Tumgik
#tĩnh dạ tứ
thptngothinham · 24 days
Text
Tuyển chọn văn mẫu nêu cảm nhận về tác phẩm Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) của tác giả Lí Bạch - Văn mẫu tham khảo lớp 7. Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) của Lí Bạch. *** Lập dàn ý cảm nhận về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh I. Mở bài: – Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. – Thơ ông có một vẻ đẹp kì lạ, khó quên – Ông viết nhiều về trăng, coi trăng là biểu tượng của quê hương mà ông suốt đời yêu mến. – Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được ông sáng tác trong thời gian sống lênh đênh nơi đất khách quê người, trong đêm trăng sáng, chạnh lòng nhớ cố hương. II. Thân bài: – Tâm trạng của nhà thơ: Chủ đề bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương), thường thấy trong thơ cổ điển. Tuy vậy, cách thể hiện của Lí Bạch rất khác lạ. + Hai câu đầu: Khung cảnh đêm trăng sáng: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương.) – Ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, tri kỉ. – Vầng trăng tròn đầy, đẹp đẽ là đối tượng để nhà thơ vừa ngắm nhìn, thưởng thức, vừa chia sẻ tâm tình. – Nhà thơ đang có trạng thái mơ màng nên cảm thấy ánh trăng trắng đục như sương đang phủ tràn mặt đất. – Có thể nhà thơ ngắm trăng qua làn nước mắt xúc động, bồi hồi vì trăng đẹp, vì nhớ quê nên mới cảm nhận như thế. + Hai câu sau: Tình cảm tha thiết đối với quê hương: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.) – Vầng trăng tròn đầy tượng trưng cho sự đoàn tụ. – Ngắm trăng, Lí Bạch mừng như gặp lại cố nhân nhưng vì chua xót cho thân phận cô đơn nơi đất khách quê người của mình nên càng thương nhớ quê hương cách xa ngàn dặm. – Tâm trạng trĩu nặng nỗi sầu, hành động thu gọn trong hai cử chỉ: Ngẩng đầu, cúi đầu… Nỗi nhớ quê hương của nhà thơ thật thiết tha, sâu nặng. – Trong hai câu thơ đều không có chủ ngữ nhưng nhân vật trữ tình – chính là thi sĩ vẫn hiện lên rất rõ nét cả về tư thế lẫn tâm trạng. III. Kết bài: – Bài thơ Tĩnh dạ tứ truyền cho người đọc niềm xúc động chân thành và tình yêu quê hương tha thiết của thi sĩ họ Lí. – Nhận xét về bài thơ này, Trương Minh Phi – nhà phê bình nghiên cứu về thơ Đường đã viết: Trong loại thơ nhìn trăng mà thổ lộ tâm tình nhớ quê, bài có khuôn khổ nhỏ nhất, ngôn từ đơn giản tinh khiết nhất là Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch, song bài có ma lực lớn nhất được truyền tụng rộng nhất cũng là bài Tĩnh dạ tứ ấy. ↪ Xem thêm: Soạn bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Một số bài văn hay nêu cảm nghĩ về tác phẩm Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Bài mẫu 1: Cảm nhận về bài thơ Cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đời thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ, Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời. Ở tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi, nhưng hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm khảm ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy.   Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo. Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ. Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được.
Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng - người bạn không lời nhưng gắn bó với ông suốt đời và được ông coi là tri âm, tri kỉ. Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy cục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông... Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng là ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muốn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ:   Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương.   (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương). Đây là bài thơ tứ tuyệt tường đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện. Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận. Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu). Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rướm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ. Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng. Vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên vầng trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương. Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh trăng bàng bạc như phủ sương trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc:   Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương.   (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương). Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn thể hiện rất rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động. Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng, thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào! Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả "xúc cảnh sinh tình" thì không đủ. "Tình" ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê, thao thức nhìn trăng sáng. Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đối nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư. Hai câu thơ sau đối ý, đối thanh thật chỉnh. Nhà thơ đã sáng tạo trên cơ sở một câu dân ca quen thuộc: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng), chỉ thay từ ngưỡng bằng từ cử, từ khán bằng từ vọng. Câu thơ của Lí Bạch là: Cử đầu vọng minh nguyệt. Cũng vẫn giống nhau ở tư thế ngẩng đầu nhìn trăng sáng nhưng cái nhìn trong câu dân ca mang tính khách quan, còn cái nhìn trong thơ Lí Bạch lại đậm tính chủ quan. (Khán: nhìn, ý nghĩa trung hòa. Vọng: nhìn xa, ý nghĩa biểu cảm).
Vọng minh nguyệt là cố nhìn ra xa để thấy cho rõ vầng trăng sáng. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhau nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day dứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng tẳng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê hương thiết tha, khắc khoải... luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch. Câu thơ cuối mở ra một thế giời mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy ắp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc đã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc. Bố cục bài thơ hết sức chặt chẽ, thể hiện tài năng của nhà thơ. Hai câu đầu diễn đạt ý: Ngỡ ánh trăng đầu giường là sương phủ trên mặt đất. Nghi là động từ liên kết ý của hai dòng thơ. Ngoài ra các động từ khác (cử, vọng, đê, tư) đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc liên kết các câu trong bài. Giữa các động từ có quan hệ chặt chẽ: Nghi (thị địa thượng sương) - Cử (đầu) - vọng (minh nguyệt) - Đê (đầu) - tư (cố hương). Trong bốn câu thơ, tuy các chủ ngữ đều bị lược bỏ nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra chủ thể trữ tình là tác giả. Điều đó tạo nên tính thống nhất, liền mạch trong cảm xúc thơ. Về mặt ngữ pháp, có thể xem đây là một hình thức câu thu gọn. Trong thơ, việc lược bỏ chủ ngữ - đặc biệt là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất làm cho sức cộng hưởng của thơ tăng lên rất nhiều. Ở Tĩnh dạ tứ, ta có thể hiểu chủ thể trữ tình là Lí Bạch, nhưng cũng có thể là bất cứ ai khác. Trong điều kiện xã hội tương tự, ở những tình huống tương tự, với quan niệm sống và vốn văn hóa tương tự thì đều có thể xuất hiện cảm nghĩ tương tự. Đó chính là tính chất điển hình của cảm xúc trong thơ trữ tình. Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Tĩnh dạ tứ giản dị, tự nhiên, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Tài thơ Lí Bạch là "tuyệt diệu ở chỗ đạm bạc". Hay như nhận xét của Hồ Ứng Lân, một nhà phê bình đời Minh: Thuận miệng nói ra mà thành thơ, tuyệt không có dụng ý dụng công, song không có chỗ nào là không tinh xảo. Qua bài thơ này, Lí Bạch đã bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết. Tình cảm chân thực và sâu đậm ấy thực sự đã gây xúc động cho người đọc, truyền đến chúng ta nỗi thổn thức, bâng khuâng khó tả. Tình cảm quê hương ngày nay mặc dù đã mang những nét mới của thời đại song những bài thơ trữ tình xuất sắc về quê hương của các nhà thơ trong quá khứ vẫn tạo được sự cộng hưởng sâu xa, vẫn có tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng, xây dựng nhân cách con người. Trương Minh Phi, một nhà phê bình thơ Đường đã nhận xét bài thơ này như sau: "Trong loại thơ nhìn trăng mà thổ lộ tâm tình nhớ quê, bài có khuôn khổ nhỏ nhất, ngôn từ đơn giản tinh khiết nhất là Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch, song bài có ma lực lớn nhất, được truyền tụng rộng rãi nhất cũng là bài Tĩnh dạ tứ ấy". » Phân tích bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh để hiểu rõ hơn những nghệ thuật, nội dung đặc sắc của tác phẩm. Bài mẫu 2: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh chính là nỗi lòng của Lí Bạch với người bạn tâm giao Thơ xưa thường hay nói đến thiên nhiên, thiên nhiên như một người bạn để thi nhân có thể chia sẻ tâm sự của mình hoặc cũng có bài thơ viết lên chỉ để ca ngợi thiên nhiên. Thơ Lí Bạch cũng nhắc đến thiên nhiên, đặc biệt là trăng, trăng tràn ngập trong thơ Lí Bạch. Có những bài, trăng như người bạn cùng vui chơi với Lí Bạch còn có những bài ánh trăng như là cái cớ để ông bày tỏ tâm sự, nỗi lòng của mình và bài thơ Tĩnh dạ tứ là một bài như thế. Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề bài thơ. Bài thơ có tựa đề là Tĩnh dạ tứ tức là những suy nghĩ trong một đêm rất đẹp, trên
trời ánh trăng toả sáng khắp nơi, một thứ ánh sang lung linh huyền ảo và chính trong khung cảnh thiên nhiên ấy trong lòng Lí Bạch bỗng trào dâng lên nỗi nhớ quê hương. Toàn bộ bài thơ là cảm xúc chân thành thiêt tha của tác giả. Ở hai câu thơ đầu: Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phư sương Đọc hai câu thơ này, cảm giác đầu tiên đến với ta đó là sự yên tĩnh, vắng lặng và thời gian lúc này như đã khuya lắm rồi, tất cả như đang chìm sâu vào giấc ngủ, chỉ có ánh trăng âm thầm thực hiện nhiệm vụ của mình. Ánh trăng tràn vào nhà, soi rọi khắp nơi. Ánh trăng bàng bạc ấy khiến ông ngỡ như là sương đang la đà trên mặt đất. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc một cảm giác cô đơn và trống vắng. Phải chăng trong lòng thi nhân đang chất chứa một nỗi niềm tâm sự, bởi vậy nên ánh trăng đẹp như vậy mà ông cứ ngỡ như mặt đất phủ sương. Đồng thời với sự “nhầm lẫn” ấy ta còn thấy tâm trạng ngỡ ngàng, bất ngờ của thi nhân trước khung cảnh thiên nhiên. Câu thơ thứ ba: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Câu thơ này vẫn nói đến trăng, nói đến thiên nhiên nhưng từ “ngẩng” dường như không gợi cho ta cảm giác nhẹ nhàng thanh thản của người ngắm trăng mà đó là cái nhìn chất chứa tâm sự. Trong 3 câu thơ đầu, ta thấy tác giả nhắc nhiều đến thiên nhiên, đến trăng. Khung cảnh thiên nhiên ấy dẫu buồn nhưng vẫn gợi cho ta cảm giác đẹp, một vẻ đẹp huyền ảo, lung linh. Nếu như ở 3 câu thơ đầu thi nhân nhắc nhiều đến trăng, điều đó khiến cho không ít người ngỡ rằng bài thơ chủ yếu nói về trăng nhưng đến câu thơ cuối tất cả bộc lộ ra rất rõ: Cúi đầu nhớ cố hương Chúng ta thấy câu thơ thứ 3 và câu thứ 4 đối nhau ở 2 tư thế “cúi” và “ngẩng”. Cái tình trong bài thơ đã bộc lộ rõ hơn. Rõ ràng đây là một bài thơ tả cảnh ngụ tình. Tâm trạng của nhà thơ đã thực sự bộc lộ đó là nỗi nhớ cồn cào quê hương. Như ta đã biết, thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi múa kiếm và ngắm trăng, khi lớn lên trở thành nhà thơ ông lại thường xa quê nay đây mai đó. Thế nhưng dù cho năm tháng trôi qua thì tình cảm của ông đối với quê hương vẫn sâu đậm và tha thiết, chỉ cần nhìn ánh trăng thôi cũng đủ để gợi cho ông những cảm xúc dạt dào, tha thiết về chốn cũ. Và ánh trăng “đêm nay” đã khiến cho tâm hồn ông trĩu nặng nỗi nhớ quê, nhớ về nơi ông sinh ra, ở đó có những người thân của ông, nơi đó có biết bao kỉ niệm về những ngày thơ ấu, những năm tháng thăng trầm của một đời người. Như vậy, có thể thấy toàn bộ bài thơ cảnh và tình luôn song hành và gắn bó với nhau. Đối với Lí Bạch thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành vừa có thể cùng ông vui chơi nhưng cũng có khi lại là nơi để ông trút nỗi tâm sự của mình. Tâm hồn ông luôn tha thiết với thiên nhiên và chính tấm lòng ấy đã gợi cho Lí Bạch những cái nhìn khá độc đáo về thiên nhiên, tứ thiên nhiên nhà thơ lại nhớ về quê hương thân yêu. Có thể nói, những bài thơ của Lí Bạch đều thể hiện một tình yêu quê hương, đất nước chân thành, thiết tha. Trong đó bài thơ Tĩnh dạ tứ có thể được coi là một bài thơ viết về tình yêu quê hương hay nhất, bởi tác giả rất tinh tế lấy ngoại cảnh, thiên nhiên để biểu hiện nỗi nhớ quê của mình. Bài thơ rất ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, nhớ quê là tâm trạng chung của tất cả những người phải sống xa quê. Bài mẫu 3: Cảm nhận về nỗi nhớ quê nhà trong Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Có người nói thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng, hình ảnh trong thơ Lí Bạch hết sức đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú. Chủ đề của bài thơ rất quen thuộc “Vọng nguyệt hoài hương” cách thể hiện rất giản dị mà độc đáo. Lí Bạch là một nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Thơ của ông mang một vẻ đẹp kì lạ khó quên, ông thường viết nhiều về ánh trăng, coi trăng là biểu tượng của quê hương mà ông suốt đời yêu mến. Bởi thuở nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga My ở quê nhà để ngắm trăng vì thế mà cứ mỗi lần trăng lên ông lại dâng trong mình nỗi nhớ quê nhà. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được ông sáng tác trong thời gian sống lênh đênh nơi đất khách quê người, trong đêm trăng sáng, chạnh lòng nhớ cố hương. Bài thơ được viết theo hình thức
cổ thể, một thể thơ trong đó mỗi câu thường có năm đến bảy chữ song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm luật và đối ràng buộc. Thơ xưa thường hay nói đến thiên nhiên coi thiên nhiên như một người bạn để cho thi nhân có thể chia sẻ gửi gắm tâm sự của mình hoặc cũng có đơn giản những bài thơ viết chỉ để miêu tả thiên nhiên. Thơ Lí Bạch cũng viết về thiên nhiên nhưng chủ yếu thường là ánh trăng. Ông coi trăng như một người bạn để giãi bày tâm trạng, nỗi lòng của mình và bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một bài thơ như thế. Toàn bộ bài thơ là cảm xúc chân thành tha thiết của tác giả ở hai câu thơ đầu: Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Khi đọc hai câu thơ này cảm giác đầu tiên đến với ta là sự yên tĩnh, vắng lặng hơn nữa thời gian lúc này đã khuya lắm rồi tất cả vạn vật như đang chìm sâu vào giấc ngủ thì chỉ còn ánh trăng ở lại. Ánh trăng tràn vào nhà lan tỏa vạn vật soi rọi khắp nơi, ánh trăng bàng bạc ấy khiến cho ông cứ ngỡ là sương đêm đang la đà trên mặt đất. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc một cảm giác cô đơn trống vắng phải chăng trong lòng tác giả đang chất chứa nhiều tâm sự nên ánh trăng đẹp như vậy mà ông cứ ngỡ là màn sương. Câu thơ thứ ba: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cho đến câu thơ này vẫn nói đến trăng, nói đến thiên nhiên nhưng từ “ngẩng” dường như không gợi cho ta cảm giác nhẹ nhàng thanh thản của người ngắm trăng mà đó chính là cái nhìn chất chứa đầy tâm sự. Ở trong ba câu thơ đầu ta thấy tác giả nhắc nhiều đến thiên nhiên đến ánh trăng khung cảnh thiên nhiên dẫu buồn nhưng vẫn gợi cho ta cảm giác đẹp lung linh huyền ảo. Nếu như ở ba câu thơ đầu tác giả có nhắc nhiều đến ánh trăng điều đó khiến cho không ít người ngỡ rằng bài thơ chủ yếu là viết về ánh trăng nhưng cho đến câu thơ cuối thì tất cả bộc lộ rất rõ. Cúi đầu nhớ cố hương. Như ta đã thấy câu thơ thứ ba và câu thơ thứ tư đối nhau ở hai tư thế “cúi” và “ngẩng”. Cái nhìn trong bài thơ đã được bộc lộ rõ hơn đây là một bài thơ tả cảnh hữu tình. Tâm trạng của nhà thơ thật sự được bộc lộ đó là nỗi nhớ cồn cào quê hương, thuở nhỏ Lí Bạch thường hay lên núi Nga My múa kiếm ca ngắm trăng khi lớn lên ông lại thường hay xa quê hương. Thế nhưng dù năm tháng có trôi qua thì tình cảm của ông đối với quê hương vẫn sâu đậm và tha thiết, chỉ cần nhìn ánh trăng thôi cũng đủ gợi cho ông những cảm xúc dạt dào, tha thiết về trốn cũ. Và ánh trăng đêm nay đã khiến cho tâm hồn ông trĩu nặng nỗi nhớ quê, nhớ về nơi ông sinh ra, nơi đó có những người thân của ông, nơi đó có biết bao nhiêu kỉ niệm thời thơ ấu, những năm tháng thăng trầm của cuộc đời. Như vậy có thể thấy toàn bộ bài thơ cảnh và tình luôn song hành với nhau gắn bó với nhau. Đối với Lí Bạch thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành vừa có thể cùng ông vui chơi nhưng cũng có khi nó lại người bạn tri kỷ để ông giãi bày tâm sự của mình. Tâm hồn ông luôn tha thiết với thiên nhiên và chính tấm lòng ấy đã gợi cho ông những cái nhìn khá độc đáo về thiên nhiên. Có thể nói thơ Lí Bạch đều thể hiện một tình yêu quê hương, đất nước chân thành. Trong đó bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh có thể được coi là một bài thơ viết về tình yêu quê hương hay nhất, tác giả rất tinh tế lấy ngoại cảnh thiên nhiên để biểu hiện nỗi nhớ quê của mình. Bài thơ rất ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, nhớ quê dường như nó là một tâm trạng chung của những người phải xa quê. /***/ Trên đây là tuyển chọn văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh trong Văn mẫu 7, các em cũng đường quên tham khảo thêm những bài văn hay tuyển chọn lớp 7 dành cho học sinh tham khảo tự rèn luyện kỹ năng làm văn.
0 notes
phantranghy-blog · 10 months
Text
Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà
Tumblr media
Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà
      Xa quê, ai không nhớ? Nỗi nhớ quê ấy là nhớ nơi chôn nhau, cắt rốn của mình, nhớ nơi chốn một thời in sâu những kỷ niệm vui buồn, khôn dại, nơi chứng giám tình yêu của tuổi học trò, tình yêu mộng mơ của thời trai trẻ, là nơi nuôi ta nên người,… Như nhiều người từng biết, Phạm Duy quê ở Hà Nội, có thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi về thành, vô Nam, rồi sống ở hải ngoại, rồi về lại Việt Nam. Cuộc đời theo “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca) đã ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của ông, trong đó có chương khúc Hương ca. Đây là tập hợp 10 bài ca viết về quê hương Việt Nam sau năm 2000. Qua chương khúc này, ta bắt gặp nỗi niềm thương nhớ quê nhà của tác giả.
      Trước hết, một Phạm Duy vội vàng thương nhớ quê nhà. Vội vàng có lẽ tuổi ông đã cao, không biết khi nào về được quê hương, không biết bao giờ gặp lại những người mà ông thương mến. Thời gian như không chờ đợi một ai. Ông như thấy không kịp nữa rồi! Cũng không thể hẹn kiếp sau về lại quê nhà! Do vậy, khi bắt gặp bài thơ Về Thôi của Lưu Trọng Văn, ông tự nhủ là phổ nhạc ngay, và giúp ông quyết định sáng tác 10 bài Hương ca. Bài thơ của Lưu Trọng Văn như là sự khởi đầu của Hương ca:
          Nào đâu có trăm năm, đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?
          Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?
          Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông
          Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông
          Trăm năm bến cũ, có còn đó không? Còn đó không?
          Cây da bến cũ còn lưa, bến cũ còn lưa
          O đò năm trước đi mô không về…
                  (Trăm Năm Bến Cũ – Hương ca 01, phổ thơ Lưu Trọng Văn)
      Nhớ quê hương là nhớ cụ thể những kỷ niệm gắn bó thân thiết với quê hương. Đó có thể là những lần thả diều trên bờ đê lộng gió, có thể là những lần đá bóng bên cồn. Đó cũng có thể là những lần hái sim trên đồi, dạo chơi trong vườn bách thú. Đó còn là những lần tắm sông, tắm biển vào những ngày hè. Nhà thơ Tế Hanh cũng từng nhớ quê hương qua nỗi nhớ thương về con sông gắn với kỷ niệm thời trẻ: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống lòng sông thấp thoáng/ Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng/ Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi/ Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi…” (Nhớ Con Sông Quê Hương). Một thời Lý Bạch nhớ quê trong Tĩnh Dạ Tứ đến độ: “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương” (‘Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương’, Nam Trân dịch). Và, giờ Phạm Duy nhớ quê là nhớ về những lần tắm truồng trong sông vào đêm trăng huyền ảo:
          Lột áo ngang đầu, buông quần chùng xuống đất
          Nhào xuống dòng sông, ý y a sông sâu
          Ngâm mình trong nước gột hết, hết u sầu
          Giang hai chân rộng bơi vào, vào mộng mơ
          Trời xuống thật gần, mây êm trôi lặng lẽ
          Ngân hà tung tóe long lánh, ới long lánh
          Mặt trăng đâu đó về tắm mát cùng anh
          Vô vàn sao sáng múa hát trong trời thanh
                  (Tắm Truồng Sông Trăng – Hương ca 03)
      Trong cõi lòng Phạm Duy, nỗi nhớ quê còn là nhớ miền Nam nước Việt thân yêu. Ông từng viết những lời ca xao động lòng người về miền đất trù phú, mỡ màu, vùng đất của những con người phương Nam trong trường ca Con Đường Cái Quan: “Về miền Nam ta theo cơn gió đưa/ Về miền quê ta theo cơn gió về/ Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa/ Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta/ Về miền Nam… Về miền Nam/ Người về đây trong gió bình an”… Và giờ nỗi niềm thương nhớ quê hương lại ùa về trong ký ức:
          Trong sương khói mong manh
          Có bóng người vô danh
          Từ bên này sông Tiền
          Qua bên kia sông Hậu.
          Mang theo chiếc độc huyền
          Và điệu thơ Lục Vân Tiên
          Tới Cà Mau, Rạch Giá
          Cất chòi giữa rừng thiêng.
                  (Hương Rừng – Hương ca 06, phổ thơ Sơn Nam)
      Ai xa quê lại không nhớ quê? Đôi khi tôi được gặp những bạn học hồi học trung học về thăm quê. Các bạn đều nhắc lại những kỷ niệm thời đi học. Các bạn kể lại nhiều thứ lắm. Tôi nghe qua lời kể đó là nỗi nhớ thương quê. Và tôi tin một điều, Phạm Duy cũng vậy. Một con người từng viết những bản nhạc đượm tình quê hương như Quê Nghèo, Về Miền Trung, Tình Ca… chắc hẳn nỗi niềm nhớ thương quê là điều hiển nhiên trong lòng ông. Một Hà Nội, nơi ông sinh ra và lớn lên luôn hiện hữu trong trái tim ông. Vì thế, dù ở xứ người, ông vẫn nhớ về Hà Nội. Nhớ để rồi tự an ủi mình. Dù đó là giấc mơ:
          Ngày Xuân phơn phớt gió
          Nhè nhẹ mưa bay bay
          Ửng hồng trên nhánh cây
          Cành hoa đào đo đỏ
          Đầy trời chim én nhỏ
          Gọi mùa Xuân về đây
          Lá đào rớt trên tay
          Tưởng chiều Xuân Hà Nội
                  (Mơ Dạo Xuân Hà Nội – Hương ca 07, phổ thơ Thảo Chi)
      Nhớ quê là nhớ kỷ niệm một thời trai trẻ. Một thời Phạm Duy tham gia Cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp. Và Hà Nội cũng vẫn trong giấc mơ thơm mùi tình ái thuở nào:
          Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
          Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
          Có nhớ dáng người trên độc mộc
          Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
          Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
          Quân xanh màu lá dữ oai hùm
          Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
          Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.
                  (Tây Tiến – Hương ca 10, phổ thơ Quang Dũng)
      Nhớ thương quê nhà, Phạm Duy tìm đường về lại quê hương. Ông về lại Việt Nam sau thời gian lưu lạc xứ người. Ông từng viết: “Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được thế nào là u sầu chỉ vì đọc một bài thơ mà có lẽ bây giờ nhiều người đã quên. Bài thơ nhỏ bé xa xưa (tôi không còn nhớ tên!) của thi sĩ Huyền Kiêu – cũng như bài Em Lễ Chùa Này sau này của Phạm Thiên Thư – là những bài thơ tình giản dị mà tôi rất yêu quý vì nó là những lời thơ, những chuyện rất ngây thơ, rất trong trẻo nhưng vì nước ta loạn lạc cho nên đã phần nào bị trôi vào quên lãng. Trở về quê hương khi tuổi đã quá 80, tôi tìm về những gì nhẹ nhàng nhất, trong trắng nhất”. Chính những gì nhẹ nhàng, trong trắng nhất ấy đã khơi dậy trong ông nguồn cảm hứng sáng tác. Một câu chuyện tình u sầu nhưng mà đẹp cũng làm ông yêu quý. Chuyện kể rằng: Ngày xưa khi “tôi” còn nhỏ, mùa Xuân có chàng đến hỏi chị đẹp của tôi đâu. Tôi trả lời là chị tôi hoa thắm cài đầu đang đuổi bướm vàng bên đồng nội. Rồi mùa hạ đến, cũng có chàng đến hỏi chị đẹp ở đâu. Tôi trả lời chị tôi khăn thắm quàng đầu đi giặt tơ vàng bên suối. Dù biết có người đến hỏi, tôi trả lời chị tôi xõa tóc ngang đầu đi hái tình sầu trong núi. Rồi:
          Đông xám, có chàng đến hỏi
          Đông xám, có chàng đến hỏi:
          Em thơ, chị đẹp em đâu?
          Chị đẹp của em đâu?
          Chị đẹp của em đâu?
          Chị tôi hoa phủ đầy đầu
          Chị tôi hoa phủ đầy đầu
          Đã ngủ trong lòng mộ tối
          Đã ngủ trong lòng mộ sâu
          Đã ngủ trong lòng mộ tối
          Đã ngủ trong lòng mộ sâu
          Đã ngủ trong lòng mộ tối
          Đã ngủ trong lòng mộ sâu
                  (Ngày Xưa, Một Chuyện Tình Sầu – Hương ca 04, phổ thơ Huyền Kiêu)
      Rõ là nhớ về câu chuyện tình sầu là nhớ về ngày tháng cũ của quê nhà trong ký ức. Và trong ký ức đâu chỉ có những chuyện tình sầu mà còn có những lời Mẹ dặn dò thời thơ ấu. Ai không một lần trót nói dối Mẹ, làm Mẹ buồn phiền? Và với lời Mẹ dạy, Mẹ khuyên răn, Mẹ dặn dò con nào quên được:
          Con ơi một người chân thật
          Thấy vui muốn cười là cười, thấy buồn muốn khóc cứ khóc
          Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ kêu là ghét
          Dù ai ngon ngọt nuông chìu, cũng không nói yêu thành ghét
          Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu
                  (Lời Mẹ Dặn – Hương ca 09, phổ thơ Phùng Quán)
      Còn đây, nỗi niềm thương nhớ quê nhà qua hình ảnh “em”. Em không còn “mặc áo the, đi guốc mộc” (Về Đây Nghe Em, nhạc Trần Quang Lộc, thơ A Khuê). Em cũng không còn là “em gái vườn quê, cuộc đời trong trắng, dầm mưa dãi nắng/ Mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm…” (Duyên Quê, Hoàng Thi Thơ). Mà giờ, em áo trắng, áo vàng, áo đỏ hợp thời; em giờ tô môi, dưỡng da, tắm nắng… Giờ, em là những gì hiện đại, tân kỳ:
          Em là con ngựa non thon vú
          Giữa rừng người hoang vu
          Anh và em lạc vô thành phố
          Vó ngựa buồn quanh co
          Em khắc khoải toàn thân ư nhẩy múa
          Em êm êm tỉnh nhỏ (o) mắt buồn
          Em cuồn cuộn còi ca nắng biển
          Em thèm yêu ngực gầy (y) mi thâm…
                  (Ngựa Biển – Hương ca 05, phổ thơ Hoàng Hưng)
      Nhớ thương quê, ông lại tìm đường về quê. Không như Hạ Tri Chương trong Hồi Hương Ngẫu Thư: “Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi/ Hương âm vô cải, mấn mao tồi/ Nhi đồng tương kiến, bất tương thức/ Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?” (‘Khi đi trẻ, lúc về già/ Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao/ trẻ con nhìn lạ không chào/ Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’, Phạm Sĩ Vĩ dịch). Phạm Duy lại may mắn hơn. Quê hương chào đón ông như người thân thiết. Ông kể lại là sau những tháng năm dâu bể, lưu lạc xứ người, sau những tháng ngày lận đận, ông hồi hương như là tìm lại chính mình. Một hôm, về Hậu Giang, qua phà sông lớn, đang nhìn cảnh mây nước, nhìn những cánh bèo trôi mà nghĩ phận mình. Bỗng có tiếng em bé chào mời ông mua vé số. Nhìn em bé xinh với guốc mộc, áo lành, với đôi mắt to và trong sáng, với má đượm nắng, môi hồng, tóc dày thơm với chiếc kẹp tóc đơn sơ, đáng yêu. Ông móc túi ra tặng em bé món tiền không nhỏ. Em bé lắc đầu không nhận, em chỉ mong bán được vé số thôi. Thế rồi, ông cũng phải mua dù chẳng tin xổ số, mà ông mua những 20 tờ. Và rồi:
          Em cười đôi má đỏ hoe
          Em cười đôi má đỏ hoe.
          Thế rồi phà tới bến quê
          Thế rồi tôi bước lên xe
          Bé thơ chạy tuốt lên bờ
          Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra
          Con tặng cho ông đó.
          Thế rồi tôi vẫn còn đi
          Trên đường giang hồ đây đó
          Mang theo hương vị quê mùa
          Hương nồng từ đất quê ta
          Đến từ kẹp tóc em thơ
          Chiếc kẹp tóc thơm tho.
                  (Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho – Hương ca 08)
      Câu chuyện giản đơn mà thấm tình người, tình quê quá đỗi. Món quà của em bé tặng cho ông rất đỗi bình thường, nhưng đặc biệt. Bình thường vì bé gái nào chẳng có kẹp tóc, mà ở đây là chiếc kẹp tóc chẳng mấy giá trị. Nhưng đặc biệt vì đây là vật mà bé gái nào cũng cần có nó để mái tóc gọn gàng, và để làm đẹp. Đã là con gái, dù còn bé, đều muốn làm đẹp. Khi bé gái tặng cho tác giả chiếc kẹp tóc, thì mái tóc của bé sẽ ra sao? Rõ là chỉ có tấm lòng, tình cảm làm cho món quà trở nên quý bởi “giá trị món quà không nằm trong món quà, mà nằm trong chính tấm lòng người trao tặng” (Seneca). Hình ảnh em bé ở đây là một phần tình cảm của quê hương đối với tác giả. Và còn gì đẹp bằng hình ảnh quê hương từ hương tóc, hương vị quê nhà từ chiếc kẹp tóc mãi là ấn tượng khó phai trong lòng tác giả.
      Làm sao tác giả quên được quê nhà một thời thương đau, một thời loạn ly làm miền quê xơ xác. Làm sao ông quên được nắng quái chiều hôm, mưa giông bão tố trên quê nghèo, xóm vắng. Nhớ để mà biết rằng có buồn đau cũng chẳng ích gì. Đau thương rồi cũng sẽ qua. Buồn thương rồi cũng xong. Có khác chi trăng tròn rồi lại khuyết; khuyết rồi lại tròn. Có khác chi hoa tàn, khô rụng rơi về cội để rồi nuôi mầm, rồi cây lại ra hoa. Dù thế nào đi nữa, quê hương vẫn mãi đẹp trong lòng:
          Quê hương một đổi dài lá non
          Em mơ màng lả lướt bước chân mềm
          Vai kề vai nắng êm đưa người trên lối quen
          Không buồn dĩ vãng không màng cõi tiên
          Quê hương một chiều ngồi mé sông
          Ta ca thầm một khúc hát mơ màng
          Trong trời quang đãng ôi, nghe tình ca lứa đôi
          Đôi tình nhân đó nên đời vẫn vui
                  (Quê Hương Vô Thường – Hương ca 02)
      Nghe chương khúc Hương ca mới thấy quê hương luôn trong trái tim Phạm Duy. Và tôi như thấy ông ôm cây ghi ta, đàn và cất lên lời ca thương nhớ quê nhà: “… Tình ngàn phương!/ Biết yêu nhau như lòng đại dương/ Người phiêu lãng!/ Nước mắt xuôi về miền quê lai láng/ Xa quê hương… Yêu quê hương…” (Tình Hoài Hương).
1 note · View note
diracsea · 1 year
Text
Tĩnh Dạ Tứ Phóng Tác
by Vũ Song Vũ (vu.svu)
Tumblr media
舉頭望明月
低頭思故鄉
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
0 notes
hohohi1999 · 2 years
Text
1000 Tính Từ Hay Trong Tiếng Việt
Tumblr media
Bạn chưa nắm rõ cách nhận diện tính từ? Bạn muốn cập nhật thêm hệ thống tính từ cho bản thân? Tham khảo ngay 1000 tính từ hay trong tiếng Việt ở dưới đây. Đảm bảo bạn sẽ thích thú khi biết điều này. Tính từ chỉ tính cách tích cực của con người - Vui vẻ, hài hước. - Vui mừng, hớn hở, tươi cười, phấn khởi. - Lạc quan. - Dí dỏm. Tính từ hay trong tiếng Việt chỉ phẩm chất của đàn ông - Dũng cảm, can đảm. - Tài ba, xuất chúng. - Sáng dạ, thông minh, nhanh trí, sáng sủa, rực rỡ, sáng ngời. - Điềm tĩnh, cẩn trọng. - Sáng tạo. - Táo bạo. - Rộng lượng, hào phóng, thịnh soạn, khoan hồng. - Cừ khôi, tốt, giỏi, đảm đang. - Khiêm tốn, nhún nhường. - Cần cù, siêng năng. - Trưởng thành. - Trung thành. - Hiện đại, tân thời. Tính từ chỉ tính cách thân thiện, cởi mở - Đáng yêu, đáng quý mến. - Tính từ hay trong tiếng Việt chỉ tính cách: hiền hòa, dịu dàng. - Vô hạn, bao la, không bờ bến. - Nhân từ, khoan dung. - Lịch thiệp. - Tốt bụng, hay giúp đỡ. - Cởi mở, thoải mái. - Rộng rãi, rộng lượng. - Nhiệt tình, hăng hái. - Hoạt bát. Những từ ngữ thể hiện tính cách tiêu cực - Giận dữ, tức giận, cáu. - Tham vọng. - Xảo quyệt, tinh ranh, ma mãnh, lắm mưu mẹo. - Xấu hổ, hổ thẹn, ngượng. - Rất khó chịu, khó chịu vô cùng. - Hám lợi, tham lam. - Hay cáu gắt, xấu tính, dễ nổi nóng. - Không ý tứ, lỗ mãng. - Đê tiện, tục tĩu. - Hỗn láo, hỗn xược. - Điên, điên cuồng, ngu xuẩn. - Bực mình, cáu gắt, cộc cằn. - Nhẫn tâm, tàn ác, có máu lạnh. - Vụng về, lóng ngóng. - Hay hoài nghi, hay chỉ trích cay độc, hay nhạo báng, giễu cợt, hay ghen tị. - Lười nhác. - Ương bướng, không biết nghe lời. - Tằn tiện, tiết kiệm, dè xẻn. - Quỷ quyệt, gian xảo, thủ đoạn, cáo già. - Quê kệch, thô lỗ. Tình từ hay tiếng Việt chỉ tính cách năng động, hướng ngoại - Tích cực, nhanh nhẹn, lanh lợi. - Dễ chịu, dễ thương, vui lòng, sẵn sàng, tán thành. - Tháo vát, xông xáo, năng nổ. - Cảnh giác, lanh lợi, tỉnh táo. - Thích phiêu lưu. - Hay làm phúc, hay làm việc thiện, từ tâm, thương người, nhân từ. - Có năng lực, thạo, giỏi, có khả năng. - Dễ tính, hướng ngoại. - Nhiệt tình, hăng hái. - Hoạt bát. - Cởi mở, khoáng đạt, phóng khoáng. - Tốt bụng. - Đầy sinh lực, mạnh khỏe, cường tráng. - Hoạt ngôn. - Lạc quan, vui vẻ. Tính từ hay trong tiếng Việt thể hiện tính cách kiêu ngạo - Tự phụ, kiêu ngạo, tự cao tự đại. - Hay sai bảo người khác. - Kiêu căng, kiêu ngạo, ngạo mạn. Những tính từ thể hiện tính cách hướng nội - Kín đáo, khó gần, không cởi mở. - Hướng nội, nhút nhát. - Lạnh lùng. - Theo chủ nghĩa cá nhân. - Đơn thuần, cả tin. - Cô đơn, im lặng. - Nhút nhát. - Trầm tư, chín chắn. - Xấu hổ, rất bối rối, lúng túng. - Dễ bị xúc động. - Tổn thương. - Căng thẳng. Tính từ chỉ mùi hương thơm Tính từ Thơm - Thơm dịu: mùi thơm nhẹ, gây cảm giác dễ chịu. - Thơm đậm: mùi thơm hơn mức bình thường. - thơm lựng: Có mùi thơm đậm đà, tác động mạnh nhưng dễ chịu. - Thơm ngát: có mùi thơm dễ chịu và toả lan ra xa. - Thơm nhạt, thơm ngọt. - Thơm phưng phức, thơm sực: có mùi thơm bốc lên mạnh, hấp dẫn. - Thơm tho: thơm và gây cảm giác dễ chịu (nói khái quát). - Thơm thơm: có mùi hơi thơm. Tính từ nồng – Tính từ hay trong tiếng Việt - Nồng đượm: nồng nàn và sâu đậm. - Nồng nàn: đậm mùi một cách dễ chịu. - Nồng nặc: có mùi khó ngửi bốc lên mạnh với nồng độ cao. Tính từ chỉ các mùi hương khó chịu - Hăng hắc: có mùi hơi hắc. - Hăng hăng: có mùi hơi hăng. - Hôi ê: mùi hôi do dưa cải, thức ăn chua, không được ngâm cho ngập mặt nước. - Hôi hám: hôi (nói khái quát). - Hôi hoắc: rất hôi và bốc mùi lên rất mạnh. - Hôi rích: có mùi hôi lắm. - Hôi rình: có mùi hôi bốc lên mạnh đến mức không chịu được. - Hôi thối: có mùi hôi, thối và bẩn (nói khái quát). - Hôi tanh: hôi và tanh (nói khái quát); thường dùng để nói cái xấu xa nhơ nhuốc đáng ghê tởm. - Khen khét: có mùi hơi khét. - Khét nắng: mùi khét do phơi nắng quá lâu. - Tanh hôi: hôi và tanh (nói khái quát); thường dùng để nói cái xấu xa nhơ nhuốc đáng ghê tởm. - Tanh ngắt: như tanh (nhưng ý nhấn mạnh hơn). - Tanh tao, tanh tưởi, tanh nồng, tanh rình. Tổng hợp các tính từ hay trong tiếng Việt miêu tả hương vị - Cay:có vị làm cho tê xót đầu lưỡi, như vị của ớt. - Chua cay, cay cay, cay đắng. - bùi:có vị ngon hơi beo béo như vị của lạc, hạt dẻ. - Chan chát, chát đắng, chát chát, chát ngắt, chát ngầm. - Chua: có vị như vị của chanh, giấm. - Chua cay, chua chát, chua gắt, chua lè, chua lét, chua loét, chua lòm, chua ngọt, chua thanh. - Đậm đà, đậm nhạt, đầm đậm. - Đắng chát, đăng đắng, đắng ngắt, đắng nghét, đắng ngòm, đắng ngoét. Trên đây là tổng hợp những tính từ thường gặp trong đời sống hằng ngày. Hy vọng chia sẻ trên đây của bài viết sẽ hữu ích đối với bạn. Read the full article
0 notes
kt-cat-quang-huy · 4 years
Text
Xúc Cảm Đêm Trăng
( Tĩnh Dạ Tứ - Lý Bạch ) Hải Đà nhạc phẩm Tĩnh Dạ Tứ (thơ phóng tác Hải Đà, nhạc Mai Đức Vinh)
Tumblr media
      Lý Bạch là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi-văn-đàn Trung Quốc.  Người ta thường gọi Ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch) , Lý Dương Băng trong "Thảo đường tập tự" đã có câu nói bất hủ về thiên tài Lý Bạch "Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân" (hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà thôi ) Lý Bạch đã để lại hơn một ngàn bài thơ có một ảnh hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung Quốc, phổ thông và được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian , cũng như nhiều học giả trên thế giới đã dày công nghiên cứu thi ca Lý Bạch . Thơ của Ông rất tự nhiên, không chải chuốt, gọt dũa mà ý thơ sâu sắc, có sức truyền cảm quyến rũ một cách lạ lùng .
    Lý Bạch là thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ), ngắn gọn, nhưng cô đọng, hàm súc, đầy đủ, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác. Bài thơ Tĩnh Dạ Tứ (Xúc Cảm Đêm Trăng) của Lý Bạch là một kiệt tác  tuyệt vời trong thế giới Đường Thi trùng trùng điệp điệp …. Hình thức cô động thâm thúy của bài thơ ngũ tuyệt 20 chữ nay là một thử thách lớn lao mà thi nhân phải đương đầu vì "ngôn bất tận ý" (lời không nói hết được ý ) và thi nhân phải dùng ngôn từ tương ứng như thế nào để có thể vừa miêu tả cảnh vật và diễn đạt một ấn tượng dạt dào, một cảm xúc lai láng.
     Lý Bạch là một người có tài, nhưng lại là người ít may mắn trên đường công danh sự nghiệp . Ông là người hay đi đây đó, làm thân lữ khách nơi quán trọ tha phương, xa nhà, xa quê, xa gia đình bạn bè … Và bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" đã diễn tả nỗi cảm xúc bâng khuâng , xao xuyến, cái nỗi niềm tha phương nhớ nhà da diết, khi màn đêm hoang vắng đã buông phủ bốn bề, trong khung cảnh tịch liêu, cô đơn, của người viễn khách một mình một bóng canh thâu … nhìn qua khung cửa , xa xa, chập chờn mộng ảo, là vầng trăng tỏa ánh sáng lung linh huyền ảo .. đã làm cho nhà thơ chạnh lòng thương nhớ quê hương . Bài thơ đã bộc lộ những xúc cảm sống động, dạt dào, rung lên những âm vang tha thiết của nhạc điệu trữ tình …
Trong sách Nghệ khái, Lưu Huy Tải đã nói : "Thơ tứ tuyệt dễ làm, không có chữ thừa, nhưng tạo được cái dư vị thật là khó". Cái "dư vị" trong bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch  chỉ là cảnh sắc "vô tình" của màn đêm huyền ảo với trăng, sương chập chùng, nhưng rất là "hữu tình" đã đem lại những cảm xúc nao nao xót dạ, đã đưa người thơ đi tìm lại những mảnh ký ức, hồi tưởng của cố quận, sông xưa, núi cũ, quê nhà . Người phương xa vẫn canh cánh nặng nợ tình quê
Tumblr media
 Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương Lý Bạch
Ghi chú : có sách ghi rằng -câu 1 : Sàng tiền khán nguyệt quang -câu 3:  Cử đầu vọng sơn nguyệt
(theo học giả Vương Vận Hy : "Nhìn nhận cho kỹ trong thơ Lý Bạch, "Sơn nguyệt" và "Cố hương" hình như có liên hệ đặc biệt trên con đường lữ hành rời đất Thục, Lý Bạch đã viết bài tuyệt cú "Nga mi sơn nguyệt ca"  … Ông yêu cố hương Yên sơn  và nguyệt núi Nga mi. Thuở nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga Mi (Tứ Xuyên) ở quê cha đất tổ để ngắm trăng, và sau khi đi ngao du sơn thủy, nỗi nhớ quê hương của ông thường dâng trào mãnh liệt … Do đó khi ở quê hương khác trong đêm yên tĩnh nhìn trăng sáng vượt qua đầu núi chiếu vào giường, ông nghĩ đến núi và trăng ở Nga mi, nghĩ đến chuyện quê hương là chuyện tất nhiện"
Dịch nghĩa:
Ánh trăng chiếu sáng đầu giường Ngỡ như sương trắng phủ sân nhà Ngẩng đầu lên nhìn trăng sáng Cúi đầu xuống nhớ quê cũ
Dịch thơ: Xúc Cảm Đêm Trăng
1- Đầu giường trăng tỏ rạng Đất trắng ngỡ như sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương
2- Giường khuya trăng chiếu bời bời Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao Ngẩng đầu trăng sáng trên cao Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào.... cố hương Hải Đà
    Bức tranh thu đã được tô đẹp bằng một vầng trăng thu huyền ảo … Trăng soi lồng lộng trên sóng nước bập bềnh biến dòng sông thành một giải lụa vàng óng ả. Điểm đặc trưng quan trọng đối với vầng trăng trong thơ Lý Bạch là ánh trăng trong trắng, lung linh tỏa sáng, thêm màn đêm lạnh lẽo bao phủ không gian vô tận và con người nhỏ bé, khiến cảm xúc của con người sản sinh bộc phát ngẫu nhiên, mang những sắc thái tinh tế khó mà diễn tả . Trong một đêm trăng vắng vẻ nhà thơ Lý Bạch nằm trong thư phòng, bóng trăng khe khẽ len qua khung cửa sổ rọi sáng đầu giường, trong một không gian tịch mịch giữa đêm, hồn thơ đã nhập vào hồn trăng bay lâng lâng vào một cõi mộng ảo vô cùng …đã đi từ trạng thái mơ hồ đến tỉnh thức. Ánh trăng sáng vời vợi trên bầu trời cao kia, tỏa những tia sáng lặng lẽ, êm ái huyền diệu trên chiếc giường ngủ, rất gần gũi và thân thiết với nhà thơ làm sao, và đó cũng chính là vầng trăng mà Lý Bạch đã mải mê ngắm trên núi Nga My trong những ngày niên thiếu ở quê nhà.  Những tia sáng của trăng chập chờn mờ ảo đã làm nhà thơ ngỡ ngàng như sương khói bao phủ đầu giường, nhìn trăng mà lòng buồn vời vợi, ngỗn ngang trăm mối tơ lòng … Sương và Trăng làm nỗi bật sự trống vắng vô tận, làm tăng thêm khung cảnh u uẫn đìu hiu của trời đêm cô liêu, đã đem lại những cảm giác mông lung  hư hư thật thật … quanh quất đâu nay : sương là trăng , hay trăng là sương. Trong cái ngây ngất chếnh choáng của màn đêm mờ ảo, nhà thơ đã tài hoa hữu hình hóa cái huyền diệu của trăng và sương … Cái tĩnh lặng của không gian bàng bạc trong bài thơ đã tràn ngập cảm xúc , nội tâm và tư duy khó mà diễn tả. Hình ảnh màn sương "ngờ ngợ" phủ trắng nền đất trong trời đêm đã mở ra một khoảng không gian tịch liêu cô quạnh mông lung, làm gia tăng nỗi cô đơn của người thơ. Nhà thơ đã dùng những hình tượng dựng cảnh, nhưng thật ra là muốn ngụ tình, gửi gắm những tâm sự thầm kín của tác giả.
Đầu giường trăng tỏ rạng Đất trắng ngỡ như sương
   Hình ảnh Trăng và Sương cũng đã thấy rải rác trong nhiều bài thơ Đường nổi tiếng . Mặc dầu khai thác cùng một ý tứ, một chủ đề , nhưng mỗi nhà thơ có tài hoa sáng tạo khác nhau, để tạo nên những sắc thái tình cảm riêng biệt độc đáo , phù hợp với mỗi tâm tư hoàn cảnh khác nhau . Những hình tượng và cảm xúc suy nghĩ này có thể tìm thấy trong bài "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ" của Trương Nhược Hư :
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển Không lý lưu sương bất giác phi Giang thượng bạch sa khan bất kiến     Trương Nhược Hư
Sông quanh đất ngát thoảng hương đầy Trăng sáng rừng hoa ngỡ tuyết bay Lất phất sương rơi nào có thấy Sông dài cát trắng chẳng ai hay Hải Đà
     Sương và trăng như hình vơi bóng chập chờn ẩn hiện trong khung trời Đường Thi lồng lộng … với những hình ảnh cụ thể và suy nghĩ chân thành có sức rung động sâu xa như bài thơ Sương Nguyệt của Lý Thương Ẩn . Thiên nhiên với trăng, sương, hoa, cỏ, khói, nước … đúng là lẽ sống của khung trời Đường Thi, là sự hài hòa tinh tế của cuộc đời vô thường và sự thanh tao  của vũ trụ, muôn vật …
Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền Bách xích lâu đài thủy tiếp thiên Thanh nữ Tố nga câu nại lãnh * Nguyệt trung sương lý đấu thuyền quyên     (Sương Nguyệt- Lý Thương Ẩn)
(* Thanh nữ = vị Thần coi việc sương, tuyết   Tố nga = hằng nga ở cung trăng )
Nhạn về ve bỗng bặt im hơi Trăm thước lầu cao nước nối trời Thanh nữ, Tố nga đâu cảm lạnh Đua nhau trăng sáng lộng sương ngờ Hải Đà
     Và từ những hình tượng mơ hồ gợi cảm, gợi sầu, gợi nhớ đó đã đem lại cho nhà thơ nỗi cô đơn thắm thiết, nỗi nhớ nhà dằng dặc khôn nguôi . Trăng ở trời cao vẫn nhìn xuống, người thơ khó mà đi vào giấc ngủ lãng quên ..  Nội tâm của người thơ bị xâu xé dằn vặt, càng thao thức, càng tê tái chua xót … Có nỗi buồn nào ray rứt da diết ngấm tận hồn bằng nỗi sầu nhớ cố hương, quê cha đất tổ : cái nỗi nhớ dai dẳng, mênh mang, thăm thẳm và loang rộng không bến bờ , làm xao động tâm hồn khôn nguôi .. Cái ánh sáng của vầng trăng đã làm sáng hẳn lên cái hình bóng lung linh huyền ảo của một quá khứ, hoài niệm thương tiếc mãi mãi khó quên trong lòng người thơ, thiết tha, xao xuyến, bịn rịn, khắc khoải một cách lạ lùng .
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương
   Theo tác giả Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi khi bàn luận về "Thi pháp thơ Đường" đã nói rằng : "bài thơ nổi tiếng - Tĩnh Dạ Tứ - này của Lý Bạch do một chuỗi đồng đẳng vừa chân thật vừa tưởng tượng tạo thành : Thông qua chữ "thị", "minh nguyệt" và "địa thương sương" đồng đẳng với nhau, nhưng nó bị sự phủ định mà chưa xác định được bởi chữ "nghi" ; với tư cách là nguyên nhân và kết quả, "sơn nguyệt" liên hệ với "minh nguyệt quang" . Bất luận ở trong tình huống nào, đồng đẳng đều thông qua đặc trưng giống nhau mà được xác nhận: nguyệt quang và sơn nguyệt đều sáng, sơn nguyệt và cố hương cùng đều là xa xôi không với tới được"
   Trong bài thơ "Vọng Nguyệt Hoài Viễn" (Nhìn Trăng Nhớ Phương Xa) của Trương Cửu Linh  cũng có những cảm nghĩ tương tự, truyền cảm và xúc động, thể hiện những nỗi buồn xót xa. Trong một đêm trăng lạnh, trống vắng, hình ảnh và ánh sáng của biển nước trăng sương đã trở nên mơ hồ, tạo nên những giai điệu xao xuyến não nuột, thấm sâu vào hồn tủy, ngân rung mãi trái tim người :
Hải thượng sinh minh nguyệt Thiên nhai cộng thử thì Tình nhân oán dao dạ Cánh tịch khởi tương ti Diệt chúc liên quang mãn Phi y giác lộ ti Bất kham doanh thủ tặng Hoàng tẩm mộng giai ky (Vọng Nguyệt Hoài Viễn -Trương Cửu Linh)
Trăng sáng trên biển cả Cuối trời rạng rỡ soi Sầu hận tình ly xứ Đêm dài nhớ khôn vơi Đèn tàn thương ánh tỏ Áo mặc đẫm sương rơi Tặng người tay khó vốc Đành hẹn giấc mơ thôi …
(Nhìn Trăng Nhớ Phương Xa - Hải Đà   Bài thơ tứ tuyệt "Tĩnh Dạ Tứ" của Lý Bạch đã vẽ lên một bức tranh thu sống động, có một âm hưởng tuyệt vời, trở thành một bài nhạc phủ (khúc hát mùa thu) trác tuyệt của Đường Thi ..
Thu phong nhập song lý La trướng khởi phiêu dương Ngưỡng đầu khán minh nguyệt, Ký tình thiên lý quang
Gió thu thổi nhẹ qua song Phất phơ màn mỏng lụa hồng rung rinh Ngẩng nhìn trăng sáng lung linh, Xót thương nghìn dặm gửi tình quê xa
     Không có trăng nào đẹp bằng trăng thu, chẳng có trăng nào nào sáng hơn trăng quê như Đỗ Phủ đã âm thầm hoài vọng thiết tha : "Lộ tùng kim dạ bạch , Nguyệt thị cố hương minh" (Móc đêm nay trắng xóa , Trăng quê nhà sáng soi ) trong bài thơ "Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ" … vầng trăng ở quê nhà bao giờ cũng lung linh sáng soi hơn trăng ở bất cứ nơi nào trên đất khách quê người … Cái hoài niệm về quê cha đất cũ, về quá khứ thân thương êm đềm cứ chập chờn xôn xao ám ảnh, bồn chồn day dứt mãi trong tâm hồn thi nhân. Nỗi ngậm ngùi ảo não của người thơ đã hội nhập với cái không gian tĩnh lặng mênh mông của đất trời, đó là cái sầu của vũ trụ vô cùng .
Thú cổ đoạn nhân hành Thu biên nhất nhạn thanh Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hương minh Hữu đệ giai phân tán Vô gia vấn tử sinh Ký thư trường bất đạt Huống nãi vị hưu binh
(Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ - Đỗ Phủ)
Trống trận dồn mau cản bước người Vào thu biên ải nhạn than trời Tha phương đêm phủ màn sương trắng Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời Em đấy, thân thương mà cách biệt Nhà đâu, sống chết biết nơi nào ? Gửi thư thăm hỏi hoài không đến Binh lửa lan tràn rực khắp nơi
(Nhớ Em Đêm Trăng - Hải Đà)
     Lý Bạch là người rất có tài nhưng lận đận, và ngán ngẩm với cuộc đời long đong, bất đắc chí, mà ông đã bỏ mặc đời, phiêu du đi tìm sự quên lãng với bầu rượu, trăng thơ, giữa cảnh thiên nhiên gợi tình, gợi cảm. Trong cảnh thiên nhiên đó, Lý Bạch đã cảm thấy cô độc vô cùng và tìm đến người bạn tình chung thủy đó là vầng trăng sáng soi giữa trời đêm bất tận, như Trịnh Cốc khi đọc thơ Lý Bạch đã nói : "Khi say khướt ngâm dài ba ngàn khúc, gửi lại cho nhân gian chỉ một vầng trăng sáng" ( Cao ngâm đại túy tam thiên thủ, lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh ). Qua bài thơ "Nguyệt Hạ Độc Chước" (Một Mình Uống Rượu Dưới Trăng), cho thấy nhà thơ cô đơn trong một vườn hoa quạnh vắng, dưới ánh trăng soi vằng vặc, đã nẩy sinh những tư tưởng lạ lùng mời trăng, mời bóng, cùng nhập cuộc với người thơ … tất cả trở thành ba người bạn tri kỷ cùng vui say và múa hát quên đời … . Bài thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy hình tượng và nghệ sĩ tính, ca vũ múa hát, người, hình và bóng, với vầng trăng không rời nhau một bước dù lúc tỉnh hay say . Sự cô đơn bị đời ruồng rẫy của nhà thơ không còn nữa, mà người thơ mãi vui say và đắm chìm vào giấc ngủ quên lúc nào chẳng hay … để rồi còn hẹn hò cùng trăng và bóng ở một khung trời xa xăm nào đó .. "T��nh cho nhau mãi thiết tha, Hẹn nhau gặp bến Ngân xa cuối trời.."
Nguyệt Hạ Độc Chước
Hoa gian nhất hồ tửu Độc chước vô tương thân Cử bôi du minh nguyệt Đối ảnh thành tam thân Nguyệt tức bất giải ẩm Ảnh tùng tùy ngã thân Tạm bạn nguyệt tương ảnh Hành lạc tu cập xuân Ngã ca nguyệt bồi hồi Ngã vũ ảnh linh loạn Tỉnh thời đồng giao hoan Túy hậu các phân tán Vịnh kết vô tình du Tương kỳ mạc vân hán
    Lý Bạch Một Mình Uống Rượu Dưới Trăng 1- Vườn hoa với bầu rượu Không bạn, uống mình ta Mời trăng cùng nâng chén Với bóng nữa thành ba Trăng nào đâu biết uống Bóng theo ta mặn mà Cùng trăng bên cạnh bóng Vui xuân thật thiết tha Trăng mơ nhìn ta hát Ta múa, bóng nghiêng qua Cùng vui khi tỉnh rượu Hết say người chia xa Kết thân tình thắm thiết Hò hẹn bến Ngân qua
2- Một bầu rượu giữa vườn hoa Rượu đây không bạn cùng ta uống cùng Nâng ly khẩn khoản mời trăng Trăng, ta và bóng rõ ràng thành ba Trăng không biết uống đâu mà Còn đây chiếc bóng theo ta đêm dài Cùng trăng với bóng miệt mài Tuổi xuân mau hưởng thú vui trên đời Ta ca trăng sáng tỏ ngời Bóng theo ta múa chơi vơi nhịp nhàng Hết say vui sướng rộn ràng Tỉnh rồi mỗi kẻ một đàng chia xa Tình cho nhau mãi thiết tha Hẹn nhau gặp bến Ngân xa cuối trời Hải Đà      Lý Bạch rất yêu trăng, nhà thơ đã gửi gắm rất nhiều tâm tình vào vầng trăng, trăng tròn trịa như chiếc mâm, trăng sáng tinh như ngọc trắng, trăng yểu điệu như thục nữ ... Trăng trong thơ Lý Bạch rất xinh đẹp , trữ tình, thanh khiết và đáng yêu vô cùng. Theo Mao Thủy Thanh, "nhà thơ đã lấy "Bạch ngọc bàn" và "Dao đài kính" để mọi người trong liên tưởng cảm thực được cái đáng yêu của vâng trăng . Hình tượng trăng sáng và tâm tình của nhà thơ tùy theo mà cải biên. Trăng tròn thể hiện là sự đầy đặn của cuộc sống . Trong bài thơ "Cổ lăng nguyệt thành" nhà thơ ví vầng trăng như tấm gương trong soi sáng lòng người, đó chính là ánh sáng trác tuyệt của trí tuệ . Ở đây phải thấy Lý Bạch đưa giá trị vầng trăng đến đỉnh cao của sự trong sáng ".
   Có huyền thoại kể rằng Trăng là người tình chung thủy của Lý Bạch, để cuối cùng trong một đêm đi chơi trên sông Trường Giang bằng chiếc thuyền câu, trong lúc say khướt nhà thơ đã trầm mình xuống sông Trường Giang để được ôm vầng trăng trăng huyền ảo để cùng với trăng vĩnh viễn an giấc ngàn thu …. Có những hoạ sĩ Trung Quốc đã vẽ những bức tranh "Lý Bạch bắt trăng" , và Chu Tử Chi có câu thơ :
"Tróc đắc giang tâm ba để nguyệt Khước qui thiên hạ ngọc kinh tiên" (Bắt được mặt trăng giữa lòng sông dưới đáy Đươc thiên hạ gọi tiên Ngọc kinh )
Kết luận : Bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" với một cấu trúc độc đáo, đã kết hợp được bốn điểm chính : Ý Tứ sâu đậm, Cảm Xúc tha thiết,  Hình Ảnh sinh động, Nhạc Điệu trữ tình. Ngôn từ cô đọng trong 20 chữ, không mòn sáo, dễ hiểu, giản dị, tự nhiên mà lại rất hàm súc sống động và nhiều hình tượng gợi cảm, đó là những rung động kỳ lạ, huyền ảo từ trái tim bộc trực của nhà thơ, đó là tiếng nói tri âm chí tình chân thực, là tâm hồn thanh khiết nhạy cảm tinh tế của người thơ.  Phải chăng đó là sự linh diệu thầm lặng của thơ, của ý tưởng ngẫu nhiên , nhưng lại có một hấp lực vô hình gây tác động mạnh mẽ, gợi lên những chuỗi liên tưởng phong phú  trong tâm hồn người đọc khôn nguôi ..."Ngẩng đầu trăng sáng trên cao,  Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào cố hương". Nhịp thơ chấm phá đã hình tượng hóa được nỗi ưu tư sầu não tê tái một cách cụ thể, đó là cái quằn quại khổ đau mang số phận của một kiếp người lang thang, giữa đất trời trôi nổi, và những giọt lệ ly hương đã tuôn trào lai láng thành mạch sầu thiên cổ vô tận, biết dạt trôi về đâu ?
Hải Đà
Thơ Phóng Tác: Vương Ngọc Long Phổ nhạc: Mai Đức Vinh
Cảm Xúc Đêm Trăng (Ý thơ Tĩnh Dạ Tứ - Lý Bạch)
Đêm thu lặng lẽ gió phiêu phiêu Réo rắt bên song tiếng sáo diều Cố quận xa xăm sầu lữ thứ Một mình quán vắng cảnh đìu hiu
Lá đổ mây giăng luống thẫn thờ Rừng phong trở giấc động hồn thơ Vi vu nhạc gió bên đồi vắng Khắc khoải năm canh mắt lệ mờ
Ngổn ngang trăm mối vấn vương lòng Ngàn dặm quê xa bóng chập chùng Xào xạc thu vàng nghe tiếng vọng Thềm trăng đầy ắp lá ngô đồng
Thổn thức hồn quyên mộng tỉnh say Sông xưa bến cũ nhớ từng ngày Phơ phơ tóc bạc đời sương điểm Thở vắn đêm dài ngấn lệ cay
Đầu giường vằng vặc ánh trăng soi Cứ ngỡ sương rơi đất trắng ngời Trăng chiếu trời cao mê mẩn ngắm Cúi đầu ... thương nhớ cố hương ơi !    Vương Ngọc Long
0 notes
anoriana · 2 years
Text
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
《 举头望明月, 低头思故乡.》
(Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.)
〔 静夜思 | Tĩnh dạ tứ - Lý Bạch 〕
_10.09.2022 | anoriana
59 notes · View notes
tieuduongnhi · 3 years
Text
[TRÍCH DẪN KINH ĐIỂN CỦA TÀI TỬ TÀI NỮ THỜI DÂN QUỐC, ĐỌC THỬ XEM]
-----
Nguồn: Weibo
Ưu dịch
-----
| Trương Ái Linh |
1、Nếu anh quen biết em của trước kia, có lẽ anh sẽ tha thứ cho em của bây giờ.
2、Bởi vì từng yêu, nên mới từ bi; bởi vì hiểu được, nên mới khoan dung.
3、Gặp được người bạn tất phải gặp từ trong muôn ngàn người, từ trong ngàn vạn năm, trong sự hoang vắng vô bờ của thời gian, không sớm một bước, cũng không muộn một bước, vừa khéo đuổi kịp, vậy cũng chẳng có lời nào khác đáng để nói cả, duy chỉ có khẽ khàng hỏi một tiếng: “Ấy, anh cũng ở đây à?”
4、Cưới hoa hồng đỏ, về lâu về dài, màu đỏ sẽ biến thành một vệt máu muỗi trên tường, màu trắng thì vẫn là “đầu giường ánh trăng rọi”; cưới hoa hồng trắng, màu trắng sẽ thành hạt cơm dính trên quần áo, màu đỏ lại là một nốt chu sa trên ngực.
(“床前明月光” Sàng tiền minh nguyệt quang - câu đầu trong bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch, nhưng ở đây không phải nói đến nỗi nhớ quê hương như bản gốc mà là nói đến “Bạch nguyệt quang” -Ánh trăng sáng đầu giường- Tình đầu)
5、Con người vẫn luôn có cảm giác hạnh phúc gấp bội vào lúc đến gần với hạnh phúc, nhưng lúc đang hạnh phúc lại cứ lo được lo mất.
| Lỗ Tấn |
6、Im lặng là đỉnh cao của sự khinh bỉ.
7、Khi người gan dạ tức giận, họ sẽ rút đao chĩa vào kẻ mạnh; kẻ nhát gan giận dữ, chúng sẽ giơ đao vào kẻ yếu.
8、Đeo mặt nạ lâu quá, thì chúng sẽ mọc lên mặt, có muốn tháo xuống đi nữa, thì cũng phải tổn thương gân cốt lột cả da ra.
9、Con thú mạnh mẽ vẫn luôn bước đi một mình, bò dê mới kéo bè kéo cánh.
10、Lúc tôi lặng im, tôi cảm thấy rất sung túc, lúc tôi mở miệng trò chuyện, thì lại thấy trống rỗng.
| Thẩm Tòng Văn |
11、Tôi từng đi qua c���u ở rất nhiều nơi, từng thấy mây vô số lần, từng uống rất nhiều loại rượu, nhưng lại chỉ từng yêu một người vào lúc tuổi đời xinh đẹp nhất.
12、Anh biết rõ em sẽ đến, vậy nên anh chờ.
13、Chuyện gì cũng có may mắn ngẫu nhiên, kết quả lại như điều tất yếu của số mệnh.
14、Anh đụng vào mắt em bằng bàn tay mình. Lạnh quá. Nếu như mắt em lạnh đến vậy, trái tim người nào đó sẽ đông thành băng.
15、Giữa non xanh nước biếc, anh muốn nắm lấy tay em, bước qua cây cầu này, trên cầu là lá xanh hoa đỏ, dưới cầu là nước chảy nhà người, bên này cầu là tóc xanh, bên kia cầu là đầu bạc.
| Dương Giáng |
16、Vấn đề của em chủ yếu nằm ở chỗ không đọc bao nhiêu sách nhưng lại nghĩ quá nhiều.
17、Đi tốt con đường mình đã chọn, đừng chọn con đường dễ đi, em mới có thể có được chính mình thật sự.
18、Cõi người sẽ không có vui sướng giản đơn, niềm vui luôn lẫn lộn với phiền não và buồn rầu lo lắng, cõi người cũng không có mãi mãi.
19、Duy chỉ có người ở chỗ hèn kém, mới có cơ hội thấy được bộ mặt thật của thói đời. Một người không muốn trèo cao thì sẽ không sợ té đau, cũng không cần chèn ép gạt bỏ, có thể giữ gìn sự trong sáng, gặp sao yên vậy, dốc lòng dốc sức làm xong chuyện mình có thể làm.
20、Lúc trẻ tưởng rằng không đọc sách sẽ không đủ thấu hiểu đời người, mãi đến sau này mới nhận ra nếu như không thấu hiểu đời người, thì sẽ không đọc hiểu được sách. Ý nghĩa của việc đọc sách có lẽ là đọc bằng tất cả những cảm nhận của cuộc sống, rồi sống bằng tất cả những gì mình đã đọc được trong sách.
| Tiền Chung Thư |
21、Trên đời chỉ có hai loại người. Giả sử được cho một chùm nho, một loại sẽ chọn quả ngon nhất mà ăn trước, loại khác sẽ giữ quả ngon nhất lại ăn cuối cùng.
Thông thường thì loại người thứ nhất chắc rất lạc quan, bởi vì mỗi một quả anh ta ăn đều là những quả còn thừa lại từ quả nho ngon nhất kia; loại người thứ hai có lẽ là người bi quan, bởi vì mỗi một quả anh ta ăn đều là những quả còn thừa lại từ quả nho dở nhất kia. Chỉ là sự thật hoàn toàn ngược lại, duyên cớ là loại người thứ hai vẫn còn hi vọng, loại người thứ nhất chỉ còn nỗi nhớ mà thôi.
22、Cái thứ lời nhắn này ấy à, tốc độ lan tràn còn nhanh hơn cả cảm cúm, năng lượng bao hàm bên trong còn to lớn hơn cả sao băng, có nhiều dụng ý xấu xa hơn cả lưu manh, khiến tinh thần và sức lực của người ta xác xơ hơn cả sẩy thai.
23、Hôn nhân là một tòa thành vây, người bên ngoài thành muốn bước vào, người bên trong thành lại muốn đi ra.
24、Tình yêu quá nửa là chuyện thất bại rồi, hoặc là khổ với sự chán chường cuối cùng không thể thành thân thuộc, hoặc là khổ với nỗi đau xót đến cuối vẫn chưa thể thành thân thuộc.
25、Gai góc của đời người, đã ở đây, quyến luyến không định bước đi nhanh, vẫn là tất cả những thứ em chẳng hề luyến lưu.
| Lý Tiễn Lâm |
26、Người sống một đời, giống như làm một bài thơ, thành công và thất bại của em đều là từng mảng tình thơ, từng chút ý thơ.
27、Mỗi người đều tranh giành bằng được một cuộc đời trọn vẹn. Song, từ xưa đến nay, trong nước ngoài nước, vốn không hề có một cuộc đời trọn vẹn trăm phần trăm. Nên tôi mới nói, không trọn vẹn mới là cuộc đời.
28、Hoàn toàn không nói lời giả dối, lời nói thật không nói hết hoàn toàn.
29、Trên đời này dù cho là danh dự thế nào, địa vị ra sao, hạnh phúc như thế nào, tôn vinh ra sao, cũng đều không sánh bằng ở bên cạnh mẹ mình, dù bà chẳng nói một lời.
30、Nếu đọc sách cũng được xem như một sở thích, vậy sở thích duy nhất của tôi là đọc sách. Con người ắt phải đọc sách, mới có thể kế thừa và phát huy trí tuệ của người đi trước. Sở dĩ loài người có thể tiến bộ, đều nhờ cả vào bản lãnh đọc được và viết được sách.
45 notes · View notes
meiheooo · 3 years
Text
Tumblr media
Phong Kiều Dạ Bạc
Trong bối cảnh thành Trường An chìm trong cơn tao loạn thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử đài, chẳng kịp theo đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn mà đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Một đêm ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt qua cả không gian và thời gian, lưu truyền hậu thế:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.”
Dịch nghĩa:
“Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời
Trong giấc mơ buồn có cây phong ở bến sông và ngọn lửa thuyền chài
Chùa Hàn San ở ngoại thành Cô Tô
Nửa đêm khách đi thuyền tới nghe thấy tiếng chuông chùa ngân vang.”
Dịch thơ:
“Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”
(Bản dịch: Tản Đà)
Cuốn Thơ Đường của Trần Trọng San có ghi lại có một truyền thuyết khá lãng mạn về bài này.
Một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San, cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:
“Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung”
Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì 2 câu thơ mình mới nghĩ ra:
“Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thuỷ để bán phù không”
nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San đã dịch như sau:
“Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không.”
Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh một tiếng chuông để tạ ơn Phật. Tình cờ đêm hôm đó trên thuyền, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu “Nguyệt lạc ô đề...” Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong kiều dạ bạc “...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền...”
Cảnh sắc lúc đó, sương phủ mờ cả dòng sông và bến đậu, trăng xế ngang đầu. Chiếc thuyền của nhà thơ Trương Kế đậu lẻ loi bên bến Phong Kiều. Trên b���, ngoài thành Cô Tô, chùa Hàn San mờ ảo trong đêm. Tiếng chuông chùa ngân vang, lay động cả màn sương và bật mở hồn thơ Trương Kế:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.”
Chúng ta đọc lại lần nữa nhé.
Câu đầu, thơ đi nhịp nhàng, lửng thửng như nhà thơ đang nhàn du trong sương, dưới trăng:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Câu hai, thơ như chậm lại bên hàng cây phong, dưới sông thấp thoáng ánh lửa thuyền chài, đêm buồn dịu lặng, day dứt:
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Câu ba, thơ sực tỉnh, như dừng lại, ngoài trăng, sương, sông, nước, còn ngôi chùa ẩn hiện trong đêm:
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự,
Câu cuối, thơ ngỡ ngàng trước tiếng chuông chùa ngân vang trong lòng đêm yên lặng, giữa đêm tịch mịch, sương như lung lay, nước như gờn gợn, khách trong thuyền xao xuyến cả tâm hồn:
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Đã nói đến Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, không thể không nhắc đến Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục. Cả hai bài thơ phác hoạ dưới góc nhìn thi nhân trên con thuyền hững hờ đậu bãi sông. Một bài khi nghe tiếng chuông chùa thanh thoát đưa tới, đã xoa dịu đi nỗi trầm tư muội phiền của kẻ nhất thời bôn tẩu, đang nằm co ro khắc khoải trong khoang thuyền giá lạnh. Còn một bài thì khi nghe khúc hát văng vẳng của cô gái trẻ trên sông vang lên trong khung cảnh đêm khuya tĩnh lặng, mà dường như dấy nên niềm xúc cảm u hoài trong nỗi hận mất nước.
Bạc Tần Hoài
“Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”
(Đỗ Mục)
Dịch nghĩa:
“Khói lan toả trên nước lạnh, ánh nguyệt lan trên cát
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa”
*Tần Hoài: tên con sông từ tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào sông Trường Giang.
*Hậu Đình Hoa: tên khúc hát làm trong buổi tiệc của vua Trần Hậu Chủ và Trương Quý Phi thời Nam Bắc triều
Dịch thơ:
Thuyền Đậu Sông Tần Hoài
“Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa”
(Bản dịch: Trần Trọng San)
Khói lan phảng phất trên mặt nước, ánh trăng soi bóng trên mặt cát, thuyền nhẹ lững lờ đậu cạnh quán rượu. Cảnh trăng khuya mới tĩnh mịch làm sao. Bỗng bên kia sông vang lên một tiếng hát văng vẳng. Khúc hát trong những buổi yến tiệc vui chơi mà khiến lòng thi nhân chua xót như oán trách ai vô tình khi bồi hồi nghĩ đến nỗi hận mất nước....
- Sưu tầm trên thivien.net-
5 notes · View notes
tuyet-thien · 3 years
Text
Mỹ nhân từ
Trường tương tư
Quách Tương
Bán can nguyệt
Nhất xuyên tuyết
Phong Lăng độ khẩu phỏng hiệp khách
Giang san bạn quân khoát
Vân tịch mịch
Thuỷ tịch mịch
Hành tẫn tà dương độc ngâm ca
Vị thùy lệ doanh tiệp
Dịch nghĩa:
Trăng lên lưng chừng
Trên sông tuyết phủ
Nơi bến đò Phong Lăng tìm hiệp khách
Chốn núi sông phóng khoáng kết bạn với chàng
Mây hắt hiu
Nước lặng im
Một mình ngâm nga, đi dưới ánh tà dương
Vì ai lệ hoen mi?
-------------------------------------
Thiên tiên tử
Tiểu Long nữ
Dã kính tà nhập Chung Nam san
Lãnh ngâm thu sắc Cổ mộ hàn
Tuyết vi cơ phu băng thị hồn
Nguyệt hoa đạm
Cảo duệ phan (*)
Vũ phong hồi tuyết Ngọc nữ kiếm
Cô cao ngạo thế nhân như lan
Thanh khoáng viễn bạc bỉ vân an (*)
Nhu tình như mộng giai kỳ đoản
Thập lục tải
Tương tư nhiễm
Huề thủ quy ẩn Ngũ nhạc gian
Dịch nghĩa:
Con đường mòn nghiêng nghiêng dẫn vào núi Chung Nam
Nghe tiếng ngâm thơ lạnh lùng giữa sắc thu nơi Cổ mộ
Da thịt nàng là tuyết, mảnh hồn băng
Bóng trăng nhạt nhoà
Xiêm y phất phới
Múa Ngọc nữ kiếm như gió thổi tuyết bay
Khí chất như hoa lan, một mình coi thường thế tục
Ngao du nơi xa xăm, giữ mình thanh cao phóng khoáng, sánh với khói mây
Nhu tình như giấc mộng đẹp nhưng ngắn ngủi
Mười sáu năm
Nhiễm bệnh tương tư
Nắm tay chàng quy ẩn nơi Ngũ nhạc
(*) Phiên là phất phới, ở đây đọc là phan cho chuẩn về âm vận, tương tự như vậy đối với "vân yên".
-----------------------------------------
Ngu mỹ nhân
A Châu
Tiểu hiên song ngoại phong hám trúc
Mộng hồi Yến Tử ổ
Thập lý thuỷ tạ hoa thâm xứ
Nguyệt lâm nhã trúc
Y hi ngọc nhân cố
Nhạn quan tương huề yên vũ lộ
Tiếu ngữ giải sầu khổ
Đa tình đồ lưu tái thượng hận
Trường ta anh hùng
Lệ mãn Tiểu Kính hồ
Dịch nghĩa:
Bên hiên nhỏ, gió hờn cành trúc ngoài song cửa
Trong cơn mơ quay về Yến Tử ổ
Mười dặm đình thuỷ tạ, chốn hoa nở thẳm sâu
Bóng nguyệt soi cung đàn u nhã
Thấp thoáng dáng người ngọc ngoảnh đầu
Nắm tay chàng đi giữa mưa khói ải Nhạn Môn
Cười nói tan sầu khổ
Nhưng nỗi hận của khách đa tình vẫn vương trên ải vắng
Mãi than khóc kẻ anh hùng
Cho lệ tràn hồ Tiểu Kính
----------------------------------------------
Hạnh hoa thiên
Trình Anh
Giang Nam yên vũ cố lý lộ
Tòng biệt hậu
Thiên San tùy trú
Tà nguyệt lan can dạ như thuỷ
Hữu mộng
Thanh tiêu xuy triệt vân chử
Mạc tương vấn
Hồng tiên tiểu tự
Điên đảo tả tiến thâm thâm xứ
Thanh duệ uyển ước nhân độc lập (*)
Hồi thủ
Phù vân tụ tán vô số
Dịch nghĩa:
Mưa khói Giang Nam trên con đường về làng cũ
Từ lúc biệt ly
Lang bạt chốn Thiên San
Bóng trăng chênh chếch bên lan can, đêm êm ái như dòng nước
Mang trong lòng giấc mơ
Tiếng tiêu thanh tao thổi xuyên qua áng mây
Chớ hỏi người
Giấy hoa tiên hồng, hàng chữ nhỏ
Nét bút đảo điên chốn thâm u
Tay áo xanh, búi tóc thon, người đứng một mình
Quay đầu
Phù vân tan hợp thật nhiều...
(*) Chữ uyển ước có chỗ khó hiểu, chữ 约 có âm ước và yêu, không rõ nên đọc theo âm nào, nếu đọc yêu nghe đúng vận luật hơn, nhưng ước mới có nghĩa hợp lý.
--------------------------------------------
Điệp luyến hoa
A Tử
Vô đoan phong vũ tảo lê hoa
Tạ đường yến tử
Triển chuyển nhập thùy gia
Tinh Tú nhất mộng thập lục tải
Tịch mịch phù bình trục thuỷ khai
Tuyết phu ngọc cốt thiếu niên mộ
Lãnh nhãn thế gian
Tối khổ tương tư độc
Thử sinh vi quân nhất ngưng mi
Hà phương đoạn trường phục thành hôi
Dịch nghĩa:
Cớ sao mưa gió cuốn bay cánh lê hoa
Chim én trên lầu họ Tạ
Nay lưu lạc vào nhà ai
Giấc mộng nơi Tinh Tú hải mười sáu năm trường
Như cánh bèo trôi dạt, lặng lẽ nở trên mặt nước
Da như tuyết, xương như ngọc, làm gã thiếu niên đắm say
Đôi mắt lạnh lùng nhìn thế gian
Có nỗi đau khổ nào bằng tương tư trong oán độc
Kiếp này xin vì chàng mà ngưng đọng nét mi sầu
Không ngại ngần để cõi lòng tan nát hóa thành tro bụi
(*) Bài này dùng điển Tạ đường yến tử (con én làm tổ trong nhà họ Tạ), mượn ý bài Ô y hạng của Lưu Vũ Tích, than tiếc cảnh nhà họ Tạ đời Tấn thanh danh hiển hách, đến khi suy tàn, con chim én dưới hiên nhà cũng bơ vơ lưu lạc.
Ở đây chỉ cảnh A Tử từ nhỏ không được cha mẹ chăm sóc, như cánh bèo trôi nổi nở hoa trên Tinh Tú hải. Câu Tuyết phu ngọc cốt thiếu niên mộ chỉ việc Du Thản Chi mê đắm nhan sắc của nàng.
---------------------------------------------
Tô mạc già
Nhậm Doanh Doanh
Lục trúc hạng
U kính trường
Khiên thủ như ngọc
Tịnh cầm vị quân trương
Huyền thiêu lưu thuỷ tẩy khách sầu
Mi gian tâm thượng
Thiên thiên kết đinh hương
Lộ triêm y
Cổ tự lương
Mạc lộng thanh tiêu
Thử thanh tối đoạn trường
Hắc Mộc nhai thượng thùy thành vương
Tiếu ngạo giang hồ
Hà phương cộng tử cuồng
Dịch nghĩa:
Ngõ Lục Trúc
Con đường sâu thẳm
Tay tiên một vẫy
Cây đàn thanh tĩnh vì chàng mà so phím tơ chùng
Dây đàn rung như dòng nước mát, gột rửa nỗi sầu của chàng
Dưới nét mi và trong trái tim
Muôn ngàn đóa đinh huơng kết tụ
Sương vương áo
Nơi chùa lạnh vắng
Chớ thổi tiếng tiêu trong
Âm thanh ấy sao quá đau lòng
Trên Hắc Mộc nhai ai xưng vương bá
Riêng nàng cùng gã cuồng tiếu ngạo giang hồ
-------------------------------------------
Nhất tùng hoa
Trình Linh Tố
Thử tịch đạp phỏng Động Đình hồ
Tà huy chiếu nhan tố
Sơn phong doanh tụ động xuân sừ
Thảo sơ phát
Tình thanh điền phố
Dược cốc tinh linh
Cơ xảo nan bốc
Trừ quân thùy ngự độc
Tiêu tiêu song kỵ thiên lý lộ
Nhân tại thâm thâm xứ
Hành vân hữu ảnh nguyệt vô tâm
Vũ diệc khổ
Mộng đáo tàn xứ
Băng chất ngọc cốt
Nhất khâm thanh sầu
Hoá thử hoa u độc
Dịch nghĩa:
Tối nay tìm đến Động Đình hồ
Ánh tà huy soi bóng trên khuôn mặt cao khiết của nàng
Gió núi lùa tay áo đang làm vườn mùa xuân
Cỏ mới nhú
Như mối tình thanh tao nơi vườn ruộng
Nàng là tinh linh nơi Dược cốc
Cơ trí khó lường
Trừ nàng ra, ai là kẻ chế ngự được bách độc
Tiếng ngựa vang vang, đôi kỵ sĩ sánh vai trên đường thiên lý
Người ở chốn thâm u
Mây bay còn có bóng, tiếc thay nguyệt vô tình
Cơn mưa sao mặn đắng
Mộng đẹp đến rồi tàn ở chốn này
Khí chất như băng, xương cốt như ngọc
Ôm một mối sầu thanh khiết
Hóa thành đóa hoa đơn độc u buồn
(*) Xuân sừ: sừ là cái bừa, xuân sừ có nghĩa là làm ruộng mùa xuân, Nguyễn Trãi xưa có câu "Tha niên Nhị Khê ước, đoản lạp hạ xuân sừ", tức là năm xưa hẹn về Nhị Khê, đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân.
---------------------------------------------
Bồ tát man
Nghi Lâm
Tạc dạ phong phất y thượng vân
Thực mộng thạch thượng lãnh nguyệt ngân
San kính niệm nhân viễn
Tần mi dị tiêu hồn
Ly loạn ảm băng nhan
Tương tư chỉ vi quân
Cổ phật thanh đăng bạn
Tịch mịch tống hoàng hôn
Dịch nghĩa:
Đêm qua gió thổi áng mây hồng trên tà áo
Nàng xây cho mình giấc mộng
như bóng trăng lạnh hằn sẹo vào tim đá
Trên con đường núi, hoài vọng người xa
Nét mày cau lại thật dễ tiêu hồn
Biệt ly khiến khuôn mặt băng khiết u buồn
Chỉ vì chàng mà ôm mối tương tư
Đành làm bạn với đèn xanh và tượng phật
Tiễn hoàng hôn đi trong chiều tịch mịch
-----------------------------------------
Vũ lâm linh
Nhạc Linh San
Hoa san kỳ xuất
Hồng vũ tư tùng
Thiên nhai vân độ
Thiếu niên xuyên thoa thùy bộc
Tâm khúc thông
Xung Linh kiếm vũ
Nguyệt bạn tiếu phác lưu huỳnh
Hi hô cộng triêu mộ
Đa thiểu sự
Niên hoa nhất thuấn
Y y mộng lý vô tầm xứ
San khuếch tửu tứ đạm như đồ
Phúc Kiến hành
Vị thức sầu tương trú
Tịch Tà điên đảo giang hồ
Phong vân nộ
Cuồng lan nan trở
Vị thùy thanh giảm
Sầu tụ mi đoan thử tình nan phú
Chung thân ngộ
Thanh sa trướng ngoại
Đoạn hồng khấp hoàng thổ
Dịch nghĩa:
Ánh cầu vồng trong mưa, dáng cây tùng tươi tốt
Nơi bến mây cuối trời
Gã thiếu niên bay xuyên qua dòng thác bạc
Thấu hiểu nỗi lòng nhau
Cùng luyện Xung Linh kiếm pháp
Bên ánh trăng, nói cười đuổi ánh đom đóm
Cùng nhau nô giỡn sớm chiều
Bao nhiêu kỷ niệm
Năm tháng đẹp tươi vụt qua như chớp mắt
Đã xa vời như trong cơn mơ, biết tìm lại ở chốn nao
Quán rượu giữa núi non bao la, đạm bạc như tranh
Nàng hát câu sơn ca Phúc Kiến
Đâu biết nỗi sầu sắp đến
Tịch Tà kiếm phổ điên đảo giang hồ
Gió mây giận dữ
Con sóng cuồng điên
Vì ai mà tiêu giảm
Nỗi sầu ngưng tụ trên hàng mi, tình này khó nói nên lời
Lỡ làng trọn kiếp
Ngoài rèm sa xanh biếc
Con chim hồng lẻ loi đang khóc trên nấm mộ nàng
------------------------------------------
Tích phân phi
Viên Tử Y
Tiêu Tương đạo thượng tử sam khinh
Giai nhân lai khứ thông thông
Xảo tiếu hô anh hùng
Khả khả phương tâm tòng thử khuynh
Nhất thốn nhu tình nhất thốn thương
Trường đoạn bất hối tương phùng
Cô vân tòng thử viễn
Ân oán quá nhãn khả thành không
Dịch nghĩa:
Tà áo tím phất phới trên đường bên sông Tiêu Tương
Bóng giai nhân vội vàng đến rồi đi
Khéo cười gọi anh hùng
Có lẽ từ đó con tim ngát hương đã xiêu lòng
Một tấc nhu tình là một tấc bi thương
Lòng đau tan nát cũng không hối hận về lần tao ngộ
Áng mây cô độc từ ấy xa vời
Ân oán trong mắt giờ cũng hoá thành không
______________________
Ký sinh thảo
Quách Phù
Đào hoa tà ỷ hoa uyển,
Nhuận ngọc lung tiêu hương noãn,
Xuân nhập my tâm sầu nhất điểm,
Phương tình cộng tranh quốc sự loạn,
Tương thành bằng lan đối lang yên.
Thương lưu cảnh ứng hối nhẫm kiều man,
Tài không nhạ mộng lý tương tư tàn.
7 notes · View notes
xoi-vung-dua · 3 years
Text
Day 27.
Hai hôm nay mình cảm thấy tinh thần không còn giữ được sự thoải mái, yên ổn như trước nữa. Mình đang cố gắng nhìn nhận lí do và tìm cách giải quyết chuyện này. Việc đột nhiên tâm trạng chùn xuống cũng là dễ hiểu bởi một trong Tứ thánh đế là Khổ đế - chân lý đầu tiên để khẳng định rằng đã là người, không ai là không khổ đau, cả thân lẫn tâm!
Mình vẫn nhớ như in cái cảm giác dễ chịu vào cuối ngày khi đi ngủ, thì thầm với bản thân để ôn lại những điều đã diễn ra trong ngày và vui thích khi đối chiếu cách phản ứng của mình trong giai đoạn này với sự việc tương tự đã từng gặp phải. Và cứ thế chìm vào giấc ngủ cho đến khi báo thức kêu vào sáng hôm sau. Nhưng, kì lạ là, từ hôm qua tới giờ, có gì đó cứ quấn lấy tâm trí mình không rời mà mình cũng không cách nào giải thích rõ ràng được nó là cái gì. Kiểu, tự dưng lại có ai đó nhúng cái thìa vào cốc nước và nguấy thật mạnh để tạo ra cái phễu xoáy nhằm trộn tung tất cả mọi thứ lên vậy. Tự dưng, mình thấy không được ổn lắm.
Có lẽ, sự mất thăng bằng này xuất phát từ cái feedback của bên SE gửi vào đúng cuối tuần trong khi mình đưa file từ thứ 2 mà cứ nhận xét lắt nhắt. Thực ra, mình thấy mail chiều thứ 5 nhưng kệ đó, tối vẫn ngồi thêu hoa, để việc tới sáng thứ 6 giải quyết trong cái tâm trạng thở vắn than dài, chẳng biết cái mình sửa đã đúng ý họ chưa, làm cố-cho-xong chứ không còn nhiều nỗ lực để khiến nó tốt như trong khả năng của mình. Mình đã khá là bế tắc khi tìm source chán chê mà chẳng có cái nào ưng í nên diễn tấu theo cảm nhận từ những kinh nghiệm mình thu thập được trong 2 năm làm agency cho họ.
Rồi tới cái profile của nhà chị Bình. Mình đã cố để không hét lên rằng "Trời ơi, làm ơn tha cho em đi!" . Đã nhiều lần, ngay sau tiếng thở dài là mình chuẩn bị buông ra 1 câu-gì-đó giống mọi lần. Mình đã ráng kiểm soát cái lời không thuận miệng để nhìn nhận sự việc như nó đang diễn ra mà không chèn thêm mấy câu cao trào vào đó =)).
Nhưng, sự kiềm chế này đã khiến mình bị nén lại 1 cục đông cứng, không giải tỏa được, không phát tán thứ cảm xúc tiêu cực từ trong người ra ngoài nên làm ô-nhiễm tâm trí mình. Dường như, nó giống một sự tích cực độc hại hơn là những bước đi thuận lợi tiến tới con đường Diệt đế. Hoặc, đây là trạng thái ai cũng phải trải qua khi bắt đầu dò dẫm trên hành trình giải thoát, hoài nghi và phải tự đi tìm câu trả lời cho chính mình. Nhìn chung, mình đã kết thúc ngày làm việc cuối tuần trong tâm lí không thực sự thỏa mãn, kiểu cố lờ đi cái sự bứt rứt đang diễn ra để phỉnh mình bằng mấy câu động viên đầy sáo rỗng!
Bây giờ cũng vậy. Mình không thể tiếp tục cái tình trạng lừa dối này nữa, mong rằng khi viết ra sẽ giúp mình rà soát lại tất cả những sự việc để tìm ra được kẻ nào, thứ gì đã cố tình ngoắng cái cốc nước đục ngầu này lên vậy?
Mình đã bắt đầu buổi sáng với những thói quen mới. Dậy sớm, cho mấy đứa ăn, giãn cơ nhẹ nhàng một chút và chú tâm vào những việc giúp mình xua đi những ý nghĩ không tốt. Rồi mình định thêu thì lại sang nhà cô Nhung buôn chuyện. Mấy câu chuyện cô kể cũng giúp mình kiểm chứng những thứ mình đang đọc. Với mình, đó là sự mong muốn được sẻ chia, được có người trò chuyện, giãi bày hay đơn giản chỉ là có người nghe họ nói nên 1 tiếng đó không làm phiền mình. Mọi thứ cũng cứ thế diễn tiến rất đỗi thường nhật, ăn trưa, ngủ một lát và mình thấy đói cồn cào, đói như qua 1 đêm chưa có gì trong bụng. Thế là, mình làm mì trộn. Nhưng, cái giây phút vui sướng khi vừa mới lấp đầy dạ dày cũng trôi qua rất nhanh, trôi tuột đi với vận tốc ánh sáng và mình lại chìm vào trạng thái lờ đờ. Thậm chí, dù rất mong mỏi nhận được đồ ăn cho Cy và Hói nhưng mình cũng không thể thấy mãn nguyện như hôm trước phải gọi ship hỏa tốc đồ ăn cho Mỡ.
Mình bị làm sao thế nhỉ? Đọc sách có giúp mình lấy lại tinh thần không? Câu trả lời là không hề. Lần này, mình thực sự mất tập trung. Đầu óc mình đang mắc ở cái tầng trời nào đó, đang lặn tới mực nước biển thiếu dưỡng khí nào rồi vậy? Có một sự nhận thức cực kì rõ rệt cho việc muốn chấm dứt cái trạng thái không-thể-hiểu-nổi này!
À, trong lúc ăn mì, mình xem chương trình "Cầu thủ nhí". Tại sao nội dung về bóng đá mà 3 huấn luyện viên chia đội lại là Mâu Thủy, ST Sơn Thạch, Ali Hoàng Dương - chẳng thấy ai có chuyên môn về thể thao cả? Rồi, ai mướn ST mớm mấy cái lời ngớ ngẩn kiểu "bé về đội chú đi, chú muốn trở nên thân thiết với bé nên chú muốn là anh trai, là ba của bé". Chưa hết "con yêu ai hơn, con yêu ba hay yêu mẹ". Vẫn không xong, MC Sam thì hỏi (chắc theo format của ban tổ chức) "nếu để cho 2 con tự chọn thì 2 con thấy ai xứng đáng được vào vòng trong hơn - tự ứng cử cũng được nha". Đỉnh cao của content vô duyên là khúc Sam hỏi câu tương tự xem giữa ba, má yêu ai hơn thì có 1 bạn trả lời ba mẹ đã ly hôn lúc em 11 tuổi. Và, lại là ST, ở đâu ra cái kiểu so sánh nỗi đau vậy cha nội? "Chú rất hiểu cảm giác của con. Ba chú còn bỏ chú từ lúc chú mới được sinh ra... Chú hi vọng, con sẽ hiểu cho quyết định của người lớn và sau này, hãy nói chuyện với ba như một gia đình". Khúc này là ứa máu luôn rồi. Chao ôi, nó nhảm nhí tới mức, mình đã buột miệng chửi thề vì không thể tin nổi vào cái mình đang xem. Mình từ chối hiểu. Không rõ BTC soạn sẵn câu hỏi, tìm hiểu về gia đình thí sinh để câu view hay vì cái mục đích oái oăm gì đi chăng nữa thì mình sẽ không bao giờ bật VTV3 vào lúc 15 giờ thứ 7 hàng tuần để xem cái chương trình ngớ ngẩn này thêm 1 lần nào nữa. Thậm chí, nếu con mình sau này may mắn có tài năng, nhưng gặp các loại giám khảo như này, mình cũng sẽ từ chối tiếp tục tham gia vì sự vô duyên, vô cảm thay vì duyên dáng, tế nhị trong cách đặt câu hỏi.
Trời ơi, phải chăng mình cần học cách kiểm soát cảm xúc khi gặp những tình huống kể trên? Liệu rằng, những ngày trước, khi không gặp phải mấy sự cố này thì mình dễ dàng nhắc nhở bản thân không nên đặt quá nhiều cảm tính vào sự việc, hãy để nó như vốn có: là 1 lời nhận xét, là 1 câu chuyện, là 1 sự sắp đặt, là 1 chương trình... Còn 2 ngày này, khi thử thách được nhích lên 1 chút thì mình mới thấy rõ trong hoàn cảnh bị tác động, chi phối bởi cảm xúc quá nhiều thì mình đã đánh mất tính Trung đạo - giữ trạng thái cân bằng, không đẩy bản thân về bất cứ điểm cực đoan nào của yêu - ghét, đau khổ - hạnh phúc, sân hận - tham ái. Phải chăng, vì cuộc đời là Vô thường nên cần phải ở điểm trung dung, không nghiêng, không ngã, giữ tâm và thân được an tĩnh trong bất cứ tình huống nào?
6 notes · View notes
sa-sa-blogger · 4 years
Text
Cưới hoa hồng đỏ, về lâu về dài, màu đỏ sẽ biến thành một vệt máu muỗi trên tường, màu trắng thì vẫn là “đầu giường ánh trăng rọi”; cưới hoa hồng trắng, màu trắng sẽ thành hạt cơm dính trên quần áo, màu đỏ lại là một nốt chu sa trên ngực.
(“床前明月光” Sàng tiền minh nguyệt quang - câu đầu trong bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch, nhưng ở đây không phải nói đến nỗi nhớ quê hương như bản gốc mà là nói đến “Bạch nguyệt quang” -Ánh trăng sáng đầu giường- Tình đầu)
📷 #K.D
Retouch: #Sa
Tumblr media Tumblr media Tumblr media
34 notes · View notes
thptngothinham · 1 month
Text
[Văn mẫu 6] Tổng hợp những bài văn mẫu hay kể lại diễn cảm truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với những cách kể khác nhau để các em tham khảo Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của tác giả Hồ Nguyên Trừng được trích trong "Nam Ông mộng lục". Truyện ca ngợi phẩm chất cao quý của thái y lệnh Phạm Bân, một lòng một dạ phục vụ dân nghèo, quên mình để cứu người. ------- Kể diễn cảm truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Bài văn mẫu 1 Kể lại truyện Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng diễn cảm Vào thời vua Trần Anh Tông (1293 – 1314), có một vị lương y nổi tiếng tài năng, đức độ tôn là Phạm Bân. Nhà vua phong cho ông chức Thái y lệnh, trông coi về việc chăm sóc và chữa bệnh cho những người sống trong cung. Phạm Bân thường đem tiền bạc, của cải trong nhà ra mua các loại thuốc quý nhất và tích trữ lúa gạo để giúp đỡ người nghèo. Ai đói ông cho ăn, ai rét ông cho mặc, ai bệnh tật ông chữa bệnh cho. Dẫu bệnh có nặng đến đâu ông cũng không hề né tránh. Bệnh nhân tới nhà ông đông lắm, cứ chữa khỏi bệnh rồi đi, chẳng tốn kém gì. Bỗng mấy năm liền, trời làm mất mùa, đói Kém, dịch bệnh xảy ra khắp nơi. Phạm Bân cất thêm nhà cho những kẻ khốn cùng, đói khát và bệnh tật đến ở. Ông cứu sống được cả ngàn người. Tài năng và y đức của ông khiến cho người đời trọng vọng. Lương y Phạm Bân rất thương người nghèo. Một hôm, có người gõ cửa mời gấp: – Nhà tôi có người đàn bà bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét, mời ngài đến xem cho! Nghe vậy, lương y tức tốc đi theo nhưng vừa ra tới cửa thì gặp sứ giả của vua sai tới, bảo rằng: – Trong cung có bậc quý nhân bị sốt, nhà vua triệu ông tới khám. Phạm Bân trả lời: – Bệnh đó không gấp. Nay mạng sống của người nhà người này chỉ ở trong khoảnh khắc, Để tôi cứu họ trước đã, lát nữa sẽ vào vương phủ. Sứ giả tức giận mắng rằng: – Phận làm tôi, sao ông dám nói như vậy? ông định cứu tính mạng người ta mà không nghĩ đến việc cứu mạng mình chăng? Lương y Phạm Bân vẫn bình tĩnh phân trần: – Tôi có mắc tội cũng không biết làm thế nào. Nếu người đàn bà kia không được cứu kịp thời sẽ chết, chẳng biết trông cậy vào đâu. Tính mạng của tôi còn trông cậy được vào chúa thượng, nếu ngài rộng lòng, may ra tôi thoát. Tội tôi, tôi xin chịu. Nói rồi, để mặc sứ giả đứng đấy, ông vội vàng đi cứu người đàn bà nghèo. Quả nhiên, bà ta được cứu sống, Xong xuôi, lương y vào triều yết kiến nhà vua. Vua quở trách, ông bỏ mũ, cúi đầu tạ tội và bày tỏ lòng thành của mình. Nghe xong, nhà vua mừng rỡ phán: – Ngươi thật là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, biết thương xót đám dân đen con đỏ của ta. Ngươi thật xứng đáng với lòng ta mong mỏi. Từ tấm gương của ngươi, ta suy ra rằng thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Về sau, con cháu của Phạm Bân cũng nối nghiệp cha ông, làm quan lương y đến hàm ngũ phẩm, tứ phẩm trong triều đình. Tuy vậy, họ vẫn để tâm chữa bệnh cứu giúp người nghèo. Họ đã xứng đáng với tên tuổi của Thái y Phạm Bân để lại cho đời. Có thể bạn quan tâm: Kể tóm tắt truyện Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng Bài văn mẫu 2 Tham khảo bài văn kể sáng tạo truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Tổ tiên tôi có nghề y gia truyền nổi tiếng từ lâu đời. Vì thế, vào đời hoàng đế Trần Anh Tông trị vì đất nước, tôi được bổ nhiệm giữ chức Thái y lệnh trông coi việc chữa bệnh trong cung. Mặc dù ở địa vị cao sang, được hưởng nhiều vinh hoa phú quý, nhưng tôi vẫn nhớ lời răn dạy của cha tôi: Bân à, con nên ghi nhớ phương châm hành nghề của gia tộc họ Phạm ta: Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vì thế, ngoài bổn phận phụng sự Trần Anh Tông hoàng đế, tôi còn mở thêm y viện tại nhà đế khám chữa bệnh cho dân. Tiền của trong nhà tôi phần lớn được dùng vào việc mua thuốc và thóc gạo để chữa bệnh cứu người. Y viện của tôi gồm đủ các hạng người. Từ kẻ giàu có đến kẻ cơ khổ. Tôi không phân biệt họ giàu hay nghèo, chỉ phân biệt nặng hay nhẹ để ưu tiên chữa trước, ưu tiên thuốc tốt. Có nhiều kẻ cơ hàn nghèo khó đến mức cơm không đủ ăn, chẳng có tiền mà chữa bệnh tôi cho họ ở nhà mình, cấp cho họ cơm cháo và chữa trị không lấy tiền.
Đối với những bệnh nhân máu mủ tanh tưởi hoặc bị cả những chứng bệnh lây truyền, nhiều thầy thuốc khác né tránh, từ chối. Tôi nghĩ: Nếu ai cũng né tránh kọ thì ai sẽ chữa cho họ?, và thế là tôi nhận chữa trị cho tất cả mọi người. Vì thế, bệnh nhân đến nhà tôi chữa bệnh rất khá đông, các giường bệnh lúc nào cũng chật người. Một số người cho rằng tôi dại, số khác lại nghĩ tôi gàn dở. Mặc những lời gièm pha, tôi chỉ cặm cụi chữa bệnh cứu người. Rồi liền mấy năm đói kém, dịch bệnh nổi lên, bệnh nhân quá nhiều, những nhà dưỡng bệnh cũ không đủ, tôi phải dựng thêm nhà cho kẻ khốn cùng đói khát và bệnh tật đến ở có khi có tới hơn ngàn người. Một hôm, tôi đang nghỉ thì có tiếng gõ cửa gấp. Tôi bảo người nhà ra mời vào. Trông thấy tôi, người đó quỳ sụp lạy và cầu xin: - Thưa đại nhân, vợ con bệnh quá nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét. Cúi xin đại nhân sinh phúc cứu giúp! Gia đình con xin đội ơn ngài! Tôi bảo người đó đứng lên rồi sửa soạn đi ngay. Vừa ra đến cửa thì gặp sứ giả do nhà vua sai tởi, truyền rằng: - Trong cung có bậc quý nhân bị sốt, Anh Tông hoàng đế lệnh cho ngài đến khám. Tôi thưa: - Nhờ đại nhân tâu lại với Chúa thượng, bệnh đó không nguy kịch, có thể chữa sau. Nay mệnh sống của vợ người đàn ông này chỉ trong khoảnh khắc. Tôi hãy cứu họ trước, lát sẽ đên vương phủ. Quan Trung sứ tức giận nói: - Phận làm tôi sao ông dám trái lệnh chúa thượng? Ông định cứu tính mạng người ta mà không định cứu tính mạng mình chăng? Tôi biết làm như vậy là khi quân phạm thượng, có thể sẽ rước họa vào thân. Nhưng tính mạng người đàn bà kia kể như trứng đang ở dưới chân voi, tôi không thể suy tính thiệt hơn. Là thầy thuốc tôi không thể bỏ mặc, thấy người sắp chết mà không cứu. Tôi đành đáp: - Bẩm đại nhân, tôi biết thế là đắc tội với Chúa thượng, nhưng cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông - vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông vào Chúa thượng, may ra thoát. Tội tôi xin chịu. Nói rồi, tôi quả quyết đi cứu người đàn bà kia. Thật may, tôi đến vừa kịp. Sau khi người đàn bà qua cơn nguy hiểm, tôi dặn dò người nhà cách chăm sóc, thuốc thang cho người bệnh rồi lập tức tới vương phủ yết kiến. Trông thấy tôi, hoàng đế Anh Tông quở trách: - Sao khanh dám coi thường lệnh Trẫm đến vậy? Khanh có biết thế là mắc tội chết không? Tôi quỳ lạy: - Muôn tâu Chúa thượng, hạ thần có tội, xin Chúa thượng giáng tội. Nhưng hạ thần cũng vì bổn phận của người thầy thuốc thương xót kẻ sắp chết vì bệnh tật nguy kịch mà đành làm trái lệnh Chúa thượng, cúi xin Người anh minh khoan dung kẻ có tội như hạ thần đây. Được như thê thì hạ thần vô cùng cảm kích và đội ơn sâu, mà mong báo đáp Chúa thượng suốt đời. Hoàng đế Anh Tông nghe xong, ngài mừng rỡ nói: - Ngươi thật là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp, lại có lòng nhân đức, thương xót đám con đỏ của ta, thật xứng với lòng ta mong mỏi. Lời khen của nhà vua khiến tôi vô cùng cảm động và sung sướng. Tôi sung sướng không phải vì được một bậc quân vương khen là giỏi và nhân đức, mà tôi mừng vì xã tắc có một vị hoàng đế anh minh, khoan từ nhân thứ như ngài trị vì. Đó thật là phúc cho trăm họ. Từ đấy, tôi lại dốc vào phụng sự hoàng đế Anh Tông và chữa bệnh cứu người. --------- Trên đây Đọc tài liệu vừa giới thiệu đến các em bài văn mẫu với dạng văn khá mới mẻ đó là Kể diễn cảm truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Với dạng văn này sẽ giúp các em phát triển tư duy, nhớ lại toàn bộ câu chuyện và diễn đạt lại theo cách riêng của mình. Chúc các em học tốt môn văn mẫu lớp 6
0 notes
jennifertple · 4 years
Text
Người xưa thường nói, chỉ cần bạn mở lòng, gió mát tự tìm đến. Nếu bản thân không có bản lĩnh vững vàng, không có nền móng vững chắc, thì dù cúi đầu chắp tay thi lễ, cười cợt nịnh hót cũng không thể cầu cạnh được một chút chiếu cố.
Từng có người đặt câu hỏi trên mạng rằng: "Làm thế nào để nhận biết những người thông minh xung quanh chúng ta?"
Trong đó có một câu trả lời khá ấn tượng: "Khi bạn gặp một người, người đó có thể hiểu được hoàn cảnh của bạn, tôn trọng quan điểm và tín ngưỡng của bạn, cùng bạn xây dựng một khoảng không gian thoải mái. Khi bạn muốn tiến xa hơn với họ, bạn sẽ phát hiện ra rằng họ thường giữ khoảng nhất định với mình, khiến bạn cảm thấy giữa bạn và họ luôn có một vách ngăn, người ngày chắc chắn thông minh hơn bạn nhiều".
Có người nói, nhiều lúc tính bằng "đống" chính xác và trực quan hơn là tính bằng "cái". Điều này cũng rất có lý.
Mỗi lần có việc lớn, việc nhỏ, một số người thường tìm đủ mọi lý do tổ chức ăn uống, tiệc tùng, hội đồng lớp, hội đồng hương… Cả một đống người tụ tập bên nhau ăn uống náo nhiệt, vui quên cả lối về.
Dù rượu say nát hơn tương bần, dù dạ dày quặn đau hơn cả xoắn, dù gia đình lo lắng, càm ràm cũng chẳng hề hấn gì.
Nếu hỏi họ tại sao lại như vậy? Câu trả lời chắc không gì khác ngoài câu: "Chỉ có ăn uống tới bến, thì quan hệ mới tốt, mới được việc".
Thực sự là như vậy sao ? Dĩ nhiên là không rồi!
Tôi có anh bạn tên Cương. Lúc mới bắt đầu kinh doanh công ty quảng cáo, vì muốn tích lũy thêm mối quan hệ, kiếm đơn hàng, Cương thường ra vẻ "mình rất rỗi", "có hẹn là đi, có ăn là đến".
Có lần, vì tiếp đãi khách hàng tiềm năng lớn, Cương dứt khoát qua đêm không về nhà. Cùng khách hàng vui chơi hết điểm này đến điểm khác thâu đêm suốt sáng.
Đúng lúc, vợ Cương cũng đi công tác xa. Con cái ở nhà không ai trông, quấy khóc liên tục khiến bố Cương bị tăng xông.
Vậy mà sau lần đó, khách hàng cũng không đưa đơn quảng cáo cho công ty Cương. Với lý do đây là dự án KPI của năm, nên phải tìm công ty hoàng tráng hơn để làm.
Nói thẳng ra, khách hàng rất lý tính. Sự tiếp đón nhiệt tình và chu đáo của Cương không thể bù đắp được "điểm yếu chuyên môn" của công ty.
Cương từng đưa ra kết luận rằng: "Tôi ngốc quá, hành tẩu giang hồ, tâm lý ai cũng là một cán cân. Bạn có bản lĩnh hay không, có thể làm được việc hay không, người khác đều nhìn thấy rõ cả".
Tác gia Chu Quốc Bình từng nói: "Thứ chi phối chủ đạo các mối quan hệ xã giao không phải là tình hữu nghị mà là lợi ích cá nhân".
Tụ tập náo nhiệt vô bổ, chẳng qua chỉ là điểm xuyết cho những tình cảm đã qua, chứ không phải là minh chứng để người khác khẳng định bạn.
Tửu lượng không phải là thực lực, tình cảm "ly đi chén lại" bắt đầu trên bàn rượu và cũng sẽ kết thúc tại bàn rượu. Nó không thể biến hiện, càng không thế kéo dài. Nếu cứ mãi sa lầy trong đó, sẽ chỉ khiến bản thân hao tâm tổn tứ mà thôi.
Tiều phu lên núi đốn củi, gặp người chăn dê. Người chăn dê vì muốn giết thời gian nên vừa trông dê ăn cỏ, vừa lôi kéo tiều phu nói chuyện với mình.
Để thỏa mãn người chăn dê, anh tiều phu gác lại công việc trong tay, dốc sức chuyên tâm vào cuộc trò chuyện.
Trời đã tối, người chăn dê vui vẻ đuổi đàn dê ăn no tròn bụng về nhà. Còn tiều phu, hai tay không thất thểu ra về, trở thành câu chuyện cười trong mắt mọi người.
"Cậu là người đốn củi, còn anh ta là người chăn dê, cậu trò chuyện với người ta cả ngày trời, dê người ta ăn no căng bụng, còn củi của cậu ở đâu?"
Trong cuộc sống cũng có không ít người như vậy, vì muốn "hòa đồng", vì muốn "có cảm giác tồn tại" mà bấu víu khắp nơi, đến nỗi quên mất cả đường của mình.
Trong sách truyện cổ tích "Ali's Eternal Stop" có viết: "Mỗi người trong đời sẽ gặp khoảng 8.263.563 người, chào hỏi 39.778 người, quen biết 3.619, thân thiết 275, nhưng cuối cùng đều li tán trong biển người".
Duyên đến duyên tàn, người đến người đi đều là chuyện thường, không phải ai cũng đều có thể kết giao làm bạn. Nên buông tay với những người bạn không cùng chung chí hướng.
Quản Ninh và Hoa Hâm là hai người bạn từng dính với nhau như hình với bóng. Trăng thanh gió mát, phẩm rượu ngâm thơ, bàn luận thế sự thật hoan hỉ biết bao.
Nhưng gặp cảnh náo nhiệt, xe sang ngựa quý, Hoa Hâm bứt rứt phải đi xem bằng được. Đến khi trở lại, Quản Ninh đã cắt đôi chiếc chiếu hai người ngồi chung, tuyệt giao với Hoa Hâm.
"Không đồng chí hướng, khó làm bạn bè".
Lỗ Tấn và Nhuận Thổ lúc trẻ qua lại thân thiết với nhau. Hai người cùng nhau trông dưa hấu, canh con Tra, bắt chim sẻ, nhặt vỏ sò. Nhưng nhiều năm sau gặp lại, Nhuận Thổ cung kính gọi Lỗ Tấn là "Ông", khiến giữa hai người mọc lên một bức tường ngăn cách, coi như chấm dứt duyên phận thời trẻ.
Tác gia Tuyết Tiểu Thiền từng nói: "Con người đến một độ tuổi nhất định nào đó sẽ dần thu hẹp lại mọi thứ. Đến cuối cùng, còn lại 2,3 người tri kỷ, một cốc trà nhạt, sống cuộc sống mà mình muốn".
Quãng đời còn lại, không nhất thiết phải mời tất cả mọi người bước vào cuộc sống của mình. Trải qua sự gột rửa của thời gian, chỉ còn lại 2,3 người tri kỷ vốn đã chiến thắng nghìn vạn mối tương giao trôi nổi.
Từng xem một đoạn phim ngắn về thực nghiệm xã hội mang tên "Trong điện thoại của bạn có bao nhiêu người bạn thường xuyên liên lạc?".
Những người tham gia thực nghiệm trong phim đều là những người có hàng trăm bạn bè trong danh bạ. Nhưng sau khi đạo diễn yêu cầu họ xóa hết những người xã giao không quan trọng, danh bạ của họ chỉ còn lại 2,3 người.
Quen biết hàng trăm người, nhưng những người quan trọng thực sự lại chỉ có 2,3 người. Thì ra, chúng ta bận rộn cả ngày "săn đón, tiếp đãi này nọ" đều chỉ là những người không quan trọng.
Dĩ nhiên, con người là động vật quần cư, xã giao là điều không thể tránh. Nhưng trong hơn 3 vạn ngày ngắn ngủi của đời người, thực sự không cần thiết phải bỏ thời gian và sức lực vào những mối quan hệ xã giao vô ích. Những người rạng rỡ, xán lạn đều có những khoảng thời gian ở một mình nhất định.
Họa sĩ, nhà văn Mộc Tâm người Trung Quốc từng ẩn cư trên núi Mogan 6 năm. Dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt, gió lạnh thấu xương, tuyết rơi mù mịt, ông vẫn không hề nản chí. Trong khoảng thời gian đó, ông sáng tác được hơn 100 tiểu thuyết ngắn và vô số những bức tranh sơn thủy.
Nhà văn nổi tiếng người Mỹ O.Henry sau khi phải vào tù vì vấn đề sổ sách ngân hàng, ông đã tận dụng khoảng thời gian khô khan trong ngục tù để suy tư, chiêm nghiệm và sáng tác ra hàng loạt các tác phẩm truyện ngắn nổi tiếng.
Nhà văn người Mỹ Thoreau cũng từng ẩn cư sống một mình trong một ma��nh đất rừng bên cạnh đầm Walden. Trong khoảng thời gian 2 năm ẩn cư đó, ông điềm nhiên tự lạc, hòa mình vào thế giới tự nhiên bao la rộng lớn. Khi có người hỏi ông có cảm thấy cô đơn không, ông nói:
"Tôi nghĩ rằng thường xuyên ở một giúp giúp tinh thần khỏe mạnh. Kết bạn, xã giao, dù ở cùng những người giỏi cũng cảm thấy mệt mỏi và nhàm chán. Đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy một người bạn nào khiến tôi cảm thấy thân thiết và thoải mái như khi ở một mình".
Giống như những gì mà nhiều người hiện nay thường nói: "Thà ở một mình chất lượng cao còn hơn là xã giao chất lượng thấp".
Nếu như cảm thấy không tự tại trong bầy người ồn ã, không có phúc hưởng thụ náo nhiệt, thì hãy một mình sải cánh trên không trung như chim ưng, một mình luồn qua những khe núi như nước, một mình chống chọi với đêm lạnh như hoa, rồi tự cập bến đỉnh cao trong sự cô đơn vắng vẻ.
Dù gì, con người sống ở đời không chỉ có ồn ã, không chỉ có sôi sục, mà còn phải có những lúc yên tĩnh một mình.
Tại sao chúng ta lại phải tham ra những cuộc tụ tập vô bổ, tại sao lại phải bám víu khắp nơi? Có hai nguyên nhân chính, một là muốn nhân duyên, hai là muốn nhân mạch (quan hệ xã hội).
Hai điều này, khiến một số người thường mang tâm lý ôm hy vọng vào sự may mắn. Luồn lách khắp các nhóm bạn bè hư danh ảo mộng. Được vào "nhóm bạn sang quý" giống như mượn được gió trời lên tận mây xanh.
Nhưng thực ra, giống như nhiều người vẫn thường nói: Muốn gặp được "quý nhân", thì đầu tiên bản thân mình phải là "một người có năng lực".
Nhân vật Tống Vận Huy trong bộ phim truyền hình Trung Quốc "Like a Flowing River", dù thành phần gia đình không tốt, không bao giờ xã giao hay bám víu nhân mạch nhưng vẫn từng bước từng bước lên cao. Thứ mà anh ta dựa vào đó chính là bản thân mình.
Thi đứng đầu toàn huyện, nhưng kiểm tra chính trị không đạt khiến Vận Huy lỡ duyên với đại học. Anh đi khắp nơi cầu cứu hết lần này đến lần khác, thậm chí còn đội nắng chói chang đọc hết các chính sách trên Nhật báo nhân nhân để thuyết phục lấy lại thông báo trúng tuyển bị giữ.
Vận Huy tự biết cơ hội đến không dễ, nên trong trường đại học, anh chịu khó vươn lên, không bỏ qua bất cứ cơ hội học tập nào. Bạn bè rong ruổi vui chơi ngoài sân bóng, còn anh miệt mài đọc sách.
Bạn bè bám víu quan hệ chạy chọt khắp nơi, còn anh bỏ ngoài tai mọi thứ. Cuối cùng, với tư cách là thủ khoa tốt nghiệp loại ưu anh được nhận vào làm trong một nhà máy hóa chất tốt nhất thành phố.
Người xưa thường nói, chỉ cần bạn mở lòng, gió mát tự tìm đến. Nếu bản thân không có bản lĩnh vững vàng, không có nền móng vững chắc, thì dù cúi đầu chắp tay thi lễ, cười cợt nịnh hót cũng không thể cầu cạnh được một chút chiếu cố.
Dù gì, xã giao có hiệu quả thực sự từ trước đến nay không luận anh hùng bằng độ rộng, không định thắng thua bằng độ sâu.
Hãy dừng lại mọi mối quan hệ xã giao vô bổ. Bởi khi năng lực, tài nguyên và địa vị của bạn không xứng với dã tâm xã giao của bạn, thì mọi thứ mà bạn làm chẳng qua chỉ là xã giao vô bổ. Hãy từ bỏ những suy nghĩ đi đường tắt, vứt bỏ những suy nghĩ giả tưởng.
"Phải trồng cây ngô đồng thì mới có phượng hoàng đến". Bạn phải nỗ lực thì mới tiềm tàng sức mạnh, tự tạo tương lai, thì mới không phải uốn mình theo người khác, không phải tự mình hạ thấp mình.
Nịnh bợ người khác không bằng tự rèn luyện chính mình, phụ thuộc vào người khác không bằng tự nâng cao chính mình. Bởi quý nhân lớn nhất của đời người chẳng ai khác là chính mình.
_____________
Source: Trí Thức Trẻ
9 notes · View notes
Text
Chúng thần quan thất vọng một lượt, sau đó càng phấn khích hơn. Dù gì Bùi Minh cũng quanh năm mang tiếng đào hoa ong bướm, là hắn cũng chẳng mới lạ gì. Mà nếu không phải hắn, tức là nhiều khả năng cha thai nhi là một vị nam thần quan khác đang có mặt ở đây hoặc không có mặt ở đây, chỉ e sắp xuất hiện một "nhân tài mới nổi", làm sao không hưng phấn cho được?
Trước đó ở chợ Quỷ, rõ ràng Lan Xương từng ám chỉ là Bùi Minh, nhưng giờ lại bác bỏ. Dù rằng trong lòng thấy lạ, song ngoài mặt Tạ Liên vẫn bình tĩnh như thường, hỏi: "Ừ. Vậy rốt cuộc là ai?"
Lan Xương bình tĩnh nhìn y, nói: "Ngươi."
Tạ Liên cứ ngỡ ả chưa nói hết câu, bèn hỏi: "Ta thế nào?"
Lan Xương cất giọng: "Ta nói, người đó, chính là ngươi!"
Cho dù bây giờ Lan Xương nói "kẻ giết ta chính là ngươi", cũng không sét đánh ngang tai bằng hiệu quả của câu này.
Tạ Liên tưởng chừng như bị ả chém cho ngất tại chỗ: "Ta?!"
Quân Ngô ngồi ở bảo tọa phía trên, dường như bàn tay đang đỡ trán cũng trượt một cái. Chúng thần quan lặng thinh giây lát rồi lập tức đồng loạt nhìn về phía Quân Ngô. Quân Ngô đặt thẳng tay lại, tiếp tục dùng tư thế âm trầm này đỡ trán. Các thần quan lại đồng loạt nhìn về phía Tạ Liên.
Rốt cuộc đã tới rồi sao, lần cách chức thứ ba mà vạn người dõi theo!
Tạ Liên chỉ cảm thấy toàn bộ cõi lòng đều run rẩy, cố nuốt câu "ta bất lực" nói mãi thành quen sắp sửa bật khỏi khớp hàm.
Đó chỉ là lời mượn cớ thuận miệng, không tiện lôi ra vào lúc này. Hơn nữa, Thượng Thiên đình có một tổng kết mang tính đùa cợt được bí mật lưu truyền khá rộng rãi, liên quan đến thái độ của các vị Võ Thần đối với "phụ nữ": Phong Tín thấy phụ nữ thì kính nhi viễn chi (tôn trọng nhưng xa cách), Lang Thiên Thu thấy phụ nữ là đỏ mặt, Mộ Tình từ chối nhìn phụ nữ xấu, Bùi Túc thấy phụ nữ thì mặt lạnh như tiền không biết lòng hắn đang nghĩ gì, trong đầu Quyền Nhất Chân vốn không có phụ nữ, Bùi Minh thì cả đầu toàn là phụ nữ. Nếu Tạ Liên nói ra, đoán chừng mai này tiếp sau lời tổng kết sẽ có thêm cả y. Tạ Liên thành khẩn nói: "Lan Xương cô nương, ngươi bình tĩnh chút đi. Tuyệt đối không có chuyện này."
Mắt trừng còn to hơn chuông đồng, Lan Xương quát: "Có. Chính là ngươi, Thái tử điện hạ nước Tiên Lạc!"
"..."
Tuy nói thời gian ả chết muộn hơn thời điểm y phi thăng, nhìn chung có thể khớp được, nhưng Tạ Liên từng gặp ả hay chưa, lẽ nào bản thân y không biết? Giữa tiếng xì xào bàn tán khắp bốn phía, Tạ Liên sầm mặt, nghiêm túc nói: "Cô nương, tuy ta không phải bậc thánh hiền gì, nhưng cũng biết thế nào là một lòng một dạ. Nếu ta không thật lòng yêu một người, tuyệt đối sẽ không có hành vi vượt rào với người đó. Nếu có, cho dù phải đập nồi bán sắt lượm đồng nát, mãi nghệ đầu đường nuôi gia đình, ta cũng không muốn người đó chịu chút thiệt thòi nào. Nơi này là điện Thần Võ, ngươi chớ ăn nói lung tung."
- Thiên Quan Tứ Phúc
0 notes
booksreading · 4 years
Text
CHƯƠNG 8: TÔI LÀM GIÀU BẰNG CÁCH NÀO? (P3/3)
Tumblr media
TỪ BỎ CÔNG VIỆC AN TOÀN CỦA MÌNH
Mike, bạn tôi có một hệ thống thuộc về mình. Bố của anh đã xây dựng nên nó. Riêng tôi không có được cơ may đó. Tôi biết rõ một ngày nào đó, tôi sẽ phải rời bỏ sự tiện nghi và an toàn của tổ ấm để bắt tay xây dựng một hệ thống cho riêng mình.
Vào năm 1978, tôi từ bỏ công việc toàn thời gian ở tập đoàn Xerox, và bước tới mà không hề có một hậu thuẫn an toàn nào ở phía sau. Sự  sợ hãi, sự nghi ngờ bắt đầu xuất hiện và gào thét trong đầu tôi. Tôi có cảm giác sợ hãi gần như tê liệt khi tôi ký vào lá đơn xin nghỉ việc, lãnh tháng lương cuối cùng và bước ra khỏi cửa. Trong tôi lúc ấy như có một dàn hợp xướng của những suy nghĩ, những cảm giác tự hủy hoại cứ ồn ào và gay gắt lên án tôi đến mức tôi không thể nghe được một điều gì khác. Điều đó lại tốt thôi, bởi vì rất nhiều đồng nghiệp của tôi đều nói, “Hắn sẽ quay trở lại. Hắn sẽ không bao giờ làm được”.
Khốn khổ ở chỗ là chính bản thân tôi cũng nói điều đó với mình. Những lời nói cảm tính đầy hoài nghi đó đã ám ảnh, theo đuổi tôi trong nhiều năm cho tới khi hai vợ chồng tôi thành công ở nhóm C và Đ. Ngày nay, tôi vẫn còn nghe những dư âm đó, chỉ có điều chúng không mạnh tác động đến tôi nữa. Trong quá trình đương đầu với sự hoài nghi của mình, tôi đã học cách tạo ra những từ ngữ khác, những lời động viên tinh thần cá nhân, chẳng hạn như: “Hãy giữ bình tĩnh, suy nghĩ rõ ràng, mở rộng đầu óc của mình, tiếp tục đi tới; hỏi ý kiến một người đã đi trước mình để được hướng dẫn, tiếp thêm sự tự tin, và ấp ủ ngọn lửa niềm tin sẽ đạt được những điều tốt nhất”.
Tôi đã học cách tạo ra những câu nói động viên đó bên trong mình, mặc dù một phần con người tôi vẫn còn sợ hãi và khiếp đảm.
Tôi biết rằng lần đầu tiên tôi sẽ có rất ít cơ hội thành công. Thế nhưng, những cảm xúc tích cực của con người như niềm tin, lòng can đảm và những người bạn tốt đã đẩy tôi tiến tới trước. Tôi biết tôi phải đương đầu với rủi ro. Tôi biết rủi ro sẽ dẫn đến sai lầm, và sai lầm sẽ dẫn đến trí thông minh và kinh nghiệm mà tôi đang còn thiếu cả hai. Đối với tôi, thất bại sẽ làm cho nỗi sợ hãi chiến thắng, cho nên tôi sẵn sàng tiến tới trước mà không cần nhiều bảo đảm cho hậu thuẫn ở phía sau. Người bố giàu đã tiêm nhiễm tôi quan điểm: “Thất bại chỉ là một phần của quá trình thành công”.
CUỘC HÀNH TRÌNH NỘI TÂM
Cuộc hành trình từ nhóm này sang nhóm khác thực ra chỉ là cuộc hành trình nội tâm. Đó là một chuyến đi từ những niềm tin gốc rễ và hiểu biết của nhóm này sang một hệ thống quan điểm, suy nghĩ và hiểu biết mới của nhóm khác. Quá trình đó không khác gì với việc tập đạp xe. Lúc đầu bạn sẽ té lên té xuống nhiều lần, cảm thấy hơi sợ hãi và bối rối, nhất là khi có bạn bè đứng đó coi bạn tập. Nhưng sau một thời gian, bạn không còn ngã nữa và việc chạy xe trở nên một phản xạ của bạn. Nế bạn có té, điều đó chẳng hề hấn gì bởi vì bạn thừa biết bạn sẽ đứng dậy và chạy tiếp. Quá trình đó cũng áp dụng tương tự khi bạn đi từ quan niệm về sự an toàn ổn định của công việc đến quan niệm về sự tự do tiền bạc. Một khi hai vợ chồng tôi vượt qua được, chúng tôi càng ít sợ thất bại hơn bởi vì chúng tôi rất tự tin vào khả năng của mình sẽ đứng dậy và đi tiếp.
Bản thân tôi luôn tâm niệm hai câu nói để giúp tôi luôn tiến tới trước. Một là lời khuyên của người bố giàu, khi tôi đang có nguy cơ thối chí và bỏ cuộc: “Con có thể bỏ cuộc lúc nào cũng được... vậy tại sao lại bỏ cuộc ngay bây giờ?”.
Lời khuyên đó đã nâng tinh thần, ý chí của tôi lên và làm cho các cảm xúc trở nên điều hòa, điềm tĩnh. Câu nói đó nhắc nhở tôi đã đi được nửa đoạn đường... vậy tại sao tôi phải quay trở lại một khi đoạn đường đi tới và đoạn đường quay về nhà đều dài bằng nhau? Điều đó có khác nào Columbus đã vượt qua Đại Tây Dương để rồi quay trở lại?
Một điều bạn nên cẩn thận: Sự khôn ngoan là biết khi nào nên bỏ cuộc. Tôi thường gặp nhiều người quá cố chấp, họ vẫn cứ cố bám vào một dự án mà không hề có cơ hội thành công nào. Vấn đề biết khi nào rút tay và khi nào đi tiếp là một câu đố muôn đời mà bất cứ người nào dám đương đầu với rủi ro cũng đều phải đối mặt. Một cách giải quyết vấn đề đó là tìm lời khuyên, hướng dẫn của những người đỡ đầu đã đi trước mình và đã thành công. Một người đỡ đầu như thế, vốn đang ở phía bên phải tứ đồ có thể hướng dẫn bạn hiệu quả nhất. Nhưng hãy nên cẩn thận với lời khuyên của một người chỉ đọc sách và được trả tiền để đi thuyết giảng về cách xé rào từ bên này qua bên kia. Một câu khác luôn động viên tôi đi tới là:
“Những người khổng lồ thường đi tới và té ngã
Nhưng những con sâu thì lại không, bởi vì
Chúng chỉ đào đất và bò tới”.
Nguyên nhân chính khiến cho nhiều người gặp khó khăn với tiền bạc không phải vì thiếu học thức hay lười biếng, mà đó là vì họ sợ bị thua. Nhưng nếu họ dừng lại và bỏ cuộc chỉ vì sợ thua, bản thân họ đã thua cuộc mất rồi.
NHỮNG NGƯỜI THUA CUỘC CẮT BỎ CHIẾN THẮNG CỦA MÌNH VÀ CỐ BÁM VÀO LỖ
Nỗi sợ trở thành người thua cuộc thường khiến nhiều người có những hành động kỳ lạ. Tôi từng thấy nhiều người mua một cổ phiếu ở giá 20 đô, nhưng khi giá tăng lên 30 đô họ liền bán ra ngay bởi vì họ sợ mất số lời mà họ kiếm được. Thực tế, giá cổ phiếu đó cứ tăng lên tới 100 đô, chẻ[14] ra rồi leo tới mức 100 đô một lần nữa.
Cũng người đó, mua cổ phiếu ở giá 20 đô, nhưng khi giá giảm xuống chỉ còn 3 đô, họ vẫn cứ cố giữ cổ phiếu ấy với hy vọng giá sẽ tăng trở lại, và họ cứ giữ cổ phiếu đó ở giá 3 đô trong suốt 20 năm trời. Đó chính là ví dụ về một người bị mất tiền, hay thừa nhận mình bị lỗ, mà trong thực tế, họ thực sự bị lỗ nặng.
NHỮNG NGƯỜI CHIẾN THẮNG CẮT LỖ VÀ TẬN DỤNG CHIẾN THẮNG
Những người chiến thắng lại hành động hoàn toàn ngược lại. Thông thường, khi họ biết mình đang bị lỗ, tức là khi giá cổ phiếu bắt đầu giảm thay vì tăng lên, họ bán chúng ngay lập tức và chấp nhận lỗ. Hầu hết những người này không mặc cảm khi thú thật mình bị lỗ, bởi vì họ biết rằng thất bại chỉ là một phần của quá trình đi đến chiến thắng.
Khi họ mua được một cổ phiếu giá tăng, họ cứ để yên cho cổ phiếu đó tăng đến mức tối đa. Khi họ biết sự tăng giá đã đụng trần, họ liền bán cổ phiếu ra ngay.
Mấu chốt để trở thành một nhà đầu tư lớn là cần phải điềm tĩnh trước mọi thắng thua. Khi đó, bạn sẽ không còn bị chi phối và tác dụng bởi những suy nghĩ cảm tính phát sinh từ sự tham lam và nỗi sợ hãi.
NHỮNG NGƯỜI THUA CUỘC ĐỀU HÀNH ĐỘNG TƯƠNG TỰ TRONG ĐỜI
Những người sợ bị thua cuộc thường hành động tương tự trong đời thực. Chúng ta đều biết có những người như thế.
1. Những người cứ bám vào một cuộc hôn nhân mà không có sự hiện diện của tình yêu.
2. Những người cứ bám vào những công việc tẻ nhạt và không có lối thoát.
3. Những người cứ để dành quần áo cũ hay những thứ mà không bao giờ dùng tới.
4. Những người chịu sống ở những nơi mà họ biết không có tương lai cho họ.
5. Những người cứ chơi với những người bạn luôn kềm hãm họ lại.
SỰ THÔNG MINH CẢM TÍNH CÓ THỂ KIỂM SOÁT ĐƯỢC
Sự thông minh tài chính thường gắn liền với sự thông minh cảm tính. Theo tôi, phần lớn mọi người gặp khó khăn về tài chính là vì họ đã để cho cảm xúc chi phối suy nghĩ của mình. Chúng ta đều là con người, và ai ai trong chúng ta cũng đều có chung những cảm xúc. Thế nhưng, sự khác biệt giữa chúng ta ở những gì chúng ta “HÀNH ĐỘNG” và “ĐẠT ĐƯỢC” chính là cách phản ứng và xử lý của chúng ta trước những cảm xúc đó.
Chẳng hạn, cảm giác sợ hãi có thể biến một số người trong chúng ta thành những tên hèn nhát. Nhưng cũng cảm giác sợ hãi đó có thể khiến cho nhiều người khác trở nên can đảm và gan dạ. Điều không may là khi đụng đến tiền bạc, hầu hết mọi người trong xã hội chúng ta đều được huấn luyện chỉ để trở thành những người hèn nhát. Khi nỗi sợ bị mất tiền xuất hiện và lên cao trào, đầu óc của mọi người bắt đầu vang lên những câu tụng lặp đi lặp lại:
1. Ổn định an toàn thay vì sự tự do.
2. Né tránh rủi ro thay vì học cách quản lý rủi ro.
3. Chơi an toàn thay vì chơi khôn ngoan.
4. Tôi không mua nổi nó thay vì Làm thế nào tôi mua nổi nó?
5. Đồ đó quá mắc thay vì Thứ đó trị giá bao nhiêu về dài hạn?
6. Đa dạng hóa thay vì tập trung.
7. Bạn bè tôi sẽ nghĩ gì? thay vì Tôi nghĩ gì?
SỰ KHÔN NGOAN VỀ RỦI RO
Có một môn học về cách đương đầu với rủi ro, nhất là những rủi ro tài chính. Một trong những quyển sách tuyệt vời nhất về đề tài tiền bạc và quản lý rủi ro mà tôi từng đọc là quy định “Mua bán để kiếm sống” của bác sĩ Alenxander Elder.
Mặc dù quyển sách đó dành riêng cho những người kinh doanh chuyên nghiệp về cổ phiếu và quyền mua bán cổ phiếu, sự khôn ngoan về rủi ro và quản lý rủi ro có thể áp dụng trên mọi lĩnh vực tiền bạc, quản lý tiền bạc, tâm lý học cá nhân và đầu tư. Một trong những nguyên nhân khiến cho những người nhóm C thành công lại không luôn thành công ở nhóm Đ là vì họ không hiểu được hoàn toàn tâm lý thực sự nằm sau việc rủi ro tiền bạc. Trong khi những người nhóm C hiểu về rủi ro trên khía cạnh hệ thống kinh doanh và con người, kiến thức đó không nhất thiết áp dụng thành công vào những hệ thống tiền bạc tạo ra
MANG TÍNH CẢM XÚC HƠN LÀ KỸ THUẬT
Nói tóm lại, con người đi từ thế giới bên trái sang thế giới bên phải của tứ đồ nghiêng về mặt cảm tính hơn là kỹ thuật. Nếu mọi người không thể kiểm soát được những suy nghĩ cảm tính của mình, tôi đề nghị đừng nên làm cuộc hành trình đó.
Lý do khiến cho mọi thứ ở phía bên phải tứ đồ trông có vẻ mạo hiểm, rủi ro đối với những người ở phía bên trái, là vì cảm giác sợ hãi thường ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ. Những người bên trái cho việc “chơi an toàn” là một suy nghĩ lô-gíc, thế nhưng nó không phải vậy. Đó là một suy nghĩ mang tính cảm xúc. Và chính suy nghĩ cảm tính kiểu đó đã kềm hãm mọi người bị kẹt mãi vào nhóm này hay nhóm khác.
Những hành động của những người ở phía bên phải không phức tạp và khó khăn. Tôi hoàn toàn thật lòng cho bạn biết những hành động ấy cũng dễ như việc bạn đi mua bốn căn nhà màu xanh với giá thấp, chờ đợi thị trường chuyển mình, bán chúng đi và mua một tòa nhà màu đỏ.
Đối với những người thuộc thế giới bên phải tứ đồ, cuộc sống thực sự chẳng khác gì trò chơi Tỷ Phú. Dĩ nhiên, có thắng có thua, nhưng tất cả điều đó chỉ là một phần của trò chơi. Thắng thua là một phần của cuộc sống. Để thành công ở phía bên phải tứ đồ, cần phải “TRỞ THÀNH” một con người yêu thích cuộc chơi đó. Số lần thua cuộc của Tiger Woods nhiều hơn chiến thắng của anh ta, thế nhưng anh vẫn đam mê chơi gôn. Thất bại chỉ càng làm cho ông khôn ngoan hơn và dứt khoát hơn. Nhiều tỷ phú, triệu phú thường phá sản trước khi trở nên giàu có. Đó chỉ là một phần của cuộc chơi.
Nếu một người để cho cảm giác suy nghĩ giùm mình, những suy nghĩ cảm tính đó sẽ làm mù mắt người đó, không nhìn ra được những điều khác. Đó là vì chính những suy nghĩ cảm tính quỵ lụy đó đã khiến cho con người phản ứng mà lẽ ra họ nên suy nghĩ lại. Chính những cảm xúc đó đã khiến cho những người ở những nhóm khác nhau thường xuyên tranh luận và mâu thuẫn với nhau. Những mâu thuẫn đó thường phát sinh do con người không có cùng một quan điểm về mặt cảm xúc. Chính sự phản ứng theo cảm tính đã ngăn cản không cho một người thấy được mọi việc ở phía bên phải tứ đồ thường đơn giản, dễ dàng và rất ít rủi ro. Nếu một người không thể kiểm soát được những suy nghĩ cảm tính của mình, người đó đừng nên bao giờ cố thủ cuộc hành trình xé rào đó.
Riêng đối với những bạn đang nuôi ý chí xé rào, tôi khuyến khích các bạn nên có một nhóm bạn tích cực ủng hộ cho bạn lâu dài, và một người đỡ đầu ở phía bên kia tứ đồ dẫn dắt bạn. Theo chúng tôi, điều quan trọng nhất có được từ cuộc hành trình vượt sang phía bên phải từ phía bên trái tứ đồ không phải là những gì chúng tôi đã làm được, mà chính là con người mà chúng tôi đã trở thành trong suốt quá trình chông gai đó. Điều đó, đối với tôi, thật hoàn toàn vô giá.
2 notes · View notes
hdiep2888 · 5 years
Text
Tumblr media
Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu!
Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.
1.514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về từ khóa “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My heart will go on qua chất giọng cao vút của Celine Dion…
Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của Lòng vị tha.
Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, Thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.
Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”
“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”
Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.
Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”
Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa…
Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.
Thuyền phó I đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.
Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.
Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.
Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.
Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.
Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.
Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.
Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình. Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.
Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: ‘Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!’.” Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.
Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v.. Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.
Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.
Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.
Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”
Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.
Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.
Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.
Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô tỉ, đã biến những con người xấu số trong cơn “b��o biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.
Ps : những câu chuyện thế này theo các bạn có nên đưa vào sách giáo khoa không ?
Dưới đây có nhiều câu chuyện thú vị! Hãy để lại biểu cảm để tôi biết bạn đã đọc. Bạn có thể Share nếu muốn!!!
44 notes · View notes