng tôi thực sự có thể nói chuyện gì với một người đã từ chối nuôi nấng đứa con trai của chính mình? Anh ta cũng giống như mẹ tôi, quá ích kỷ để dành ra những vòng của mình cho người khác. Và tôi đang ở đây, tại lễ hội, lãng phí thời gian của mình cho một ý thích ngu ngốc thay vì chăm sóc con tôi. “Lẽ ra em không nên đến.”
Vale cau mày. “Anh nợ em một lời xin lỗi. Anh không định... Ý anh là, ngày ấy anh không chuẩn bị sẵn sàng cho mọi khả năng xảy đến, và em có nhiều vòng hơn, bởi vậy việc em đưa thằng bé đi cũng có vẻ hợp lý. Anh đã rất nhớ em.”
“Những ngày tháng đó thực sự rất cô đơn. Rất khó khăn.” Tôi thừa nhận. Khi tôi bắt đầu kể chuyện, mọi thứ bỗng chốc tuôn trào. Ở Thành phố Tủ đồ, tôi cảm thấy như không có ai mà tôi có thể trò chuyện cùng—cha luôn chăm sóc mọi người xung quanh rất chu đáo, rất có trách nhiệm, tôi chẳng thể nào phàn nàn điều gì với ông. Nhưng tôi có thể trút lòng với Vale. Nếu không có gì khác thì ít nhất anh cũng hiểu được sự ích kỷ của tôi. “Em có đủ vòng để cho Mattan một cuộc sống tốt đẹp, nhưng chỉ khi em không làm gì cho bản thân. Em chăn sóc cha, em cố gắng để cho Mattan được khám phá thế giới, và điều đó thực sự cũng đủ vừa lòng nhưng em vẫn muốn một thứ gì đó cho riêng mình, về những cuộc phiêu lưu mà em vẫn luôn theo đuổi ngày nhỏ.”
“Hôm nay em ở đây mà,” Vale nói. Anh nắm lấy tay tôi. “Đi phiêu lưu nào.”
Và chúng tôi đã làm điều đó. Cứ như thể lần đầu tôi được nhìn thấy lễ hội vậy, với những bầy thú, những màn nhào lộn và những quầy trò chơi. Vale tốt bụng và luôn để ý tới tôi và chúng tôi đã lên kế hoạch cho những tương lai có thể xảy ra và chuyện trò về những khoảng thời gian chúng tôi đã dành ra bên nhau. Đó lẽ ra là một ngày tươi đẹp nếu trong tôi không thường trực cảm giác tội lỗi vì đã bỏ Mattan và cha ở lại. Điều tồi tệ nhất là tôi thậm chí còn chẳng nói một lời với hai ông cháu. Tôi đã chắc chắn rằng tôi không xứng đáng có thời gian cho bản thân đến mức làm mọi thứ trở nên tồi tệ hơn bằng cách đánh cắp thời gian thay vì yêu cầu có nó.
“Mọi thứ thật tuyệt,” tôi nói, đau đớn hiểu rằng mình cần phải rời đi sớm nếu muốn có đủ vòng để trở về nhà. Bất chấp cảm giác tội lỗi, quãng thời gian nghỉ ngơi này khiến cho tôi như được hồi sinh. “Có lẽ mai em sẽ đưa Mattan đến đây nhé? Em nghĩ thằng bé sẽ rất muốn được gặp anh.”
Vale do dự, rồi gật đầu. “Anh muốn điều đó.”
Tôi đi bộ về nhà, và đã gần hết vòng khi bước vào cửa. Cha đang nằm trên giường, nhưng Mattan đang ngồi yên lặng bên bàn, rõ ràng đã để dành một vòng để nói với điều gì đó. Tôi đi thẳng tới trước mặt thằng bé, để thằng bé không phải quay đầu lại.
Ánh mắt Mattan chạm vào tôi, và thằng bé cất tiếng, “Cả ngày nay ông không tỉnh dậy.”
༻❁༺
Cha vẫn luôn mong muốn cơ thể mình được đưa đến lễ hội khi dừng lại, bởi vậy tôi thuê một chiếc xe cút kít và đẩy cha lên tàu, Mattan cõng trên lưng. Công việc khá nặng nhọc và tôi sẽ không có đủ vòng để đưa cả hai trở về nhà trong hôm nay.
Tôi đưa cha lên đúng toa tàu mà khi xưa cha từng đưa ông và bà, cũng là toa mà sau này tôi và Vale đã tạo ra Mattan. Tôi ở lại khi người ta tháo dỡ cha, ở bên cạnh cha khi chuyện đó đã chẳng còn ý nghĩa gì nữa, thay vì ngày hôm qua khi mọi thứ có lẽ vẫn còn chút quan trọng. Không. Tôi không bỏ rơi cha hôm qua; cha chẳng hề tỉnh dậy. Cha sẽ không bao giờ biết điều đó. Chính Mattan của tôi mới là người phải ở nhà một mình cả ngày, biết rằng ông thằng bé đã ra đi, mà không có cách nào kêu cứu hay làm bất cứ điều gì ngoài việc chờ đợi tôi trở về. Và bây giờ thằng bé lại chờ đợi, trong chiếc địu trên lưng tôi, khi Orna, một trong số các thợ máy của đoàn tàu, cẩn thận mở tấm ngực của cha và tháo các bánh răng, phân loại chúng vào thùng. Những động tác của cô đã được luyện tập và vô cùng chuẩn xác, không lãng phí bất cứ vòng nào. Và rồi cha đã ra đi thật nhanh, chẳng còn để lại gì ngoài những bộ phận rời rạc.
“Cảm ơn con,” tôi nói với Mattan khi chúng tôi rời đi để tìm Vale. “Mẹ cần phải được nhìn công việc đó.
Mattan không trả lời, tiết kiệm số vòng.
“Hôm qua mẹ đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp,” tôi tiếp tục. “Mẹ sẽ không bao giờ bỏ đi nếu biết chuyện của ông—mẹ cứ nghĩ ông sẽ vẫn còn sống để giúp đỡ con—nhưng lẽ ra mẹ không bao giờ nên làm như vậy. Mẹ xin lỗi.”
“Mẹ không thể luôn làm mọi việc.” Mattan nói, cẩn thận lựa chọn từng từ một, không lãng phí nhiều vòng hơn mức thực sự cần thiết. “Con tha thứ cho mẹ.”
“Có lẽ trong chuyện này cũng có điều may—hôm qua mẹ đã hỏi cha Vale rằng liệu cha có muốn gặp con không, và cha nói có.”
Mattan khẽ siết lấy vai tôi qua lớp vải địu, dấu hiệu của nỗi phấn chấn khi gặp cha mình. Tôi cõng thằng bé tới chỗ toa tàu có trò chơi phi tiêu của Vale, vốn mở cửa cho bất cứ ai có vé chơi.
Vale quan sát hai mẹ con tôi một lúc, không nói gì. Liệu anh có bận tâm rằng tôi vẫn cõng theo con chúng tôi, ngay cả khi thằng bé đã trưởng thành? Hay anh chỉ đơn giản là đang nhìn ngắm khuôn mặt sọc đen trắng mà anh đã không gặp gỡ trong suốt hàng trăm ngày qua. Tội lỗi của tôi chỉ là một ngày, một khoảnh khắc bất cẩn. Anh cảm thấy gì khi đã bỏ rơi hai mẹ con phần lớn cuộc đời của con trai chúng tôi?
“Anh nói gì đi chứ,” tôi bảo. “Mattan phải tiết kiệm vòng, nên thằng bé không nói nhiều, nhưng con rất vui được gặp lại anh đấy.”
“Mattan à,” Vale cất lời. Anh lắc đầu và bắt đầu lại, “Matts. Cha biết mình chưa từng là một người cha đối với con, nhưng giờ đây cha sẵn sàng giúp đỡ, nếu đó là điều con muốn. Lên tàu sống với cha nhé?”
Câu hỏi ấy là dành cho cả hai người, Mattan và tôi. Chẳng còn điều gì ràng buộc tôi với Thành phố Tủ đồ nữa vì cha đã ra đi, và với sự giúp đỡ của Vale, chúng tôi sẽ có đủ vòng để duy trì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho cả ba. Tôi do dự, chưa muốn quyết định, trọng lượng của Mattan nặng trĩu trên lưng. Thằng bé không nói gì, chờ quyết định của tôi. Liệu Vale sẽ thực sự giúp chăm sóc con chúng tôi, hay anh sẽ lại một lần nữa phản bội lại lời hứa?
Vale đã gọi con trai chúng tôi là Matts. Trái tim anh đã ở đúng chỗ.
“Vâng,” tôi trả lời. “Mẹ con em sẽ lên tàu cùng với anh.”
Mattan siết vai tôi, hài lòng với quyết định ấy. Tôi rất vui vì chúng tôi lại một lần nữa trở thành một gia đình, nhưng một ý nghĩ khác ám ảnh tôi, một suy nghĩ đã ăn sâu vào tâm trí tôi—Mattan sẽ ra sao một khi tôi dừng lại? Hàng trăm ngày qua, tôi đã cố gạt suy nghĩ đó ra khỏi đầu mình—tôi khỏe mạnh và luôn thừa vòng, còn Mattan, dây cót của thằng bé thật tệ. Tôi cố tự thuyết phục bản thân rằng mình sẽ sống lâu hơn thằng bé.
Ngày này qua ngày khác Vale gần như sử dụng số vòng bằng đúng số vòng của tôi, cõng Mattan trên lưng khi anh làm việc hay vận chuyển những thùng giải thưởng từ toa tàu tới quầy trò chơi. Tôi dành ra nhiều vòng nhất có thể để giúp đỡ những người mới tham gia lễ hội—luôn luôn là vòng đổi vòng, giao dịch với tương lai, với những người đã hứa sẽ giúp đỡ lại Mattan sau khi tôi chết. Liệu tất cả đã đủ chưa? Và có xóa bỏ được cái ngày ích kỷ khi tôi bỏ rơi con trai mình không?
༻❁༺
Tôi đã nghe người ta nói rằng mỗi một trăm ngày lại trôi qua nhanh hơn một trăm ngày trước đó. Khi ta còn ấu thơ, những tháng ngày trải dài dường như vô tận, và ta dành thời gian của mình và tự do theo đuổi bất kỳ ý thích nào mà ta yêu thích. Nhưng vào cuối cuộc đời, mỗi ngày trở thành một phần nhỏ hơn thời gian ta còn lại, và những khoảnh khắc càng trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Một trăm ngày, rồi một trăm ngày nữa, và trên những chuyến tàu, thời gian thấm thoát thoi đưa.
Vale làm việc hết mình, chăm chỉ và hỗ trợ đến cùng. Vào ngày cuối cùng của mình, anh ấy xin lỗi một lần nữa vì đã bỏ rơi chúng tôi. Chúng tôi đã tha thứ cho anh, nhưng anh lại không thể tha thứ cho chính mình. Những người khác bắt đầu trả lại số vòng mà họ đã vay từ tôi, giúp Mattan sống qua ngày. Tôi không có vòng nào dư dả—chưa bao giờ có đủ vòng, kể cả đối với tôi, mà tôi vốn đã có nhiều hơn phần đáng ra nhận được.
Cậu vũ công nhào lộn tên là Chet, một người đàn ông có các sọc trên cánh tay giống với các sọc trên mặt Mattan, đến thường xuyên hơn những người khác. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng cậu ta đang cố gắng hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách nhanh chóng, nhưng không, cậu ta nán lại ngay cả khi không còn nợ tôi điều gì, tiếp tục nói chuyện phiếm, chẳng hề vì tình cảnh Mattan hiếm khi trả lời mà nản lòng. Chet chia sẻ những mảnh vụn về quá khứ của cậu ta xen lẫn với những câu chuyện phiếm về mọi người ở Lễ hội Số Chín.
Dây cót của tôi sắp hỏng, tôi có thể cảm nhận được điều đó. Hôm nay chế tác gia cho tôi và con trai tôi cùng một số vòng. Mười vòng. Ít hơn bất cứ con số nào tôi từng nhận, và là số vòng nhiều nhất mà con tôi từng được cho. Trong một khoảnh khắc, lòng tôi tràn đầy thương xót trước giới hạn khắc nghiệt của cuộc đời thằng bé. Một ngày của thằng bé vốn đã ngắn ngủi, và dây cót của thằng bé quá tệ nên thằng bé sẽ không có nghìn ngày mà tôi có được. Nếu may mắn, thằng bé sẽ sống thêm được 100 ngày nữa, và bây giờ thằng bé chỉ mới trải qua khoảng 600 ngày. Tôi tự an ủi mình rằng ít nhất thằng bé sẽ có Chet. Con trai tôi sẽ không đơn độc.
Tôi từng hỏi Mattan về một ngày, một kỷ niệm mà thằng bé yêu thích nhất, và thằng bé đã trả lời không do dự—cái ngày mà mẹ con tôi lẻn ra ngoài cùng nhau để xem biểu diễn nhào lộn. Vì vậy, hôm nay chúng tôi bỏ qua những công việc nhỏ nhặt lẽ ra sẽ làm và đi bộ đến cái lều nơi các vũ công nhào lộn biểu diễn, tôi và Mattan đi bộ cùng nhau vì tôi không có đủ vòng để cõng thằng bé nữa. Chúng tôi ngồi yên tuyệt đối và quan sát các vũ công xoay vòng và bay trong không khí.
Tôi nói với Mattan những gì cha từng nói với tôi, “ Sẽ đến một lúc mà cơ thể chúng ta không thể giữ được bất cứ vòng nào nữa. Chúng ta đều nhận được khoảng nghìn ngày cho riêng mình, có thể nhiều hoặc ít hơn một chút.”
Tôi nghĩ lại về nghìn ngày của mình, về những gì tôi đã làm được trong cuộc đời mình. Cách mà cha từng chăm lo chu đáo cho tôi, cũng như cách mà đến cuối cùng tôi đã chọn đi theo con đường của ông ấy và hết mình sống vì Mattan. Đời tôi khác xa những chuyến phiêu lưu mà tôi đã tưởng tượng ra khi còn nhỏ, nhưng tôi đã tận dụng tối đa những vòng mà mình được ban cho, và đó là tất cả những gì mà mỗi chúng ta có thể làm được.
Hết
༻❁༺
Biên dịch & biên tập: Diệu Mây
༻❁༺
Tác giả Caroline M. Yoachim (Ảnh: Tạp chí Lightspeed)
0 notes
Text
Chuyến dã ngoại đêm - Suzuki Izumi
Về tác giả
Suzuki Izumi (鈴木いづみ) hay Izumi Suzuki theo một số nguồn tiếng Anh (1949 - 1986) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Nhật.
Về tác phẩm
Hiện tại nhóm dịch không rõ truyện ngắn Chuyến dã ngoại đêm (bản tiếng Anh: Night Picnic) của Suzuki Izumi được đăng lần đầu vào năm nào và ở đâu. Chỉ biết Night Picnic nằm trong tuyển tập Terminal Boredom: Stories, bao gồm bảy truyện ngắn của Suzuki Izumi được dịch sang tiếng Anh, xuất bản năm 2021. Đây cũng là lần đầu tác phẩm của cô được giới thiệu đến cộng đồng Anh ngữ.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Bố của Con Trai đi vào khi cậu đang ngồi học ở bàn.
‘Thế nào rồi con? Mọi chuyện vẫn ổn chứ?’
Bố nhìn qua vai Con Trai, phì phèo điếu thuốc.
‘Tốt ạ… Ơ, lẽ ra bố phải châm thuốc trước chứ ạ?’
‘Ừ nhỉ. Bố lại quên mất.’
Bố lấy ra một chiếc bật lửa từ trong túi và châm thuốc. Ông hít khói thuốc vào phổi.
‘Thôi nào, bố. Bố là người luôn nói rằng chúng ta không thể quên phải hành động như những người Trái Đất mà.’
‘Là lỗi của bố. Xin lỗi, con trai… Bố biết mình phải làm gương tốt cho gia đình. Với tư cách là những người Trái Đất, chúng ta có trách nhiệm phải tiếp tục cuộc sống của mình, dù bất kể thời gian hay địa điểm nào. Để trở thành một gia đình kiểu mẫu. Đặc biệt là vì chúng ta đang ở rất xa Trái Đất nên nơi đây chỉ có mình ta thôi.’
‘Vâng. Con nghĩ bố nói đúng.’
Cậu xem xét trang phục của bố mình.
Bố mặc một bộ com-lê hai hàng cúc màu đen, kết hợp với áo sơ mi đen và cà vạt trắng. Bông hồng đỏ cài trên ve áo của ông, đầu ông đội mũ, tay ông đeo những chiếc nhẫn dày cộp che hết các ngón.
‘Đẹp quá hả? Trông ông bố già của con khá ăn diện đấy chứ. Bố có được một vài gợi ý từ một anh chàng mà bố thấy trên video bố xem trước đó, tất cả đều đang diện quần áo đẹp và nhảy múa.’
‘Ơ, con cũng xem video đó. Vậy nên con đoán là bố đang muốn biến bộ này thành một trang phục khiêu vũ phải không ạ?’
Con Trai cân nhắc lời nói của mình, cẩn thận để không nghe như cậu đang cãi lại bố.
‘Thật nực cười.’ Bố ưỡn ngực. ‘Trong các video khác, bố thấy những người đàn ông vẫn mặc kiểu quần áo này khi lái xe ô tô hoặc làm móng ở tiệm cắt tóc. Và tất cả những ai nhìn thấy họ đều đối xử với họ một cách tôn trọng. Bố nghĩ rằng, đây là bộ trang phục lý tưởng cho một người cha.’
‘Vâng, nhưng sao trông bố lại béo gần gấp đôi ngày hôm qua thế ạ?’
‘Phải trông to như này, nếu không thì bộ com-lê hai hàng cúc nhìn sẽ không đẹp,’ bố nói, không được tự tin cho lắm.
Con Trai quyết định không tranh cãi nữa. Cậu gấp sách lại. ‘Con đang dần dần tiến bộ trong việc giải mã thời gian. Thành thật mà nói, giờ đây con đã hiểu một chút về nó… nó thật là vui.’
‘Không ai bắt con phải thích thú với việc đó… Tuy nhiên, bố thắc mắc liệu quyển sách này có phải hàng chính hãng hay không. Có vẻ như có ba loại sách: những cuốn chứa toàn điều lừa dối, những cuốn nửa giả nửa thật và những cuốn hoàn toàn là sự thật. Khó mà nói được cái nào là cái nào.’
‘Bố nói đúng. Nhưng tại sao lại thế ạ? Sao phải tốn công xâu chuỗi tất cả những từ đó lại với nhau nếu kết quả cuối cùng là một lời nói dối lớn?’
Hai bố con đều suy nghĩ về câu hỏi này. Đây luôn là một bí ẩn đối với họ. Đặc biệt Con Trai rất đa nghi. Họ cho rằng ít nhất thì các video cũng đang nói thật, nhưng họ sẽ phải làm sao nếu những video đó cũng nói dối?
‘Con người chúng ta là những sinh vật phức tạp.’ Bố thở dài. Sự quan sát này, mặc dù không thực sự hữu ích, nhưng lại khiến bố thật ngầu khi thốt lên điều đó.
‘Tuy nhiên con nghĩ quyển sách này là thật đấy ạ,’ Con Trai nói. ‘Nó thậm chí còn cung cấp ngày tháng cho mọi thứ.’
‘Tốt! Quan sát tinh tế đó, con trai. Con thật thông minh. Đúng là cha nào con nấy.’ Bố cười rạng rỡ. ‘Con biết không, đến bố còn không để ý điều đó. Thật khó để nói hầu hết những cuốn sách này đến từ thời đại nào.’
‘Sách này lấy bối cảnh nước Mỹ thế kỉ XIX. Con tìm thấy nó trên bản đồ. Nó nói về cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Thế nhưng nhân vật chính lại là một người phụ nữ.’
"Sau khi con giải mã xong, hãy cho bố biết đáp án có giải thích tại sao con người lại mạo hiểm khám phá vũ trụ hay không."
‘Con không chắc là sẽ có, nhưng dù sao thì con vẫn sẽ tiếp tục. Người phụ nữ này vừa thất tình. Bố nhìn xem con vẫn còn bao nhiêu trang chưa đọc này! Vậy nên chắc vẫn còn đủ thời gian để cô ấy giải quyết mọi việc trên một con tàu vũ trụ. Ý con là, khi người ta bị phụ tình, không phải họ thường lặng lẽ rời đi sao?’
Người con trai tài năng nói một cách chắc chắn.
‘Giả sử như vậy…’ Bố nghiêng đầu.
‘Bố biết không, giống như đi du lịch ấy ạ? Bố nghe nhiều về điều đó trong các bài hát mà.’
‘Hình như vậy.’
‘Con cũng muốn thử một lần thất tình xem sao.’
‘Bố nghĩ con nên thử yêu đương đi…’
‘Thế còn em gái con ạ?’
‘Tất nhiên, việc này đáng để thử con à.’
‘Tuy nhiên, trước hết, chúng ta phải đi gặp gỡ mọi người ở một buổi dạ hội khiêu vũ, hoặc đi hẹn hò hay làm gì đó.’
‘Bố đừng hy vọng nhiều. Rốt cuộc sau tất cả chỉ còn lại bốn người Trái Đất chúng ta… Bố định mời ai khác ạ? Chẳng lẽ những con quái vật hay nô đùa nhảy nhót trên ngọn đồi của chúng sao?’
‘Đợi đã, nhưng bọn chúng không thể biến đổi để trông giống chúng ta ư? Chúng ta có thể làm cho chúng rất nhiều quần áo đẹp với máy nhân bản.Và rồi chúng sẽ có đồ để mặc.’
‘Chúng không có hứng thú với những thứ đó. Khái niệm về lối sống văn minh vượt ngoài khả năng của chúng. May mắn cho chúng ta vì chúng đã được thuần hóa. Chúng sẽ không gây hại cho chúng ta, nhưng rõ ràng chúng là một dạng sống khác. Ai mà biết chúng đang nghĩ gì? Chắc chúng sẽ vui hơn nếu sống trong thành phố tự động của chúng ta. Nhưng chúng cứ khăng khăng sống vậy cho qua ngày. Chắc chúng thích sống như thế hơn.’
Mẹ ngó đầu vào phòng, mái tóc được cuốn lô.
‘Anh nên thuyết phục con gái anh suy nghĩ thấu đáo hơn đi…’
Mẹ mặc một chiếc áo choàng tắm và cầm một quả cam cùng một ly sữa.
‘Có chuyện gì thế?’ bố hỏi.
‘Con bé lại trốn trong tủ quần áo.’
‘Hả? Lần này lại điều gì làm con bé phiền lòng vậy?’
‘Là những cuốn sách kinh khủng đó. Giờ nó bắt đầu đọc về việc con gái ghét mẹ và yêu bố như thế nào. Cứ như thể tôi cần cái thái độ đó vào đúng hôm nay vậy.’
Mẹ lắc đầu.
‘Cái gì cơ?’ Bố bối rối hỏi. ‘Con bé đang đọc thứ gì vậy?’
‘Tâm lý học hay gì đó. Thật là một mớ nhảm nhí.’
Con Trai làm ra vẻ cao thượng. ‘Bố mẹ đừng lo. Con sẽ đưa em ra ngoài.’
‘Để bố làm cho,’ bố khăng khăng. ‘Bố là người chỉ huy ở đây mà.’
‘Vâng, nhưng bố ơi, bố biết gì về sách ạ?’
Con Trai rời khỏi phòng.
★━━━━━━✩━━━━━━★
‘Con định tiếp tục ở trong đó bao lâu nữa. Ra ngoài ngay!’
Mẹ đập mạnh lên cánh cửa.
‘Mẹ đi đi!’ Em Gái nói. ‘Con đang nổi loạn đây.’
Câu trả lời bị nghẹt lại, như thể khuôn mặt cô bị vùi vào một tấm đệm.
‘Em sai rồi, Em Gái,’ Con Trai nói.
‘Tại sao lại sai?’ cô nói. ‘Giờ em là thiếu niên rồi.’
‘Đáng lẽ ra chúng ta phải đang đi dã ngoại đấy!’ Mẹ hét lên. ‘Ra ngoài ngay cho mẹ!’
‘Mẹ im lặng một chút được không ạ?’ Con Trai đẩy mẹ sang một bên, nhưng lại đẩy quá mạnh. Bà ngã nhào xuống và đập trán xuống sàn. Mẹ nằm im một lúc. Bỏ mặc mẹ như vậy, Con Trai khoanh tay.
‘Em đang đọc về phức cảm Electra à?’
‘Vâng,’ Em Gái trả lời từ trong tủ quần áo.
‘Nhưng em có biết là cũng có một phức cảm Oedipus phủ định không?
‘Hả?’ Giọng cô dịu lại. "Đó là cái gì thế ạ?"
‘Đó là khi em hình thành sự gắn bó với mẹ, người có cùng giới tính với em.’
‘… Không phải là ngược lại sao?’
'Chính xác. Trong tâm lý học, đối với bất kỳ trường hợp cho trước nào, nói chung là sẽ có một trường hợp khác tạo thành đối cực. Mặc dù không phải trong mọi tình huống đều như vậy. '
‘… Thật ạ?’
Cô đang mất tự tin vào quan điểm của mình.
‘Anh đọc nhiều sách hơn bất kỳ ai trong chúng ta, đúng không nào?’
Em Gái không đáp lại.
Mẹ ngồi dậy, cảm thấy chóng mặt. Bà xoa trán một lúc. Hình như không nghiêm trọng lắm. Bà đi đến chỗ máy nhân bản.
‘Hơn nữa, em không thấy chán khi cứ nhốt mình trong tủ quần áo à?’
Con Trai thay đổi chiến thuật.
‘… Nhưng…’
‘Em tự gọi mình là thiếu niên, nhưng đâu phải thế. Nơi này có chu kỳ quỹ đạo khác với Trái Đất. Thực ra anh cũng chưa tính toán kỹ càng lắm đâu, nhưng anh cá rằng nó hoàn toàn khác.’
Con Trai cố gắng làm ra vẻ thờ ơ nhất có thể.
‘Anh hỏi lại năm nay em bao nhiêu tuổi?’ cậu nói. ‘Tính theo tuổi địa phương ấy.’
‘Ừm, em đoán… tầm mười bảy tuổi hay gì đó?’ Cô đang nghiêm túc, nhưng có vẻ không chắc chắn. ‘Em không chắc lắm. Thỉnh thoảng lịch của em ngừng hoạt động.’
‘Anh hiểu ý của em. Sau một tuần, mọi thứ đều mờ nhạt đi. Anh đang cố gắng xác định thời điểm con người phát minh ra thời gian. Anh vẫn đang cố gắng tìm ra điều đó, nhưng rõ ràng thời gian là một vấn đề lớn.’
Con Trai kéo ghế và ngồi. Bắt chước bố mình, cậu hút thuốc. Khi cậu phủi tàn thuốc xuống sàn, robot hút bụi chạy loạn xạ.
‘Vâng, nhưng đó chính là lý do vì sao em làm điều này.’
Em Gái loay hoay trong tủ.
‘Em không nhận ra sao?’Con Trai hỏi. ‘Thời gian chỉ là đồ giả. Sau 3 giờ chiều hôm nay, biết đâu sẽ là 7 giờ sáng của bốn ngày trước.’
Mẹ nghển cổ nhìn Con Trai. Bà đang kéo một chiếc giỏ tre từ trong máy nhân bản ra. ‘Con đang nói gì vậy? Cảm ơn con, nhưng thời gian vẫn đang trôi bình thường. Chúng ta là những người cần đảm bảo rằng bản thân vẫn đang tiếp tục hoạt động bình thường. Giờ hãy đưa em con ra khỏi tủ quần áo đi. Khi mẹ làm mọi việc xong xuôi, chúng ta sẽ rời khỏi đây. Chuyện này đã được chúng ta bàn tính một thời gian rồi.
‘Con hiểu mà, được chưa ạ?’
Con Trai quay lại, cau mày. Đôi khi, bạn khó chịu với bố mẹ mình cũng không sao. Đó là một việc xảy ra thường xuyên trong các bộ phim trên TV mà.
‘Vấn đề thời gian thì ta bàn sau. Mười bảy ư? Như vậy là quá tuổi vị thành niên rồi.’
‘… Vậy, con phải làm gì đây?’ Cô miễn cưỡng hỏi.
‘Chà, các cô gái ở độ tuổi 17, 18 thường gội đầu rất nhiều. Họ hay đứng trước gương, thử hàng tấn quần áo khác nhau. Đôi khi họ còn hẹn hò nữa.’
‘Việc đó được cho là vui hơn ạ?’
‘Chắc chắn rồi. Rất vui là đằng khác.’
‘Được rồi.’
Cánh cửa được đẩy nhẹ ra từ bên trong. Em Gái đang ngồi ở ngăn trên cùng của tủ quần áo, ôm một cái gối. Rất nhanh, cô nhảy xuống sàn.
‘Ôi, em mệt quá. Em đã ở đó suốt sáu giờ. Mẹ cứ để ý em mãi.’
Cô vươn hai tay lên cao và duỗi thẳng.
‘Chúng ta ai cũng bận thôi.’ Con Trai nói, cố gắng an ủi em gái.
‘Em cố gắng trở nên nổi loạn, và bố mẹ chúng ta thậm chí còn chẳng để ý.’
Cứ thế, giọng cô dần vui vẻ hơn.
Mẹ tiến vào bếp, tay cầm đầy đồ dã ngoại.
‘Người phụ nữ đó đang làm gì vậy?’ Em Gái hỏi.
‘Làm bữa trưa cho chúng ta. Và hơi kỳ lạ khi gọi mẹ mình là người phụ nữ đó đấy.’
‘Thỉnh thoảng gọi thế thì vẫn được mà.’
‘Nếu em cho là vậy.’
Con Trai không thực sự hiểu chính mình.
‘Em chuẩn bị sẵn sàng rồi đây,’ Em Gái nói.
Cô em gái của cậu đứng trước máy nhân bản và bấm một loạt các nút.
‘THIẾU DẦU THỰC VẬT,’ máy nhân bản nói.
Trong số những thứ bên trong giỏ mà Mẹ đặt bên cạnh chiếc máy có một chậu bơ thực vật. Em Gái dùng dao cạo sạch chậu, rồi đổ bơ vào phễu.
Đèn xử lý bắt đầu nhấp nháy. Cuối cùng, hai thỏi son bật ra từ chiếc máy, với một tông màu nhẹ nhàng.
‘Này, anh nghĩ nó cũng có thể tạo ra một số thứ cho anh nhỉ?’ Con Trai hỏi.
‘Tất nhiên rồi.’
‘Để xem nào … Anh cần một cái lược và một ít sáp tóc. Hoặc có thể thay thế bằng gel.’
‘Anh định thay đổi kiểu tóc à?’
‘Ừ. Anh chưa quyết định là sẽ để tóc kiểu tỉa dựng mái hay vuốt ngược mái nữa.’
Con Trai nghĩ về tất cả bộ phim tuổi mới lớn mình từng xem. Những phong cách khác nhau đều được thể hiện trong những thước phim ăn theo vô vị. Công nhận rằng, các bộ phim thường có xu hướng thể hiện tràn lan phong cách trong American Graffiti [1].
‘Anh sẽ làm một ít sáp tóc.’
‘Của nhãn hiệu gì ạ?’ Em Gái hỏi lại.
Cậu không hề nghĩ đến chuyện đó.
‘Anh có phải cụ thể vậy không?’
‘Chi tiết là điều rất quan trọng. Nếu anh quan tâm đến bất cứ thứ gì về thời trang.’
Em Gái là người rất khắt khe với những chi tiết vụn vặt.
‘Có những loại nào? Anh không biết bắt đầu từ đâu.’
‘Đối với các thương hiệu khác nhau cho sản phẩm của anh… thì có Yanagiya, Fiorucci, Lanvin…’
Em Gái đang khoe khoang.
‘Nhiều loại vậy à?’
‘Rồi có cả Nestle, Ajinomoto, Kewpie… nữa.’
‘Cứ cho anh một loại tốt đi.’
Em Gái điều khiển chiếc máy và lấy ra một lọ sáp tóc. Nó có biểu tượng Kewpie trên nắp.
‘Chính những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống mới là quan trọng.’
‘Được rồi, anh nghe.’
‘Em biết nhiều hơn về loại sáp này hơn anh. Em đã đọc những tạp chí phụ nữ. Thậm chí em còn hiểu về bữa lỡ ngày chủ nhật hơn cả Mẹ ấy chứ. Con gái thì phải ăn sữa chua và trái cây. À, và bánh pho mát nữa.’
‘Trông em kìa, cư xử giống một cô gái thực thụ rồi đó.’ Con Trai thực sự bị ấn tượng. ‘Sửa giúp anh nếu anh nói có gì sai nhé, nhưng không phải em từng là một đứa con trai à?’
‘Chắc vậy. Tất cả đều không rõ ràng mà. Bố Mẹ đã quyết định có một con trai và một con gái để cho đa dạng hơn. Nhưng kiểu tóc và quần áo thì lại hoàn toàn khác. Điều đó thật sự buồn. Nếu em là con trai, em chỉ cần bắt chước anh.’
Con Trai nghĩ lại thời em gái mình còn là một cậu bé. Cả hai cùng mặc quần đùi và chơi trò đuổi bắt. Mẹ kiên quyết rằng một đứa trẻ có thân hình con gái nên được nuôi dạy để trở thành một người phụ nữ. Vì vậy, em trai của cậu trở thành một cô em gái. Em Gái có vẻ ổn với chuyện đó. Sau khi ăn mặc như con gái một thời gian, thân hình cô trông mềm mại hơn trước rất nhiều. Đó là nhờ sự nỗ lực không nhỏ của Em Gái.
‘Mẹ đâu rồi?’
Không có gì để làm, Con Trai đi đi lại lại trong phòng.
‘Không phải mẹ đang mặc quần áo sao?’
‘Mẹ làm gì mà lâu thế?’
‘Anh chẳng biết gì cả! Khi phụ nữ ra ngoài, họ mất nhiều thời gian để chuẩn bị.’
‘Nhưng tất cả những việc cần làm là thay quần áo, chải tóc và trang điểm một chút thôi mà.’
‘Đó không phải vấn đề ở đây…’
‘Vậy thì còn gì nữa?’
‘Em không biết… nhưng các bà Mẹ lúc nào cũng có nhiều việc phải làm mà.’
Gia đình phụ thuộc vào cách mọi thành viên thực hiện vai trò của mình. Con Trai trở về phòng. Cậu nằm xuống giường và bật băng lên. Không lâu sau, cậu đã ngủ.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Mất đến hai ngày rưỡi Mẹ mới chuẩn bị xong.
Bốn người họ rời nhà mang theo giỏ và phích nước. Đêm hôm đó thật là trong trẻo, tuyệt đẹp.
‘Chúng ta không lái xe sao?’
‘Vậy thì đây sẽ không còn là một chuyến dã ngoại nữa, đồ ngốc.’
Họ tản bộ, những tòa nhà cao chót vót ở hai bên.
Có vẻ như thành phố này không có người dân nào ngoại trừ họ. Các cửa sổ ánh lên một màu xanh huyền bí. Bên trong các tòa nhà tối om, được bao phủ bởi sự yên tĩnh. Xa xa có thể nghe thấy tiếng vo ve đều đặn. Những công tắc tự động bật và tắt. Dọc theo con đường uốn lượn, những ngọn đèn thủy ngân trông giống như một chuỗi xe đua.
‘Phong cảnh ở đây thật kinh khủng,’ Bố thì thầm.
‘Mọi người không thường đi dã ngoại để thưởng ngoạn phong cảnh sao?’ Em Gái hỏi anh trai.
‘Họ hay đến những cánh đồng và những ngọn đồi. Nơi mà có nhiều cây lớn.’
‘Nhưng chẳng phải là không an toàn khi rời khỏi thành phố ạ?’
Mẹ quay lại, lo lắng nhìn hai anh em.
Không ai trong số họ có ký ức gì về việc ở ngoài thành phố, nhưng bằng cách nào đó, họ đều biết thế giới bên ngoài thành phố trông như thế nào.
Khung cảnh kết thúc đột ngột. Thay thế cho các tòa cao ốc thưa thớt dần, có một con đường hoang vắng ở ngoài rìa, như thể toàn bộ đô thị bị cắt ra từ một nơi khác và rơi xuống hành tinh này vậy. Giống như gia đình họ, nơi đây bị cô lập một cách đáng sợ. Họ không biết thành phố này ra đời khi nào. Những người khai hoang từ Trái Đất đã xây dựng khu định cư này, và vì lý do này hay lý do khác họ đã bỏ trốn hoặc hầu như đã chết, chỉ một số linh hồn tổ tiên của họ bám trụ ở đó. Ít nhất thì đó là cách lý giải của Bố.
Bên ngoài thành phố, những ngọn đồi và cánh đồng trải dài ra đằng xa, nơi những con quái vật màu xanh đen hay lảng vảng. Đó là những sinh vật có lông dày trên đầu và lưng, chân lùn mập. Bọn chúng di chuyển bằng hai chân sau. Hai chân trước của chúng rất rắn chắc; những móng vuốt đen mọc ra từ đầu ngón chân. Bọn chúng có vẻ thờ ơ với sự tồn tại của những người Trái Đất này.
Mặc dù không ai trong số họ từng nhìn thấy một con quái vật nào, họ vẫn biết trông chúng ra sao và chúng cư xử như thế nào. Không hiểu sao lại vậy. Bọn quái vật này sống nhờ vào việc ăn hạt cây và chúng cực kì lành. Hoặc có lẽ không lành, có lần Bố nói, mà là lười biếng. Không thể xác định rằng chúng đang ngủ trưa hay chỉ đang lơ đễnh. Do đó, chúng không thể là con người. Bố nói, con người phải sống có quy củ. Gia đình họ là một ví dụ điển hình.
‘Bố à,’ Mẹ hỏi, ‘Anh đã đọc tờ báo buổi sáng chưa?’
‘Anh đọc rồi,’ bố nghiêm nghị trả lời. Ông luôn khăng khăng rằng họ phải đọc báo, để cho bằng với người ta. Người nào bỏ bê việc đọc tin tức mỗi sáng sẽ là một kẻ vô tích sự, giống như những người không trả được hóa đơn tiền cáp. Nhưng mà, họ cũng chỉ sử dụng TV để xem băng. Vậy nên ai cần quan tâm đến hóa đơn tiền cáp cơ chứ. Dù sao thì ở đây cũng đâu có đài phát thanh nào. Tuy nhiên, báo thì không thể thiếu. Cái thực tế rằng không có công ty báo chí nào quanh đây cũng chẳng phải là một cái cớ.
Sử dụng các bài viết từ tạp chí và báo cũ, Bố tự làm công báo của riêng mình. Mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều nhấn nút tráo. Nếu ông quá kỹ tính trong việc lựa chọn thì sẽ không còn bất ngờ. Và ông đảm bảo cài đặt máy in dấu chân chính [2] cho phù hợp, để tờ báo được đưa vào hộp thư đúng 5 giờ sáng mỗi ngày.
‘Có gì hay không anh?’
Mẹ không quan tâm đến tin tức lắm nhưng cứ hỏi như thể có quan tâm.
‘Giá lúa mì đã tăng.’
‘Lại nữa sao? Đây là lần thứ sáu trong tháng này rồi đấy.’
Phản ứng của bà chỉ là giả tạo, nhưng tại sao lại không được như vậy chứ? Các bài báo cũng là giả mà. Quan trọng là họ chỉ làm chuyện đó cho có lệ thôi.
‘Tuy nhiên, giá vẫn ổn định trong một thời gian.’ Bố đang tỏ ra khó khăn. ‘Nghe này, anh đã suy ngẫm về điều đó.’
Ông khoanh tay nhìn con trai và con gái của mình, lúc này đang ở phía trước một chút.
‘Anh nghĩ đã đến lúc chúng ta xây một ngôi nhà.’
‘Tại sao vậy anh? Nơi mình đang sống có vấn đề gì à?’
‘Ta không thể ở đó mãi được. Điểm cộng duy nhất của nơi đó là chúng ta đã ổn định được ở đó. Đã quá lâu rồi. Chúng ta cần phải chống lại sự cám dỗ của sự tiện lợi vĩnh viễn, nơi mọi ngóc ngách đều sạch sẽ tinh tươm. Con người chỉ trưởng thành qua gian khổ. Xây nhà là công việc cả đời của một con người.’
‘Vậy chúng ta sẽ đi đâu?’
Mẹ nhân ra rằng mình buộc phải hỏi. Bà biết việc đó thật nực cười, nhưng khi Bố như thế này, mẹ phải cố gắng hết sức để giả vờ hợp tác.
‘Ở đâu? Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây… để tìm vị trí hoàn hảo.’
Mẹ không nghĩ rằng họ sẽ sống bên ngoài thành phố. Hơn nữa, Bố cũng không hề biết làm thế nào để xây một ngôi nhà.
‘Anh sẽ tránh cách tiếp cận cuộc sống thông thường bằng mọi giá.’ Nhưng bố ngay lập tức có thể giải quyết ổn thỏa mọi việc. ‘Anh chỉ là không muốn chúng ta kết thúc trò vui này. Khi người ta cư xử đáng hổ thẹn, con cái họ sẽ học theo. Con cái chỉ để ý khi bố mẹ mình mắc lỗi. Một hành động sai lầm, không lâu sau nó sẽ thành… Em biết đấy, em có thể gọi nó như nào cũng được.’
Bố sốt ruột vẫy tay.
‘Thành tội phạm ư?’
‘Đúng, đúng. Chỉ một thời gian ngắn thôi. Chẳng ai biết vì sao, nhưng trẻ con thích trở thành tội phạm.’
Bố nhấn mạnh, mặc dù không biết chính xác trở thành tội phạm đòi hỏi những gì. Nghe có vẻ như là điều gì đó đọc được từ báo chí, nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, ông chính là tờ báo.
‘Em nghĩ là do xe máy.’
‘Chính xác. Mẹ nói đúng lắm. Vấn đề nằm ở đó đấy. Xe máy và ô tô!’
‘Nhưng con mình đã có cả hai rồi. Chúng đã tạo ra mấy thứ đó bằng máy nhân bản.’
‘Hừm, anh không thích chuyện này. Chúng ta nên tìm cách để thuyết phục chúng một cách khôn khéo. Kỷ luật chính là cách tiếp cận phù hợp.’
Họ tiếp tục đi xuống con phố hoang vắng.
‘Còn bao xa nữa?’
Con Trai lấy lược và chải tóc, tạo thành đuôi vịt phía sau gáy. Cậu cẩn thận để đảm bảo rằng các sợi tóc cùng theo một đường thẳng đứng. Ý tưởng về một kiểu tóc mái độc đáo nảy ra trong đầu cậu. Mình làm được mà, cậu tự nhủ. Mình sẽ là người thời thượng nhất.
Em Gái mặc một chiếc đầm dạ hội dài thướt tha. Trang phục này thích hợp để đi chơi đêm. Cô biết rõ điều này. Cô đã cân nhắc về việc mặc thứ gì đó trang trọng đến sàn nhảy, nhưng đâu phải họ đang đi đến một vũ trường, vì vậy cô đã từ bỏ ý định đó. Mặc dù một ngày nào đó, cô ấy hy vọng được xem vũ trường, ít nhất một lần, nhưng Bố không cho cô đi. Ông gọi đó là nơi của lũ người hư hỏng. Nhờ có ông, cô không bao giờ được phép đến nơi mà tất cả những đứa trẻ đua đòi ở đó. Bất cứ nơi nào.
‘Anh này, chúng ta sẽ không rời thị trấn, phải không ạ?’ Em Gái hỏi.
‘Ừm, thực ra, anh nghĩ là chúng ta sẽ rời thị trấn đấy,’ Con Trai nói.
Cậu bật cổ áo sơ mi cài cúc ra, chỉ để phô trương. Có lẽ cậu nên rút vạt áo trước.
‘Em ước có một đại dương gần đây. Những con đường cao tốc ven biển thật thơ mộng.’
Cô đang nghĩ về một cảnh trong video.
Họ đến một quảng trường, rạp hát ở khắp xung quanh. Đài phun nước ở giữa. Tất cả đèn đã tắt.
‘Này, chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy? Ở đây thường rất đẹp mà.’
‘Đêm khuya rồi, họ tắt đèn’.
‘Anh nghĩ bây giờ là mấy giờ?’
‘Thật khó nói,’ Con Trai nói. ‘Hơn nữa, đồng hồ cũng là đồ giả. Anh thậm chí có cảm giác rằng thời gian trôi những cách khác nhau tùy thuộc vào khu vực của thành phố mỗi người đang ở.’
Cậu đút tay vào túi.
‘Nhưng mà, hồi tối chúng ta ra khỏi nhà cũng sớm đấy chứ. Và ta đâu có đi bộ quá lâu.’
‘Ừ nhỉ, em nhắc anh mới nhớ ra đấy.’
Gần đây, cậu mất tự tin về cách sống của mình. Có những ngày cậu không biết phải làm gì với bản thân. Đặc biệt là khi thời gian bắt đầu dài ra hay ngắn lại. Điều đó thực sự khiến cậu rối trí. Nhìn mặt trời lặn trong khi mình vẫn đang pha cà phê sáng, cậu vô cùng khó chịu. Nếu cậu ngồi không làm gì cả đêm, bố mẹ lại trách mắng, nói rằng đêm là để ngủ. Khi cậu nói rằng mình không buồn ngủ, họ bảo cậu giả vờ. Làm tất cả những việc khác sẽ là không đứng đắn. Cậu không được phép làm bất cứ điều gì hổ thẹn với xã hội.
Cậu không hiểu bố mẹ nói ‘xã hội’ nghĩa là gì? Họ muốn nói điều gì? Bất cứ khi nào cậu hỏi, bố mẹ cậu đều đều hét lên, ‘Con không hiểu về lẽ thường tình gì cả! Ở tuổi con, chắc hẳn phải hiểu một số lẽ thường rồi chứ?’
Vì vậy, cậu chờ đợi lẽ thường của mình tự đến. Cậu đã đợi một thời gian rồi. Không có dấu hiệu của nó ở bất cứ đâu.
Con Trai lúc nào cũng lo lắng. (Bởi sách nói với cậu rằng trưởng thành là đau đớn và hoài nghi. Vậy nên có lẽ nó phải là như thế này.)
Cậu ngồi xuống bên cạnh em gái mình.
‘Này, em có nghĩ thời gian chỉ là bịa đặt không?’
Em Gái nhìn cậu.
‘Bất cứ nơi nào không có người,’cậu nói, ‘đều không có thứ gì gọi là thời gian. Đó chỉ là thứ mà con người tạo ra, cho thuận tiện. Để áp đặt trật tự cho các sự kiện.’
‘Thế lịch sử thì sao? Chúng ta đang cố gắng tìm hiểu điều gì đã thực sự xảy ra. Con người đã đến đây khi nào và bằng cách nào. Anh không muốn biết nơi đây như thế nào khi người ta lần đầu tiên đến à?’
‘Những ngày này, anh không chắc mình còn thực sự quan tâm đến điều đó nữa. Anh cảm thấy nó thật nhỏ nhặt.’
‘Xem anh đang nghĩ gì kìa, anh trai tôi.’
Bố gọi Con Trai từ băng ghế nơi ông ngồi.
‘Đủ rồi đấy. Đừng nói huyên thuyên nữa.’ Ông lắc đầu. ‘Con sai hết rồi, con trai. Con nghĩ vì sao chúng ta phải đọc sách và xem video? Để tìm hiểu về cách sống của những người đi trước chúng ta. Đó là lý do tại sao. Họ cung cấp cho chúng ta ví dụ rõ ràng về cách sống đúng đắn. Chúng ta phải tiếp tục lối sống lương thiện và đạo đức. Nếu đi chệch hướng, chúng ta sẽ toi đời.’
‘Con nghĩ mỗi người nên sống theo cách mà họ thích.’
‘Vậy là con chưa trưởng thành rồi. Ở tuổi con, lẽ ra con đang phải đi học, chìm trong đống bài tập về nhà. Con nên thấy biết ơn vì được miễn khỏi số phận đó… Mặc dù cuộc sống sẽ dễ dàng hơn rất nhiều đối với bố nếu có một trường học xung quanh đây. Và cho cả con nữa. Trên Trái đất, người ta có một thứ gọi là kỳ thi tuyển sinh.’
‘Con biết.’
‘Sẽ tốt cho con hơn nếu con tìm được nơi để thể hiện sức sống trẻ trung của mình. Cháy hết mình trong thời vinh quang của con với những thử thách - chà, điều này lại làm bố nhớ lại quá khứ của mình!’ Bố dang rộng cánh tay đầy phô trương. ‘Đó chính là ý nghĩa của tuổi trẻ. Thử thách lòng can đảm. Bằng lòng dâng hiến tất cả. Thật đẹp!’
‘Bố muốn con trở thành một cậu bé chàng trai trông y như được cắt từ poster ra ạ?’
‘Tuổi trẻ còn để làm gì khác nữa?’
‘Thôi, con cảm ơn. Nghe thật nhàm chán. Gần đây, con khá nghi ngờ tính đúng đắn của việc làm mọi thứ bằng tất cả sức lực.’
‘Bố nói điều này chỉ để tốt cho con thôi, con trai. Người thân của con sẽ không lừa dối con. Vì thế hãy lắng nghe.’
‘Đó có phải là lý do tại sao bố yêu cầu con tạo ra lịch sử của người Trái Đất, thay vì đưa con đến trường phải không? Nhưng vì sao bố lại quan tâm quá nhiều đến lịch sử và thời gian vậy ạ?’
‘Sao con lại trở nên tồi tệ như vậy? Con nghĩ mình có thể thoát khỏi việc trở thành tội phạm, phải không? Những đứa trẻ hư luôn nói mấy điều vớ vẩn giống nhau.’
‘Hãy nghe lời bố con. Con sẽ hối hận về điều đó sau này đấy. Giống như câu nói: cũng chẳng ích gì khi xây một ngôi làng tại mộ tổ tiên. Một khi ta chết, mọi thứ đều sẽ là quá muộn.’
‘Ý mẹ không phải là lễ cầu nguyện sao?’
‘Giống nhau cả mà. Thằng nhãi này.’
Con Trai không nói nữa.
Cậu đã hiểu ra vấn đề, mặc dù chỉ một chút. Bố mẹ cậu không thoải mái khi xử sự như những người Trái Đất trên hành tinh xa lạ này. Để cố gắng che giấu sự khó chịu của mình, họ luôn ám ảnh với việc tuân thủ các phong tục xã hội, quy tắc ứng xử. Bởi họ không biết chính xác một người Trái Đất tốt nhất nên cư xử như thế nào, họ luôn nhắc nhở bản thân và con cái đi theo những lý tưởng bất khả thi. Sự theo đuổi lịch sử tổ tiên cũng là một hành động thể hiện khao khát được yên lòng của họ.
‘Giờ anh là trai hư rồi đấy à?’ Em Gái hỏi. ‘Không phải là mới vài ngày trước, anh vẫn còn là một cậu bé ngoan ngoãn sao?’
Cô hỏi điều này một cách chân thành (chứ không phải như một lời buộc tội).
‘Đúng vậy. Anh cũng thấy bản thân mình hơi kỳ cục. Khi mẹ chuẩn bị ra ngoài, anh bắt đầu nghĩ về thời gian. Sau hai ngày rưỡi suy nghĩ, anh nhận ra rằng quan niệm về thời gian tuyến tính chẳng có lợi cho ai cả. Nếu tất cả những gì quan trọng là sự sống còn.’
‘Mẹ chỉ mất có một giờ thôi. Con còn tỉnh táo không vậy?’ Mẹ, người đang đeo khăn quàng cổ cho chuyến đi du ngoạn, lắc đầu một cách mạnh mẽ.
Điều này làm Con Trai phải suy nghĩ. Sẽ ra sao nếu mình là người duy nhất không bị vướng vào thời gian?
‘Thôi nào em. Anh nghĩ việc này đang đi quá xa rồi đấy.’
‘Chắc anh nói đúng. Em chỉ muốn các con mình được bình an. Thỉnh thoảng em hơi mất bình tĩnh…’
Mẹ cười khúc khích, lấy tay che miệng. Sau đó, bà nhìn lên gia đình mình và đưa ra yêu cầu, với một giọng nói thấm đầy nhiệt huyết. ‘Quên những gì mẹ nói đi nhé. Giờ thì đi ăn thôi.’
★━━━━━━✩━━━━━━★
Những con quái vật đang túm tụm vào với nhau, nằm sát vào nhau, ngủ say. Lớp lông tơ rậm rạp tạo thành tấm đệm trải giường vô cùng phù hợp. Một mùi ngọt ngào thoang thoảng bốc lên từ đất, nhưng hương thơm gợi cảm của cây cối lại áp đảo. Những con thú vật đã ngủ say, không thèm quan tâm.
Ngoại trừ hai con.
Chúng mở mắt giữa màn đêm, suy nghĩ về thời gian và sự tự do của các sinh vật sống khác.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Gia đình người Trái Đất nhai bánh sandwich trong im lặng. Trước khi họ nuốt xong miếng đầu tiên, bình minh đã đến trên hành tinh này.
‘Này, có chuyện gì vậy? Điều này không thể xảy ra được.’
‘Em đã dặn anh những gì rồi? Không được quên mang đồng hồ cơ mà,’ Mẹ nói. ‘Ai mà biết được chúng ta rời nhà vào cái giờ quái quỷ nào chứ.’
Mẹ thúc khuỷu tay vào người bố.
‘Điều này không thể xảy ra được.’
Bố há hốc mồm.
‘Không được ư? Nó đang xảy ra rồi đây, rõ như ban ngày. Làm sao bây giờ?’
‘Con không hiểu vì sao chúng ta không thể đi dã ngoại ban ngày ạ,’ Em Gái nói.
Cô ăn bánh sandwich một cách ngon lành.
‘Đừng chỉ tay vào mẹ,’ mẹ cáu kỉnh. ‘Bố con mới là người chọn thời điểm.’
‘Bố muốn giống như trong bộ phim Chuyến dã ngoại ban đêm [3].’
Bố không còn gì để nói nữa.
‘Không phải đó là phim Chuyến dã ngoại trên chiến trường [4] ạ?’ Con Trai xen vào.
‘Đừng cãi lại, cái thằng này!’ Mẹ nói. ‘Nếu muốn làm điều đó, chúng ta phải xông vào một khu vực chiến sự! Con có biết là tìm một chiến trường phù hợp trong thời điểm hiện tại khó thế nào không? Tất nhiên con không biết rồi. Vì con có biết gì đâu. Con đang lúng túng kìa.’
Mẹ đã gần như trở nên loạn trí.
‘Chẳng phải còn có cả Chuyến dã ngoại ở phía gần [5] sao ạ?’
Em Gái nhìn mặt các thành viên trong gia đình mình. Không ai trong số họ dường như biết cô đang nói về cái gì.
‘Ôi chà. Đi về nhà thôi.’
Bố nói với vẻ rất chán nản. Vậy là họ lại rời đi.
Ai đó chạy vụt đến và ăn cắp giỏ đồ dã ngoại của họ. Một cô gái. Cô liếc nhìn theo họ từ lối vào một nhà hát. Cô gái này có đôi mắt sáng lấp lánh và mái tóc vàng.
‘Này, cái quái gì thế!’ Bố hét lên. ‘Đó là đồ của chúng tôi mà.’
‘Khăn ăn thêu hoa của mẹ để trong đó!’ Mẹ khóc lóc. ‘Đừng để cô ta chạy thoát.’
Cô gái quàng chiếc giỏ qua vai và lao đi. Cô chạy rất nhanh. Cả gia đình cũng đuổi theo.
‘Bố tặng khăn đó cho mẹ nhân ngày kỉ niệm của bố mẹ, cùng bộ với khăn trải bàn. Chúng là vô giá.’
Mẹ vừa chạy vừa than khóc.
Ngay khi họ nghĩ rằng đã mất dấu cô gái, họ lại nhìn thấy cô ở ngã tư tiếp theo, đang đợi họ ở góc đường.
‘Cô ta không phải là người Trái Đất! Bố chắc chắn rằng chúng ta là những người Trái Đất thực sự duy nhất còn sót lại!’
Bố đã hết hơi.
‘Có cả người Trái Đất giả sao? Đó sẽ là những ai đây?’
‘Yên lặng! Giờ không phải lúc làm trái lời.’
‘Mẹ không thể làm thêm khăn ăn bằng máy nhân bản sao?’ Em Gái hỏi, đã đuổi kịp mọi người.
‘Chúng có giá trị tình cảm! Chúng là những chiếc khăn độc nhất trên đời!’
Mẹ đang làm quá mọi thứ lên.
Trò đuổi bắt này - chạy hết tốc lực và dừng lại ở quãng ngắn, sau đó lại lao đi - vẫn tiếp diễn trong một thời gian.
‘Nếu cô ta đói, chúng ta có thể chia cho mà, nhưng việc này thì không thể tha thứ được rồi.’
‘Chắc chắn là cô ta đang cố dụ chúng ta đi đâu đó.’
Trong trường hợp này, bạn sẽ nghĩ rằng họ sẽ từ bỏ việc đuổi theo cô gái, nhưng người bố và người mẹ lại chạy như điên. Con Trai và Em Gái cũng đuổi theo, mặc dù không phải là không có chút vui mừng nào.
Họ đã đến rìa thành phố.
Cô gái đang đứng trên đỉnh một ngọn đồi thoai thoải.
‘Chưa ai khiến gia đình này làm mấy chuyện ngu ngốc như vừa rồi đâu. Chúng tôi sẽ bắt được cô cho mà xem!’
‘Dừng lại đi, cô gái, đứng đó nguy hiểm lắm.’
Bốn người họ đứng dưới mặt đất, mắt nhìn lên trên đỉnh đồi.
Một ông lão bước ra từ trong bóng của một cây lớn và đứng sau cô gái.
‘Xin lỗi vì rắc rối của các bạn. Tôi rất mong được nói chuyện với các bạn, nhưng thông thường, giống loài chúng tôi không vào thành phố. Không phải bởi chúng tôi không thể, mà là vì ghét nơi đó. Nó được tạo nên bởi con người để phục vụ con người. Không phải chỗ dành cho chúng tôi.
Bài phát biểu của ông lão hơi cứng nhắc, mặc dù giọng nói của ông rất nhẹ nhàng.
‘Trả lại đồ cho tôi!’
Mẹ điên lên.
‘Khi chúng tôi kết thúc, tôi sẽ trả lại đồ của các bạn. Chúng tôi đã theo dõi các bạn từ lâu. Không phải bằng mắt, mà bằng tâm trí của chúng tôi. Vì đây là điều mà các bạn cũng có khả năng làm, nên tôi nghĩ các bạn sẽ hiểu đúng không?’
‘Chúng tôi không biết các người là ai!’
Bố tức giận đến đỏ bừng mặt.
‘Làm ơn, hãy nghe tôi nói. Ngày xưa, chúng tôi cũng sống trong hòa bình. Chúng tôi có thể không sản xuất hoặc tiêu thụ, nhưng cuộc sống của chúng tôi rất giàu có. Chao ôi, trong bất kỳ nhóm nào mà chả có kẻ không thích nghi được. Một số kẻ trong số chúng tôi bắt đầu thắc mắc vì sao họ lại sống và họ đến từ đâu. Những suy nghĩ đó tiêu hao từng giây từng phút của họ. Cuối cùng họ lên đường đến thành phố. Thành phố được tạo nên bởi cư dân của hành tinh khác, và sau đó bị bỏ hoang. Khi đến đó, họ lại dành cả ngày để suy ngẫm về thời gian, lịch sử và nguồn gốc.’
Giọng ông lão này nghe không già một chút nào.
‘Ông đang nói về chúng tôi à? Chà, ông không thuyết phục được chúng tôi đâu. Chúng tôi không giống như ông. Chúng tôi sinh ra ở thành phố này. Và đã sống cả đời ở đây!’
Bố giận điên người.
‘Vậy nên bạn mới không nhớ. Trí nhớ thường có xu hướng tự sắp xếp lại sao cho thuận tiện. Tôi nhận ra đã đến lúc nói sự thật cho các bạn. Đó chính là lý do tại sao chúng tôi dẫn các bạn đến đây. Tại sao các bạn lại khăng khăng đóng vai người Trái Đất - hoặc bất cứ hạng người nào muốn? Các bạn có thể sống tự do, không cần vẻ ngoài phô trương của loài người. Một sự tồn tại bình lặng, không bị cản trở bởi những lo lắng này, là việc nằm trong tầm tay thôi mà.’
‘Đồ khốn nạn!’
Bố đùng đùng nổi giận. Cơ thể của ông cũng phình ra, theo đúng nghĩa đen. Từng đợt sóng giận dữ phát ra từ người ông. Những luồng điện tím ngắt lạ lùng. Những cơn sóng điện tràn lên ngọn đồi và hạ gục cả ông lão lẫn cô gái, giết chết họ ngay lập tức.
Cả gia đình không biết chuyện gì đang xảy ra. Họ chưa bao giờ nghĩ rằng sự nóng nảy của mình có thể giết chết một ai đó.
‘Phù!’ Mẹ chỉ tay. ‘Rốt cuộc họ không phải con người.’
Hai con quái vật xanh đen sụp xuống trên đỉnh đồi.
‘Trời đất, thật là bất ngờ!’
Con Trai cười khúc khích. Khi cậu nhìn sang khuôn mặt của gia đình mình, cậu thấy ba con quái vật.
Một cơn gió nhẹ lướt qua sườn đồi yên tĩnh. Những con quái vật đóng giả là một gia đình đứng yên tại chỗ, chìm trong nỗi kinh ngạc. Chúng không thể hiểu nổi chuyện gì vừa diễn ra và tại sao. Cảm thấy mình thật ngu ngốc, giờ chúng mới nhớ ra rằng đám quái vật (như chúng chẳng hạn) có thể biến thành bất kỳ hình dạng nào. Có lẽ chúng đã quá tin rằng mình là người Trái Đất, nên chúng bắt đầu hóa thân thành hình dạng của những con người đó.
Gió bắt đầu đổi chiều.
Không quan tâm đến nhau nữa, những con quái vật rời đi, mỗi con theo một hướng của riêng mình. Nhàn nhã, chẳng có một đích đến cụ thể, ôm trong lòng một mối lo âu mới.
Hết
★━━━━━━✩━━━━━━★
Chú thích của nhóm dịch
[1] American Graffiti: Bộ phim Hollywood năm 1973 do George Lucas đạo diễn.
[2] Máy in dấu chân chính: Bản tiếng Anh ghi là postometer. Postometer là một loại máy chống nói dối, được Sở Cảnh sát New York sử dụng năm 1939 để xác định tội phạm. Ở đây nhóm dịch suy đoán nhân vật Bố đã nhầm lẫn postometer với postage meter - máy in dấu bưu chính. Bởi nhóm dịch không có trong tay bản truyện tiếng Nhật để đối chiếu, không loại trừ khả năng đây là sơ suất của người chuyển ngữ tiếng Anh.
[3] Chuyến dã ngoại ban đêm: Bản tiếng Anh là Picnic on the Night, được nhắc đến như tên một bộ phim của người Trái Đất. Hiện tại nhóm dịch không tìm được thông tin gì về bộ phim này.
[4] Chuyến dã ngoại trên chiến trường: A Picnic on the Battlefield, tiểu thuyết của Fernando Arrabal.
[5] Chuyến dã ngoại ở phía gần: Picnic on Nearside, tên một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của John Varley.
★━━━━━━✩━━━━━━★
Dịch từ bản chuyển ngữ tiếng Anh của Sam Bett.
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Diệu Mây
★━━━━━━✩━━━━━━★
Tác giả Suzuki Izumi (Ảnh: The Japan Times)
0 notes
Text
Đứa con máu mủ - Octavia E. Butler
Về tác giả
Octavia Estelle Butler, hay Octavia E. Butler (1947 - 2006) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Mỹ. Sinh ra tại thành phố Pasadena, bang California, bà sớm tìm được niềm đam mê với văn chương và bắt đầu sáng tác khi còn ở độ tuổi niên thiếu. Trên con đường xây dựng sự nghiệp của mình, bà đã tham dự nhiều lớp dạy viết được tổ chức bởi các tác giả thể loại khoa huyễn đương thời, cũng như làm nhiều công việc chân tay khác nhau để trang trải cho công việc viết lách. Octavia E. Bulter là một tiếng nói độc đáo của thể loại khoa học viễn tưởng thế kỷ 20, với các sáng tác khai thác những cộng đồng người yếu thế, vốn ít có tiếng nói trong xã hội. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm loạt truyện Xenogenesis, các tiểu thuyết Parable of the Sower, Kindred, Fledgling, các truyện ngắn Bloodchild (Đứa con máu mủ), Speech Sounds (Thanh âm lời nói). Bà là chủ nhân của nhiều giải thưởng danh giá, cả ở thể loại khoa học viễn tưởng lẫn các giải thưởng văn chương nói chung.
Về tác phẩm
Đứa con máu mủ (tựa gốc: Bloodchild) là truyện ngắn nổi tiếng nhất của Octavia E. Butler. Truyện được đăng lần đầu vào năm 1984 trên tạp chí Asimov’s Science Fiction, và sau này được lấy làm tựa đề cho tuyển tập truyện ngắn duy nhất của bà xuất bản khi bà còn sống: Bloodchild and Other Stories (1995). Năm 1985, Đứa con máu mủ đã thắng cả hai giải Hugo và Nebula.
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Đêm cuối cùng của tuổi thơ tôi bắt đầu bằng một chuyến thăm nhà. Chị gái của T’Gatoi đã cho chúng tôi hai quả trứng vô noãn. T’Gatoi đưa một quả cho mẹ, anh và chị tôi. Cô khăng khăng để cho tôi ăn quả còn lại một mình. Cũng không thành vấn đề. Vẫn còn đủ để khiến tất cả mọi người đều cảm thấy khoan khoái. Hầu hết tất cả mọi người. Mẹ tôi không ăn chút nào. Bà ngồi, quan sát mọi người trôi theo mơ mộng mà không có mình. Nhưng chủ yếu là bà quan sát tôi.
Tôi tựa vào phần thân dưới dài, mềm như nhung của T’Gatoi, nhấm nháp quả trứng của mình, băn khoăn vì sao mẹ lại từ chối một vui thú vô hại như vậy. Tóc bà có lẽ đã ít bạc hơn nếu đôi lúc bà chịu nuông chiều bản thân. Những quả trứng ấy kéo dài tuổi thọ, tăng cường sinh lực. Cha tôi, người chẳng bao giờ từ chối quả nào trong cuộc đời, đã sống thọ hơn gấp đôi bình thường. Và dần đến cuối đời, khi lẽ ra ông phải sống chậm lại, ông đã cưới được mẹ tôi và có bốn đứa con.
Nhưng mẹ tôi có vẻ đã quen với tuổi già trước khi bà phải làm vậy. Tôi thấy bà quay mặt đi khi vài cái chi của T’Gatoi bọc lấy tôi chặt hơn. T’Gatoi ưa nhiệt độ cơ thể của chúng tôi và tận dụng nó bất cứ khi nào cô có thể. Hồi tôi còn nhỏ và ở nhà nhiều hơn, mẹ đã cố dạy tôi cách cư xử với T’Gatoi—cách để tỏ ra tôn kính và luôn luôn ngoan ngoãn bởi cô là viên chức chính phủ của người Tlic phụ trách Khu Bảo Tồn, và do đó điều quan trọng nhất trong chức vụ của cô ta là để đối phó trực tiếp với người Trái Đất. Điều đó là một vinh dự, mẹ tôi nói, rằng một người như vậy lại chọn vào gia đình này. Mẹ tôi vẫn tỏ ra trang trọng và khắt khe nhất mỗi khi bà nói dối.
Tôi không biết vì sao bà lại nói dối, hay cả việc bà ấy nói dối về điều gì. Thực là một vinh dự khi có T’Gatoi trong gia đình, nhưng cũng hiếm có gì mới lạ. T’Gatoi và mẹ đã là bạn suốt cả đời bà, và cô ấy không hứng thú với việc được tôn kính ở nơi cô coi là ngôi nhà thứ hai của mình. Cô chỉ đơn giản đi vào, leo lên một trong những cái ghế dài đặc biệt của cô và gọi tôi tới để sưởi ấm. Thật chẳng thể nào tỏ ra trang trọng trong khi nằm dựa vào cô và nghe cô phàn nàn như thường lệ rằng tôi quá gầy.
“Cháu khá hơn rồi đấy,” lần này cô bảo, thăm dò tôi bằng sáu bảy cái chi của cô. “Cuối cùng cháu cũng mập lên rồi. Gầy gò nguy hiểm lắm đấy.” Việc thăm dò phảng phất thay đổi, biến thành vuốt ve.
“Nó vẫn còn gầy lắm,” mẹ tôi gay gắt.
T’Gatoi nâng đầu dậy và có lẽ cả mét cơ thể của cô rời khỏi ghế trông như cô ấy đang ngồi dậy. Cô nhìn mẹ tôi, và mẹ tôi, với gương mặt nhăn nheo và già dặn của bà, quay đi chỗ khác.
“Lien, hãy ăn phần trứng Gan chừa lại.”
“Mấy quả trứng ấy dành cho bọn trẻ,” mẹ tôi bảo.
“Chúng dành cho cả nhà. Hãy cứ ăn đi.”
Nghe theo một cách miễn cưỡng, mẹ lấy nó từ chỗ tôi và cho vào miệng. Chỉ còn lại vài mẩu vụn trong chiếc vỏ trứng mềm dẻo, bị co lại, nhưng bà vét hết, nuốt chúng, và sau một lúc mấy nếp nhăn của sự căng thẳng bắt đầu dãn ra trên gương mặt bà.
“Ngon thật,” bà thì thầm. “Đôi lúc tôi quên rằng nó ngon thế nào.”
“Cô nên ăn nhiều hơn,” T’Gatoi nói. “Tại sao cô lại vội vã già đi như vậy chứ?”
Mẹ tôi chẳng nói gì.
“Tôi thích được đến đây,” T’Gatoi nói. “Nơi này là một chốn nương thân của tôi nhờ có cô, nhưng cô lại chẳng chăm lo cho chính mình.”
T’Gatoi bị săn lùng ngoài kia. Đồng loại của cô ấy muốn nhiều người hơn trong chúng được bán. Chỉ cô ấy và phe phái chính trị của cô đứng giữa chúng tôi và đám người chẳng hiểu vì sao lại tồn tại một Khu Bảo Tồn—vì sao mọi người Trái Đất không thể được tìm hiểu, được chi trả và thanh toán, theo cách nào đó bán được cho họ. Hoặc là họ hiểu, nhưng trong nỗi tuyệt vọng, họ không thèm quan tâm. Cô gửi chúng tôi đến những người tuyệt vọng và bán chúng tôi cho những kẻ giàu có và quyền lực để đổi lấy sự giúp đỡ về mặt chính trị của họ. Do đó, chúng tôi là những thứ cần thiết, biểu tượng của địa vị, và là một giống loài độc lập. Cô quan sát sự hình thành của các gia đình, đặt dấu chấm dứt cho những tàn dư cuối cùng của cái hệ thống cũ phá đi những gia đình Trái Đất để ghép với những Tlic thiếu kiên nhẫn. Tôi đã từng sống bên ngoài với cô ấy. Tôi đã thấy sự háo hức đầy tuyệt vọng trong cái cách vài người nhìn tôi. Có một chút rùng rợn khi biết rằng chỉ có cô đứng giữa chúng tôi và sự tuyệt vọng đó, thứ mà có thể dễ dàng nuốt trọn chúng tôi. Mẹ tôi đôi lúc nhìn cô và bảo tôi, “Hãy chăm sóc cô ấy.” Và tôi sẽ nhớ rằng cô đã từng ở ngoài kia, đã nhìn thấy nhiều điều.
Giờ thì T’Gatoi dùng bốn cái chi của cô đẩy tôi xuống sàn. “Đi đi, Gan,” cô ta nói. “Ngồi xuống đó với các chị em và tận hưởng việc không trở nên quá nghiêm túc đi. Cháu đã ăn hầu hết chỗ trứng rồi. Lien, tới sưởi cho tôi đi.”
Mẹ tôi ngập ngừng vì lý do gì mà tôi chẳng biết. Một trong những ký ức đầu tiên của tôi là khung cảnh mẹ tôi duỗi người ra bên cạnh T’Gatoi, nói về những thứ mà tôi không thể hiểu, nhấc tôi khỏi sàn và cười khi bà ấy đặt tôi ngồi lên một đoạn thân của T’Gatoi. Bà đã ăn phần trứng được chia sẻ khi ấy. Tôi thắc mắc bà ấy dừng việc đó lúc nào, và tại sao.
Bây giờ bà nằm xuống bên cạnh T’Gatoi, và cả hàng chi bên trái của T’Gatoi vòng quanh bà, ôm lấy bà một cách lỏng lẻo, nhưng chắc chắn. Tôi đã luôn cảm thấy dễ chịu khi nằm kiểu đó, nhưng ngoại trừ chị gái tôi ra, chẳng ai khác trong gia đình ưa nó. Họ bảo họ cảm giác như bị giam cầm.
T’Gatoi đã có ý giam mẹ tôi lại. Một khi cô đã làm được điều đó, cô khua đuôi nhẹ nhàng, rồi nói. “Không đủ trứng, Lien. Cô lẽ ra nên ăn nó khi được nhận. Cô cần nó lắm rồi.”
Đuôi T’Gatoi khua lên lần nữa, nó quất nhanh đến nỗi tôi sẽ chẳng thể nhìn thấy nó nếu không quan sát. Cú chích của cô quẹt lấy chỉ một giọt máu từ chiếc chân trần của mẹ.
Mẹ hét lên—chắc là do bất ngờ. Bị chích không hề đau. Rồi bà lại thở dài và tôi có thể thấy cơ thể bà thư giãn. Bà uể oải di chuyển đến một chỗ dễ chịu hơn trong cái lồng chi của T’Gatoi. “Sao cô làm vậy?” bà hỏi, giọng có vẻ buồn ngủ.
“Tôi không thể nhìn cô cứ ngồi đó và chịu đựng lâu hơn nữa.”
Mẹ tôi cố nhún vai nhẹ một cái. “Ngày mai,” bà nói.
“Phải. Ngày mai cô sẽ tiếp tục việc chịu đựng—nếu cô phải làm vậy. Nhưng chỉ bây giờ, chỉ lúc này thôi, hãy nằm đây sưởi ấm tôi và để tôi xoa dịu cô một chút.
“Thằng bé vẫn là của tôi, cô biết đấy,” mẹ tôi đột nhiên nói.
“Không gì có thể tách nó khỏi tôi.” Khi tỉnh táo, bà sẽ không cho phép mình đề cập đến những việc như vậy.
“Không gì cả,” T’Gatoi đồng ý, chiều theo bà.
“Cô có nghĩ rằng tôi sẽ bán nó để đổi lấy trứng? Lấy tuổi thọ? Con trai tôi ấy?”
“Không đổi lấy gì cả,” T’Gatoi nói, vuốt vai mẹ tôi, đùa giỡn với mái tóc dài, bạc của bà.
Tôi rất muốn chạm vào mẹ tôi, chia sẻ khoảnh khắc ấy với bà. Bà sẽ nắm lấy tay tôi nếu tôi làm vậy lúc này. Thư giãn nhờ quả trứng và cú chích, bà sẽ mỉm cười và có lẽ sẽ nói ra những điều bà chất chứa từ lâu. Nhưng ngày mai, bà sẽ nhớ những mọi thứ như một nỗi nhục nhã. Tôi không muốn là một phần của ký ức nhục nhã ấy. Tốt nhất là chỉ ngồi yên và biết rằng bà yêu tôi dưới mọi nghĩa vụ, niềm tự hào và nỗi đau.
“Xuan Hoa, cởi giày mẹ cháu ra đi,” T’Gatoi nói. “Chốc thôi cô sẽ chích bà ấy lần nữa và bà có thể ngủ.”
Chị tôi nghe lời, lắc lư như say rượu khi đứng dậy. Khi xong việc, chị ngồi xuống bên cạnh và nắm lấy tay tôi. Chúng tôi đã luôn là một đội, chị và tôi.
Mẹ tôi tựa đầu vào thân dưới của T’Gatoi và cố nhìn từ cái góc bất khả thi đó lên gương mặt rộng, tròn ấy. “Cô định đốt tôi lần nữa à?”
“Đúng vậy, Lien à.”
“Tôi sẽ ngủ đến chiều mai mất.”
“Tốt thôi. Cô cần điều đó. Lần cuối cô ngủ là khi nào vậy?”
Mẹ tôi bực bội không thốt lên lời. “Tôi lẽ ra nên giẫm lên cô khi cô còn nhỏ,” bà càu nhàu.
Ấy là một trò đùa cũ giữa họ. Họ lớn lên cùng nhau, đại loại vậy, dù rằng T’Gatoi chưa từng, trong cuộc đời của mẹ, đủ nhỏ cho bất kì người Trái Đất nào giẫm lên được. Tuổi cô gần gấp ba lần tuổi mẹ tôi hiện tại, nhưng cô vẫn sẽ còn trẻ khi mẹ tôi chết đi vì tuổi già. Nhưng họ đã gặp nhau khi T’Gatoi đang bước vào một giai đoạn phát triển nhanh chóng—một loại dậy thì của người Tlic. Mẹ tôi chỉ là một đứa trẻ, nhưng trong một thời gian họ phát triển như nhau và không có bè bạn nào tốt hơn người kia cả.
T’Gatoi đã giới thiệu mẹ cho người đàn ông mà sau này đã trở thành cha tôi. Cha mẹ tôi, hài lòng với nhau bất kể sự khác biệt tuổi tác, đã lấy nhau khi T’Gatoi sắp bước chân vào sự nghiệp của gia đình cô—sự nghiệp chính trị. Cô và mẹ gặp nhau ít hơn. Nhưng một lúc nào đó trước khi chị tôi ra đời, mẹ tôi đã hứa sẽ trao cho T’Gatoi một trong những đứa con của bà. Đằng nào thì bà cũng phải giao một trong số chúng tôi cho người khác, và bà muốn giao cho T’Gatoi hơn mấy kẻ lạ mặt.
Nhiều năm trôi qua. T’Gatoi đã đi các nơi và gia tăng sức ảnh hưởng của mình. Khu Bảo Tồn đã là của cô ngay lúc cô quay lại gặp mẹ tôi để nhận lấy thứ mà cô cho là phần thưởng cho công việc mệt nhọc của mình. Chị tôi ngay lập tức thích cô và muốn được chọn, nhưng mẹ vừa mới có thai tôi và T’Gatoi thích việc chọn một đứa bé sơ sinh và quan sát cũng như tham gia vào mọi giai đoạn phát triển. Mọi người kể rằng những cái chi của cô đã bao bọc lấy tôi chỉ ba phút sau khi sinh ra. Một vài ngày sau đó, tôi được cho ăn quả trứng đầu tiên. Tôi nói với những người Trái Đất điều đó khi họ hỏi tôi có sợ cô không. Và tôi cũng kể điều đó với người Tlic khi T’Gatoi đề nghị họ một đứa trẻ Trái Đất và họ, lo lắng và thiếu hiểu biết, đòi một đứa vị thành niên. Kể cả anh trai tôi, người mà vì lý do nào đó đã lớn lên trong nỗi sợ hãi và sự không tin tưởng người Tlic vẫn có thể suôn sẻ vào trong một gia đình họ nếu anh được sinh ra đủ sớm. Đôi lúc, tôi nghĩ về lợi ích mà anh lẽ ra đã có. Tôi nhìn anh ấy, nằm dài trên sàn ngang phòng, mắt mở, nhưng trở nên đờ đẫn khi nó mơ về giấc mơ trứng của mình. Không quan trọng việc anh nghĩ gì về người Tlic, anh luôn đòi được chia phần trứng của mình.
“Lien, cô đứng dậy được chứ?” T’Gatoi đột nhiên hỏi.
“Đứng gì?” mẹ tôi đáp. “Tôi tưởng tôi sẽ ngủ.”
“Để sau đi. Có tiếng động lạ ở ngoài kìa.” Chiếc lồng lập tức thu lại.
“Gì cơ?”
“Đứng dậy đi Lien!”
Mẹ tôi nhận ra giọng điệu của cô ấy và và chỉ vừa kịp lúc tránh khỏi việc bị trượt xuống sàn. T’Gatoi hất cái cơ thể ba mét của cô khỏi băng ghế, tiến tới cửa, và lao ra nhanh nhất có thể. Cô ấy có xương—xương sườn, một cột sống dài, một hộp sọ, bốn bộ xương chi trên mỗi đốt. Nhưng khi di chuyển kiểu đó, xoay người, lao đi có chủ ý, hạ cánh và chạy, cô không chỉ có vẻ nhưng không có xương, mà còn như thủy sinh—thứ gì đó bơi trong không khí như thể là nước vậy. Tôi yêu việc quan sát những cử động ấy.
Tôi bỏ chị tôi ở lại và bắt đầu chạy theo cô ra ngoài, kể cả khi tôi bước còn không vững. Tôi thà rằng ngồi mơ, hay tốt hơn là tìm một cô gái và chia sẻ cùng một giấc mơ khi thức dậy. Cái thời mà người Tlic 3còn coi chúng tôi không hơn gì những con thú máu nóng to lớn, tiện lợi, họ sẽ nhốt vài người chúng tôi lại với nhau, cả nam lẫn nữ, và chỉ cho ăn trứng. Theo cách đó họ có thể chắc chắn có được thế hệ kế tiếp của chúng tôi mặc kệ việc chúng tôi cố cầm cự thế nào. Thật may là điều đó không kéo dài. Chỉ một vài thế hệ chịu đựng việc đó thôi và chúng tôi sẽ chẳng khác nào những con thú to lớn, tiện lợi.
“Hãy để cửa mở, Gan,” T’Gatoi nói. “Và nói cả nhà lùi lại.”
“Cái gì vậy?” tôi hỏi.
“N’Tlic.”
Tôi dựa lưng vào cửa. “Ở nơi này? Một mình ư?”
“Gã đang cố tới buồng điện thoại, cô đoán vậy.” Cô bế gã qua tôi, gã đang bất tỉnh, cơ thể gập lại như một chiếc áo choàng trên mấy cái chân của cô. Gã có vẻ còn trẻ—có khi trạc tuổi anh tôi—và gầy hơn bình thường. Điều mà T’Gatoi sẽ gọi là nguy hiểm.
“Gan, lại chỗ buồng điện thoại đi,” cô nói. Cô đặt gã ta lên sàn và bắt đầu cởi đồ anh ta ra.
Tôi không hề di chuyển.
Sau một lúc, cô nhìn lên tôi, sự yên lặng đột ngột của cô là dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn sâu sắc.
“Cô bảo Qui đi đi,” tôi nói với cô. “Cháu sẽ ở đây. Có lẽ cháu giúp được.”
Cô lại di chuyển các chi, nâng gã ta lên và cởi chiếc áo qua đầu gã. “Cháu không muốn thấy cái này đâu,” cô bảo. “Khó lắm. Cô không thể giúp gã này theo cách Tlic của gã làm được.”
“Cháu biết. Nhưng để cho Qui đi. Anh ấy không muốn giúp đỡ gì trong chuyện này đâu. Ít nhất cháu sẵn lòng thử.”
Cô nhìn anh tôi—già dặn hơn, lớn hơn, khỏe hơn, chắc chắn thích hợp hơn để giúp cô ở đây. Anh đang ngồi, dựa vào tường, nhìn chằm chặp vào gã đàn ông trên sàn với vẻ sợ hãi và ghê tởm không che giấu nỗi. Kể cả cô cũng nhận ra rằng anh vô dụng.
“Đi nào, Qui!” cô bảo.
Anh không cãi lại. Anh ấy đứng dậy, lảo đảo chốc lát, rồi trở nên tỉnh táo trong sự bình tĩnh và nỗi sợ hãi.
“Gã này tên là Bram Lomas, cô bảo anh, đọc được từ chiếc băng tay của gã. Tôi sờ vào băng tay của mình trong sự cảm thông. “Gã cần T’Khotgif Teh. Anh nghe không?”
“Bram Lomas, T’Khotgif Teh,” anh tôi nói. “Anh đi đây.” Anh vòng qua Lomas và chạy ra khỏi cửa.
Lomas đã bắt đầu tỉnh lại. Ban đầu gã ta chỉ rên rỉ và thảng hoặc bấu lấy một đôi chi của T’Gatoi. Em gái tôi, cuối cùng cũng tỉnh khỏi cơn phê trứng của nó, lại gần nhìn gã, cho đến khi bị mẹ tôi kéo lại.
T’Gatoi cởi giầy của gã ra, rồi quần, trong khi đó chỉ chừa lại hai chi cô bị anh ta nắm lấy. Chỉ trừ một đoạn cuối, mọi cái chi của cô đều khéo léo. “Từ giờ cô không muốn tranh cãi với cháu đâu, Gan,” cô bảo.
Tôi đứng thẳng lên. “Cháu phải làm gì đây?”
“Ra ngoài và giết lấy một con thú tầm nửa người cháu.”
“Giết sao? Nhưng cháu chưa từng —”
Cô hất tôi ngang phòng. Đuôi cô ấy đã là một món vũ khí tốt kể cả có để lộ gai ra hay không.
Tôi bật dậy, cảm thấy thật ngốc khi phớt lờ lời cảnh báo của cô, và đi vào bếp. Có lẽ tôi có thể giết con gì đó bằng dao hoặc rìu. Mẹ tôi nuôi vài con thú Trái Đất để ăn và vài nghìn con bản địa để lấy lông. T’Gatoi chắc ưa mấy con bản địa hơn. Một con achti chẳng hạn. Vài con trong số chúng có kích thước phù hợp, dù chúng có số răng gần gấp ba lần tôi và rất ưa sử dụng số răng đó. Mẹ tôi, Hoa, và Qui có thể dùng dao giết chúng. Tôi thì chưa từng, chưa từng giết bất cứ con vật nào. Tôi dành phần lớn thời gian bên cạnh T’Gatoi trong khi anh và chị tôi học hỏi việc kinh doanh của gia đình. T’Gatoi đã đúng. Đáng ra tôi nên đi tới buồng điện thoại. Ít ra tôi có thể làm việc ấy.
Tôi tới chỗ cái tủ ở góc nơi mẹ để các vật dụng trong nhà và làm vườn lớn. Phía sau cái tủ là một ống dẫn nước thải từ bếp—trừ một chuyện là nó không còn làm việc đó nữa. Cha tôi đã đặt lại đường nước thải bên dưới trước cả khi tôi ra đời. Giờ thì cái ống có thể được vặn để một nửa trượt quanh nửa còn lại và để cho một khẩu súng trường được cất bên trong. Đấy không phải khẩu súng duy nhất chúng tôi có, nhưng là cái dễ lấy nhất. Tôi sẽ dùng nó để bắn một trong những con achti lớn nhất. Sau đó chắc chắn là T’Gatoi sẽ tịch thu nó. Súng ống bị cấm ở Khu Bảo Tồn. Đã có một sự cố xảy ra ngay sau khi Khu Bảo Tồn được thành lập—người Trái Đất bắn Tlic, và cả N’Tlic nữa. Ấy là trước khi việc hình thành các gia đình bắt đầu, trước khi mọi người có trách nhiệm cá nhân trong việc giữ hòa bình. Chưa từng có ai bắn một người Tlic trong suốt cuộc đời của tôi hay mẹ tôi, nhưng luật vẫn còn đó—để bảo vệ chúng tôi, họ nói như vậy. Đã có mấy chuyện về việc cả nhà người Trái Đất bị quét sạch để trả thù trong các vụ thảm sát.
Tôi ra ngoài chuồng và bắn con achti lớn nhất tôi thấy. Là một con đực giống khá ưa nhìn, và mẹ tôi sẽ không hài lòng khi thấy tôi mang nó vào. Nhưng nó đúng cỡ, và tôi thì đang vội lắm.
Tôi đặt cái cơ thể dài, còn ấm của con achti lên vai—thật mừng là tôi mập lên nhờ cơ bắp—và mang nó vào bếp. Ở đó, tôi trả cây súng về chỗ cất giấu. Nếu T’Gatoi nhận ra vết thương của con achti và đòi khẩu súng, tôi sẽ phải đưa cho cô. Nếu không thì, cứ để nó lại chỗ cha tôi muốn.
Tôi mang con achti lại cho cô, rồi do dự. Trong vài giây, tôi đứng trước cánh cửa đóng thắc mắc tại sao đột nhiên mình thấy sợ. Tôi biết điều gì sắp xảy ra. Tôi chưa từng thấy nó trước kia nhưng T’Gatoi đã cho tôi coi mấy cái sơ đồ và tranh vẽ. Tôi muốn chắc rằng tôi biết sự thật khi tôi đủ lớn để hiểu nó.
Song, tôi vẫn không muốn vào căn phòng đó. Tôi mất chút thời gian chọn lấy một con dao từ chiếc hộp gỗ chạm khắc nơi mẹ tôi cất chúng. Có lẽ T’Gatoi cần một cái, tôi tự nhủ, do con achti có lớp da dày và nhiều lông.
“Gan ơi!” T’Gatoi gọi, giọng gắt gỏng đầy khẩn trương.
Tôi nuốt nước bọt. Thật không thể tưởng tượng được chỉ một bước đi nhỏ thôi lại khó khăn như thế. Tôi nhận ra mình đang run rẩy và điều đó khiến tôi xấu hổ. Và chính sự xấu hổ ấy đã đẩy tôi qua cửa.
Tôi đặt con achti xuống gần T’Gatoi và thấy rằng Lomas lại bất tỉnh. Chỉ có cô, Lomas, và tôi ở trong phòng này—mẹ và anh chị chắc đã bị đưa ra ngoài để họ không nhìn thấy. Tôi thấy ghen tị với họ.
Nhưng mẹ tôi lại quay vào trong phòng khi T’Gatoi chộp lấy con achti, mặc kệ con dao tôi đưa cho cô ấy, cô mở rộng móng vuốt từ mấy cái chi và rạch con achti từ yết hầu đến tận hậu môn. Cô nhìn tôi, với đôi mắt vàng đầy ẩn ý. “Giữ lấy vai của gã đi, Gan.”
Tôi hoảng loạn nhìn Lomas, nhận ra mình còn không muốn chạm vào gã ta, chứ đừng nói là giữ. Điều này không hề giống với việc bắn một con thú. Không nhanh chóng, không nhân từ như vậy, và, tôi hy vọng, không phải cuối cùng, nhưng tôi chẳng mong gì hơn trở thành một phần của nó.
Mẹ tôi đi tới. “Gan, con giữ bên phải,” bà nói. “Mẹ sẽ giữ bên trái.” Và nếu gã ta tỉnh, gã sẽ hất bà ra mà không nhận ra mình đã làm điều ấy. Bà nhỏ người. Bà thường tự hỏi lớn rằng làm sao bà có thể sinh ra, theo lời bà, những đứa con “khổng lồ” như vậy.
“Không sao,” tôi nói với bà, giữ lấy hai vai của gã. “Để con làm.” Bà lảng vảng gần đó.
“Đừng lo,” tôi nói. “Con không làm mẹ thất vọng đâu. Mẹ không phải cần ở lại coi.”
Bà nhìn tôi đầy vẻ không chắc chắn, rồi chạm vào mặt tôi với một sự âu yếm hiếm thấy. Sau cùng, bà quay về phòng ngủ.
T’Gatoi cúi đầu nhẹ nhõm. “Cảm ơn cháu, Gan ạ,” cô nói với vẻ lịch sự giống người Trái Đất hơn là Tlic. “Cô ấy… mẹ cháu luôn tìm cách để cô phải làm cô ấy chịu đựng.”
Lomas bắt đầu rên rỉ và phát ra những âm thanh nghẹn ngào. Tôi mong rằng gã cứ bất tỉnh như vậy thôi. T’Gatoi đưa mặt lại gần gã để gã tập trung vào cô.
“Tôi đã chích cậu nhiều nhất có thể từ giờ,” cô bảo gã. “Khi xong việc, tôi sẽ chích cho cậu ngủ và cậu sẽ chẳng làm hại ai nữa.”
“Làm ơn,” gã van xin. “Đợi đã…”
“Không có thời gian đâu, Bram. Tôi sẽ chích cậu khi xong việc. Khi T’Khotgif tới cô sẽ cho cậu ăn trứng để hồi phục. Sẽ xong sớm mà thôi.”
“T’Khotgif sao!” gã hét lên, kéo tay tôi lại.
“Sớm thôi, Bram.” T’Gatoi liếc nhìn tôi, rồi đặt một móng vuốt lên bụng gã ta, nhẹ nhàng về bên phải, chỉ ngay dưới sườn trái. Có chuyển động ở bên phải—nhỏ thôi, có vẻ là những nhịp đập ngẫu nhiên di chuyển lớp thịt màu nâu của gã, tạo ra những vết lồi lõm, liên tục và liên tục đến khi tôi thấy được nhịp điệu của nó và biết được nhịp tiếp theo ở đâu.
Cả người Lomas căng cứng dưới vuốt của T’Gatoi, dù cô chỉ đơn giản là tựa nó lên người gã khi cô quấn phần sau cơ thể mình quanh chân gã. Gã sẽ thoát khỏi sự kìm kẹp của tôi mất, nhưng sẽ không làm được với cô. Gã ta khóc một cách bất lực khi cô dùng chính chiếc quần của gã để trói tay gã lại, sau đó đẩy hai tay gã lên đầu để tôi có thể quỳ trên quần áo giữa họ và giữ chúng ở đó. Cô cuộn chiếc áo gã lại và đưa cho gã cắn lấy.
Và cô mổ gã ta ra.
Cơ thể gã co giật với vết cắt đầu tiên. Gã xém nữa giật mình ra khỏi tôi. Thứ âm thanh gã ta phát ra… tôi chưa từng nghe âm thanh nào như vậy phát ra từ một thứ có liên hệ với con người… T’Gatoi có vẻ chẳng mảy may đến khi cô kéo dài vết cắt và cắt sâu hơn, thỉnh thoảng dừng lại để liếm bớt máu đi. Các mạch máu của gã co lại, phản ứng hóa học với nước bọt của cô, và máu ở vết cắt dần chảy chậm lại.
Cảm giác như tôi đang giúp cô ấy tra tấn gã, giúp cô ăn thịt gã. Tôi biết tôi rất buồn nôn, nhưng chẳng hiểu sao vẫn chưa nôn nổi. Tôi chẳng thể nào trụ đến khi cô làm xong việc được.
Cô tìm thấy con trùng đầu tiên. Nó mập và đỏ tươi màu máu của gã—cả trong lẫn ngoài. Nó đã ăn mất vỏ trứng của chính mình nhưng hình như vẫn chưa bắt đầu ăn vật chủ của nó. Ở giai đoạn này, nó sẽ ăn bất cứ thứ gì trừ thịt mẹ mình. Nếu để yên, nó sẽ tiếp tục tiết ra những chất độc đồng thời gây hại và cảnh báo Lomas. Rốt cuộc thì nó cũng bắt đầu ăn. Khi mà nó đã ăn ra ngoài cơ thể Lomas, gã sẽ chết hoặc hấp hối—và không còn có thể trả thù thứ đã giết dần gã ta. Vẫn luôn có một giai đoạn gia hạn giữa lúc vật chủ bị gây bệnh đến khi những con trùng bắt đầu ăn gã.
T’Gatoi cẩn thận nhặt con trùng đang quằn quại lên và nhìn nó, thế nào đó mặc kệ tiếng rên rỉ khủng khiếp của gã kia.
Đột ngột, gã ta bất tỉnh.
“Tốt rồi,” T’Gatoi nhìn xuống gã. “Cô ước giá mà Người Trái Đất các cháu có thể tự mình làm việc ấy.” Cô chẳng cảm thấy gì. Và cả thứ cô đang cầm...
Ở giai đoạn này nó không hề có chi hay xương, có lẽ dài khoảng mười lăm và dày hai centimet, mù lòa và nhầy nhụa máu. Nó trông như một con sâu lớn. T’Gatoi đặt nó lên bụng con achti, và nó bắt đầu đào vào ngay tức khắc. Nó sẽ ở trong đó và ăn đến khi nào chẳng còn gì nữa.
Kiểm tra trong thịt Lomas, cô ấy tìm được hai con nữa, một con nhỏ và khỏe hơn. “Một con đực!” cô mừng rỡ. Nó sẽ chết trước cả tôi. Nó sẽ trải qua sự biến đổi và vặn phá mọi thứ kiềm giữ mình trước cả khi người chị em của nó có chi. Nó là con duy nhất cố cắn T’Gatoi khi cô đặt nó vào con achti.
Mấy con trùng nhợt nhạt dần lộ ra trong thịt Lomas. Tôi nhắm mắt lại. Còn tệ hơn là thấy xác chết đang thối rửa, nhúc nhích đầy mấy con giòi nhỏ. Và điều ấy còn tệ hơn xa cả bức vẽ hay sơ đồ nào.
“À, còn nữa này,” T’Gatoi nói, quắp ra hai con dài và mập. Cháu có lẽ phải giết con khác nữa Gan à. Mọi thứ thứ tồn tại bên trong Người Trái Đất các cháu.”
Người ta nói với tôi trong suốt cả đời rằng có một việc là tốt và cần thiết mà Tlic và Người Trái Đất cùng làm—một kiểu sinh sản. Tôi đã luôn tin điều ấy đến tận bây giờ. Tôi biết sinh sản rất đau đớn và máu me, dù sao đi nữa. Nhưng đây là thứ gì đó khác, thứ gì đó tệ hơn. Và tôi chưa sẵn sàng để thấy nó. Có lẽ chẳng bao giờ. Dù vậy thì tôi không thể không thấy được. Nhắm mắt lại không giúp gì cả.
T’Gatoi đã tìm ra một con trùng vẫn còn ăn vỏ trứng của nó. Phần còn lại của cái vỏ đó vẫn được nối vào mạch máu bằng cái ống hay cái móc nhỏ gì đó. Đó là cách mấy con trùng được giữ lại và cách mà chúng ăn. Chúng chỉ hút máu đến khi sẵn sàng ra ngoài. Sau đó chúng ăn cái vỏ trứng căng, mềm dẻo của mình. Rồi lại ăn luôn vật chủ.
T’Gatoi cắn sạch vỏ trứng, liếm lấy máu. Liệu cô ấy có ưa cái vị đó không? Liệu những thói quen thuở nhỏ khó mất đi được—hay thậm chí là không thể mất đi.
Toàn bộ quá trình thật sai lầm, xa lạ. Tôi còn chẳng nghĩ là cô ấy sẽ có thể trông xa lạ đối với tôi.
“Một đứa nữa, cô nghĩ vậy,” cô nói. “Có lẽ hai. Một gia đình tốt. Những ngày này, chỉ cần được thấy một hay hai đứa còn sống trong vật chủ là bọn cô vui rồi.” Cô liếc nhìn tôi. “Ra ngoài đi, Gan, nôn cho hết mọi thứ trong dạ dày của cháu. Đi đi trong khi gã ta đang bất tỉnh.”
Tôi lảo đảo ra ngoài, chỉ đủ sức làm vậy. Đến dưới cái cây ngay trước cửa, tôi nôn đến khi chẳng còn gì để nôn nữa. Cuối cùng, tôi loạng choạng đứng dậy, mặt đầm đìa nước mắt. Tôi không biết sao mình lại khóc, nhưng không dừng lại được. Tôi đi xa khỏi nhà để tránh bị bắt gặp. Mỗi lần nhắm mắt lại tôi thấy những con trùng đỏ trườn trên thịt người còn đỏ hơn.
Có một chiếc xe hơi lại gần nhà. Bởi vì Người Trái Đất bị cấm dùng phương tiện giao thông trừ nông cụ, tôi nhận ra đây chắc chắn là Tlic của Lomas đi cùng Qui và có lẽ một bác sĩ Trái Đất. Tôi chùi mặt vào áo, vùng vẫy để kiểm soát lại cả người.
“Gan ơi,” Qui gọi khi chiếc xe dừng lại. “Có chuyện gì vậy?” Anh bò ra khỏi cái cửa xe thấp, tròn, tiện lợi của người Tlic. Một Người Trái Đất bò ra ở bên kia và đi vào nhà mà chẳng nói chẳng rằng. Bác sĩ. Với sự giúp đỡ của ông và vài quả trứng, Lomas sẽ sống thôi.
“T’Khotgif Teh phải không?” tôi hỏi.
Người tài xế Tlic đi ra khỏi xe, rướn nửa người lại trước tôi. Cô ta nhợt nhạt và nhỏ người hơn T’Gatoi—chắc là do sinh ra từ cơ thể của một con vật. Tlic sinh ra từ Người Trái Đất luôn lớn hơn cũng như nhiều hơn.
“Sáu đứa,” tôi bảo cô ta. “Có thể là bảy, đều còn sống. Ít nhất có một đứa đực.”
“Lomas thì sao?” cô ta gắt lên. Tôi thích cô vì câu hỏi ấy và sự quan tâm trong chất giọng khi cô ta hỏi nó. Điều mạch lạc cuối cùng gã kia nói là tên cô ta.
“Còn sống,” tôi nói.
Cô ta lướt tới căn nhà mà chẳng nói gì thêm.
“Cô ta bị ốm,” anh tôi bảo, nhìn cô ta đi. “Khi anh gọi, anh nghe được người ta nói với cô ta rằng cô ta thậm chí còn không đủ khỏe để ra ngoài kể cả vì chuyện này.
Tôi chẳng nói gì. Tôi đã tỏ ra lịch sự với cô Tlic đó. Giờ thì tôi không muốn nói gì với ai cả. Hi vọng anh ấy sẽ vào trong—bởi sự tò mò nếu không phải vì điều gì khác.
“Cuối cùng cũng biết nhiều hơn mình muốn hả?”
Tôi nhìn anh.
“Đừng nhìn anh như cách cô ta nhìn,” anh nói. “Em không phải cô ấy. Em chỉ là tài sản của cô mà thôi.”
Cái nhìn của cô ta. Tôi đã có khả năng bắt chước biểu cảm của cô rồi sao?
“Em đã làm gì vậy, nôn hả?” Anh hít hít. “Vậy giờ biết mình sắp sửa trải qua cái gì rồi à.”
Tôi đi xa khỏi anh ta. Anh và tôi đã từng rất thân khi còn nhỏ. Anh để tôi lẽo đẽo theo anh khi ở nhà, và đôi khi T’Gatoi cho tôi đưa anh ấy theo khi vào thành phố. Nhưng điều gì đó đã xảy ra khi anh bước vào tuổi dậy thì. Tôi không bao giờ biết được. Anh bắt đầu tránh xa T’Gatoi. Rồi anh bắt đầu chạy khỏi— đến khi anh nhận ra không có “khỏi” gì cả. Không phải ở trong Khu Bảo Tồn này. Chắc chắn không phải ơ bên ngoài. Sau đó anh tập trung vào việc nhận lấy phần được chia của mọi quả trứng được đưa vào nhà và vào việc bảo vệ tôi theo cái cách mà làm tôi rất ghét anh ấy—cái cách mà nó rõ ra là, chỉ khi tôi không sao, anh ấy mới an toàn khỏi người Tlic.
“Như nào vậy, thật đó?” anh nài nỉ, đi theo tôi.
“Em giết một con achti. Mấy con kia ăn nó rồi.”
“Em không chạy ra khỏi nhà và nôn mửa chỉ vì chúng ăn một ăn một con achti đâu.”
“Em… chưa từng thấy người ta bị cắt mở ra trước kia.” Thật vậy, và đủ để anh hiểu. Tôi không thể nói về mấy thứ khác. Không phải với anh ấy.
“Ồ,” anh nói. Liếc nhìn tôi như muốn nói nữa, nhưng rồi im lặng.
Chúng tôi đi, không thực sự tới đâu cả. Ra sau nhà, tới chỗ mấy cái lồng, lại ra vườn.
“Gã có nói gì không?” Qui hỏi. “Ý anh là Lomas ấy.”
Anh còn có ý hỏi ai khác chứ? “Gã nói ‘T’Khotgif.’”
Qui rùng mình. “Nếu ả ta làm điều đó với anh, ả sẽ là người cuối cùng anh nhớ đến.”
“Anh sẽ gọi cô ấy mà thôi. Cú chích của cô ấy sẽ làm anh đỡ đau mà không giết mất mấy con trùng bên trong.”
“Em nghĩ anh sẽ quan tâm nếu tụi nó chết sao?”
Không. Chắc chắn anh sẽ không. Còn tôi thì sao?
“Khỉ thật!” Anh thở dài. “Anh đã thấy chúng làm những gì. Em nghĩ chuyện xảy ra với Lomas là tệ sao? Nó chẳng là gì cả.”
Tôi không cãi lại. Anh ấy không biết mình đang nói gì nữa.
“Anh đã thấy chúng ăn một người đàn ông,” anh nói
Tôi quay lại nhìn anh ấy. “Nói xạo!”
“Anh đã thấy chúng ăn một người đàn ông.” Anh dừng lại. “Khi anh còn nhỏ. Anh đã tới nhà Hartmund và anh đang trên đường về. Giữa đường, anh thấy một người đàn ông và một Tlic và người đàn ông đó là N’Tlic. Đất ở đó gập ghềnh. Anh có thể trốn và quan sát. Người Tlic không mở người đàn ông ra vì ả không có gì cho bọn trùng ăn. Người đàn ông không thể đi tiếp và không có căn nhà nào ở gần. Anh ta rất đau đớn, bảo ả ta giết anh ta đi. Anh ta cầu xin ả giết mình. Cuối cùng, ả giết anh ta. Ả cắt ngang yết hầu anh ta. Một cú vung móng. Anh thấy bọn trùng ăn ra ngoài, rồi lại chui vào, ăn tiếp.”
Những lời anh ấy nói làm tôi nhớ lại mớ thịt của Lomas, đầy ký sinh trùng, bò lúc nhúc. “Sao anh chẳng chịu kể cho em?” tôi thì thầm.
Anh có vẻ giật mình như thể quên rằng tôi đang lắng nghe. “Anh không biết nữa.”
“Anh bắt đầu bỏ chạy không lâu sau đó, phải không?”
“Ừ. Ngốc thật. Bỏ chạy bên trong Khu Bảo Tồn. Bỏ chạy bên trong một chiếc lồng.”
Tôi lắc đầu, nói ra những gì tôi lẽ ra phải nói với anh lâu rồi. “Cô ấy sẽ không bắt anh đâu, Qui. Đừng lo.”
“Cô ta sẽ làm vậy… nếu em có mệnh hệ gì.”
“Không. Cô ấy sẽ bắt Xuan Hoa. Hoa … muốn điều đó.” Chị ấy sẽ không muốn đâu nếu chị ở lại xem Lomas.
“Họ không bắt phụ nữ,” anh nói với vẻ khinh miệt.
“Đôi khi cũng có.” Tôi liếc nhìn anh. “Thực ra, họ ưa phụ nữ hơn. Anh nên ở gần họ khi họ nói chuyện với nhau. Họ nó phụ nữ có nhiều chất béo hơn để bảo vệ bọn trùng. Nhưng họ thường bắt đàn ông để phụ nữ có thể thoải máu sinh con của họ.”
“Để tạo ra thế hệ vật chủ kế tiếp,” anh nói, chuyển từ vẻ khinh miệt sang cay đắng.
“Chuyện không chỉ có thế!” Tôi bác lại. Phải chăng
“Nếu điều ấy xảy ra với anh, anh cũng muốn tin rằng nó không chỉ có thế.”
“Hơn thật đấy!” Tôi giống như một đứa con nít. Ngu ngốc tranh cãi.
“Em có nghĩ vậy khi T’Gatoi bắt mấy con trùng khỏi ruột gã đó không?”
“Đáng ra không như vậy đâu.”
“Chắc rồi. Đáng ra em không nên thấy điều đó, chỉ có vậy. Và Tlic của gã ta đáng ra phải làm điều đó. Cô ta có thể chích cho gã bất tỉnh và ca phẫu thuật sẽ không đau đớn mấy. Nhưng cô ta vẫn mở anh ta ra, bắt mấy con trùng, và nếu để sót dù chỉ một con, nó sẽ đầu độc và ăn gã ta từ trong ra ngoài.”
Đã có lúc mẹ bảo tôi phải tôn trọng Qui vì anh là anh lớn. Tôi bỏ đi, ghét bỏ anh ấy. Theo cách của anh, anh đang hả hê. Anh an toàn và tôi thì không. Tôi đã có thể đánh anh ấy, nhưng tôi không nghĩ là tôi có thể chịu được khi anh từ chối đánh trả, khi anh nhìn tôi với vẻ xem thường và thương hại.
Anh sẽ không để tôi đi khỏi. Sải chân dài hơn, anh vượt ra trước tôi và làm tôi có cảm giác mình đang đi theo anh ấy.
“Anh xin lỗi,” anh nói.
Tôi bước tiếp, khó chịu và tức giận.
“Xem kìa, chắc là sẽ không tệ như vậy với em đâu. T’Gatoi thích em. Cô ấy sẽ cẩn thận mà.”
Tôi quay lại phía nhà, gần như chạy khỏi anh.
“Cô ta đã làm điều ấy với em chưa?” anh hỏi, dễ dàng đuổi kịp. “Ý anh là, em đã ở độ tuổi phù hợp để cấy trứng. Cô ta đã—”
Tôi đánh anh ấy. Tôi không hề biết tôi sẽ làm việc đó, nhưng tôi nghĩ tôi muốn giết anh ta. Nếu anh không lớn và mạnh hơn, tôi nghĩ tôi đã làm rồi.
Anh cố giữ tôi lại, nhưng đến cuối cùng, anh cũng phải tự vệ. Anh chỉ đánh tôi một hai lần. Đã là nhiều rồi. Tôi nhớ là đã ngã, nhưng khi tỉnh lại, anh đã đi rồi. Đau đớn cũng đáng nếu tôi có thể thoát khỏi anh.
Tôi đứng dậy và chậm rãi đi về nhà. Phía sau nhà rất tối. Không ai ở trong bếp. Mẹ và các anh chị đang ngủ trong phòng của họ—hoặc đang giả vờ ngủ.
Khi tôi ở trong bếp, tôi có thể nghe thấy tiếng nói—của Tlic và Người Trái Đất ở phòng bên. Tôi không rõ họ đang nói gì—cũng không muốn được rõ.
Tôi ngồi xuống bàn của mẹ tôi, chờ đợi trong im lặng. Chiếc bàn nhẵn nhụi và mòn, nặng và được chế tác tốt. Cha tôi đã làm nó cho bà trước khi ông qua đời. Tôi nhớ về việc mình loanh quanh dưới chân ông khi ông làm nó. Ông không quan tâm. Giờ tôi ngồi dựa vào nó, nhớ về ông. Tôi đã có thể nói chuyện với ông. Ông đã làm việc đó ba lần trong đời. Ba ổ trứng, ba lần bị mở ra và khâu lại. Ông đã trải qua điều đó thế nào? Mọi người đã trải qua như thế nào?
Tôi ngồi dậy, lấy cây súng trường từ chỗ cất, và lại ngồi xuống với nó. Nó cần được vệ sinh và tra dầu.
Mọi thứ tôi làm chỉ là lên đạn.
“Gan hả?”
Cô phát ra rất nhiều tiếng lách cách nhỏ khi đi trên sàn, từng cái chi liên tiếp tạo ra tiếng lách cách khi chạm đất. Từng đợt tiếng lách cách nhỏ.
Cô tới chỗ cái bàn, nâng nửa người trước của mình lên đó, và trườn lên nó. Đôi lúc cô chuyển động thật mượt mà như nước chảy. Cô ấy cuộn mình lại thành một khối nhỏ giữa bàn và nhìn tôi.
“Tệ thật đấy,” cô nhẹ nhàng nói. “Cháu không nên thấy điều đó. Vốn dĩ nó không cần phải như vậy.”
“Cháu biết.”
“T’Khotgif—giờ thì đã là Ch’Khotgif rồi—cô ấy sẽ chết vì căn bệnh. Cô ấy sẽ không thể sống để nuôi mấy đứa con mình. Nhưng chị của cô ấy sẽ lo cho chúng nó, và cho cả Bram Lomas.” Người chị vô sinh. Một người phụ nữ ngẫu nhiên sẽ có thể sinh sản. Một người để duy trì gia tộc. Người chị đó nợ Lomas nhiều hơn những gì cô ta có thể trả.
“Gã sẽ sống phải không?”
“Phải.”
“Cháu thắc mắc liệu gã sẽ lại làm việc đó lần nữa hay không.”
“Không ai yêu cầu gã làm lại cả.”
Tôi nhìn vào cặp mắt vàng, băn khoăn tôi thấy và hiểu được bao nhiêu thứ đó, và bao nhiêu là do tôi chỉ tưởng tượng. “Không ai từng hỏi chúng cháu,” tôi nó. “Cô chưa từng yêu cầu cháu.”
Cô khẽ di chuyển đầu. “Có chuyện gì với gương mặt cháu vậy?”
“Không. Không có gì quan trọng.” Mắt người chắc là không thể nhận ra chỗ sưng tấy trong bóng tối. Thứ ánh sáng duy nhất đến từ một trong các mặt trăng, chiếu xuyên qua cửa sổ vào căn phòng.
“Cháu đã dùng súng bắn con achti à?”
“Phải.”
“Và cháu định dùng nó bắn cô sao?”
Tôi nhìn cô chằm chặp, được viền bởi ánh trăng—cơ thể cô duyên dáng cuộn tròn. “Máu Người Trái Đất có vị gì với cô?”
Cô chẳng nói gì.
“Cô là gì?” Tôi thì thầm. “Chúng cháu là gì với bọn cô?”
Cô nằm yên, tựa đầu vào vòng đốt trên cùng. “Cháu hiểu cô hơn bất cứ ai,” cô nhẹ nhàng nói. “Cháu phải quyết định.”
“Đó là chuyện xảy ra với mặt cháu đấy,” tôi nói với cô.
“Cái gì cơ?”
“Qui đã thúc ép tôi vào việc quyết định làm gì đó. Việc ấy diễn ra không tốt cho lắm.” Tôi chậm rãi di chuyển khẩu súng, đưa nòng súng lên xéo cằm mình. “Ít nhất đó cũng là quyết định của cháu.”
“Và chuyện này cũng vậy.”
“Hỏi cháu đi, Gatoi.”
“Vì sự sống của các con cô sao?”
Cô sẽ nói thứ gì đó như vậy. Cô ấy biết cách thao túng người ta, Người Trái Đất và cả người Tlic. Nhưng không phải lần này.
“Cháu không muốn trở thành vật chủ,” tôi nói. “Kể cả cho cô.”
Cô ấy mất rất lâu để trả lời. “Chúng ta hầu như không dùng động vật làm vật chủ ngày nay,” cô nói. “Cháu biết mà.”
“Các cô lợi dụng chúng tôi.”
“Đúng. Chúng ta chờ các cháu nhiều năm dài và dạy dỗ các cháu, và hợp nhất gia đình chúng ta với các cháu. Cô cử động không ngừng. “Cháu biết các cháu không phải động vật với chúng ta.”
Tôi nhìn cô chằm chặp, chẳng nói gì.
“Những loài động vật chúng ta từng sử dụng đã bắt đầu giết gần hết trứng của chúng ta sau khi được cấy ghép, rất lâu trước khi tổ tiên của cháu xuất hiện,” cô nhẹ giọng. “Cháu biết những điều này mà, Gan. Bởi vì chủng tộc của cháu xuất hiện, chúng ta mới dần học lại được thế nào là một giống loài khỏe mạnh, thịnh vượng. Và tổ tiên của cháu, trốn chạy khỏi quê hương của họ, khỏi chính những kẻ đồng loại giết chóc hay nô dịch họ—họ sống sót nhờ có chúng ta. Chúng ta xem họ như những con người và cho họ Khu Bảo Tồn trong khi họ vẫn cố giết chúng ta khi vẫn còn là những con ấu trùng.”
Khi nghe đến từ “ấu trùng”, tôi nhảy dậy. Tôi không thể chịu được, và cô ấy cũng không chịu được khi nhận ra điều đó.
“Cô hiểu rồi,” cô nhỏ giọng. “Cháu thực sự thà chết chứ không chịu sinh mấy đứa con của cô sao, Gan?”
Tôi không đáp.
“Cô có nên đổi sang Xuan Hoa?”
“Vâng!” Hoa muốn điều đó. Hãy để chị ấy nhận nó đi. Chị chưa từng nhìn thấy Lomas. Chị ấy sẽ thấy tự hào… Chứ không kinh sợ.
T’Gatoi trườn từ bàn xuống sàn nhà, làm tôi rất kinh ngạc.
“Cô sẽ ngủ trong phòng Hoa tối nay,” cô nói. “Và một lúc nào đó vào đêm nay hay sáng mai, cô sẽ nói với nó.”
Chuyện này xảy ra quá nhanh. Chị Hoa chăm sóc tôi gần như bằng với mẹ. Tôi vẫn thân với chị—không như Qui. Chị ấy có thể muốn T’Gatoi và vẫn yêu thương tôi.
“Chờ đã! Gatoi!”
Cô ấy nhìn lại, rồi nâng gần nửa chiều dài cơ thể khỏi sàn và quay lại nhìn tôi. “Đây là những thứ của người lớn, Gan à. Đây là cuộc sống của cô, gia đình của cô!”
“Nhưng chị ấy là… chị của cháu.”
“Cô đã làm như cháu yêu cầu. Cô đã hỏi cháu!”
“Nhưng—”
“Điều này sẽ dễ dàng hơn với Hoa. Nó luôn mong đợi được mang những sự sống khác trong mình.”
Sự sống con người cơ. Những đứa trẻ con người một ngày nào đó sẽ lớn lên bằng sữa từ bầu vú chị, không phải máu của chị
Tôi lắc đầu. “Đừng làm thế với chị ấy, Gatoi.” Cháu không phải Qui. Có lẽ là cháu có thể trở thành anh ấy, dù sao thì, cũng chẳng cần tí nỗ lực nào cả. Cháu có thể biến Xuan Hoa thành lá chắn cho mình. Liệu có dễ chịu hơn khi biết bọn trùng đỏ tươi đó sinh trưởng trong thịt của chị ấy thay vì cháu?
“Đừng làm vậy với Hoa,” tôi lặp lại.
Cô nhìn tôi, hoàn toàn tĩnh lặng.
Tôi nhìn đi nơi khác, rồi quay lại nhìn cô ấy. “Hãy làm với cháu đi.”
Tôi hạ khẩu súng khỏi cổ họng và cô ấy tiến tới để lấy nó.
“Không,” tôi nói với cô.
“Đó là luật,” cô nói.
“Hãy để nó lại cho cả nhà. Một trong số họ có lẽ sẽ dùng nó để cứu mạng cháu một ngày nào đó.”
Cô nắm chặt nòng súng, nhưng tôi vẫn không thả ra. Tôi bị kéo vào một vị trí đứng trên cô ấy.
“Để nó lại đây!” Tôi lặp lại. “Nếu chúng cháu không phải những con thú vật của các cô, nếu đây là những thứ dành cho người lớn, chấp nhận rủi ro đi. Sẽ có rủi ro, Gatoi à, khi đối phó với một cộng sự.”
Rõ ràng là rất khó để cô ấy buông khẩu súng ra. Một cơn rùng mình xuyên qua cô và cô phát ra một tiếng rít đau khổ. Tôi chợt nhận ra rằng cô ấy đang sợ. Cô đủ già dặn để biết súng ống có thể làm gì người ta. Giờ thì bọn trẻ của cô và khẩu súng này sẽ ở chung một nhà. Cô không hề biết về những khẩu khác. Trong cuộc tranh giành này, chúng không quan trọng.
“Cô sẽ cấy quả trứng đầu tiên tối nay,” cô nói khi tôi vứt khẩu súng đi. “Cháu có nghe không, Gan?”
Còn lý do gì khác khiến tôi được cho nguyên quả trứng để ăn trong khi cả nhà phải chia nhau quả còn lại? Còn lý do gì khác để mẹ tôi cứ nhìn tôi như thể tôi sắp rời xa khỏi bà, đến nơi nào đó bà không thể theo được? Liệu T’Gatoi có tưởng rằng tôi chưa hề biết hay không?
“Cháu nghe rồi.”
“Ngay bây giờ!” Tôi để cô đưa tôi ra khỏi bếp, rồi đi thẳng đến phòng ngủ của tôi. Sự thôi thúc đột ngột trong giọng cô ấy nghe rất thật. “Cô sẽ làm điều đó với Hoa tối nay sao!” Tôi buộc tội.
“Cô phải làm với ai đó đêm nay.”
Tôi dừng lại bất chấp sự thôi thúc của cô và đứng chặn đường cô ấy. “Cô không quan tâm là ai sao?”
Cô trườn quanh tôi và vào trong phòng ngủ của tôi. Tôi thấy cô đang đợi trên chiếc giường chúng tôi chia sẻ với nhau. Không thứ gì trong phòng Hoa mà cô có thể sử dụng. Cô sẽ làm điều đó với Hoa trên sàn. Ý nghĩ về việc cô làm điều ấy với Hoa đã làm tôi rối loạn theo một cách khác lúc này, và tôi đột nhiên tức giận.
Nhưng rồi tôi cởi đồ và nằm xuống cạnh cô. Tôi biết phải làm gì, phải mong đợi gì. Tôi đã được bảo trong suốt cả đời mình. Tôi cảm nhận được cú chích quen thuộc, mê man, nhẹ nhàng dễ chịu. Sau đó là sự thăm dò mù quáng của cơ quan đẻ trứng của cô ấy. Vết thủng không đau, dễ chịu. Thật dễ đi vào. Cô ấy uốn éo cơ thể với tôi, các cơ của cô ấy ép quả trứng từ cơ thể cô vào tôi. Tôi giữ vào một đôi chi của cô ấy đến khi nhớ ra rằng Lomas cũng giữ như vậy. Rồi tôi buông ra, vô tình cử động, và tổn thương cô ấy. Cô kêu một tiếng đau nhỏ và tôi thì mong được lồng lại bên trong các chi của cô. Khi tôi không được, tôi lại bám vào cô ấy, cảm thấy xấu hổ một cách kỳ quặc.
“Cháu xin lỗi,” tôi thì thầm.
Cô xoa bóp vai tôi bằng bốn cái chi.
“Cô có quan tâm không?” Tôi hỏi. “Cô có quan tâm rằng người đó là cháu không?”
Cô không trả lời một lúc. Cuối cùng đáp, “Cháu là người đưa ra lựa chọn tối nay, Gan à. Cô đã có quyết định của mình lâu rồi.”
“Cô sẽ tới chỗ Hoa sao?”
“Phải. Sao cô có thể đưa con mình vào tay người ghét bỏ chúng?”
“Đó không phải là… ghét bỏ.”
“Cô biết đó là gì mà.”
“Đó là nỗi sợ.”
Một sự im lặng.
“Cháu vẫn còn sợ.” Tôi đã có thể thú nhận với cô ở tại đây, lúc này.
“Nhưng cháu đã đến với cô… để cứu Hoa.”
“Phải.” Tôi dựa trán vào cô ấy. Cô như một tấm lụa lạnh, thật mềm mại. “Và để giữ cô cho mình,” tôi nói. Đúng như vậy. Tôi không thể hiểu nổi điều đó, nhưng nó là vậy.
Tôi khẽ nói một tiếng đầy mãn nguyện. “Cô không thể tin là mình đã sai lầm về cháu,” cô nói. “Cô đã chọn cháu. Cô tin rằng cháu rồi sẽ chọn cô.”
“Cháu đã chọn cô, nhưng mà…”
“Lomas lại xuất hiện.”
“Phải.”
“Cô chưa từng biết Người Trái Đất nào nhìn một ca sinh nở và chấp nhận được nó. Qui đã thấy một ca rồi, đúng chứ?”
“Đúng.”
“Người Trái Đất nên được bảo vệ khỏi việc nhìn thấy.”
Tôi không thích giọng điệu đó—và tôi nghi ngờ rằng điều đó là có thể. “Không cần bảo vệ,” tôi nói. “Được thấy. Được thấy khi chúng cháu là những đứa trẻ, và được thấy hơn một lần. Gatoi à, không Người Trái Đất nào từng thấy một cuộc sinh nở diễn ra đúng đắn. Tất cả những gì chúng cháu thấy là N’Tlic—đau đớn và sợ hãi và có thể chết.”
Cô nhìn xuống tôi. “Đó là một việc riêng tư. Đó vẫn luôn là một việc riêng tư.”
Giọng điệu của cô ấy khiến tôi không thể tiếp tục—điều đó và biết rằng nếu cô thay đổi quyết định, tôi có thể trở thành ví dụ công khai đầu tiên. Nhưng tôi đã gieo được điều đó vào suy nghĩ của cô ấy. Có cơ hội là điều ấy sẽ phát triển, và cuối cùng thì cô ấy sẽ tiến hành thử nghiệm.
“Cháu sẽ không nhìn thấy chuyện đó nữa,” cô nói. “Cô không muốn cháu nghĩ thêm về việc bắn cô.”
Một lượng chất lỏng nhỏ chảy vào tôi cùng với trứng của cô ấy làm tôi thư giãn giống như quả trứng vô noãn kia tôi từng ăn vậy, để cho tôi có thể nhớ lại khẩu súng trường trên tay mình và cảm giác sợ hãi cùng ghê tởm, tức giận và tuyệt vọng. Tôi có thể nhớ lại những cảm giác ấy mà không làm chúng trỗi dậy. Tôi có thể nói về chúng.
“Cháu sẽ không bắn cô,” tôi nói. “Không phải cô.” Cô được sinh ra từ máu thịt của cha tôi khi ông ở tuổi tôi bây giờ.
“Cháu đã có thể bắn,” cô ấy khăng khăng.
“Không phải cô.” Cô đã đứng giữa tôi và giống loài của chính cô, bảo vệ, kết nối.
“Liệu cháu có tự tổn hại chính mình không?”
Tôi cẩn thận di chuyển đầy khó chịu. “Cháu có thể đã làm điều đó. Gần như vậy. Đó là ‘sự tránh né’ của Qui. Cháu thắc mắc liệu anh ấy có biết không.”
“Gì cơ?”
Tôi không đáp.
‘Giờ cháu sẽ sống thôi.”
“Phải.” Hãy chăm sóc cô ấy, mẹ tôi từng nói vậy. Phải.
“Cô vẫn còn trẻ và khỏe mà,” cô ấy nói. “Cô sẽ không bỏ cháu như cách Lomas đã bị bỏ rơi—như một N’Tlic cô độc. Cô sẽ chăm sóc cho cháu mà.”
Hết
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Lời kết
Thật kinh ngạc khi vài người coi “Đứa con máu mủ” là một câu chuyện về sự nô dịch. Nó không phải vậy. Thay vào đó, câu chuyện này là một vài điều khác. Ở một mức độ, nó là câu chuyện tình yêu giữa hai sinh vật rất khác biệt. Ở mức khác, nó là câu chuyện về sự trưởng thành khi mà một cậu con trai phải chấp nhận thông tin không hay và dùng nó để ra một quyết định mà sẽ ảnh hưởng đến quãng đời còn lại của anh ta.
Ở mức độ thứ ba, “Đứa con máu mủ” là câu chuyện về việc đàn ông có thai. Tôi đã luôn muốn khám phá xem sẽ như thế nào đối với một người đàn ông khi bị đưa vào hoàn cảnh khác thường nhất. Có phải tôi đã có thể viết một câu chuyện trong đó một người đàn ông chọn mang thai không phải qua vài thứ cạnh tranh không đúng chỗ để chứng minh là đàn ông có thể làm bất cứ thứ gì phụ nữ có thể, không phải vì anh ta bị ép buộc, cả không phải vì quá tò mò? Tôi muốn thấy liệu tôi có thể viết một câu chuyện gay cấn về một người đàn ông mang thai như một hành động của tình yêu—chọn việc có thai mặc dù, và bắt nguồn từ, những khó khăn xung quanh.
Ngoài ra, “Đứa con máu mủ” là nỗ lực để xóa nhòa một nỗi sợ cũ của tôi. Tôi đã dự định du lịch đến Peruvian Amazon để thực hiện nghiên cứu cho cuốn sách di truyền của tôi (Dawn, Adulthood Rites, and Imago), và tôi đã lo lắng về những phản ứng có thể xảy ra của tôi đối với một vài cuộc sống của côn trùng trong khu vực. Đặc biệt, tôi lo lắng về con botfly - một loài côn trùng mà, với tôi khi đó, có những thói quen kinh dị. Không thiếu những con botfly ở một phần của Peru mà tôi dự định đến thăm.
Con botfly đẻ trứng trong những vết thương do vết cắn của các loài côn trùng khác. Tôi thấy ý tưởng về một con giòi sống và phát triển dưới da của tôi, ăn thịt của tôi khi nó lớn lên là không thể chịu đựng được, đáng sợ đến nỗi tôi không biết làm thế nào tôi có thể chịu đựng được nếu nó xảy ra với tôi. Để làm cho vấn đề tệ hơn, tất cả những gì tôi nghe và đọc khuyên các nạn nhân của con botfly không nên cố gắng loại bỏ những hành khách giòi của họ cho đến khi họ trở về nhà ở Hoa Kỳ và có thể đi đến bác sĩ— hoặc cho đến khi con ruồi kết thúc quá trình ấu trùng của chu kỳ sinh trưởng của nó, bò ra khỏi vật chủ, và bay đi.
Vấn đề là làm những gì có vẻ là điều bình thường, bắt con giòi ra và vứt nó đi, là mời gọi sự nhiễm trùng. Giòi trở nên gắn liền theo nghĩa đen với vật chủ của nó và để lại một phần của chính nó, bị phá hủy, nếu nó bị ép hoặc cắt ra. Tất nhiên, phần bị bỏ lại chết và thối rữa, gây nhiễm trùng. Dễ thương thật.
Khi tôi phải đối phó với một cái gì đó làm tôi sợ hãi nhiều như con botfly đã làm, tôi viết về nó. Tôi giải quyết các vấn đề của mình bằng cách viết về chúng. Trong một lớp học trung học vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, tôi nhớ đã lấy một cuốn sổ tay và bắt đầu viết phản ứng của tôi trước tin tức về vụ ám sát John Kennedy. Cho dù tôi viết các trang nhật ký, một bài tiểu luận, một câu chuyện ngắn, hoặc dệt các vấn đề của tôi thành một cuốn tiểu thuyết, tôi thấy việc viết lách giúp tôi vượt qua những rắc rối và tiếp tục cuộc sống của mình. Viết "Đứa con máu mủ" không làm cho tôi thích bọn botfly, nhưng trong một lúc, điều ấy làm cho chúng có vẻ thú vị hơn là kinh khủng.
Có một điều nữa tôi đã cố gắng làm trong “Đứa con máu mủ.” Tôi đã cố gắng viết một câu chuyện về việc trả lại món nợ—một câu chuyện về một thuộc địa bị cô lập của con người trên một thế giới ngoài hệ mặt trời có người ở. Tốt nhất, họ sẽ cách xa quân tiếp viện cả một đời người. Nơi đó sẽ không phải là Đế quốc Anh trong không gian, và nó sẽ không phải là Star Trek. Sớm muộn gì, con người sẽ phải làm một số loại cộng sinh với ừm... vật chủ của họ. Rất có thể đây sẽ là một sự cộng sinh bất thường. Ai biết con người chúng ta có gì mà những người khác có thể sẵn sàng trao đổi cho một không gian đáng sống trên một thế giới không phải của chúng ta?
Hết
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Diệu Mây
~~••~~••~~••~~••~~~~••~~••~~••~~••~~
Tác giả Octavia E. Butler (Ảnh: The Guardian)
Google Doodle chúc mừng sinh nhật lần thứ 71 của Octavia Butler (22/06/2018)
1 note
·
View note
Text
Sự thật của sự thật, sự thật của cảm giác - Ted Chiang
Về tác giả
Ted Chiang (sinh năm 1967) là nhà văn khoa học viễn tưởng người Mỹ. Ông có bằng cử nhân ngành khoa học máy tính, và làm chuyên viên thiết lập tài liệu kỹ thuật song song với công việc viết văn. Các tác phẩm khoa học viễn tưởng của ông thường thiên về suy tưởng, khai thác những ảnh hưởng của khoa học lên đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ted Chiang sáng tác không nhiều - cho đến nay ông mới chỉ xuất bản hai tập truyện ngắn là Stories of Your Life and Others (2002) và Exhalation (2019) - nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao. Ông đã từng được trao tặng bốn giải Nebula, bốn giải Hugo, và bốn giải Locus. Truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông, Chuyện đời con (tựa gốc: Story of Your Life) đã được Hollywood chuyển thể thành bộ phim Arrival năm 2016, đạt được nhiều thành công.
Về tác phẩm
Sự thật của sự thật, sự thật của cảm giác (tựa gốc: The Truth of Fact, the Truth of Feeling) là một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của Ted Chiang. Truyện được đăng tải lần đầu vào tháng 8/2013 trên tạp chí điện tử Subterranean, sau được in trong tuyển tập Exhalation.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi con gái Nicole của tôi còn nhỏ, tôi từng đọc một bài tiểu luận đề xuất rằng có lẽ không còn cần thiết phải dạy trẻ cách đọc hoặc viết, bởi công nghệ nhận diện và tổng hợp giọng nói sẽ sớm làm cho những khả năng đó trở nên thừa thãi. Tôi và vợ đã rất kinh hoàng với ý tưởng này, và chúng tôi kiên quyết rằng, dù công nghệ có trở nên tinh vi thế nào đi nữa, những kỹ năng của con gái chúng tôi vẫn sẽ luôn dựa trên nền tảng của việc học chữ truyền thống.
Hóa ra cả chúng tôi và người viết bài luận đó đều chỉ đúng một nửa: giờ đây con gái tôi đã lớn, Nicole vẫn có thể đọc tốt như tôi. Nhưng có cảm giác con bé đã mất khả năng viết. Con bé không đọc ra tin nhắn và yêu cầu một thư ký ảo đọc lại những gì con bé vừa nói, đúng theo cách mà người viết bài luận năm nào đã dự đoán; khi Nicole đọc nhẩm, màn hình võng mạc sẽ hiển thị các từ ngữ trong phạm vi nhìn của con bé, và con bé kiểm tra lại bằng cách sử dụng kết hợp giữa cử chỉ và chuyển động mắt. Đối với tất cả các mục đích thực tế, con bé có thể viết. Nhưng nếu bỏ đi phần mềm hỗ trợ và chỉ đưa cho con bé một chiếc bàn phím giống cái mà tôi vẫn luôn trung thành sử dụng, con bé sẽ gặp khó khăn trong việc đánh vần nhiều từ trong chính câu này. Trong những hoàn cảnh cụ thể đó, tiếng Anh giống như ngôn ngữ thứ hai với con bé, thứ ngôn ngữ mà con bé có thể nói trôi chảy nhưng hầu như không thể viết.
Nghe có vẻ tôi đang thất vọng về những thành tích trí tuệ của Nicole, nhưng hoàn toàn không phải vậy. Con gái tôi thông minh và tận tâm với công việc ở bảo tàng nghệ thuật của mình trong khi con bé có thể kiếm nhiều tiền hơn ở những chỗ khác, và tôi luôn tự hào về những thành quả của con bé. Nhưng tôi không thể phủ nhận rằng tôi vẫn tiếp tục là tôi ở quá khứ, người đã luôn sợ con gái mình mất đi khả năng đánh vần.
Đã hơn hai mươi năm kể từ khi tôi đọc bài tiểu luận nọ, và trong khoảng thời gian đó, cuộc sống chúng tôi trải qua vô số thay đổi mà tôi không thể đoán trước được. Thay đổi lớn nhất là khi mẹ của Nicole, Angela, tuyên bố rằng Nicole xứng đáng một cuộc sống tốt hơn cuộc sống chúng tôi mang lại cho con bé, và dành thập kỷ tiếp theo đi du ngoạn khắp thế giới. Thế nhưng những thay đổi dẫn đến cách thức đọc viết hiện tại của Nicole thì bình thường và tuần tự hơn: một loạt các phần mềm cải tiến không chỉ hứa hẹn, mà thực tế đã mang lại những tiện ích và thuận lợi, và tôi không phản đối bất kỳ ứng dụng nào vào thời điểm chúng được giới thiệu.
Vì thế, tôi không có thói quen dự phần vào những tiên đoán bi quan mỗi khi có một sản phẩm mới được công bố; tôi đã chào đón các công nghệ mới một cách nhiệt tình như bao người khác. Nhưng khi Whetstone ra mắt công cụ tìm kiếm mới mang tên Remem, nó đã khiến tôi lo ngại theo một cách mà không một sản phẩm nào trước đó làm được.
Hàng triệu người, một số ở độ tuổi của tôi nhưng hầu hết là người trẻ hơn, đã giữ những lifelog suốt nhiều năm, đeo những máy quay cá nhân để liên tục thu lại các đoạn video về toàn bộ cuộc sống của họ. Người ta tìm đến các lifelog vì đủ loại lý do khác nhau—từ hồi tưởng những khoảnh khắc yêu thích đến tìm ra nguyên nhân của các phản ứng do dị ứng— nhưng những đoạn video này cũng chỉ ngắt quãng; không ai muốn dành tất cả thời gian của mình lập ra các truy vấn rồi sàng lọc kết quả. Lifelog chính là album ảnh hoàn chỉnh nhất có thể hình dung được, nhưng giống hầu hết các album ảnh, chúng chỉ nằm im trừ những dịp đặc biệt. Giờ đây Whetstone hướng đến mục tiêu thay đổi tất cả những điều đó; họ tuyên bố rằng các thuật toán của Remem có thể dò được toàn bộ đáy bể ngay khi bạn nói xong từ “cây kim”..
Remem theo dõi các cuộc trò chuyện của bạn để kết nối chúng với những sự kiện trong quá khứ, và sau đó trình chiếu video về sự kiện đó ở góc dưới bên trái tầm nhìn của bạn. Nếu bạn nói “nhớ điệu nhảy conga ở đám cưới đó chứ?”, Remem sẽ hiển thị video đó. Nếu người mà bạn đang nói chuyện bảo rằng “lần cuối chúng ta ở bãi biển này”, Remem cũng sẽ cho đoạn video về sự kiện đó xuất hiện. Và không chỉ được sử dụng khi nói chuyện với người khác, Remem còn theo dõi cả những lời bạn nhẩm trong đầu. Nếu bạn đang đọc nhẩm “nhà hàng Tứ Xuyên đầu tiền bạn tới ăn”, dây thanh quản của bạn sẽ di chuyển như thể là bạn đang đọc to những từ đó, và Remem sẽ trình chiếu đoạn video liên quan.
Không thể phủ nhận sự hữu ích của một phần mềm thực sự có thể trả lời câu hỏi “mình để chìa khóa ở đâu nhỉ?” Nhưng Whetstone đang muốn đặt Remem ở địa vị còn cao hơn là một trợ lý ảo có ích: họ muốn nó thay thế trí nhớ tự nhiên của bạn.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Vào mùa hè năm Jijingi mười ba tuổi, một người châu Âu đến sống trong làng. Những cơn gió khô đầy bụi của sa mạc vừa bắt đầu thổi từ phía Bắc khi Sabe, vị trưởng lão vẫn được mọi gia đình ở trong làng coi là thủ lĩnh, đưa ra thông báo.
Tất nhiên, phản ứng ban đầu của mọi người là hoảng sợ. Bố của Jijingi hỏi Sabe: “Chúng ta đã làm gì sai?”
Người châu Âu lần đầu đến Tivland nhiều năm về trước, và khi ấy các già làng đã nói rằng một ngày họ sẽ rời đi và cuộc sống sẽ lại trở về như xưa, cho đến ngày đó thì người Tiv cần phải sống hòa hợp với họ. Điều này dẫn đến nhiều thay đổi trong đời sống của người Tiv, nhưng chưa có người châu Âu nào từng đến sống giữa cộng đồng người Tiv như vậy. Lý do phổ biến khiến người châu Âu đến ngôi làng này là để thu thuế cho những con đường mà họ xây; và họ đến thăm một số thị tộc thường xuyên hơn bởi những người này từ chối trả thuế, nhưng việc này lại không xảy ra ở gia tộc Shangev. Sabe và những bô lão khác trong thị tộc đồng ý rằng nộp thuế là chiến lược tốt nhất.
Sabe bảo mọi người rằng không cần lo lắng. “Người châu Âu này là một nhà truyền giáo, vì thế tất cả những gì ông ấy làm chỉ là cầu nguyện. Ông ấy không có quyền phạt chúng ta, nhưng việc ta chào đón ông ấy sẽ làm người trong chính quyền hài lòng.”
Ông ra lệnh xây hai túp lều cho nhà truyền giáo, một lều để ngủ và một lều để tiếp khách. Trong nhiều ngày sau đó, mọi người đều bớt chút thời gian nghỉ giữa vụ thu hoạch cây cao lương để giúp xếp gạch, cắm trụ xuống đất, dệt cỏ lợp mái nhà. Đến bước cuối cùng, khi đang đập sàn nhà, người truyền giáo đến. Những người khuân vác xuất hiện trước tiên’ những chiếc hộp mà họ mang theo có thể nhìn thấy từ xa khi họ đang len lỏi qua những cánh đồng sắn; nhà truyền giáo xuất hiện cuối cùng, có vẻ đã kiệt sức dù ông ấy chẳng mang thứ gì. Ông ấy tên là Moseby, và ông cảm ơn mọi người vì đã giúp xây dựng lều. Ông ấy cố gắng giúp đỡ, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng mình chẳng biết làm gì cả, nên cuối cùng ông chỉ ngồi dưới tán cây bồ kết và lau đầy bằng một mảnh vải.
Jijingi tò mò quan sát nhà truyền giáo. Người đàn ông mở một trong những hộp của mình và lấy ra một thứ gì đó thoạt nhìn như một khối gỗ, nhưng khi ông mở nó ra thì Jijingi nhận ra đó là một xấp giấy được buộc chặt. Jijingi đã thấy những tờ giấy này trước đây; khi người châu Âu thu thuế, họ đưa lại giấy tờ để ngôi làng có bằng chứng về những gì họ đã trả. Nhưng số giấy tờ mà nhà truyền giáo đang xem rõ ràng là một loại khác, và hẳn phải có mục đích khác.
Người đàn ông nhận thấy Jijingi đang nhìn mình, và mời cậu đến gần hơn. “Tên ta là Moseby”, ông ấy nói. “Thế cháu tên gì?”
“Cháu là Jijingi, con bố Orga của tộc Shangev”.
Moseby mở xấp giấy ra và chỉ vào nó. “Cháu đã nghe chuyện về Adam chưa?” ông hỏi. “Adam là người đầu tiên trên trái đất. Chúng ta đều là con cái của Adam”.
“Ở đây chúng cháu là hậu duệ của Shangev”. Jijingi trả lời. “Và tất cả mọi người ở Tivland đều là hậu duệ của Tiv.”
“Đúng thế, nhưng thủy tổ Tiv của cháu chính là hậu duệ của Adam, và tổ tiên của ta cũng vậy. Chúng ta đều là anh em. Cháu hiểu chứ?”
Nhà truyền giáo nói như thể lưỡi ông ta quá lớn so với miệng mình, nhưng Jijingi có thể hiểu được ông nói gì. “Vâng, cháu hiểu ạ”.
Moseby mỉm cười, và chỉ vào tờ giấy. “Những tài liệu này kể câu chuyện của Adam.”
“Làm sao mà giấy có thể kể chuyện được ạ?”
“Đó là một nghệ thuật mà người châu Âu chúng ta biết. Khi một người phát biểu, bọn ta sẽ ghi lại các ký hiệu lên giấy. Rồi sau đó khi người khác nhìn vào tờ giấy, anh ta sẽ nhìn những ký hiệu và biết được âm thanh mà người trước đó tạo ra. Bằng cách này, người sau có thể nghe được những gì người trước nói.
Jijingi nhớ lại điều cha cậu kể về Gbegba, người có kĩ năng sinh tồn giỏi nhất. “Nơi mà cha hoặc con không thấy gì ngoài bụi cỏ bị xáo trộn, ông ấy có thể nhìn ra một con báo đã giết một con chuột sậy tại chỗ đó và tha nó đi,” cha cậu nói. Gbegba có thể nhìn xuống đất và biết chuyện gì đã xảy ra mặc dù lúc đó ông ấy không có mặt. Nghệ thuật của người châu Âu chắc hẳn cũng tương tự: những người khéo léo trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu có thể nghe được một câu chuyện ngay cả khi họ không ở đó khi câu chuyện đó được kể.
Jijingi nói: “Ông kể cho cháu nghe câu chuyện trên tờ giấy đó với ạ.”
Moseby kể cậu nghe câu chuyện về Adam và vợ bị lừa bởi một con rắn. Rồi ông ấy hỏi Jijingi: “Cháu thích câu chuyện đó chứ?”
“Ông đúng là một người kể chuyện kém cỏi, nhưng câu chuyện này cũng đủ thú vị ạ”
Moseby cười. “Cháu nói đúng, ta không giỏi tiếng Tiv. Nhưng đây là một câu chuyện hay. Nó là câu chuyện cổ nhất của chúng ta. Nó được kể lần đầu từ rất lâu rồi, trước cả khi thủy tổ Tiv của cháu ra đời.
Jijingi nghi ngờ: “Tờ giấy đó không thể cũ như vậy được.”
“Không, tờ giấy này thì không. Nhưng những ký hiệu trên đó được sao chép từ một tờ giấy cũ hơn. Và những ký hiệu ở tờ giấy cũ hơn đó lại được sao chép từ một tờ giấy cũ hơn nữa. Và cứ việc đó được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
Nếu đúng như vậy thì điều đó thực sự ấn tượng. Jijingi rất thích truyện, và những câu chuyện cũ thường hay nhất. “Ông có bao nhiêu câu chuyện thế ạ?”
“Rất nhiều.” Moseby lật qua các trang giấy, và Jijingi có thể thấy mỗi trang đều được bao phủ kín bởi những ký hiệu; chắc hẳn có rất nhiều câu chuyện ở đó.
“Nghệ thuật mà ông nói đến, diễn giải các ký hiệu trên giấy, cái đó chỉ dành cho người châu Âu thôi ạ?”
“Không, ta có thể dạy cháu. Cháu muốn thế không?”
Jijingi gật đầu một cách thận trọng.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Là một nhà báo, tôi từ lâu đã đánh giá cao sự hữu ích của việc làm lifelog để xác minh sự thật của vấn đề. Hiếm có một thủ tục pháp lý, hình sự hay dân sự nào mà không sử dụng đến lifelog của ai đó, và đúng thật như vậy. Khi quyền lợi của công chúng bị liên lụy, việc tìm ra điều gì đã thực sự xảy ra là rất quan trọng; công lý là một phần thiết yếu của khế ước xã hội, và bạn không thể có được công bằng cho đến khi bạn biết sự thật.
Tuy nhiên, tôi rất hoài nghi về công dụng của lifelog trong các hoàn cảnh cá nhân đơn thuần. Những ngày đầu khi lifelog mới trở nên phổ biến, có các cặp đôi nghĩ rằng họ có thể dùng nó để giải quyết tranh cãi, xem ai đã thực sự nói gì, sử dụng đoạn video được ghi lại để chứng minh họ đúng. Nhưng tìm được đoạn video phù hợp thường không dễ dàng, và tất cả ngoại trừ những người quyết tâm nhất đều phải bỏ cuộc. Sự bất tiện là một rào cản, hạn chế việc tìm kiếm các lifelog về phạm vi những tình huống mà ở đó nỗ lực được bảo đảm, cụ thể là những tình huống mà ở đó công lý là yếu tố thúc đẩy.
Giờ đây với Remem, việc tìm ra khoảnh khắc chính xác trở nên dễ dàng, và lifelog trước đây gần như bị bỏ qua thì giờ lại đang được xem xét kỹ lưỡng như thể đó là hiện trường vụ án, với những bằng chứng dày đặc dùng để giải quyết các cuộc cãi vã trong gia đình.
Tôi thường viết bài cho mục tin tức, nhưng tôi cũng viết cả những bài “đinh”, và vì thế khi tôi trình bày ý tưởng bài báo về những nhược điểm tiềm ẩn của Remem cho biên tập viên quản lý của mình, anh ấy đã cho phép tôi viết bài đó. Buổi phỏng vấn đầu tiên là với một cặp vợ chồng mà tôi gọi là Joel và Deirdre, một kiến trúc sư và một họa sĩ. Không khó để gợi chuyện cho họ nói về Remem.
“Joel luôn miệng nói rằng anh ấy biết tất cả,” Deirdre nói, “ngay cả khi anh ấy không biết. Điều đó từng khiến tôi phát điên, vì tôi không thể khiến anh ấy thừa nhận mình đã từng tin vào thứ khác. Nhưng giờ tôi có thể. Chẳng hạn như gần đây chúng tôi đang nói về vụ bắt cóc của Mc Kittridge.”
Cô ấy gửi tôi đoạn video quay lại một cuộc tranh cãi giữa cô và Joel. Màn hình võng mạc của tôi hiển thị cảnh một bữa tiệc cocktail; nó được quay từ điểm nhìn của Deirdre, và Jeol đang nói với một vài người, “Rõ ràng là hắn ta đã phạm tội từ ngày hắn bị bắt giữ.”
Deirdre nói: “Không phải lúc nào anh cũng nghĩ vậy. Nhiều tháng trời anh vẫn cãi là hắn vô tội kia mà.”
Joel lắc đầu. “Không, em đang nhớ nhầm rồi. Anh nói rằng kể cả những người rõ ràng có tội vẫn xứng đáng được xét xử công bằng.”
“Đó không phải là những gì anh nói. Anh bảo là hắn đang bị bỏ tù oan.”
“Em đang nhớ nhầm sang người khác rồi, anh không nói vậy.”
“Không, chính anh đã nói thế. Anh nhìn này.” Một cửa số video riêng biệt mở ra, đó là một trích đoạn trong lifelog mà cô ấy đã tìm kiếm và phát cho những người họ trò chuyện cùng. Trong đoạn video nhỏ đó, Joel và Deirdre đang ngồi trong một quán cà phê, và Joel nói, “Gã đó chỉ là con tốt thí thôi. Cảnh sát cần trấn an dư luận, nên họ bắt giữ một nghi phạm thuận tiện. Giờ thì gã xong đời rồi.” Deidre trả lời, “Anh không nghĩ rằng gã ta có cơ hội được tha bổng sao?”, và Joel đáp, “Chỉ khi gã có đủ khả năng thuê một đội ngũ bào chữa có địa vị, và anh cá là gã không thể làm vậy. Những người ở địa vị của gã sẽ không bao giờ được xét xử công bằng.”
Tôi đóng các cửa sổ lại, và Deirdre nói, “Không có Remem thì tôi đã chẳng bao giờ có thể thuyết phục anh ấy thay đổi quan điểm của mình. Giờ thì tôi có chứng cứ rồi.”
“Được thôi, lúc đó là em đúng,” Joel nói. “Nhưng em không cần phải làm thế trước mặt bạn bè chúng ta.”
“Anh lúc nào mà chẳng trách mắng em trước mặt bạn bè. Và giờ anh lại bảo em không được làm như vậy ư?”
Đây chính là ranh giới nơi việc theo đuổi sự thật không còn là một lợi ích thực chất. Khi chỉ những người có mối quan hệ cá nhân với nhau bị ảnh hưởng, những ưu tiên khác thường quan trọng hơn, và việc theo đuổi sự thật theo kiểu pháp lý có thể có hại. Ai đã lên ý tưởng cho một chuyến du lịch thảm hại, điều đó thực sự đáng bận tâm sao? Hay bạn có cần biết ai đãng trí hơn trong việc làm những thứ lặt vặt mà đối phương yêu cầu không? Tôi không phải là chuyên gia về hôn nhân, nhưng tôi biết các cố vấn hôn nhân từng nói: xác định xem lỗi thuộc về ai không phải là lời giải. Thay vì vậy, các cặp đôi cần thừa nhận ý kiến của nhau và giải quyết các vấn đề như một đội.
Tiếp đó tôi nói chuyện với một người phát ngôn đến từ Whetstone, Erica Meyers. Thoạt đầu cô trình bày cho tôi một bài chào hàng điển hình về những lợi ích của Remem. “Làm cho thông tin dễ tiếp cận hơn là một lợi ích thực chất,” cô nói. “Việc các video được sử dụng phổ biến đã cách mạng hóa việc tuân thủ luật pháp. Các doanh nghiệp trở nên hiệu quả hơn khi họ thực hiện những chính sách quản lý hồ sơ tốt. Điều tương tự cũng xảy ra với mỗi cá nhân chúng ta khi kí ức trở nên chính xác hơn: chúng ta trở nên dần trở nên tốt hơn, không chỉ khi làm việc, mà cả khi tận hưởng cuộc sống.”
Khi tôi hỏi Erica về những cặp đôi như Joel và Deirdre, cô ấy nói, “Nếu hôn nhân của anh bền vững, Remem sẽ không làm tổn hại đến nó. Nhưng nếu anh thuộc kiểu người luôn luôn cố gắng để chứng tỏ anh đúng và bạn đời của anh sai, thì cuộc hôn nhân của anh sẽ gặp rắc rối, cho dù anh có sử dụng Remem hay không.”
Tôi thừa nhận rằng cô ấy có thể nói có lý trong trường hợp cụ thể này. Tuy nhiên, tôi đã hỏi cô rằng, cô có nghĩ Remem tạo cơ hội tốt hơn cho những tranh cãi kiểu đó nảy sinh, kể cả là trong các cuộc hôn nhân vững chắc, bằng cách giúp người ta dễ dàng ghi điểm hơn không?
“Không hề,” cô ây nói. “Remem không tạo cho họ tâm lý phải ghi điểm; họ đã tự phát triển suy nghĩ đó. Một cặp vợ chồng khác có thể dễ dàng dùng Remem để nhận ra cả hai đều đã nhớ nhầm, và trở nên dễ dàng tha thứ hơn mỗi khi kiểu sai lầm đó lại xảy ra. Tôi dự đoán rằng nhìn chung thì viễn cảnh sau sẽ phổ biến hơn đối với khách hàng của chúng tôi.”
Tôi ước tôi có được một phần lạc quan của Erica Meyers, nhưng tôi biết công nghệ mới không phải lúc nào cũng mang lại điều tốt nhất cho con người. Ai mà không ước họ có thể chứng minh phiên bản quá khứ của mình là chính xác? Tôi có thể dễ dàng nhìn thấy bản thân khi dùng Remem giống cách của Deirdre, nhưng tôi không hoàn toàn chắc chắn làm như thế sẽ tốt cho tôi. Bất kỳ người nào từng lãng phí hàng giờ lướt internet đều biết rằng công nghệ có thể khuyến khích các thói quen xấu.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Moseby thuyết pháp bảy ngày một lần, vào ngày dành cho việc nghỉ ngơi, ủ rượu và uống bia. Ông có vẻ không tán thành việc uống bia, nhưng ông không muốn nói vào ngày làm việc, vì vậy chỉ còn mỗi ngày ủ bia. Ông kể về vị thần châu Âu, và nói với mọi người rằng tuân theo quy tắc của ngài sẽ cải thiện cuộc sống, nhưng lời giải thích của ông về cách để tuân theo quy luật thì không thực sự thuyết phục.
Thế nhưng Moseby cũng khá có kỹ năng trong việc phân phát thuốc, và ông sẵn sàng học cách làm việc trên những cánh đồng, nên dần dần mọi người chấp thuận ông, và cha Jijingi đã cho phép con mình thỉnh thoảng tới thăm Moseby để học nghệ thuật viết lách. Moseby cũng đề nghị dạy những đứa trẻ khác, và trong một thời gian những người bạn đồng trang lứa của Jijingi đã đến học cùng cậu, chủ yếu để chứng tỏ rằng chúng không sợ ở gần một người châu Âu. Không lâu sau, những cậu bé khác đã chán nản và bỏ đi, nhưng vì Jijingi vẫn hứng thú với việc viết lách, hơn nữa cha cậu nghĩ việc này sẽ làm những người châu Âu vui lòng, Jijingi cuối cùng cũng được cho phép đến học hàng ngày.
Moseby giảng giải cho Jijingi cách mỗi âm thanh một người nói ra có thể được biểu thị bằng các ký hiệu khác nhau trên giấy. Chúng được xếp thành hàng như cây trồng trên cánh đồng; ta nhìn vào những kí hiệu ấy như thể đang đi dọc một luống cây, tạo ra âm thanh mà mỗi kí hiệu biểu thị, và cháu sẽ thấy rằng mình đang nói lại những gì người ban đầu nói. Moseby chỉ cho Jijingi cách viết mỗi ký hiệu khác nhau trên giấy, dùng một cái que gỗ nhỏ có lõi là bồ hóng.
Vào một tiết học điển hình, Moseby sẽ nói, và rồi viết những gì ông đã nói: “Khi đêm đến, ta sẽ ngủ”. Tugh mba a ile yo me yav. “ Có hai người.” Ioruv mban mba uhar. Jijingi cẩn thận sao chép bài vào tờ giấy của mình, và khi cậu viết xong, Moseby sẽ nhìn vào tờ giấy.
“Tốt lắm. Nhưng cháu cần chừa ra những khoảng trống khi viết.”
“Cháu có ạ.” Jijingi chỉ vào khoảng cách giữa các dòng.
“ Không, ý ta không phải vậy. Cháu có thấy khoảng cách giữa các chữ trong mỗi dòng không?” Ông chỉ vào tờ giấy của mình.
Jijingi đã hiểu. “Những kí hiệu của ông bị dính vào nhau, trong khi của cháu thì được sắp xếp đồng đểu”.
“Đây không chỉ là các kí hiệu bị dính vào nhau đâu. Chúng là… Ta không biết cháu gọi chúng là gì.” Ông lấy một xấp giấy mỏng từ bàn của mình và lướt qua chúng. “Ta không th��y nó ở đây. Ở chỗ của ta, bọn ta gọi đó là ‘từ’. Khi ta viết, phải có khoảng cách giữa các từ.
“Nhưng từ là gì vậy ạ?”
“Giải thích thế nào được nhỉ?” Nhà truyền giáo suy nghĩ một lúc. “ Nếu cháu nói chậm, cháu sẽ dừng lại một thoáng sau mỗi từ. Đó là lý do vì sao chúng ta phải để lại khoảng cách giữa mỗi từ khi viết. Như thế này: Cháu. Bao. Nhiêu. Tuổi. Rồi?” Ông ấy viết lên giấy khi ông nói, mỗi khi dừng lại thì để một khoảng trống: Anyom a ou kuma a me?
“Nhưng ông nói chậm vì ông là người nước ngoài. Cháu là người Tiv, nên cháu không dừng lại mỗi khi cháu nói. Không phải việc viết lách của cháu cũng nên như vậy sao?”
“Không quan trọng việc cháu nói nhanh thế nào. Các từ đều giống nhau bất kể cháu nói nhanh hay chậm.”
“Thế tại sao ông nói ông phải dừng lại sau mỗi từ?”
“Đó là cách dễ nhất để nhận ra được các từ. Hãy thử nói câu này chậm hơn xem.” Moseby chỉ vào câu ông vừa viết.
Jijingi nói rất chậm, như cách một người đàn ông có thể làm khi cố gắng che giấu cơn say của mình. “Tại sao lại không có khoảng trống giữa an và yom vậy ạ?”
“Anyom là một từ. Cháu không cần dừng lại giữa chừng.”
“Nhưng cháu cũng sẽ không dừng lại sau anyom đâu.”
Moseby thở dài. “Ta sẽ suy nghĩ kĩ hơn về cách giải thích ý ta định nói. Còn bây giờ, cháu chỉ cần cách ra ở những chỗ ta để lại chỗ trống thôi.”
Nghệ thuật viết lách thật là kỳ lạ. Khi gieo hạt trên ruộng, gieo hạt khoai mỡ đều nhau là tốt nhất; cha Jijingi sẽ đánh cậu nếu cậu gieo hạt dính vào nhau như cách Moseby viết các kí hiệu trên giấy. Nhưng cậu ấy đã quyết tâm học môn nghệ thuật này giỏi nhất có thể, nên nếu phải viết những kí hiệu dính vào với nhau, cậu vẫn sẽ làm vậy
Sau nhiều buổi học Jijingi cuối cùng đã hiểu ra chỗ nào cậu nên cách ra, và ý nghĩa của chữ “từ” mà Moseby muốn nói đến. Ta không thể tìm thấy nơi bắt đầu và kết thúc của từ bằng việc nghe. Những âm thanh một người tạo ra khi nói liên tục và mượt mà như thể da dê vậy, nhưng những từ sẽ như bộ xương bên dưới lớp thịt, và khoảng cách giữa chúng chính là khớp nối nơi mà bạn có thể cắt ra khi bạn muốn tách thành miếng. Nên khi để lại những khoảng cách khi viết, Moseby đã làm hiển hiện ra bộ xương bên dưới câu từ mà ông nói ra.
Jijingi nhận ra rằng, nếu cậu suy nghĩ kỹ, giờ cậu đã có thể nhận biết những từ mọi người nói trong một cuộc trò chuyện bình thường. Những âm thanh phát ra từ miệng một người không thay đổi, nhưng cách hiểu của cậu về chúng đã khác; cậu nhận thức được rằng các mảnh ghép bên trong một tổng thể hoàn chỉnh. Bản thân Jijingi cũng đã nói bằng các từ ngữ suốt bao năm qua. Chỉ là mãi tới bây giờ cậu mới nhận ra được điều đó.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Bản thân khả năng tìm kiếm dễ dàng mà Remem cung cấp cũng đã rất ấn tượng, nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ những gì Whetstone cho là tiềm năng của sản phẩm. Khi Deirdre kiểm tra sự thật về lời nói trước đây của chồng, cô đã đặt ra những truy vấn rõ ràng cho Remem. Thế nhưng Whetstone hi vọng rằng, khi mọi người quen dần với sản phẩm của họ, các truy vấn sẽ thay thế cho hoạt động hồi tưởng thông thường, và Remem sẽ được tích hợp vào quá trình suy nghĩ của họ. Một khi điều đó xảy ra, chúng ta sẽ thành các sinh vật cơ khí hóa có nhận thức, có trí nhớ hoàn hảo, video kỹ thuật số mà được lưu trữ trong silicon đã được dò và sửa lỗi sẽ đảm nhận vai trò sau khi được lấp đầy bởi thùy thái dương dễ vỡ của chúng ta.
Sẽ như thế nào khi có một trí nhớ siêu phàm? Người ta cho rằng người có trí nhớ tốt nhất từng được ghi nhận là Solomon Shereshevskii, sống tại Nga vào nửa đầu thế kỷ 20. Những nhà tâm lý học từng kiểm tra ông nhận thấy rằng ông có thể nghe một dãy từ hoặc dãy số chỉ một lần và có thể nhớ chúng trong hàng tháng thậm chí hàng năm sau đó. Dù không biết tiếng Ý, Shereshevskii vẫn có thể trích dẫn nhiều khổ trong trường ca Thần khúc mà người khác đọc cho ông nghe từ mười lăm năm trước.
Tuy nhiên, việc có một trí nhớ tốt không phải là điều may mắn như mọi người vẫn tưởng tượng. Việc đọc một đoạn văn gợi lên nhiều hình ảnh trong tâm trí Shereshevskii đến nỗi ông thường không thể tập trung vào nội dung thực sự của nó, và việc ghi nhớ vô vàn ví dụ cụ thể khiến ông khó có thể hiểu được những khái niệm trừu tượng. Có những lúc, ông cố tình quên đi. Ông viết ra những con số mà mình không còn muốn nhớ ra giấy và sau đó đốt chúng, một kiểu “đốt rừng làm rẫy” để xóa sạch những thứ vớ vẩn trong đầu, nhưng cũng vô ích.
Khi tôi nêu ra khả năng rằng một trí nhớ hoàn hảo có thể là điều bất lợi trước mặt người phát ngôn của Whetstone, Erica Meyers, cô ấy đã có sẵn câu trả lời. “Điều này không khác gì những lo ngại của mọi người trước đây về máy chiếu võng mạc,” cô nói. “Người ta lo rằng việc xem thông tin cập nhật liên tục sẽ gây mất tập trung hoặc choáng ngợp, nhưng tất cả chúng ta đều đã và đang thích nghi với chúng.”
Tôi không đề cập rằng không phải ai cũng coi đó là sự phát triển tích cực.
“Và Remem hoàn toàn có thể tùy chỉnh,” cô tiếp tục. “Nếu bất cứ lúc nào anh thấy ứng dụng này tìm kiếm quá mức so với nhu cầu của anh, anh có thể giảm mức độ phản hồi của nó. Nhưng theo bản phân tích khách hàng của chúng tôi, người dùng không làm như vậy. Khi họ trở nên thoải mái hơn với Remem, họ nhận thấy Remem phản hồi càng tốt thì nó càng hữu ích.”
Nhưng ngay cả nếu Remem nhét đầy tầm nhìn của bạn bằng hình ảnh quá khứ không mong muốn, tôi tự hỏi liệu các vấn đề có xuất hiện đơn giản bằng việc để hình ảnh đó trở nên hoàn hảo hay không.
“Tha thứ và quên đi” có một câu thành ngữ như vậy, và đối với bản ngã cao thượng được lý tưởng hóa của chúng ta, đó là tất cả những gì ta cần. Nhưng đối với con người thật của chúng ta, mối quan hệ giữa hai hành động đó không đơn giản như vậy. Trong hầu hết các trường hợp, chúng ta phải quên đi một chút trước khi có thể tha thứ; và khi ta không còn chịu nỗi đau chưa thể phai mờ thì sự xúc phạm sẽ dễ tha thứ hơn, vì thế làm cho nó trở nên ít đáng nhớ hơn, v.v. Chính vòng lặp phản hồi tâm lý này đã khiến cho sự xúc phạm gây tức giận ban đầu dường như có thể bỏ qua trong nhận thức muộn màng.
Điều tôi lo sợ là Remem sẽ làm cho vòng phản hồi này không thể tiếp tục. Bằng cách sửa từng chi tiết của một lời lăng mạ trong video không thể xóa được, nó có thể ngăn chặn sự nguôi ngoai cần thiết để sự tha thứ bắt đầu. Tôi nghĩ lại những gì Erica Meyers nói về việc Remem không có khả năng phá hỏng những cuộc hôn nhân bền vững. Ngụ ý trong lời xác nhận đó là sự khẳng định về những gì đủ điều kiện là một cuộc hôn nhân vững chắc. Nếu cuộc hôn nhân của ai đó được xây dựng dựa trên - nghe có vẻ mỉa mai - cơ sở của sự đãng trí, vậy Whetstone có quyền gì phá vỡ điều đó?
Vấn đề này không chỉ giới hạn trong hôn nhân, tất cả các mối quan hệ đều dựa trên tha thứ và quên đi. Con gái Nicole của tôi luôn cứng cỏi, bướng bỉnh khi còn nhỏ, công khai tỏ ra chống đối khi là thiếu niên. Giữa tôi và con bé xảy ra nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trong những năm tháng thiếu niên của con bé, những cuộc tranh cãi mà chúng tôi hầu hết đã có thể quên đi, và giờ quan hệ của chúng tôi khá tốt. Nếu ngày đó chúng tôi có Remem, liệu chúng tôi có còn nói chuyện với nhau hay không?
Tôi không có ý nói rằng quên đi là cách duy nhất để hàn gắn các mối quan hệ. Mặc dù tôi không còn có thể nhớ lại hầu hết các cuộc cãi vã của tôi và Nicole - và tôi cảm thấy biết ơn rằng tôi đã không thể - một trong những trận tranh cãi mà tôi nhớ rõ là trận đã thúc đẩy tôi trở thành người cha tốt hơn.
Đó là hồi Nicole mười sáu tuổi, đang học năm thứ ba ở trường trung học. Đã hai năm kể từ khi Angela, mẹ con bé, ra đi, đó có lẽ là hai năm khó khăn nhất trong cuộc đời của bố con tôi. Tôi không nhớ điều gì đã bắt đầu cuộc tranh cãi này - một điều gì đó nhỏ nhặt, chắc chắn vậy - nhưng nó ngày càng leo thang và chẳng bao lâu sau, Nicole đã trút cơn giận dữ của con bé đối với Angela lên tôi.
“Chính bố là lí do khiến mẹ ra đi! Bố đã đuổi mẹ đi! Bố cũng có thể rời đi, vì con cũng sẽ không quan tâm. Con chắc chắn sẽ sống tốt hơn nếu không có bố.” Và để chứng minh quan điểm của mình, con bé xông ra khỏi nhà.
Tôi biết con gái tôi không cố tình nói ác ý - tôi không nghĩ con bé suy nghĩ nhiều trước khi làm gì ở giai đoạn đó của cuộc đời - nhưng Nicole có lẽ đã không đưa ra một lời buộc tội gây tổn thương nếu con bé cố gắng. Tôi đã suy sụp nhiều sau khi Angela ra đi, và tôi không ngừng tự hỏi mình đã có thể làm gì khác để giữ chân con bé.
Nicole không quay về cho đến ngày hôm sau, và đêm đó đối với tôi là một đêm tự vấn lương tâm. Mặc dù tôi không tin rằng mình phải chịu trách nhiệm về việc mẹ con bé bỏ chúng tôi thì lời buộc tội của Nicole như một lời cảnh tỉnh. Tôi đã không ý thức được điều đó, thế nhưng tôi nhận ra rằng mình đã cho bản thân là nạn nhân lớn nhất khi Angela bỏ đi, chìm đắm trong nỗi tự thương hại mình bởi hoàn cảnh vô lý. Tôi thậm chí không có ý định có con, nhưng Angela muốn trở thành mẹ, và giờ đây cô ấy lại bỏ tôi một mình chịu trách nhiệm. Tại sao lại để tôi là người chịu trách nhiệm duy nhất trong việc nuôi dạy một cô gái thiếu niên? Làm thế nào mà một nhiệm vụ khó khăn như vậy lại có thể giao cho một người không có kinh nghiệm gì?
Lời buộc tội của Nicole làm tôi nhận ra tình trạng của con bé còn khó khăn hơn tôi. Ít nhất thì tôi tình nguyện thực hiện nhiệm vụ này, mặc dù đó đã là chuyện từ lâu rồi, và tôi đã chẳng hề biết trân trọng những gì mình dấn thân vào. Nicole đã buộc phải gánh vác vai trò của mình, không hề có quyền đưa ra ý kiến. Nếu ai đó có quyền phẫn uất, thì đó phải là con bé. Và dẫu tôi nghĩ rằng mình đang làm tốt vai trò của một người cha, thì rõ ràng là tôi cần phải làm tốt hơn nữa.
Tôi tự thay đổi mình. Mối quan hệ của chúng tôi không cải thiện trong một sớm một chiều, nhưng qua nhiều năm, tôi đã có thể dần cảm nhận được sự tha thứ của Nicole dành cho tôi. Tôi nhớ cái cách con bé ôm tôi trong lễ tốt nghiệp cao đẳng, và tôi nhận ra bao năm cố gắng của mình đã được đền đáp.
Liệu những năm tháng sửa chữa lỗi lầm đó có thể thực hiện được với Remem? Ngay cả nếu mỗi người trong chúng tôi có thể kiềm chế để không phản ứng trực tiếp với hành vi tồi tệ của người khác, cơ hội để xem lại một cách kín đáo trận cãi vã của chúng tôi dường như rất nguy hại. Những lời nhắc nhở sống động về cách mà con bé và tôi đã la mắng nhau trong quá khứ có thể khiến cho sự tức giận ùa về và ngăn cản chúng tôi xây đắp lại mối quan hệ của mình.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Jijingi muốn viết ra vài câu chuyện về nguồn gốc của người Tiv, nhưng người kể chuyện nói quá nhanh, và cậu không thể viết kịp họ. Moseby nói rằng cậu sẽ cải thiện hơn nếu luyện tập, nhưng Jijingi tuyệt vọng vì cậu sẽ chẳng bao giờ viết đủ nhanh như mong muốn.
Sau đó, vào một mùa hè, một người phụ nữ châu Âu tên Reiss đến thăm ngôi làng. Moseby nói cô là “một người làm công việc tìm hiểu về người khác” nhưng không thể giải thích điều đó nghĩa là gì, chỉ là cô ấy muốn tìm hiểu về Tivland. Cô đặt câu hỏi cho tất cả mọi người, từ già tới trẻ, kể cả phụ nữ và trẻ em, rồi ghi lại câu trả lời của họ. Cô không cố gắng kêu gọi bất cứ ai áp dụng các thông lệ châu Âu; trong khi Moseby khẳng định rằng không có thứ gì gọi là lời nguyền và tất cả đều là nguyện vọng của Chúa, Reiss lại hỏi cách thức hoạt động của lời nguyền, và chăm chú lắng nghe những lời giải thích về cách mà họ hàng bên cha có thể nguyền rủa bạn trong khi họ hàng bên mẹ có thể bảo vệ bạn khỏi lời nguyền.
Vào một buổi tối nọ, Kokwa, người kể chuyện hay nhất trong làng, kể câu chuyện người Tiv đã chia ra các dòng họ khác nhau như thế nào, và Reiss đã ghi lại chính xác những gì ông kể. Sau đó cô sao chép câu chuyện bằng một cái máy mà cô dùng ngón tay ấn ấn một cách ồn ào, để có một bản sao rõ ràng và dễ đọc. Khi Jijingi hỏi liệu cô ấy có thể làm một bản sao khác cho cậu được không, cô đã đồng ý, khiến Jijingi vô cùng phấn khích.
Bản giấy của câu chuyện thật đáng thất vọng. Jijingi nhớ là lần đầu tiên học viết, cậu đã tưởng tượng nó sẽ giúp cậu có một màn kể chuyện sinh động như thế cậu có ở đó. Nhưng viết lách không làm được điều đó. Khi Kokwa kể chuyện, ông ấy không chỉ dùng từ ngữ, mà còn sử dụng giọng nói của mình, cử chỉ của bàn tay, và cả ánh mắt. Ông kể chuyện bằng cả cơ thể của mình, và ta sẽ hiểu nó đúng như vậy. Những điều đó sẽ không được ghi lại trên giấy, chỉ những từ ngữ trần trụi được viết ra. Và việc đọc những từ này chỉ gợi ra cho ta một chút gì đó về trải nghiệm khi nghe chính Kokwa kể chuyện, như thể một người liếm chiếc nồi nấu đậu bắp thay vì ăn chính món đậu bắp vậy.
Jijingi vẫn rất vui vì có được bản giấy, và thỉnh thoảng sẽ đọc lại nó. Đó là một câu chuyện hay, đáng được ghi lại trên giấy. Không phải tất cả mọi thứ ghi trên giấy đều xứng đáng được như vậy. Trong suốt những bài thuyết giáo, Moseby sẽ đọc to những câu chuyện từ cuốn sách của mình, và chúng thường là chuyện hay, nhưng ông cũng sẽ đọc cả những gì đã viết vào vài ngày trước, và chúng cũng chẳng phải là những câu chuyện nữa, chỉ là những tuyên bố rằng tìm hiểu thêm về vị thần châu Âu sẽ giúp cải thiện cuộc sống người Tiv.
Vào một hôm, khi Moseby vừa hoàn thành một bài thuyết giáo hùng hồn, Jijingi khen ngợi ông ấy. “Cháu biết ông đánh giá cao tất cả những bài thuyết giáo của mình, nhưng bài hôm nay thực sự là một bài hay ạ.”
“Cảm ơn cháu”, Moseby mỉm cười. Một lúc sau, ông hỏi, “Sao cháu lại nói rằng ta đánh giá cao tất cả những bài thuyết giáo của mình?”
“Bởi vì ông luôn mong rằng người ta sẽ đọc chúng trong nhiều năm nữa.”
“Ta đâu có mong đợi điều đó. Sao cháu lại nghĩ vậy?”
“Ông viết ra tất cả trước khi trình bày chúng. Thậm chí trước khi một người nghe thuyết pháp, ông đã viết chúng ra để cho thế hệ mai sau.”
Moseby cười. “Không, ta viết chúng ra không phải vì lý do đó.”
“Vậy thì tại sao?” Jijingi biết những người ở xa sẽ không đọc chúng, vì thỉnh thoảng người đưa tin đến làng giao thư cho Moseby, và ông ấy chưa bao giờ gửi lại bài thuyết giáo của mình cho họ.
“Ta viết ra giấy để ta không quên những gì mình muốn nói khi đang thuyết pháp.”
“Sao ông có thể quên những gì mình muốn nói được ạ? Cả ông và cháu đều đang nói, và cả hai chúng ta đều chẳng cần giấy để viết lại mà.”
“Một bài thuyết giáo khác với một cuộc trò chuyện.” Moseby ngừng lại một chút, ngẫm nghĩ. “Ta muốn chắc chắn rằng bài thuyết giáo của mình hay nhất có thể. Ta sẽ không quên mình muốn nói gì, nhưng có thể ta sẽ quên cách tốt nhất để truyền đạt chúng. Nếu viết ra, ta sẽ không phải lo điều đó nữa. Nhưng viết ra giấy không giúp ta ghi nhớ, mà giúp ta suy nghĩ.”
“Viết ra giúp ông suy nghĩ như nào ạ?”
“Câu hỏi hay đấy, Jijingi” Moseby nói. “Thật kỳ lạ phải không? Ta cũng không biết giải thích thế nào, nhưng viết giúp ta quyết định những gì nên nói. Ở chỗ của ta, có một câu tục ngữ cổ là: verba volant, scripta manent. Trong tiếng Tiv, nó có nghĩa là ‘lời nói bay đi, chữ hay ở lại’. Cháu đã hiểu chưa?”
“Rồi ạ,” Jijingi nói, chỉ để lịch sự, chứ cậu không hiểu cho lắm. Nhà truyền giáo chưa già đến nỗi lú lẫn, nhưng trí nhớ của ông quả thật rất tệ và ông không muốn thừa nhận điều đó. Jijingi kể cho các bạn về điều này, và bọn trẻ đã đùa với nhau suốt mấy ngày. Cứ khi nào bọn trẻ tán gẫu, chúng sẽ thêm vào, “Cậu nhớ chưa? Việc này sẽ giúp cậu,” và bắt chước dáng điệu của Moseby khi ông ngồi viết bên bàn.
Vào một buổi tối năm sau, Kokwa thông báo rằng ông sẽ kể chuyện gia tộc Tiv đã tách ra các dòng họ khác nhau như thế nào. Jijingi mang bản giấy của mình, và cậu có thể đọc câu chuyện cùng lúc Kokwa kể. Đôi khi cậu ấy có thể đọc theo, nhưng việc đó thường rất khó hiểu vì lời kể của Kokwa không khớp với những gì được viết trên giấy. Sau khi Kokwa kể xong, Jijingi nói với ông ấy, “Ông kể chuyện này khác với câu chuyện ông kể năm ngoái.”
“Vớ vẩn,” Kokwa nói. “Khi ta kể một câu chuyện, nó sẽ không hề thay đổi, dù thời gian có trôi qua bao nhiêu đi nữa. Hãy bảo ta kể câu chuyện này hai mươi năm sau, và ta vẫn sẽ kể chính xác như vậy.”
Jijingi chỉ vào tờ giấy mình đang cầm. “Tờ giấy này là câu chuyện ông đã kể năm ngoái, và có rất nhiều điểm khác ạ.” Cậu ấy chọn một chi tiết mà mình nhớ. “Lần trước ông nói rằng, ‘người Uyengi bắt cóc phụ nữ và trẻ em mang về làm nô lệ cho chúng.’ Lần này ông lại nói là, ‘bọn họ bắt phụ nữ làm nô lệ, nhưng không dừng lại ở đó: họ còn bắt cả trẻ con làm nô lệ nữa.’”
“Đều giống nhau cả mà.”
“Giống về cốt truyện, nhưng ông đã thay đổi cách kể chuyện của mình.”
“Không,” Kokwa nói, “Ta kể chuyện y hệt như ta kể trước đây mà.”
Jijingi không muốn cố gắng giải thích từ ngữ là gì. Thay vào đó cậu nói, “Nếu ông kể hệt như cách kể trước đây, ông phải nói ‘người Uyengi bắt phụ nữ và trẻ em làm nô lệ’ chứ ạ.”
Sau một lúc Kokwa nhìn chằm chằm vào Jijingi, ông cười. “Giờ đây cháu đã học được nghệ thuật viết rồi, phải chăng cháu nghĩ điều đó là quan trọng?”
Sabe đã nghe họ tranh luận nãy giờ, mắng Kokwa. “Ông không có quyền đánh giá Jijingi. Thỏ thích một loại thức ăn, hà mã thích một loại khác. Hãy để mỗi người dành thời gian theo ý mình.
“Tất nhiên rồi, Sabe” Kokwa nói, nhưng ông ấy đã ném một cái nhìn nhạo báng về phía Jijingi.
Sau đó, Jijingi nhớ lại câu tục ngữ Moseby đã nói cho cậu. Dù Kokwa đang kể cùng một câu chuyện, ông có thể sắp xếp các từ ngữ khác nhau trong mỗi lần kể. Ông có đủ kỹ năng của một người kể chuyện để sắp xếp từ ngữ sao cho hợp lý. Đối với Moseby thì khác - ông không dùng cơ thể để diễn giải khi thuyết pháp, và từ ngữ đối với ông là thứ gì đó rất quan trọng. Jijingi nhận ra rằng Moseby viết lại bài thuyết pháp của mình không phải vì trí nhớ kém, mà vì ông đang tìm kiếm một lối sắp xếp từ ngữ đặc biệt nào đó. Khi đã tìm được thứ mà mình muốn, ông có thể giữ nó bao lâu tùy thích.
Vì tò mò, Jijingi đã thử tưởng tượng rằng mình đang thuyết pháp, và bắt đầu viết ra những gì mình sẽ nói. Ngồi giữa đám rễ cây xoài với cuốn sổ mà Moseby đã đưa cho cậu, cậu có thể soạn ra một bài thuyết pháp về tsav, thứ phẩm chất giúp một số người có quyền lực đối với những người khác, một chủ đề mà Moseby không hiểu và gạt đi, cho đó là ngu ngốc. Đầu tiên Jijingi thử đọc bài thuyết pháp đó cho một người bạn của cậu nghe, nhưng người bạn đó nói rằng nó thật tệ, dẫn đến một vụ ẩu đả ngắn giữa hai đứa, nhưng sau đó Jijingi buộc phải thừa nhận rằng bạn mình đã đúng. Cậu thử viết lại bài thuyết pháp của mình lần thứ hai, thứ ba rồi cuối cùng đã trở nên chán ngán và đổi sang các chủ đề khác.
Khi ngồi luyện viết, Jijingi dần hiểu ra ý của Moseby; viết không chỉ là cách để ghi lại những gì người khác nói; việc đó còn giúp ta quyết định những gì mình nên nói trước khi nói ra. Và từ ngữ không chỉ là những mảnh ghép của lời nói, chúng còn là những mảnh ghép của suy nghĩ. Khi viết ra, ta có thể nắm bắt được suy nghĩ của mình như những viên gạch trong tay và xếp chúng theo các cách khác nhau. Việc viết giúp ta nhìn lại suy nghĩ của mình theo cái cách mà việc nói không làm được, và một khi đã nhìn lại, ta có thể cải thiện chúng, làm chúng mạnh mẽ, trau chuốt hơn.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Các nhà tâm lý học phân biệt rõ ràng giữa bộ nhớ ngữ nghĩa - kiến thức về những sự thật chung - và bộ nhớ từng hồi - ký ức về các trải nghiệm cá nhân. Chúng ta đã sử dụng công nghệ để bổ sung cho bộ nhớ ngữ nghĩa kể từ khi phát minh ra chữ viết: những quyển sách đầu tiên, và sau đó là các công cụ tìm kiếm. Mặt khác, chúng ta cũng từng chống lại những phương tiện trợ giúp đó khi nói đến bộ nhớ từng hồi; rất ít người từng sở hữu nhiều nhật ký hay album ảnh như cách họ sở hữu những cuốn sách bình thường. Lý do rõ ràng là sự tiện lợi; nếu muốn có một cuốn sách về các loài chim ở Bắc Mỹ, chúng ta có thể tham khảo cuốn sách mà một nhà điểu học đã viết, nhưng nếu muốn có một quyển nhật ký hàng ngày, chúng ta phải tự viết cho chính mình. Tuy nhiên tôi cũng thắc mắc liệu có lý do khác rằng, trong tiềm thức, chúng ta coi bộ nhớ từng hồi như một phần không thể thiếu trong danh tính của mình đến nỗi chúng ta không muốn bộc lộ ra, biến chúng thành những cuốn sách trên giá hoặc các tệp trong máy tính.
Điều này có lẽ sắp thay đổi. Trong nhiều năm, các bậc cha mẹ đã ghi lại mọi khoảnh khắc của con cái mình, vì vậy ngay cả khi trẻ không đeo camera cá nhân, thì các lifelog của chúng vẫn được tổng hợp một cách hiệu quả. Hiện nay các bậc cha mẹ đang cho con cái đeo máy chiếu võng mạc ở độ tuổi ngày càng nhỏ vì thế chúng có thể hưởng lợi từ các tác tử phần mềm(một phần mềm máy tính tự động hành động phản ứng lại sự thay đổi của môi trường nhằm đáp ứng mục tiêu đã được thiết kế trước) hỗ trợ sớm hơn. Tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu trẻ bắt đầu sử dụng Remem để truy cập các lifelog: cách nhận thức của chúng sẽ khác với chúng ta bởi hành động hồi tưởng sẽ khác. Thay vì nghĩ về một sự kiện trong quá khứ của mình và nhìn nhận nó thông qua trí nhớ, đứa trẻ sẽ tập trung nghĩ về những gì liên quan đến nó và xem các cảnh quay video bằng con mắt thể chất của mình. Bộ nhớ từng hồi sẽ hoàn toàn lấy công nghệ làm trung gian.
Một nhược điểm rõ ràng của sự phụ thuộc này là khả năng con người trở nên hay quên bất cứ khi nào phần mềm đó gặp sự cố. Thế nhưng điều khiến tôi lo lắng không kém so với viễn cảnh thất bại của công nghệ là sự thành công của công nghệ: quan niệm về bản thân của một người sẽ thay đổi như thế nào khi người đó chỉ nhìn thấy quá khứ của mình qua con mắt không chớp của máy quay video? Cũng giống như việc có một vòng lặp phản hồi làm dịu đi những ký ức khắc nghiệt, tồn tại một vòng lặp phản hồi khác làm nhiệm vụ lãng mạn hóa những kỷ niệm thời thơ ấu, và việc gián đoạn quá trình đó sẽ để lại hậu quả.
Sinh nhật sớm nhất mà tôi nhớ là sinh nhật bốn tuổi; tôi nhớ được thổi nến trên bánh, cảm giác hồi hộp khi xé giấy gói quà. Không có video nào về sự kiện hôm đó, nhưng có ảnh chụp trong album gia đình và chúng đúng với những gì tôi nhớ. Trên thực tế, tôi nghi ngờ rằng mình đã không còn nhớ ngày đó nữa. Có nhiều khả năng là tôi đã tạo ra ký ức khi tôi được xem ảnh lần đầu tiên, và theo thời gian, tôi đã thấm nhuần nó bằng thứ cảm xúc mà tôi tưởng tượng rằng mình đã cảm nhận được vào ngày hôm đó. Từng chút một, qua những lần hồi tưởng lặp đi lặp lại, tôi đã tự tạo ra một kỷ niệm vui cho chính mình.
Một trong những ký ức đầu đời khác của tôi là chơi trên tấm thảm phòng khách, đẩy những chiếc ô tô đồ chơi xung quanh, trong khi bà tôi làm việc với máy khâu; bà thỉnh thoảng quay lại và mỉm cười ấm áp với tôi. Không có tấm ảnh nào ghi lại khoảnh khắc đó, vì vậy tôi biết hồi ức đó là của tôi và của riêng tôi mà thôi. Đó là một kỷ niệm đáng yêu và bình dị. Liệu tôi có muốn được cho xem những cảnh quay thực sự của buổi chiều hôm đó không? Không; hoàn toàn không.
Nói về vai trò của sự thật trong tự truyện, nhà phê bình Roy Pascal đã viết, “Một bên là sự thật của thực tế, một bên là sự thật theo cảm nhận của người viết, và nơi hai sự thật đó giao nhau không thể được quyết định trước bởi bất kỳ quyền lực bên ngoài nào.” Ký ức của chúng ta là những quyển tự truyện riêng tư, và buổi chiều với bà tôi hôm đó nổi bật trong tôi bởi những cảm xúc gắn liền với nó. Điều gì sẽ xảy ra nếu cảnh quay video tiết lộ rằng nụ cười của bà tôi trên thực tế chỉ là cười lấy lệ, rằng bà thực sự đang nản lòng vì công việc may vá của mình không suôn sẻ? Điều quan trọng đối với tôi về kỷ niệm đó là niềm hạnh phúc mà tôi gắn liền với nó, và tôi không muốn điều đó bị hủy hoại.
Với tôi, dường như video liên tục về toàn bộ thời thơ ấu sẽ chứa đầy sự thật mà không có cảm xúc gì, đơn giản vì máy ảnh không thể ghi lại chiều hướng cảm xúc của các sự kiện. Theo như máy ảnh thì buổi chiều đó với bà tôi cũng sẽ giống như hàng trăm buổi chiều khác.Và nếu tôi lớn lên với cơ hội được xem tất cả các cảnh quay, tôi sẽ không có cách nào để gán gánh nặng cảm xúc cho bất kì một ngày cụ thể nào, không có thời điểm đặc biệt nào mà xung quanh lúc đó nỗi nhớ có thể bồi đắp.
Và hậu quả sẽ ra sao khi con người có thể khẳng định rằng họ nhớ được thời thơ ấu của mình? Tôi có thể dễ dàng tưởng tượng ra tình huống bạn hỏi một người trẻ ký ức đầu tiên của cô ấy là gì, và cô chỉ đơn giản là không hiểu nổi câu hỏi; hóa ra, cô có một đoạn video quay lại ngày sinh của mình. Việc một người không thể nhớ được những năm đầu đời—cái mà các nhà tâm lý học gọi là chứng mất trí nhớ về tuổi thơ—có thể sẽ sớm không còn xảy ra nữa. Cha mẹ sẽ không còn kể cho con cái nghe những giai thoại bắt đầu bằng câu nói “Con không nhớ chuyện này vì lúc đó con chỉ là một đứa trẻ.” Cứ như thể chứng mất trí nhớ về thời thơ ấu sẽ là một đặc trưng của tuổi thơ của loài người, và theo cung cách gặm nhấm quá khứ, tuổi trẻ rồi sẽ biến mất khỏi ký ức của chúng ta.
Một phần tôi muốn ngăn chặn điều này, để bảo vệ khả năng trẻ em có thể nhìn thấy sự khởi đầu của cuộc đời mình qua lớp khăn voan, để giữ cho những câu chuyện khởi đầu đó không bị thay thế bằng video đen trắng và nhạt nhẽo. Nhưng có lẽ chúng sẽ cảm thấy ấm lòng về những ký ức kỹ thuật số nguyên vẹn của chúng giống như tôi với những ký ức hữu cơ dang dở của chính mình.
Con người được tạo nên từ những câu chuyện. Ký ức của chúng ta không phải là sự tích lũy công bằng của mỗi giây chúng ta đã sống; chúng là câu chuyện mà chúng ta tập hợp từ những khoảnh khắc có chọn lọc. Đó là lý do vì sao, ngay cả khi chúng ta trải qua những sự kiện giống như các cá nhân khác, chúng ta không bao giờ xây dựng những câu chuyện giống hệt nhau: các tiêu chí được sử dụng để lựa chọn khoảnh khắc là khác nhau đối với mỗi người và phản ánh tính cách của chúng ta. Mỗi chúng ta đều chú ý những chi tiết thu hút sự quan tâm của mình và ghi nhớ những gì quan trọng đối với bản thân, và những câu chuyện mà ta xây dựng lần lượt hình thành nên tính cách của mỗi con người.
Tuy nhiên, tôi tự hỏi, nếu ai cũng nhớ hết mọi thứ, liệu sự khác biệt của mỗi cá nhân có bị xóa bỏ? Điều gì sẽ xảy ra với ý thức về bản thân của chúng ta? Đối với tôi, dường như một kỷ niệm hoàn hảo không thể là một câu chuyện kể cũng như những cảnh quay trên camera an ninh mà chưa được chỉnh sửa không thể là một bộ phim điện ảnh.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi Jijingi hai mươi tuổi, một viên chức chính quyền đến làng nói chuyện với Sabe. Anh ta đã mang theo một người đàn ông Tiv trẻ tuổi, từng theo học trường truyền giáo ở Katsina-Ala. Chính quyền muốn có một biên bản về tất cả các tranh chấp được đưa ra trước phiên tòa bộ lạc, vì vậy họ đã giao cho mỗi tộc trưởng một trong những thanh niên này làm thư lại. Sabe cử Jijingi, và nói với viên chức, “Tôi biết các anh không có đủ thư lại cho cả Tivland. Jijingi đây đã được học viết; cậu ấy có thể đóng vai trò làm thư lại, và anh có thể cử người của mình đến một ngôi làng khác.” Viên chức kiểm tra khả năng viết của Jijingi, nhưng Moseby đã dạy cậu rất kỹ, nên cuối cùng anh này đã đồng ý cho cậu làm thư lại của Sabe.
Sau khi tay viên chức rời đi, Jijingi hỏi Sabe vì sao ông không muốn người của Katsina-Ala làm thư lại cho mình.
“Không ai tới từ trường truyền giáo là đáng tin cả”. Sabe nói.
“Tại sao không ạ? Có phải người châu Âu đã biến họ trở thành kẻ nói dối không?”
“Họ có lỗi một phần, nhưng chúng ta cũng vậy. Trước đây, khi người châu Âu thu thập các cậu bé về trường truyền giáo, hầu hết các trưởng lão đã đưa những kẻ họ muốn loại bỏ, những kẻ từng thực hiện nhiều hành vi sai trái và gây bất bình. Giờ đám thanh niên ấy đã trở về, họ không còn cảm thấy thân thuộc với bất kì ai nữa. Họ sử dụng kiến thức viết lách của mình như một khẩu súng trường, họ yêu cầu những tộc trưởng tìm vợ cho mình, nếu không thì sẽ viết những lời dối trá về tộc trưởng để người châu Âu hạ bệ họ.”
Jijingi có biết một cậu thanh niên luôn than phiền và luôn tìm cách để trốn việc, thật là một điều tai hại khi những người như anh ta nắm quyền hơn Sabe. “Ông không thể nói cho người châu Âu biết về điều hay được sao?”
“Nhiều người đã nói rồi,” Sabe trả lời. “Chính Mashio của gia tộc Kwande đã cảnh báo ta về những thư lại; đầu tiên họ được sắp xếp ở làng Kwande. Mashio thật may mắn khi những người châu Âu đã tin tưởng ông thay vì tin lời dối trá của gã thư lại, nhưng ông ấy biết các tộc trưởng khác sẽ không may mắn như thế; người châu Âu thường tin văn bản hơn lời nói. Ta cũng không mong là có hi vọng.” Ông nhìn Jijingi đầy nghiêm túc. “Cháu là họ hàng của ta, Jijingi, và là họ hàng của mọi người trong ngôi làng này. Ta tin cháu sẽ viết đúng theo những gì ta nói.”
“Vâng ạ.”
Phiên tòa bộ lạc được tổ chức hàng tháng, từ sáng đến tận chiều muộn trong suốt ba ngày liên tiếp, và nó luôn luôn thu hút một lượng khán giả, đôi khi đông đến mức Sabe phải yêu cầu mọi người ngồi xuống để cho gió mát thổi lọt được vào tâm vòng tròn. Jijingi ngồi kế bên Sabe và ghi chép lại chi tiết mỗi cuộc tranh chấp vào quyển sách viên sĩ quan để lại. Đó là một công việc tốt; cậu được trả công bằng số tiền trích từ lệ phí thu được từ những người tranh chấp, và cậu không chỉ được tặng một chiếc ghế mà còn một cái bàn nhỏ, những thứ mà cậu có thể sử dụng để viết kể cả khi phiên tòa không họp. Những lời phàn nàn Sabe nghe đều không giống nhau - chúng có thể là về một chiếc xe đạp bị đánh cắp, hay là về việc liệu một người đàn ông có phải chịu trách nhiệm cho vụ mùa thất bát của hàng xóm hay không - nhưng hầu hết đều liên quan đến các bà vợ. Với những vụ tranh chấp thế này, Jijingi viết như sau:
Girgi, vợ của Umem đã rời khỏi nhà và về với gia đình của cô ấy. Anongo, một người trong họ của cô đã cố gắng thuyết phục cô quay về với chồng, nhưng Girgi từ chối, và Anongo chẳng có thể làm gì hơn. Umem yêu cầu trả lại 11 bảng Anh tiền sính lễ. Anongo nói hiện giờ anh đang không có tiền, hơn nữa anh chỉ được trả 6 bảng mà thôi.
Sabe yêu cầu nhân chứng của hai bên. Anongo nói anh có nhân chứng, nhưng họ đang ở nơi khác. Umem đưa ra một nhân chứng, người này thề rằng đó là sự thật. Anh ta làm chứng rằng chính mình đã đếm số tiền 11 bảng mà Umem đưa cho Anongo.
Sabe yêu cầu Girgi hãy quay lại với chồng mình và làm một người vợ tốt, nhưng cô ấy nói cô chịu đựng chồng mình vậy là đủ rồi. Sabe chỉ thị cho Anongo trả lại Umem 11 bảng, khoản thanh toán đầu tiên sẽ phải được đưa ra trong ba tháng tới, khi cây trồng của anh ta có thể bán được. Anongo đồng ý.
Đó là vụ tranh chấp cuối cùng trong ngày, và lúc đó Sabe đã rất mệt mỏi rồi. “Bán rau để trả lại tiền sính lễ,” ông ấy vừa nói vừa lắc đầu. “Không bao giờ có chuyện đó khi ta còn nhỏ.”
Jijingi hiểu ý của Sabe. Các bô lão kể rằng, ngày xưa, bạn chỉ thực hiện trao đổi với những mặt hàng tương đương nhau: nếu muốn lấy dê, bạn phải đổi gà; nếu muốn cưới vợ, bạn phải hẹn ước với một trong những người thân của họ nhà gái. Sau đó, người châu Âu nói rằng họ sẽ không còn chấp nhận rau như một khoản thanh toán cho thuế, họ khăng khăng rằng thuế phải được trả bằng tiền xu. Chẳng bao lâu sau, mọi thứ đều có thể trao đổi được bằng tiền; bạn có thể dùng tiền mua bất cứ thứ gì từ một quả bầu đến một người vợ. Các bô lão coi điều đó thật vô lý.
Jijingi đồng ý, “Những cách thức cũ đang dần biến mất.” Cậu không nói rằng giới trẻ thích mọi thứ theo cách này, bởi vì người châu Âu đã quy định rằng chỉ có thể dùng tiền làm đồ sính lễ nếu người phụ nữ muốn kết hôn. Trong quá khứ, một người phụ nữ trẻ phải hứa hôn với một người đàn ông già nua với bàn tay sần sùi và hàm răng thối rữa, và không có lựa chọn nào khác ngoài việc cưới ông ta. Giờ đây người phụ nữ có thể cưới người mình thích, miễn là anh ta đủ tiền chi trả sính lễ. Chính Jijingi cũng đang tiết kiệm tiền để kết hôn.
Thỉnh thoảng Moseby có đến xem, nhưng ông thấy quy trình diễn ra thật khó hiểu, và thường xuyên phải hỏi lại Jijingi.
“Ví dụ thế này, có một vụ tranh chấp giữa Umem và Anongo về số tiền sính lễ đã trả. Tại sao chỉ có nhân chứng phải tuyên thệ?” Moseby hỏi.
“Tuyên thệ để đảm bảo rằng anh ta nói chính xác sự việc xảy ra.”
“Nhưng nếu cả Umem và Anongo đều tuyên thệ, thì cũng sẽ đảm bảo điều họ nói là chính xác chứ. Anongo có thể nói dối vì anh ta đâu có tuyên thệ.”
“Anongo không nói dối đâu ạ,” Jijingi nói. “Anh ấy chỉ nói những điều mình cho là đúng, và Umem cũng vậy.”
“Nhưng những gì Anongo nói đâu có giống lời khai của nhân chứng.”
“Thế không có nghĩa là anh ấy đang nói dối.” Rồi Jijingi nhớ đến điều gì đó về ngôn ngữ phương Tây, và hiểu ra sự nhầm lẫn của Moseby. “Ngôn ngữ của bọn cháu có hai từ để chỉ cái mà ngôn ngữ các ông coi là ‘thật’. Mimi được hiểu là đúng đắn, còn vough là chính xác. Trong một phiên tòa, thẩm phán nói những gì họ cho là đúng đắn, nghĩa là họ nói những điều được gọi là mimi. Tuy nhiên, khi nhân chứng thề sẽ nói chính xác sự việc xảy ra, họ sẽ nói những điều được gọi là vough. Khi Sabe nghe những gì xảy ra, ông ấy sẽ quyết định cái gì là mimi cho tất cả mọi người. Nhưng không phải nói dối nếu thẩm phán không nói ra vough, miễn họ nói ra mimi là được.”
Moseby rõ ràng phản đối. “Ở quê nhà của ta, mọi người làm chứng trong phiên tòa đều phải thề rằng sẽ nói chính xác, kể cả thẩm phán.”
Jijingi không hiểu vì sao lại như vậy, nhưng tất cả những gì cậu nói chỉ là, “Mỗi bộ tộc đều có phong tục riêng.”
“Đúng thế, phong tục có thể khác nhau, nhưng sự thật luôn là sự thật, nó không thể thay đổi từ người này qua người khác. Và hãy nhớ những gì trong Kinh Thánh: “Sự thật sẽ giải thoát cho bạn.”
“Cháu nhớ rồi ạ,”Jijingi nói. Moseby từng nói chính sự hiểu biết về Chúa đã giúp người châu Âu thành công như vậy. Không thể phủ nhận sự giàu có hay quyền lực của họ, nhưng ai biết đâu mới là nguyên nhân?
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Khi viết về Remem, để cho công bằng thì tôi phải tự mình thử nó. Vấn đề là tôi không có một lifelog để lập mục lục; thông thường, tôi chỉ bật cam cá nhân khi thực hiện phỏng vấn hoặc đưa tin về một sự kiện. Nhưng tôi chắc chắn đã dành thời gian gặp gỡ những người có lifelog, và tôi có thể tận dụng những gì họ đã ghi lại. Tuy tất cả phần mềm lifelog đều có các biện pháp kiểm soát quyền riêng tư, nhưng hầu hết mọi người cũng cho phép các quyền chia sẻ cơ bản: nếu hành động của bạn được ghi lại trong lifelog của họ, bạn có thể truy cập vào cảnh quay mà bạn có mặt. Vì thế tôi đã cho một nhân viên mật vụ đi thu thập một phần lifelog từ các cảnh mà người khác đã ghi lại, sử dụng lịch sử GPS của tôi làm cơ sở cho truy vấn. Trong suốt một tuần, lời yêu cầu của tôi đã lan truyền thông qua các mạng xã hội và kho lưu trữ video công khai, và tôi nhận được những đoạn video kéo dài từ vài giây đến vài giờ: không chỉ là cảnh quay trong camera an ninh mà còn là đoạn trích từ các bản lifelog của bạn bè, người quen, và thậm chí cả những người hoàn toàn xa lạ.
Bản lifelog thành quả tất nhiên là rất rời rạc so với những gì đáng ra tôi đã có nếu tôi tự mình quay video, và tất cả các cảnh quay đó tất cả sẽ theo ngôi thứ ba chứ không phải ngôi thứ nhất như hầu hết các lifelog khác, nhưng Remem thì có thể làm việc v��i điều này. Tôi cho rằng mức độ phủ sóng sẽ dày nhất trong những năm gần đây, đơn giản là bởi sự phổ biến ngày càng tăng của các lifelog. Thế nhưng sau đó, tôi cũng khá ngạc nhiên khi nhìn vào biểu đồ về phạm vi phủ sóng, tôi đã nhận thấy sự gia tăng trong mức độ phủ sóng từ hơn một thập kỷ trước. Nicole đã có lifelog của riêng mình từ khi con bé còn là một thiếu niên, nên một phần lớn đến không ngờ trong cuộc sống gia đình của tôi có trong đó.
Ban đầu, tôi có chút không chắc chắn về việc làm thế nào để kiểm tra Remem, vì rõ ràng tôi không thể yêu cầu nó hiển thị video về một sự kiện mà tôi không nhớ. Tôi nghĩ rằng mình sẽ bắt đầu với một thứ gì đó mà tôi đã nhớ. Tôi nghĩ thầm, “Lần Vince nói với tôi về chuyến đi của anh ấy đến Palau.”
Màn hình võng mạc của tôi hiển thị một cửa sổ ở góc dưới bên trái trong tầm nhìn: tôi đang ăn trưa với hai người bạn Vincent và Jeremy. Vincent cũng không làm lifelog, vì vậy các cảnh quay đều từ góc nhìn của Jeremy. Tôi lắng nghe Vincent say sưa nói về lặn biển trong một phút.
Sau đó, tôi thử một sự việc mà tôi chỉ nhớ một cách mơ hồ. “Bữa tiệc tối khi tôi ngồi giữa Deborah và Lyle.” Tôi không nhớ có ai khác đang ngồi cùng bàn đó và tự hỏi liệu Remem có thể giúp tôi xác định họ không.
Chắc chắn, Deborah đã quay lại buổi tối hôm đó, và với video của cô ấy, tôi có thể nhờ một đặc vụ chuyên nhận dạng tìm ra những người ngồi đối diện với chúng tôi.
Sau những thành công ban đầu, tôi đã gặp phải một loạt thất bại; không có gì bất ngờ, khi xem xét những lỗ hổng trong lifelog. Nhưng trong suốt quá trình thực hiện chuyến đi khảo sát kéo dài một giờ về các sự kiện trong quá khứ, hiệu suất của Remem nhìn chung cũng rất ấn tượng.
Cuối cùng, dường như đã đến lúc tôi nên thử dùng Remem với một số ký ức có giá trị về mặt cảm xúc hơn. Quan hệ của tôi với Nicole giờ đã đủ bền chặt để tôi có thể yên tâm xem lại những trận tranh cãi mà chúng tôi đã trải qua khi con bé còn nhỏ. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ bắt đầu với cuộc cãi vã mà mình nhớ rõ, và đi ngược lại từ đó.
Tôi nghĩ thầm, “Lần Nicole hét vào mình ‘bố chính là lý do khiến mẹ rời đi.’”
Cửa sổ hiển thị hình ảnh căn bếp trong ngôi nhà mà chúng tôi đã sống khi Nicole lớn lên. Cảnh quay là từ góc nhìn của Nicole và tôi đang đứng trước bếp lò. Rõ ràng là chúng tôi đang cãi nhau.
“Chính con là lý do khiến mẹ ra đi. Con cũng có thể rời đi, vì bố cũng sẽ không quan tâm. Bố chắc chắn sẽ sống tốt hơn nếu không có con.”
Những lời đó chính xác với những gì tôi vẫn nhớ, nhưng chúng không phải do Nicole nói ra.
Tôi mới chính là người đã nói như vậy.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là chắc hẳn cảnh này là giả, Nicole đã chỉnh sửa video để đặt lời nói của mình vào miệng tôi. Con bé hẳn đã để ý yêu cầu được truy cập vào lifelog của tôi, và đã bịa ra chuyện này để dạy cho tôi một bài học. Hoặc có lẽ đó là một bộ phim con bé dựng lên để cho bạn bè xem, để củng cố những câu chuyện con bé kể về tôi. Nhưng tại sao con bé vẫn giận tôi như vậy, sao con bé lại làm một điều như thế? Chẳng phải chúng tôi đã vượt qua chuyện này sao?
Tôi bắt đầu xem lướt video đó, kiếm tìm những điểm mâu thuẫn chỉ ra đoạn phim đã qua chỉnh sửa được ghép vào đâu. Cảnh quay tiếp theo cho thấy Nicole chạy ra khỏi nhà, như tôi nhớ, vì vậy sẽ không có dấu hiệu mâu thuẫn ở đó. Tôi tua lại video và bắt đầu xem cuộc tranh cãi trước đó.
Ban đầu, tôi rất tức giận khi xem, tức giận với Nicole vì đã cố để tạo ra câu chuyện giả dối này, bởi các cảnh quay trước đều phù hợp với việc tôi là người đã la mắng con bé. Sau đó, một số lời tôi nói trong video bắt đầu nghe có vẻ quen thuộc đến kỳ lạ: phàn nàn về việc lại bị gọi lên trường con bé vì con bé gặp rắc rối, buộc tội con bé đã dành thời gian với đám người xấu. Nhưng đây không phải là bối cảnh mà tôi nói những điều đó, phải không? Tôi chỉ bày tỏ sự lo lắng của mình, chứ không mắng mỏ con bé. Nicole hẳn đã chỉnh sửa những lời tôi đã nói ở nơi nào khác để làm cho video vu khống của con bé trở nên hợp lý hơn. Đó là lời giải thích duy nhất, phải không?
Tôi yêu cầu Remem kiểm tra hình mờ của video và nó thông báo rằng video chưa được chỉnh sửa. Tôi có thể thấy rằng Remem đã đề xuất sửa chữa cụm từ tìm kiếm của tôi: cụm từ tôi đã tìm là “lần Nicole la mắng tôi,” nó đề xuất sửa thành “lần tôi la mắng Nicole.” Gợi ý chỉnh sửa chắc hẳn đã được hiển thị cùng lúc với kết quả tìm kiếm ban đầu, nhưng tôi lại không nhận ra. Tôi tắt Remem trong sự kinh tởm, giận dữ với sản phẩm này. Tôi định tìm kiếm thông tin về việc giả mạo hình mờ kỹ thuật số để chứng minh video này là giả, nhưng tôi dừng lại, nhận ra đó chỉ là một hành động trong cơn tuyệt vọng.
Tôi xin làm chứng, tay đặt trên chồng sách Kinh thánh hoặc sử dụng bất kỳ lời tuyên thệ nào thiêng liêng đối với tôi, rằng chính Nicole đã buộc tội tôi là nguyên nhân khiến mẹ con bé rời bỏ chúng tôi. Hồi ức của tôi về cuộc tranh cãi đó rõ ràng hơn bất kỳ ký ức nào tôi có, nhưng đó không phải là lý do duy nhất tôi thấy video này khó tin; tôi cũng biết rằng - bất kể tôi có mắc lỗi lầm hay không hoàn hảo - tôi cũng không bao giờ là người cha có thể nói những điều như vậy với con mình.
Tuy nhiên, đây là video kỹ thuật số chứng minh rằng tôi chính xác là loại cha như vậy. Và trong khi tôi không còn là tôi của quá khứ nữa, tôi không thể phủ nhận rằng tôi vẫn tiếp tục như vậy.
Điều đáng nói hơn là trong nhiều năm, tôi đã che giấu thành công sự thật với chính bản thân mình. Trước đây, tôi đã nói rằng những chi tiết chúng ta chọn để ghi nhớ là sự phản ánh tính cách của chúng ta. Điều này nói lên gì về tôi, khi mà tôi đổ cho Nicole nói lời đó thay vì chính mình?
Tôi nhớ rằng cuộc tranh cãi đó là một bước ngoặt đối với tôi. Tôi đã hình dung ra một câu chuyện về sự chuộc lỗi và tự hoàn thiện bản thân mà trong đó tôi là người cha đơn thân quả cảm, luôn vươn lên để vượt qua thử thách. Nhưng thực tế lại là… gì đây? Tôi có thể chấp nhận bao nhiêu phần trăm về sự thật của những điều xảy ra hồi đó?
Tôi khởi động lại Remem và bắt đầu xem video về lễ tốt nghiệp đại học của Nicole. Đó là sự kiện mà tôi đã tự mình ghi lại, vì vậy tôi có cảnh quay gương mặt của Nicole và con bé có vẻ thực sự hạnh phúc bởi sự hiện diện của tôi. Có phải con bé đã che giấu cảm xúc thật của mình quá tốt đến nỗi tôi không thể phát hiện ra không?
Hoặc là, nếu mối quan hệ của chúng tôi thực sự được cải thiện, điều đó đã xảy ra như thế nào? Rõ ràng là mười bốn năm trước tôi là một người cha tồi tệ hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ; thật cám dỗ để kết luận rằng tôi đã cố gắng hơn và đạt được vị trí hiện tại, nhưng tôi không thể tin vào nhận thức của mình nữa. Liệu Nicole thậm chí còn có cảm nhận tích cực về tôi bây giờ không?
Tôi sẽ không thử sử dụng Remem để trả lời câu hỏi này; tôi cần phải tìm đến người khởi đầu của sự việc. Tôi gọi cho Nicole và để lại tin nhắn nói tôi muốn nói chuyện với con bé, và hỏi rằng liệu tôi có thể ghé thăm căn hộ của con bé vào tối hôm đó không.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Một vài năm sau, Sabe bắt đầu tham dự nhiều hội nghị của tất cả các tộc trưởng trong gia tộc Shangev. Ông giải thích với Jijingi rằng người châu Âu không còn muốn thỏa thuận với nhiều tộc trưởng nữa, nên yêu cầu toàn bộ Tivland được chia thành tám nhóm, họ gọi là bộ lạc. Vì vậy, Sabe và các tộc trưởng khác phải bàn bạc với nhau xem gia tộc Shangev nên tham gia với ai. Mặc dù không cần người ghi chép, Jijingi vẫn tò mò muốn nghe các cuộc thảo luận và hỏi Sabe liệu cậu có thể đi cùng ông không, và Sabe đồng ý.
Trước đây Jijingi chưa từng thấy nhiều người lớn tuổi cùng một nơi như thế này; một số người điềm đạm và đàng hoàng như Sabe, trong khi một số thì ồn ào và nóng tính. Họ đã tranh luận trong nhiều giờ liên tục.
Vào buổi tối sau khi Jijingi trở về, Moseby hỏi cậu mọi chuyện thế nào. Jijingi thở dài. “Ngay cả khi không la hét thì họ cũng đấu nhau như những con mèo hoang.”
“Sabe nghĩ các cháu nên tham gia cùng ai?”
“Chúng cháu nên tham gia với các gia tộc mà mình gần gũi nhất; đó là cách của người Tiv. Và vì Shangev là con trai của Kwande, gia tộc cháu nên tham gia cùng với gia tộc Kwande, họ sống ở phía nam.”
“Cũng có lý đấy,” Moseby nói. “Vậy tại sao lại có bất đồng?”
“Thành viên trong gia tộc Shangev không phải đều sống gần nhau. Một số người sống ở vùng trồng trọt phía tây, gần tộc Jechira, và các bô lão ở đó khá thân thiết với các bô lão bên Jechira. Họ muốn tộc Shangev gia nhập vào tộc Jechira, vì sau đó họ sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trong gia tộc hợp nhất sau này.”
“Ta hiểu rồi.” Moseby suy nghĩ một lúc. “Người Shangev phía tây không thể gia nhập một bộ lạc khác người Shangev phía nam được sao?”
Jijingi lắc đầu. “Người Shangev bọn cháu đều chung một người cha, nên phải ở bên nhau. Tất cả các trưởng lão đều đồng ý như vậy.”
“Nhưng nếu dòng dõi quan trọng như vậy, làm sao các trưởng lão từ phía tây lại có thể cho rằng tộc Shangev nên gia nhập với tộc Jechira?”
“Sự bất đồng nằm ở đó đấy ạ. Các bô lão ở phía tây cho rằng Shangev là con trai của Jechira.”
“Từ từ đã, bọn cháu không biết cha mẹ Shangev là ai à?”
“Tất nhiên là biết chứ ạ! Sabe có thể tự kể lại tổ tiên của ông ấy cho tới tận thủy tổ Tiv. Những bô lão phía tây chỉ đang giả vờ rằng Shangev là con trai của Jechira vì họ sẽ được lợi khi gia nhập cùng tộc Jechira.”
“Nhưng nếu gia tộc Shangev gia nhập tộc Kwande, các trưởng lão sẽ không được lợi sao?”
“Có chứ ạ, nhưng Shangev là con trai Kwande.” Sau đó Jijingi nhận ra Moseby đang ám chỉ điều gì. “Ông nghĩ các trưởng lão của bọn cháu đang giả vờ ư?”
“Không, không phải thế. Có vẻ như cả hai bên đều đưa ra những khẳng định chính đáng như nhau, và không có cách nào để biết ai đã đúng.”
“Sabe mới đúng ạ.”
“Tất nhiên,” Moseby nói. “Nhưng làm sao cháu có thể bắt người khác thừa nhận điều đó được? Ở chỗ của bọn ta, nhiều người viết dòng dõi của mình lên giấy. Bằng cách đó, ta có thể tìm ra vết tích của tổ tiên mình một cách chính xác, thậm chí tìm ra nhiều thế hệ trong quá khứ.”
“Vâng, cháu đã thấy các dòng dõi trong quyển Kinh Thánh của ông, từ Abraham tới Adam.”
“Tất nhiên. Nhưng kể cả ngoài quyển Kinh Thánh, người ta cũng đã ghi lại dòng dõi của mình. Khi người ta muốn tìm ra mình là con cháu của ai, họ có thể tra cứu trên giấy tờ. Nếu các cháu có văn bản, những trưởng lão khác sẽ tin Sabe nói đúng.”
Jijingi thừa nhận rằng đó là một ý hay. Giá mà gia tộc Shangev dùng giấy tờ từ lâu. Sau đó, một điều chợt nảy ra trong đầu cậu. “Người châu Âu lần đầu đến Tivland cách đây bao lâu rồi ạ?”
“Ta không chắc lắm. Ta nghĩ ít nhất phải bốn mươi năm trước.”
“Ông có nghĩ liệu họ đã viết gì đó về dòng dõi gia tộc Shangev khi lần đầu đến đây chưa?”
Moseby có vẻ trầm ngâm. “Có thể đấy. Chính quyền chắc chắn sẽ giữ rất nhiều hồ sơ. Nếu có, chắc chúng sẽ được lưu trữ trong trụ sở của chính phủ ở Katsina-Ala.”
Một chiếc xe tải chở hàng dọc theo đường cao tốc vào Katsina-Ala vào ngày thứ năm hàng tuần, khi chợ đang họp, và phiên chợ tiếp theo sẽ vào ngày kia. Nếu Jijingi đi vào sáng mai, thì có thể đến đường cao tốc để kịp bắt xe. “Ông có nghĩ họ sẽ cho cháu xem hồ sơ không ạ?”
“Nếu có một người châu Âu đi cùng chắc sẽ dễ dàng hơn,” Moseby mỉm cười. “Chúng ta cùng đi nhé?”
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Nicole mở cửa căn hộ của con bé và mời tôi vào. Rõ ràng là con bé đang tò mò về lý do tại sao tôi đến. “Vậy bố muốn nói về chuyện gì thế ạ?”
Tôi không chắc làm thế nào để bắt đầu. “Điều này sẽ nghe có vẻ lạ.”
“Vâng,” con bé nói.
Tôi kể cho Nicole nghe về việc tôi đã d��ng Remem để xem lại một phần của lifelog, và đã thấy trận tranh cãi của chúng tôi khi con bé mười sáu tuổi, sự việc đã kết thúc bằng việc tôi la mắng con bé và con bé rời khỏi nhà. “Con nhớ ngày hôm đó chứ?”
“Tất nhiên con nhớ rồi ạ.” Con bé có vẻ khó chịu, không chắc là tôi định dẫn dắt câu chuyện đến đâu.
“Bố cũng có nhớ, hoặc ít nhất, nghĩ là bố có nhớ. Nhưng bố đã nhớ chuyện đó rất khác. Bố nhớ rằng, chính con mới là người nói thế với bố.”
“Con đã nói gì cơ ạ?”
“Bố nhớ con đã nói với bố rằng bố có thể rời đi vì con cũng sẽ không quan tâm, và con sẽ sống tốt hơn nếu không có bố.”
Nicole nhìn tôi rất lâu. “Suốt những năm qua, đó là cách bố nhớ về ngày đó sao?”
“Ừ, cho đến tận ngày hôm nay.”
“Điều đó sẽ nghe có vẻ hài hước đấy ạ, nếu chuyện cũ không buồn như vậy.”
Tôi cảm thấy như muốn phát bệnh. “Bố rất xin lỗi con. Bố không thể nói hết được bố ân hận như thế nào.”
“Bố xin lỗi vì bố đã nói điều đó, hay xin lỗi vì tưởng nhầm con nói?”
“Cả hai chuyện đó.”
“Bố nên thấy có lỗi! Bố có biết chuyện đó khiến con cảm thấy như thế nào không?”
“Bố không thể hình dung ra. Bố biết mình cảm thấy thật tệ khi nghĩ rằng con nói điều đó với bố.”
“Ngoại trừ việc suy nghĩ đó chỉ là do bố bịa ra. Còn chuyện xảy ra với con là chuyện thật. “Con bé lắc đầu, như thể vẫn không tin vào tai mình. “Chuyện thường vãi luôn.”
Lời nói đó nghe mà đau lòng. “Vậy hả con? Con nói thật chứ?”
“Chắc chắn rồi,” con bé nói. “Bố luôn cư xử như bố là nạn nhân, như bố là người tốt mà xứng đáng được đối xử tốt hơn vậy.”
“Con nói như là bố bị ảo tưởng vậy.”
“Bố không ảo tưởng. Chỉ mù quáng và ích kỷ thôi.”
Tôi có chút nổi giận. “Thì bố đang cố gắng xin lỗi đây.”
“Vâng, vâng. Chuyện này là về bố cả.”
“Không, con nói đúng, bố xin lỗi.” Tôi đợi đến khi Nicole ra hiệu cho tôi nói tiếp. “Bố nghĩ mình thật… mù quáng và ích kỷ. Lý do mà rất khó để bố thừa nhận chuyện đó là vì bố nghĩ bố đã vượt qua được nó.”
Con bé nhăn mặt. “Cái gì ạ?”
Tôi kể cho con bé tôi đã cảm thấy thế nào khi thay đổi để trở thành người cha tốt và hàn gắn lại mối quan hệ của hai bố con, nhất là khoảnh khắc thân thiết khi con bé tốt nghiệp đại học. Nicole không công khai chế giễu, nhưng biểu cảm của con bé khiến tôi ngừng nói; rõ ràng là tôi đã tự làm mình xấu hổ.
“Lúc con tốt nghiệp con vẫn còn ghét bố sao?” Tôi hỏi. “Có phải là bố đã tự nghĩ ra chuyện bố và con hòa hợp với nhau phải không?”
“Không, bố con mình đã rất hòa thuận ở lễ tốt nghiệp. Nhưng đó không phải là vì bố trở thành người cha tốt một cách thần kỳ.”
“Thế lúc đó là vì điều gì?”
Con bé dừng lại, hít một hơi thật sâu, rồi nói, “Con bắt đầu đi trị liệu tâm lý khi lên đại học.” Con bé dừng lại lần nữa. “Cô ấy đã cứu sống cuộc đời con.”
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là, tại sao Nicole phải cần trị liệu tâm lý? Tôi gạt chuyện đó sang một bên và nói, “Bố không hề biết rằng ngày đó con phải điều trị đấy.”
“Tất nhiên là bố không biết rồi; con có kể chuyện đó với cả thế giới thì cũng chưa chắc đã kể cho bố đâu. Dù sao thì, lúc con là sinh viên năm cuối, cô ấy đã thuyết phục con rằng sẽ tốt hơn nếu không giận bố. Đó là lý do vì sao bố và con rất hòa thuận với nhau trong lễ tốt nghiệp.”
Vậy là quả thực tôi đã bịa ra câu chuyện có chút tương đồng với sự thật. Nicole đã phải gánh lấy tất cả công việc hàn gắn, còn tôi thì chẳng làm gì hết.
“Bố nghĩ mình đã không thực sự hiểu con.”
Con bé nhún vai. “Bố hiểu con đủ mức bố cần rồi ạ.”
Điều đó nghe cũng đau lòng, nhưng tôi không thể oán trách. Tôi nói, “Con xứng đáng có được nhiều hơn như vậy.”
Nicole nở một nụ cười ngắn, buồn rầu. “Bố biết không, khi con còn trẻ, con đã từng ước bố nói như thế. Nhưng bây giờ thì, câu nói đó không thể sửa chữa mọi chuyện, phải không ạ?”
Tôi nhận ra rằng mình đã hy vọng con bé sẽ tha thứ cho tôi ngay lập tức, và sau đó mọi chuyện sẽ tốt lên. Nhưng sẽ cần nhiều hơn là một lời xin lỗi của tôi để hàn gắn mối quan hệ của chúng tôi.
Tôi chợt nhận ra một điều gì đó. “Bố không thể thay đổi những điều tôi đã làm, nhưng ít nhất bố có thể ngừng giả vờ rằng bố không gây ra chúng. Bố sẽ sử dụng Remem để có được hình ảnh trung thực về bản thân, và tạo ra một bản tóm tắt cá nhân.”
Nicole nhìn tôi, đánh giá sự chân thành của tôi. “Được rồi,” con bé nói. “Nhưng hãy rõ ràng là: bố không chạy đến chỗ con mỗi khi bố cảm thấy có lỗi vì đã đối xử với con rất tệ bạc nhé. Con đã phải rất nỗ lực để vượt qua điều đó và con sẽ không nhớ lại nó chỉ bố có thể cảm thấy tốt hơn về bản thân mình đâu.”
“Tất nhiên.” Tôi thấy rằng con bé đang rưng rưng. “Và bố lại làm con buồn khi kể lại tất cả những điều này. Bố xin lỗi con.”
“Không sao đâu, bố. Con đánh giá cao những gì bố đang cố gắng làm. Chỉ là… chúng ta đừng làm điều đó một thời gian, được không ạ?”
“Được.” Tôi đi về phía cửa để rời đi, và sau đó dừng lại. “Bố chỉ muốn hỏi… nếu được, liệu bố có thể làm gì để bù đắp…”
“Bù đắp?” Con bé trông có vẻ hoài nghi. “Con không biết. Chỉ là bố hãy để tâm hơn, được không ạ?”
Và đó là những gì tôi đang cố gắng làm.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Tại trụ sở của chính phủ quả nhiên đã có giấy tờ lưu giữ từ bốn mươi năm trước, cái mà người châu Âu gọi là “báo cáo đánh giá,” và sự hiện diện của Moseby là đủ để chúng tôi được phép vào trong. Hồ sơ được viết theo ngôn ngữ châu Âu mà Jijingi không thể đọc được, nhưng chúng bao gồm các gia phả của nhiều gia tộc khác nhau, và cậu có thể nhận ra những tên người Tiv một cách dễ dàng, và Moseby cũng đã xác nhận rằng cách giải thích của ông là chính xác. Các bô lão bên nông trại phía tây đã đúng, và Sabe đã sai: Shangev không phải con trai của Kwande, mà là con trai của Jechira.
Một người đàn ông ở trụ sở chính phủ đã đồng ý gõ một bản sao của trang báo cáo liên quan để Jijingi có thể mang theo. Moseby quyết định sẽ ở lại Katsina-Ala để thăm những nhà truyền giáo ở đó, nhưng Jijingi thì về ngay. Cậu cảm thấy mình như một đứa trẻ mất kiên nhẫn trên đường về nhà, ước gì mình có thể đi xe tải suốt quãng đường trở về thay vì phải đi bộ từ đường cao tốc. Ngay khi về đến làng, Jijingi đến tìm Sabe.
Cậu tìm thấy Sabe trên con đường dẫn tới một nông trại kế bên, vài người hàng xóm đã chặn Sabe lại để ông ấy giải quyết tranh chấp về cách phân phát dê con của một con dê mẹ. Cuối cùng, họ cũng hài lòng, và Sabe tiếp tục đi bộ. Jijingi đi bên cạnh ông ấy.
“Chào mừng cháu trở lại,” Sabe nói.
“Ông Sabe, cháu vừa đi Katsina-Ala về.”
“Ồ, sao cháu lại đến đó?”
Jijingi đưa cho ông tờ giấy. “Tờ giấy này đã viết cách đây rất lâu rồi, khi người châu Âu lần đầu đặt chân đến đây. Sau đó họ nói chuyện với các bô lão của gia tộc Shangev, và khi kể về lịch sử của tộc Shangev, các bô lão bảo Shangev là con trai của Jechira.”
Phản ứng của Sabe rất nhẹ nhàng. “Người châu Âu đã hỏi ai vậy?”
Jijingi nhìn vào tờ giấy. “Batur và Iorkyaha ạ.”
“Ta nhớ ra họ rồi,” Sabe gật đầu. “Họ là những người rất thông thái. Họ sẽ không nói những điều như vậy."
Jijingi chỉ vào dòng chữ trên giấy. “Nhưng họ đã nói như thế ạ!”
“Có lẽ cháu đang đọc sai mất rồi.”
“Cháu không sai! Cháu biết đọc mà.”
Sabe nhún vai. “Tại sao cháu lại mang tờ giấy này trở lại đây?”
“Vì những gì viết trong tờ giấy này rất quan trọng. Điều đó có nghĩa là chúng ta nên gia nhập gia tộc Jechira một cách chính đáng.”
“Cháu nghĩ cả gia tộc sẽ tin vào quyết định của cháu về chuyện này à?”
“Cháu không đòi hỏi mọi người phải tin cháu. Cháu muốn họ tin những người từng là trưởng lão khi ông còn trẻ.”
“Đúng là họ nên làm thế. Nhưng những người đó không ở đây. Những gì cháu có chỉ là tờ giấy này mà thôi.”
“Giấy này sẽ nói cho chúng ta biết ý muốn nói của họ nếu họ có mặt ở đây.”
“Thật ư? Một người sẽ không chỉ nói một điều như vậy. Nếu Batur và Iorkyaha ở đây, họ sẽ đồng ý với ta rằng chúng ta nên gia nhập gia tộc Kwande.”
“Sao họ đồng ý được ạ, khi Shangev là con trai Jechira?” Cậu chỉ vào tờ giấy. “Người Jechira mới là họ hàng gần gũi hơn của ta.”
Sabe dừng bước và quay mặt về phía Jijingi. “Những câu hỏi về quan hệ họ hàng không thể giải quyết bằng giấy tờ được. Cháu trở thành thư lại vì Mashio của gia tộc Kwande đã cảnh báo ta về đám thanh niên trường truyền giáo. Mashio sẽ không để ý đến chúng ta nếu chúng ta không cùng một cha. Vị trí của cháu là minh chứng cho việc gia tộc ta gần gũi với nhau thế nào, nhưng cháu đã quên điều đó. Cháu trông cậy vào giấy tờ để biết những gì lẽ ra cháu phải biết, tại đây.” Sabe vỗ vào ngực mình. “Cháu nghiên cứu giấy tờ nhiều đến mức cháu đã quên người Tiv là thế nào rồi sao?”
Jijingi định mở miệng phản đối thì cậu nhận ra Sabe nói đúng. Toàn bộ thời gian cậu dành học viết đã khiến bản thân suy nghĩ giống một người châu Âu. Cậu đã tin tưởng những gì được viết trên giấy hơn những gì được mọi người nói, và đó không phải là cung cách của người Tiv.
Bản báo cáo đánh giá của người châu Âu rất chính xác, nhưng chưa đủ để trả lời câu hỏi. Lựa chọn nên gia nhập gia tộc nào cần phải phù hợp với cộng đồng, nó phải được dựa trên mimi. Và chỉ các bô lão mới xác định được cái gì là mimi; trách nhiệm của họ là quyết định xem đâu là lựa chọn tốt nhất cho gia tộc Shangev. Việc yêu cầu Sabe tuân theo giấy tờ cũng chính là yêu cầu ông hành động chống lại những gì bản thân ông cho là đúng đắn.
“Ông nói đúng ạ,” Jijingi nói. “Hãy tha thứ cho cháu. Ông lớn tuổi hơn cháu, và cháu đã sai khi cho rằng một tờ giấy có thể biết nhiều hơn ông.”
Sabe gật đầu và tiếp tục rảo bước. “Cháu được tự do làm điều mình muốn, nhưng ta tin việc cho người khác xem tờ giấy đó có hại hơn là có lợi.”
Jijingi xem xét lại tờ giấy. Các bô lão bên nông trại phía tây chắc chắn sẽ biện hộ rằng bản báo cáo đánh giá ủng hộ quan điểm của họ, kéo dài cuộc tranh luận mà vốn đã diễn ra quá lâu. Nhưng hơn thế, nó sẽ đưa người Tiv đi xuống con đường coi giấy tờ là nguồn gốc của sự thật; đó sẽ là một dòng chảy khác, ở đó những cách thức cũ bị cuốn trôi, và cậu chẳng thể thấy lợi ích gì trong chuyện đó cả.
“Cháu đồng ý ạ,” Jijingi nói. “Cháu sẽ không cho ai xem tờ giấy này đâu.”
Sabe gật đầu.
Jijingi đi bộ về lều của mình, nghĩ lại chuyện đã xảy ra. Thậm chí không học trường truyền giáo, cậu cũng đã bắt đầu suy nghĩ như một người châu Âu, việc luyện tập viết lách đã khiến cậu thiếu tôn trọng những người lớn tuổi mà thậm chí còn không ý thức được điều đó. Viết lách giúp Jijingi suy nghĩ thấu đáo hơn, cậu không thể phủ nhận điều này; nhưng đó không phải lý do chính đáng để cậu tin tưởng những chữ viết trên giấy hơn mọi người.
Là một thư lại, cậu ấy phải giữ sổ ghi chép về những quyết định của Sabe trong phiên tòa bộ lạc. Nhưng cậu không cần giữ những quyển sổ khác nữa, những quyển mà cậu đã viết ra suy nghĩ của mình. Jijingi sẽ dùng chúng làm bùi nhùi nhóm lửa.
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Chúng ta thường không nghĩ như vậy, nhưng viết chính là một công nghệ, đồng nghĩa với việc một người biết chữ là người có những suy nghĩ được thực hiện qua trung gian của công nghệ. Chúng ta dần trở thành những người máy có nhận thức ngay khi trở thành người đọc thông thạo, và điều đó đã gây ra những hậu quả sâu sắc.
Trước khi một nền văn hóa chấp nhận việc sử dụng chữ viết, khi kiến thức của nó được truyền tải hoàn toàn qua các phương tiện truyền khẩu, thì có thể rất dễ dàng sửa đổi lịch sử. Việc đó không phải là cố ý, mà là điều không thể tránh khỏi; trên khắp thế giới, những nhà thơ và người kể chuyện điều chỉnh tư liệu của mình cho phù hợp với khán giả, do đó cũng dần điều chỉnh quá khứ để hợp với nhu cầu hiện tại. Ý tưởng rằng những ghi chép về quá khứ không nên thay đổi chính là sản phẩm của niềm tôn kính mà một nền văn hoá chữ viết dành cho từ ngữ được viết ra. Các nhà nghiên cứu về nhân loại sẽ nói cho ta biết văn hóa truyền miệng hiểu quá khứ theo một cách khác; đối với họ, lịch sử không cần phải chính xác mà họ chỉ cần xác nhận sự hiểu biết của cộng đồng về chính bản thân họ. Vì thế, sẽ là sai lầm nếu nói rằng lịch sử của họ không đáng tin; lịch sử chỉ cần thực hiện đúng vai trò của nó mà thôi.
Hiện nay, mỗi chúng ta đều là một văn hóa truyền khẩu riêng. Chúng ta sửa lại quá khứ để phù hợp với nhu cầu và ăn khớp với câu chuyện ta kể về bản thân. Với ký ức của mình, chúng ta đều phạm phải tội sử dụng cách giải thích kiểu sử học Whig về quá khứ của bản thân, coi bản thân trước đây như là bước đệm để trở thành một bản ngã huy hoàng như hiện tại.
Nhưng kỷ nguyên đó sắp kết thúc. Remem chỉ là phát minh đầu tiên của một thế hệ mới về bộ nhớ giả, và khi những sản phẩm này được áp dụng rộng rãi, chúng ta sẽ thay thế trí nhớ hữu cơ dễ điều chỉnh của chúng ta bằng các kho lưu trữ kỹ thuật số hoàn hảo. Chúng ta sẽ có một bản ghi về những gì mình thực sự làm thay vì những câu chuyện phát triển từ những lời kể lặp đi lặp lại. Trong tâm trí của mình, mỗi chúng ta sẽ chuyển đổi từ văn hóa truyền miệng sang văn hóa viết chữ.
Tôi sẽ dễ dàng khẳng định rằng văn hóa biết chữ tốt hơn văn hóa truyền miệng, nhưng thành kiến của tôi khá rõ ràng, vì tôi đang viết chứ không phải nói với bạn. Thay vào đó, tôi sẽ nói rằng tôi dễ dàng đánh giá cao lợi ích của việc học chữ và khó có thể nhận ra thứ mà nó khiến ta phải trả giá. Kỹ năng đọc viết khuyến khích một nền văn hóa đặt nhiều giá trị hơn vào tư liệu và ít dựa vào kinh nghiệm chủ quan, và nhìn chung tôi thấy được nhiều mặt lợi hơn mặt hại. Hồ sơ bằng văn bản vẫn có thể mắc phải đủ loại lỗi và cách giải thích của chúng có thể thay đổi, nhưng ít nhất các từ ngữ trên trang giấy vẫn cố định, và đó thực sự là một điều đáng ngợi ca.
Khi nhắc đến những kí ức cá nhân, tôi có quan điểm đối lập mọi người. là một người có danh tính xây dựng dựa trên trí nhớ hữu cơ, tôi bị đe dọa bởi viễn cảnh loại bỏ tính chủ quan khi nhớ lại các sự kiện của mình. Tôi đã từng nghĩ rằng việc các cá nhân kể chuyện về bản thân họ thật đáng giá, đáng giá theo cách mà các nền văn minh không thể có được, và tôi chính là sản phẩm của thời đại, và rồi thời thế thay đổi. Chúng ta không thể ngăn cản việc áp dụng bộ nhớ kĩ thuật cũng như văn hóa truyền miệng không thể ngăn được sự xuất hiện của việc đọc viết, vậy nên điều tốt nhất tôi có thể làm là tìm cho mình điều gì đó tích cực trong sự thay đổi này.
Và tôi nghĩ tôi đã tìm ra lợi ích thực sự của bộ nhớ kỹ thuật số. Vấn đề không phải để chứng minh mình đúng; mà để thừa nhận rằng bạn đã sai.
Bởi vì tất cả chúng ta đều đã sai trong những hoàn cảnh khác nhau, vướng vào tội ác và đạo đức giả, và chúng ta đều đã quên hầu hết những trường hợp đó. Điều đó có nghĩa là chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu bản thân mình. Liệu tôi có thể hiểu được về bản thân khi tôi còn không tin vào trí nhớ của mình? Liệu bạn có thể không? Có lẽ bạn đang nghĩ rằng, dù cho trí nhớ của mình không hoàn hảo, bạn chẳng bao giờ làm chuyện đổi trắng thay đen nghiêm trọng như chuyện tôi đã làm cả. Nhưng tôi cũng từng chắc chắn như bạn, và tôi đã sai. Có thể bạn sẽ nói, “Tôi biết tôi không hề hoàn bảo. Tôi đã phạm phải sai lầm.” Và tôi ở đây để nói với bạn rằng bạn phạm sai lầm nhiều hơn bạn nghĩ, rằng một số giả định cốt lõi để xây dựng hình ảnh bản thân của bạn thực sự là dối trá. Hãy dành thời gian sử dụng Remem, và bạn sẽ nhận ra điều đó.
Nhưng lý do mà giờ đây tôi khuyên bạn nên dùng Remem không phải vì những ký ức đáng xấu hổ nó gợi ra từ quá khứ của bạn; mà để tránh việc bạn phải dùng những thứ đó trong tương lai. Trí nhớ hữu cơ là thứ đã cho phép tôi tạo ra lời tự sự được tẩy trắng về kỹ năng nuôi dạy con cái của mình, nhưng từ giờ khi sử dụng bộ nhớ kỹ thuật số, tôi hi vọng sẽ để việc đó không xảy ra. Sự thật về cách cư xử của tôi sẽ không bị người khác chỉ ra trước mặt tôi, khiến tôi trở nên tự ái; nó thậm chí sẽ không phải là một cái gì đó tôi sẽ phát hiện ra như một cú sốc cá nhân, thúc đẩy việc đánh giá lại. Với việc Remem chỉ cung cấp những sự thật một cách minh bạch, hình ảnh của tôi về bản thân sẽ không bao giờ đi quá xa sự thật ngay từ đầu.
Bộ nhớ kỹ thuật số không ngăn cản ta kể chuyện về bản thân mình. Như tôi đã nói trước đó, chúng ta được tạo nên từ những câu chuyện, và không gì có thể thay đổi được điều đó. Những gì bộ nhớ kỹ thuật làm chỉ là thay đổi những chuyện mà ta đã dẫn dắt theo hướng nhấn mạnh cái tốt và loại bỏ cái xấu mình đi, thành những câu chuyện - tôi hy vọng - thừa nhận khả năng sai lầm của bản thân và giúp ta ít phán xét khả năng sai lầm của người khác.
Nicole cũng đã bắt đầu sử dụng Remem, và khám phá ra rằng hồi ức của con bé về những sự kiện cũng không phải hoàn hảo. Điều đó không làm cho Nicole tha thứ tôi về cách cư xử của tôi với con bé, bởi vì những sai lầm của con bé so với tôi chỉ là chuyện nhỏ - nhưng đã làm con bé nguôi giận trước hành động nhớ nhầm của tôi, vì Nicole nhận ra rằng đó là điều mà ai cũng mắc phải. Và tôi thật xấu hổ phải thừa nhận rằng đây chính xác là viễn cảnh mà Erica Meyers đã dự đoán khi cô ấy nói về ảnh hưởng của Remem lên các mối quan hệ.
Điều đó không có nghĩa là tôi đã thay đổi suy nghĩ về những mặt trái của bộ nhớ kỹ thuật số; thực sự có rất nhiều tác hại, và mọi người cần nhận thức được tác hại đó. Tôi chỉ không nghĩ rằng tôi có thể tranh luận về việc này trên mọi phương diện khách quan được nữa. Tôi đã bỏ bài báo tôi định viết về trí nhớ giá; tôi cũng đã chuyển giao nghiên cứu tôi làm cho đồng nghiệp, và cô ấy đã viết một bài báo tuyệt vời về ưu nhược điểm của phần mềm, một bài báo đầy lý trí, không có sự trăn trở hay tự vấn lương tâm vốn sẽ được thể hiện trong mọi câu từ tôi viết. Thay vào đó, tôi đã viết ra câu chuyện này này.
Câu chuyện mà tôi đưa ra về người Tiv là dựa trên thực tế, nhưng không hoàn toàn chính xác. Thực sự đã có một cuộc tranh chấp giữa cộng đồng người Tiv vào năm 1941 về việc gia tộc Shangev nên gia nhập cùng ai, dựa trên những ý kiến khác nhau về tổ tiên của người sáng lập gia tộc, và các hồ sơ hành chính đã chỉ ra rằng câu chuyện mà các trưởng lão kể về gia phả của mình đã thay đổi theo thời gian. Nhưng nhiều chi tiết cụ thể mà tôi miêu tả là bịa đặt. Những sự kiện có thật phức tạp hơn và ít kịch tính hơn, như cái cách thực tế vẫn luôn như vậy, nên tôi có quyền tự do để tạo nên câu chuyện hay hơn. Tôi kể một câu chuyện để làm sáng tỏ sự thật. Và tôi nhận ra sự mâu thuẫn ở đây.
Đối với lời kể về cuộc tranh cãi của tôi với Nicole, tôi đã cố gắng kể chính xác nhất có thể. Tôi đã ghi lại mọi thứ kể từ khi bắt đầu làm việc với dự án này, và tôi đã tham khảo nhiều lần các bản ghi khi viết nó. Nhưng trong lựa chọn của tôi về chi tiết nào nên thêm vào và chi tiết nào nên bỏ qua, có lẽ tôi đã tạo ra một câu chuyện khác. Bất chấp nỗ lực vững vàng của tôi, có phải tôi đã tự huyễn hoặc bản thân bằng cách miêu tả này không? Có phải tôi đã bóp méo sự thật để chúng theo vòng cung được mong đợi về một lời thú nhận? Cách duy nhất bạn có thể đánh giá là so sánh chuyện kể của tôi với chính các bản ghi, vì vậy tôi đang làm một việc mà tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm: với sự cho phép của Nicole, tôi cấp quyền truy cập công khai vào lifelog của mình, chẳng hạn vậy. Hãy xem video và tự quyết định.
Và nếu bạn vẫn nghĩ tôi chưa đủ thành thật, hãy nói với tôi. Tôi muốn được biết.
Hết
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Biên dịch: Evelyn
Biên tập: Diệu Mây
✄┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈┈
Tác giả Ted Chiang (Ảnh: The Guardian)
0 notes
Text
Kỳ ảo // Fantasy
(Bạn vui lòng click vào tên truyện để đọc nhé!)
1. Những hành tinh vô hình (Hác Cảnh Phương, 2010)
“Chúng ta chỉ là những kẻ lữ hành, hát những bài hát với ý nghĩa đã phai mờ, lang thang giữa bầu trời đêm đen.”
Trong Những hành tinh vô hình, một người mẹ kể cho cô con gái nhỏ của mình mười một câu chuyện về mười một hành tinh muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ. Ở những hành tinh ấy, có nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, có nơi địa lý, khí hậu độc đáo, có nơi lại sản sinh ra những nền văn minh kỳ lạ. Cứ sau mỗi một chuyến hành trình đến một hành tinh mới, hai mẹ con người kể chuyện, cũng như chính mỗi độc giả, dường như lại hiểu ra thêm một điều gì đó về thế giới mà chính chúng ta đang sống.
Lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Những thành phố vô hình của văn hào Ý Italo Calvino, Hác Cảnh Phương đã viết nên một câu chuyện cuốn hút, biến ảo khôn lường nhưng cũng rất dịu dàng và đầy chất thơ.
2. Lễ hội Số Chín (Caroline M. Yoachim, 2017)
“Một trăm ngày, rồi một trăm ngày nữa, và trên những chuyến tàu, thời gian thấm thoát thoi đưa.”
Lễ hội Số Chín kể về cuộc đời của một cô gái trong một cộng đồng người “sống” nhờ các vòng dây cót. Hàng ngày, họ được một vị chế tác gia bí ẩn “ban” cho một số vòng nhất định - ngày ít, ngày nhiều - và mỗi người đều phải học cách tận dụng số vòng đó một cách trọn vẹn nhất. Thế nhưng, liệu bao nhiêu vòng là đủ, khi mà trong cuộc đời mỗi người có quá nhiều công việc cần phải hoàn thành, quá nhiều ước mơ cần phải đạt đến, và quá nhiều lỗi lầm cần phải được sửa chữa?
Với truyện ngắn này, Caroline M. Yoachim mang đến một phép ẩn dụ đầy xúc động về những giới hạn khắc nghiệt của một kiếp người, và về ý nghĩa của việc sống từng ngày một cách trọn vẹn nhất.
3. Hoàng tử chiến binh (Leigh Bardugo, 2017)
Upcoming!
4. Phi hành gia tiên cá (Yoon Ha Lee, 2020)
“Nàng tiên cá đặc biệt này tự đặt tên cho mình là Essarala, có nghĩa là tìm kiếm các vì sao, theo ngôn ngữ của thủy triều và bọt biển.”
Ở một thế giới rộng lớn và kỳ thú giữa một thiên hà rộng lớn và kỳ thú, nàng tiên cá Essarala ôm trong lòng giấc mộng được du ngoạn giữa các vì sao. Khi một con tàu vũ trụ đáp xuống hành tinh quê hương của nàng, Essarala đã chấp nhận đánh đổi chiếc đuôi cá của mình với mụ phù thủy để có được cơ hội thỏa niềm ước ao bấy lâu. Điều nàng không ngờ đến là, vũ trụ có những quy tắc quá lớn lao lẫn quá khắc nghiệt, và một tiên cá nhỏ bé như nàng chẳng thể làm gì để thay đổi được chúng...
Phi hành gia tiên cá của Yoon Ha Lee là một phiên bản kể lại đầy thú vị câu chuyện cổ tích thiếu nhi nổi tiếng Nàng tiên cá của Hans Christian Andersen, nhưng lấy bối cảnh giữa những vì sao, và mang đến cho người đọc những góc nhìn mới, những ý nghĩa mới.
5. Thư viện nhỏ miễn phí (Naomi Kritzer, 2020)
“Meigan dựng lên một Thư viện nhỏ miễn phí với vài thứ đồ nghề, bởi cô muốn khiến nó đẹp mắt hơn.”
Xuất phát từ tình yêu dành cho những cuốn sách, Meigan đã quyết định dựng lên một chiếc tủ sách nhỏ đặt trước cửa nhà để có thể trao đổi sách với mọi người. Điều cô không ngờ là, chiếc Thư viện nhỏ miễn phí ấy lại là khởi nguồn cho tình bạn lạ lùng giữa cô với một nhân vật bí ẩn...
Bằng giọng văn dí dỏm, Naomi Kritzer mang đến một câu chuyện hài hước, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy sức lôi cuốn, đặc biệt là đối với cộng đồng mọt sách.
6. Ngôi nhà rao bán trên đồi ma ám (John Wiswell, 2020)
“Nếu trên đời có bất cứ điều gì kiên nhẫn được như cha mẹ, đó là những chuyện ma ám.”
Số 133 đại lộ Poisonwood là một ngôi nhà cô đơn. Cô đơn đến mức nó sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lại có người sống bên trong nó một lần nữa. Thế nhưng khi chứng kiến sự xa cách giữa một người bố và đứa con gái nhỏ sau cái chết của người vợ/người mẹ của gia đình họ, liệu 133 Poisonwood có sẵn sàng đánh đổi cơ hội thoát khỏi nỗi cô đơn để giúp hàn gắn tình cảm giữa hai bố con hay không?
Ngôi nhà rao bán trên đồi ma ám, chủ nhân của giải thưởng Nebula năm 2021, là một câu chuyện kỳ lạ nhưng vô cùng ấm áp về tình cảm gia đình, và về cái cách mỗi chúng ta đều có thể chọn lựa sự thiện lương trong đời.
0 notes
Text
Đời người - Lưu Từ Hân
Về tác giả
Lưu Từ Hân (刘慈欣/Liu Cixin, sinh năm 1963) là một tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng người Trung Quốc. Ông được coi là một trong những nhà văn sáng giá nhất của dòng truyện khoa học viễn tưởng Trung Quốc ở thời điểm hiện tại. Sáng tác nổi tiếng nhất của ông là bộ ba tác phẩm Vãng sự địa cầu, bao gồm các tiểu thuyết Tam thể, Khu rừng đen tối, Tử thần sống mãi (đã được dịch và phát hành ở Việt Nam).
Về tác phẩm
Đời người (bản Trung: 人生 - Nhân sinh; bản Anh: The Weight of Memories - Gánh nặng ký ức) là một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của Lưu Từ Hân. Truyện được Ken Liu chuyển ngữ và đăng tải trên tạp chí Tor vào ngày 17/08/2016.
»»-------------¤-------------««
Mẹ: Con à, con có nghe thấy mẹ không?
Thai nhi: Đây là đâu?
Mẹ: Ôi, tốt quá! Con có thể nghe thấy mẹ. Mẹ là mẹ của con đây.
Thai nhi: Mẹ! Con thực sự đang ở trong bụng mẹ sao? Con đang trôi trong nước . . .
Mẹ: Đó gọi là à-ừm-nước ối. Thật là một từ khó, mẹ biết. Mẹ cũng chỉ mới học nó hôm nay thôi.
Thai nhi: Có tiếng gì vậy? Giống như có tiếng sấm ở xa.
Mẹ: Đó là nhịp tim của mẹ đấy. Con đang ở bên trong mẹ mà, nhớ chứ?
Thai nhi: Con thích nơi này; Con muốn ở đây mãi mãi.
Mẹ: Ha, không thể đâu con! Con rồi sẽ được sinh ra thôi.
Thai nhi: Không! Ngoài đó đáng sợ lắm.
Mẹ: Ồ . . . ta sẽ nói về chuyện ấy sau nhé.
Thai nhi: Sợi dây gắn vào bụng con là gì vậy mẹ?
Mẹ: Đó là dây rốn của con. Khi con còn trong bụng mẹ, con cần nó để sống sót.
Thai nhi: Hmmm. Mẹ ơi, mẹ chưa bao giờ tới chỗ của con, phải không?
Người mẹ: Mẹ đã từng tới! Trước khi sinh ra, mẹ cũng từng ở bên trong bụng mẹ của mẹ. Ngoại trừ việc mẹ không nhớ ở đó như thế nào, và vậy nên con cũng không thể nhớ đâu. Con yêu, trong bụng mẹ có tối không? Con có thấy gì không?
Thai nhi: Có một quầng sáng yếu ớt từ bên ngoài. Một thứ ánh sáng màu cam đỏ, giống như màu của bầu trời khi mặt trời lặn khuất núi ở làng Tây Sáo vậy.
Người mẹ: Con nhớ làng Tây Sáo sao? Đó là nơi mẹ sinh ra! Vậy chắc con phải nhớ mẹ trông như thế nào hả?
Thai nhi: Con biết mẹ trông như thế nào. Con còn biết mẹ trông như thế nào khi còn nhỏ. Mẹ ơi, mẹ có nhớ lần đầu tiên mẹ nhìn thấy chính mình không?
Người mẹ: Ồ, mẹ không nhớ nữa. Mẹ đoán chắc phải là từ gương nhỉ? Ông ngoại con có một tấm gương bị vỡ làm ba mảnh được ông ấy dán lại—
Thai nhi: Không, không phải cái đó, mẹ à. Mẹ đã thấy mình lần đầu tiên khi được phản chiếu trong nước.
Người mẹ: Ha-ha . . . mẹ không nghĩ vậy đâu. Tây Sáo ở Cam Túc, một vùng của sa mạc Gobi. Bọn mẹ luôn thiếu nước, và cát bụi luôn bị gió thổi bay đầy trời.
Thai nhi: Đúng vậy. Ông bà ngoại phải đi hàng cây số mỗi ngày để mang nước về. Một ngày kia, ngay sau khi mẹ vừa tròn năm tuổi, mẹ đã đi tới giếng cùng bà ngoại. Trên đường về, mặt trời đã lên cao, và nhiệt độ nóng gần như không thể chịu được. Mẹ đã rất khát, nhưng mẹ không dám xin uống nước từ xô của bà ngoại vì mẹ sợ bà sẽ mắng mẹ đã không uống đủ nước ở giếng. Nhưng rất nhiều dân làng đã xếp hàng ở giếng đến nỗi cả một đứa trẻ như mẹ cũng không thể chen qua họ. Đó là một năm hạn hán, và hầu hết các giếng đã cạn khô. Người dân từ cả ba ngôi làng gần đó đã đến chỉ một cái cái giếng sâu ấy để lấy nước… Dù sao thì, khi bà ngoại nghỉ ngơi trên đường về nhà, mẹ đã dựa vào bên cạnh xô nước để ngửi lấy mùi nước mát, để cảm nhận độ ẩm bốc lên khuôn mặt khô cằn của mẹ.
Người mẹ: Ừ, con yêu, giờ mẹ nhớ rồi!
Thai nhi: ... và mẹ đã thấy ảnh phản chiếu của mình trong cái xô: khuôn mặt của mẹ phủ dưới một lớp bụi, đầy những vệt mồ hôi như những cái rãnh nước mưa lõm vào mặt đất. Đó là ký ức về lần đầu tiên mẹ nhìn thấy chính mình.
Người mẹ: Nhưng sao con có thể nhớ nhiều hơn mẹ chứ?
Thai nhi: Mẹ vẫn còn nhớ, mẹ ơi; mẹ chỉ không thể gợi lại ký ức đấy nữa mà thôi. Nhưng trong tâm trí con, mọi ký ức của mẹ đều rõ ràng, rõ ràng như thể chúng chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy.
Người mẹ: Mẹ không biết phải nói gì…
Thai nhi: Mẹ ơi, con cảm thấy có ai khác ngoài kia với mẹ.
Người mẹ: Ừ, đúng vậy, đó là bác sĩ Oánh. Cô ấy đã thiết kế ra chiếc máy này để giúp chúng ta nói chuyện với nhau, mặc dù con không thực sự có thể nói trong khi đang trôi nổi trong nước ối.
Thai nhi: Con biết cô ấy! Cô ấy lớn tuổi hơn mẹ một chút. Cô mang kính và mặc một chiếc áo khoác trắng dài.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh là một người tuyệt vời và đầy tri thức. Cô ấy là một nhà khoa học.
Bác sĩ Oánh: Xin chào!
Thai nhi: Chào cô? Ừm… cháu nghĩ cô nghiên cứu về não bộ ạ?
Bác sĩ Oánh: Đúng rồi. Cô là một nhà thần kinh học—là người nghiên cứu về cách não bộ tạo ra suy nghĩ và lưu giữ ký ức. Một bộ não người sở hữu khả năng lưu trữ thông tin khổng lồ, với số lượng tế bào thần kinh nhiều hơn số lượng các ngôi sao trong Dải Ngân hà. Nhưng phần lớn công suất của bộ não dường như không được sử dụng. Chuyên môn của cô là nghiên cứu những phần bị bỏ phí ấy. Bọn cô phát hiện ra rằng những phần não mà chúng ta nghĩ là trống rỗng thực ra chứa một lượng thông tin khổng lồ. Chỉ gần đây thôi, bọn cô mới phát hiện ra rằng đó là những ký ức từ tổ tiên chúng ta. Con có hiểu những gì cô vừa nói không, con trai?
Thai nhi: Cháu khá hiểu. Cháu biết cô đã giải thích điều này cho mẹ nhiều lần rồi. Những chỗ nào mẹ hiểu thì cháu cũng hiểu.
Bác sĩ Oánh: Trên thực tế, sự kế thừa ký ức rất phổ biến ở nhiều loài khác nhau. Ví dụ, nhiều mô hình nhận thức mà chúng ta gọi là “bản năng”—chẳng hạn như kiến thức của nhện về cách dệt mạng hoặc hiểu biết của ong về cách xây tổ— thực ra chỉ là những ký ức được kế thừa. Khả năng thừa kế ký ức mới được phát hiện ở con người thậm chí còn hoàn thiện hơn so với các loài khác. Lượng thông tin liên quan quá cao để được truyền lại qua mã di truyền; thay vào đó, các ký ức được mã hóa ở cấp độ nguyên tử bên trong DNA, thông qua các trạng thái lượng tử ở nguyên tử. Điều này liên quan đến việc nghiên cứu sinh học lượng tử—
Người mẹ: Bác sĩ Oánh à, điều ấy quá sức phức tạp với con tôi rồi.
Bác sĩ: Tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn để cho thằng bé biết nó may mắn thế nào so với những đứa trẻ khác thôi! Dù loài người sở hữu những ký ức di truyền, nhưng chúng thường ngủ yên và bị ẩn đi trong não. Chưa có ai từng phát hiện thậm chí cả sự hiện diện của chúng, cho đến bây giờ.
Người mẹ: Bác sĩ, hãy nhớ tôi mới chỉ học tiểu học thôi. Cô làm ơn nói đơn giản hơn đi.
Thai nhi: Sau khi học tiểu học, mẹ đã làm việc đồng áng vài năm, và rồi rời nhà để đi tìm việc làm.
Người mẹ: Phải, con yêu, đúng vậy. Mẹ không thể ở Tây Sáo nữa; kể cả nước ở đó cũng có vị đắng. Mẹ muốn một cuộc sống khác.
Thai nhi: Mẹ đã đến vài thành phố và làm mọi công việc mà người lao động nhập cư làm: rửa bát trong nhà hàng; chăm con cho người khác; làm hộp giấy trong nhà máy; nấu ăn tại một công trường. Trong một thời gian, khi mọi thứ trở nên thực sự khó khăn, mẹ phải nhặt rác tìm đồ tái chế để bán lại…
Người mẹ: Con ngoan. Tiếp đi con. Rồi sao nữa?
Thai nhi: Mẹ đã biết hết mọi thứ con đang kể rồi mà!
Người mẹ: Con cứ kể đi. Mẹ thích nghe con nói.
Thai nhi: Mẹ đã phải vật lộn cho đến năm ngoái, khi mẹ đến phòng thí nghiệm của Bác sĩ Oánh với tư cách là một người trông coi.
Người mẹ: Ngay từ đầu, Bác sĩ Oánh đã thích mẹ. Đôi lúc, khi cô ấy đi làm sớm và thấy mẹ đang quét nhà, cô ấy dừng lại và trò chuyện, hỏi han về cuộc sống của mẹ. Một buổi sáng nọ cô ấy gọi mẹ vào văn phòng của cô.
Thai nhi: Cô ấy hỏi mẹ, “Nếu cô có thể sinh ra lần nữa, cô muốn được sinh ở đâu?”
Người mẹ: Mẹ đã đáp, “Ở đây, tất nhiên rồi! Tôi muốn được sinh ra ở một thành phố lớn và sống một cuộc sống của dân thành thị.”
Thai nhi: Bác sĩ Oánh quan sát mẹ một lúc và cười. Ấy là một nụ cười mà mẹ không thể hiểu hết được. Rồi cô ấy nói, “Nếu cô dũng cảm, tôi có thể khiến ước mơ của cô thành sự thật.
Người mẹ: Mẹ đã nghĩ cô ấy chỉ đùa thôi, nhưng rồi cô giải thích về sự di truyền ký ức cho mẹ.
Bác sĩ Oánh: Cô đã nói với mẹ cháu rằng bọn cô đã phát triển một kỹ thuật cho phép thay đổi các gen trong trứng đã thụ tinh và kích hoạt những ký ức di truyền tiềm ẩn. Nếu thành công, thế hệ kế tiếp sẽ đạt được nhiều tựu hơn bằng cách xây dựng trên cơ sở kế thừa của họ.
Người mẹ: Mẹ đã khá sốc, và mẹ đã hỏi Bác sĩ Oánh rằng, “Cô có muốn tôi sinh ra một đứa con như vậy?”
Bác sĩ Oánh: Cô đã lắc đầu và nói với mẹ cháu, “Cô sẽ không sinh ra một đứa con; thay vào đó, cô sẽ sinh ra” —
Thai nhi: —“ra chính minh.” Đó là những gì cô đã nói.
Người mẹ: Mẹ đã phải nghĩ về những gì cô ấy nói rất lâu trước khi hiểu được: Nếu một bộ não khác có chính xác ký ức hệt như của con, thì chẳng phải người đó chính là con sao? Nhưng mẹ đã không thể tưởng tượng được một đứa bé như vậy.
Bác sĩ Oánh: Cô đã giải thích cho mẹ cháu rằng đó sẽ không hoàn toàn là một đứa bé, mà là một người lớn trong cơ thể một đứa bé. Chúng sẽ có thể nói ngay khi sinh ra—hoặc, như ta đã thấy giờ với cháu, thực ra là trước cả khi sinh: chúng sẽ có thể đi và đạt thành tựu nhanh hơn rất nhiều so với những đứa bé bình thường; và vì chúng đã sở hữu toàn bộ tri thức và kinh nghiệm của một người lớn, chúng sẽ đi trước những đứa trẻ khác tới hơn hai mươi năm về mặt phát triển. Tất nhiên, chúng ta không thể chắc chắn rằng chúng là những thần đồng, nhưng con cháu của chúng chắc chắn sẽ là như vậy, bởi vì những ký ức được thừa hưởng sẽ tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sau vài thế hệ, sự di truyền ký ức sẽ dẫn đến những phép màu không tưởng! Đây sẽ là một bước nhảy vọt trong nền văn minh nhân loại, và mẹ cháu, với tư cách là người mẹ tiên phong trong cống hiến vĩ đại này, sẽ được ghi nhớ trong suốt lịch sử.
Người mẹ: Và đó là cách mà mẹ đã tiến tới việc mang thai con, con yêu.
Thai nhi: Nhưng con không biết cha con là ai.
Bác sĩ Oánh: Vì lý do kỹ thuật, bọn cô đã phải dùng đến thụ tinh trong ống nghiệm. Người hiến tinh trùng yêu cầu giữ bí mật danh tính của anh ta, và mẹ cháu đã đồng ý. Trên thực tế, bé con, danh tính của ông ấy không quan trọng. So với cha của những đứa trẻ khác, đóng góp của cha cháu cho cuộc sống của cháu là không đáng kể, bởi vì tất cả những ký ức của cháu được thừa hưởng từ mẹ.
Người mẹ (nặng nề thở dài): Cô cũng không biết những hậu quả của việc chỉ kích hoạt ký ức của mình tôi nữa.
Bác sĩ Oánh (sau một hồi lâu im lặng): Đúng vậy. Chúng tôi không hề biết.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh, tôi có một câu hỏi mà tôi chưa bao giờ dám hỏi... Cô cũng còn trẻ và không có con; tại sao cô không mang thai một đứa con như tôi?
Thai nhi: Cô Oánh, mẹ nghĩ cô rất ích kỷ đó.
Người mẹ: Đừng nói vậy, con yêu.
Bác sĩ Oánh: Không, con cô nói đúng. Cũng công bằng thôi khi cô nghĩ như vậy; tôi thực sự ích kỷ. Ngay từ đầu, tôi đã nghĩ về việc có một đứa con với những ký ức thừa hưởng, nhưng một cái gì đó khiến tôi dừng lại: Chúng tôi bị bối rối bởi bản chất ngủ yên của những ký ức được thừa hưởng ở con người. Những ký ức như vậy có ích gì nếu chúng không được sử dụng? Các nghiên cứu bổ sung cho thấy chúng giống như ruột thừa vậy, một tàn dư của quá trình tiến hóa. Tổ tiên xa xôi của con người hiện đại rõ ràng sở hữu những ký ức thừa kế đã được kích hoạt, nhưng theo thời gian, những ký ức như vậy đã bị ẩn đi. Chúng tôi không thể giải thích tại sao tiến hóa lại ủng hộ sự mất đi một lợi thế quan trọng như vậy. Nhưng tự nhiên luôn có lý do của nó. Chắc hẳn có những mối nguy hiểm khiến cho các ký ức này bị khóa lại.
Người mẹ: Tôi không có ý trách cô vì đã thận trọng, bác sĩ Oánh à. Nhưng tôi tự nguyện tham gia vào thí nghiệm này. Tôi muốn được sinh ra lần nữa.
Bác sĩ Oánh: Nhưng cô đâu có được như vậy. Với những hiểu biết của chúng ta lúc này, cô đang mang thai một đứa con, một đứa con với tất cả ký ức của cô.
Thai nhi: Con đồng ý, mẹ à. Con không phải mẹ, nhưng con có thể cảm nhận được rằng mọi ký ức của con đều đến từ trí óc mẹ. Ký ức thật sự duy nhất mà con có là vùng nước xung quanh con, nhịp tim của mẹ, và thứ ánh sáng yếu ớt màu cam đỏ từ bên ngoài.
Bác sĩ Oánh: Chúng ta đã phạm một sai lầm tệ hại khi nghĩ rằng sao chép ký ức là đủ để tái sinh một con người. Một bản ngã bao gồm nhiều thứ khác bên cạnh những ký ức, những điều không thể tái tạo được. Ký ức của một người giống như một cuốn sách, và những độc giả khác nhau sẽ trải nghiệm những cảm xúc khác nhau. Thật tệ khi cho phép một đứa trẻ còn chưa được sinh ra đọc một cuốn sách nặng nề, ảm đạm như vậy.
Người mẹ: Thật vậy. Tôi thích thành phố này, nhưng thành phố trong ký ức của tôi dường như khiến con tôi sợ hãi.
Thai nhi: Thành phố thật đáng sợ! Mọi thứ bên ngoài đều đáng sợ, mẹ ơi. Con không muốn được sinh ra!
Người mẹ: Sao con lại nói vậy? Con đương nhiên phải được sinh ra chứ.
Thai nhi: Không, mẹ ơi! Mẹ có nhớ những buổi sáng mùa đông ở Tây Sáo, khi ông bà ngoài vẫn thường la mắng mẹ không?
Người mẹ: Tất nhiên mẹ nhớ chứ. Cha mẹ của mẹ thường đánh thức mẹ trước khi mặt trời lên để có thể cùng họ đi dọn dẹp chuồng cừu. Mẹ đã không muốn dậy chút nào cả. Bên ngoài trời vẫn còn tối, và gió thổi như những nhát dao cắt da cắt thịt. Đôi khi, thậm chí trời còn đổ tuyết. Mẹ đã rất ấm áp trên giường, quấn mình trong chăn như một quả trứng nằm trong tổ. Mẹ đã luôn muốn ngủ lâu hơn một chút.
Thai nhi: Không chỉ một chút. Mẹ đã muốn nằm ngủ trong chăn ấm mãi mãi.
Người mẹ (dừng lại): Ừ, con nói đúng.
Thai nhi: Con sẽ không ra ngoài đó đâu! Không bao giờ!
Bác sĩ Oánh: Cô đảm bảo với cháu, bé con, thế giới bên ngoài không phải như một cơn bão tuyết trong đêm đông vĩnh cửu. Nơi này còn có cả những ngày nắng chiếu rực rỡ và gió xuân nhè nhẹ thổi. Đời người chẳng dễ dàng, nhưng cũng có nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Người mẹ: Bác sĩ Oánh nói đúng! Mẹ của con vẫn còn nhớ nhiều khoảnh khắc hạnh phúc, như ngày mẹ đi khỏi nhà: khi mẹ bước ra khỏi Tây Sáo, mặt trời vừa mọc. Gió mát thổi trên khuôn mặt mẹ, và tiếng hót của những chú chim tràn ngập bên tai mẹ. Mẹ cảm thấy mình như một con chim vừa thoát cũi sổ lồng. Và cái lần đầu tiên mẹ kiếm được tiền của riêng mình trong thành phố nữa! Mẹ đã bước vào siêu thị với tâm trạng tràn ngập hạnh phúc. Con không thể cảm nhận được niềm vui đó sao ,con yêu?
Thai nhi: Mẹ, con nhớ rất rõ cả hai lần đó, nhưng chúng đều là những ký ức khủng khiếp. Ngày mẹ rời khỏi làng, mẹ phải đi bộ ba mươi cây số qua những ngọn núi để bắt xe buýt ở thị trấn gần nhất. Con đường mòn rất gồ ghề và khó đi, và mẹ chỉ có mười sáu tệ trong túi; mẹ sẽ làm gì sau khi đã tiêu hết tất cả chúng? Ai biết mẹ sẽ gặp phải điều gì ở thế giới ngoài kia?
Bác sĩ Oánh (sau một hồi im lặng): Bây giờ tôi đã hiểu tại sao sự tiến hóa lại tắt đi việc kích hoạt của những ký ức di truyền ở con người. Khi tâm trí của chúng ta ngày càng nhạy cảm hơn, trạng thái vô minh đi kèm với sự ra đời của chúng ta giống như một túp lều ấm áp bảo vệ chúng ta khỏi thực tế khắc nghiệt của thế giới. Chúng tôi đã lấy đi tổ ấm của con cô và ném nó vào một thực tại trần trụi, nơi tất cả những sự khắc nghiệt đó đều được phơi bày.
Thai nhi: Cô Oánh ơi, sợi dây gắn vào bụng cháu là gì vậy?
Bác sĩ Oánh: Cô nghĩ rằng cháu đã hỏi mẹ câu đó rồi mà. Đó là dây rốn của cháu. Trước khi cháu được sinh ra, nó cung cấp cho cháu oxy và chất dinh dưỡng. Đó là nguồn sống của cháu.
»»-------------¤-------------««
Một buổi sáng mùa xuân của hai năm sau.
Bác sĩ Oánh và người mẹ trẻ đứng cạnh nhau giữa nghĩa trang công cộng; người mẹ ôm con mình trong vòng tay.
“Bác sĩ Oánh, cô có bao giờ ngừng việc tìm kiếm những gì cô đang tìm không?”
“Ý cô là bất cứ điều gì, ngoại trừ ký ức, tạo nên bản ngã của mỗi chúng ta?” Bác sĩ Ying chậm rãi lắc đầu. “Tất nhiên là không. Tôi không nghĩ đó là thứ khoa học có thể tìm ra được.”
Ánh mặt trời trong buổi sớm mai phản chiếu từ những bia mộ xung quanh họ. Vô số sự sống vốn đã kết thúc lại bừng lên trong thứ ánh sáng mang sắc cam mềm mại.
“Hãy cho ta biết niềm cảm mến được gợi lên từ đâu, trong trái tim, hay ở trong đầu?” bác sĩ Oánh lẩm bẩm.
“Cô nói gì vậy?” Người mẹ nhìn bác sĩ Oánh, bối rối.
“Hai câu thơ của Shakespeare ấy mà.” Bác sĩ Oánh đưa tay ra, và người mẹ trao đứa bé cho cô.
Nó không phải là đứa trẻ có những ký ức di truyền đã được kích hoạt. Người mẹ trẻ đã kết hôn với một kỹ thuật viên tại phòng thí nghiệm, và đây là con của họ.
Đứa thai nhi đã sở hữu tất cả ký ức của mẹ mình đã tự xé đứt dây rốn, vài giờ sau cuộc trò chuyện của họ. Vào thời điểm vị bác sĩ nhận thấy những gì đã xảy ra, sự sống còn được chưa sinh ra ấy đã kết thúc. Sau đó, mọi người đều băn khoăn rằng làm thế nào bàn tay nhỏ bé ấy có đủ sức mạnh để làm được một điều như vậy.
Hai người hiện đang đứng trước ngôi mộ của vụ tự tử trẻ nhất trong lịch sử loài người.
Bác sĩ Oánh quan sát đứa trẻ trong vòng tay của mình như thể đang nhìn vào một thí nghiệm. Nhưng ánh mắt của đứa bé khác với ánh mắt của cô. Nó đang bận rộn thò cánh tay nhỏ của mình để bắt lấy những chùm bông từ bạch dương đang bay bay trong sương sớm. Niềm ngạc nhiên và vui sướng tràn ngập đôi mắt đen láy của đứa trẻ. Thế giới là một bông hoa đang nở, một món đồ chơi khổng lồ, tuyệt đẹp. Nó hoàn toàn không được chuẩn bị cho chặng đường đời dài dằng dặc và khó lường phía trước, và do vậy nó sẽ sẵn sàng đón nhận mọi thứ.
Hai người phụ nữ đi dọc theo con đường giữa các bia mộ. Ở rìa nghĩa trang, người mẹ trẻ bế con mình trở về từ tay bác sĩ Oánh.
“Con yêu, chúng ta lên đường thôi!”, cô nói, đôi mắt lấp lánh với sự phấn khích và tình yêu.
Hết
»»-------------¤-------------««
Dịch từ bản chuyển ngữ tiếng Anh The Weight of Memories của Ken Liu. Có tham khảo bản tiếng Trung 人生.
Biên dịch: Lucifer
Biên tập: Diệu Mây
»»-------------¤-------------««
Tác giả Lưu Từ Hân (Ảnh: Los Angeles Times)
Minh họa truyện Đời người trên tạp chí Tor
0 notes