Tumgik
#giọng mẫu đọc quảng cáo
nguyendovinhphong · 6 months
Text
Tumblr media
Tạm biệt, Bay Resort Hoi An!
Ngày đầu đặt chân đến Bay Resort Hoi An, tôi đã xem đây như một gia đình. Trên công trường, trong ngổn ngang những vật liệu xây dựng, giữa những hành lang dẫn lối hun hút, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc trong một khu chung cư thân thuộc ở Hà Nội. Cái cảm giác nhẹ nhõm dễ chịu len vào trong óc, khi được nhìn thấy những dây cúc tần Ấn Độ (lúc này) vẫn còn khá cũn cỡn nhưng rồi đây sẽ phủ xanh những hành lang rất "tình", rất đẹp.
Bay Resort Hoi An có một tầm nhìn về phía Phố Cổ không thể đẹp hơn. Khi tôi đặt bút viết USPs cho khu nghỉ dưỡng, cái "view" vàng này là một trong những thứ đầu tiên tôi hí hoáy đưa lên giấy. Từ hồ bơi của khu nghỉ dưỡng, nhìn về phía ốc đảo của Hoi An Night Market, hoàng hôn lúc nào cũng tô đỏ bầu trời. Trong một mẩu quảng cáo báo giấy, tôi tự tin sử dụng câu tagline "Nơi ngắm hoàng hôn đẹp nhất Miền Di Sản". Ở cái hồ bơi với gió sông lồng lộng thổi đó, chúng ta có thể thả diều, ăn kem cắt từ chiếc xe gỗ với tiếng chuông leng keng của khu nghỉ dưỡng, đọc thật chậm The Quiet American, hay với gọi một bạn barterder phục vụ cho mình ly cocktail "Rừng dừa bảy mẫu".
Bay Resort Hoi An rất đẹp. Cứ giương máy lên là chúng ta có hình đẹp. Và đôi khi cái sự đẹp này đưa tôi rơi vào thế khó xử. "Sao ông cứ làm thiết kế cho Hội An đẹp vậy?", trước câu hỏi của đồng nghiệp, tôi chỉ biết cười trừ. Tôi đâu cố tình làm nên cái đẹp này, mọi thứ ở đây diễn ra hết sức tự nhiên, như nó vốn phải thế. Người đi nhiều như nhiếp ảnh gia Đỗ Sỹ còn không tiếc lời khen cho khu nghỉ dưỡng kia mà.
Trái với vẻ hoài cổ bên ngoài, phòng khách ở Bay Resort Hoi An rất xinh xắn, lịch thiệp. Hai cái villa đúng nghĩa "biệt thự", vì tụi nó "bự thiệt" và dịch vụ kèm theo thì miễn bàn. Bạn có thể nằm lười xem Netflix, thi thoảng ngó bâng quơ ra khoảng sân đầy nắng và mảnh sông Thu Bồn, nơi tiếng tàu gỗ phành phạch vang lên mỗi chiều nắng dội. Khi làm phim quảng cáo cho Bay Resort Hoi An, tôi nghĩ nhiều đến phim L'Amant (1992), với nhiều cảnh quay trên dòng Mekong.
Dân copywriter thường sử dụng "Best of both worlds" để chỉ những thứ pha trộn sự tốt đẹp của hai điều khác nhau, lắm khi tương phản. Ở Bay Resort Hoi An, bạn có thể tận hưởng trọn vẹn sự huyên náo của Phố Cổ (chỉ cách resort 5 phút đi bộ) lẫn những phút giây thanh bình trong khu nghỉ dưỡng. Nếu đây không là "Best of both worlds", tôi chẳng biết điều gì mới là ví dụ cho phải lẽ.
Giờ thì tôi phải tạm biệt nơi đã cho mình nhiều lưu luyến. Sẽ nhớ mãi món pasta với xốt quế tây, bông atisô, ô liu và ớt của chef Huy Phạm. Và công việc dang dở "promote" chef Huy vươn đến vị thế tương xứng, tôi xin nhường lại cho người khác. Đành tạm biệt anh EAM lừng danh Brian Nguyên một thời gian. Không còn những giờ tha thẩn ở Breathe Spa, trò chuyện với khách Âu khách Hàn. Sẽ nhớ những buổi cà phê vội với người đàn ông có gương mặt khá cau có, nhưng nhiệt huyết công việc thì có thừa: anh Trung M&S. Chocolate chị Thúy cho ăn thử hình như ngon hơn ngoài tiệm. Tôi vẫn không hiểu sao Hưng Quy có thể làm việc với những con số trong phong thái điềm đạm như vậy. Vi hát hay như Lệ Quyên. Dàn lễ tân tài năng bắn tiếng Anh tiếng Trung như thể sắp tham gia "presidential debate" đến nơi. Đội F&B lúc nào cũng hồ hởi thăm hỏi khi tôi uống cà phê muối. Chị Tina với bầu năng lượng khủng khiếp. Đội Sales uy tín dạn dày kinh nghiệm và cái phòng làm việc dưới hầm bao giờ cũng tạo ra một không khí khẩn trương, nghiêm túc. Chị Lệ quản lý nhân viên bằng "tình thương". Chị Sương chỉ cười một nụ là chiều hôm đó bookings đổ về như... sung rụng. Chị Phương với tấm lòng "cơm bưng nước rót" vào mỗi giờ trưa. Anh Trịnh hát giọng còn trầm hơn Xuân Hảo... (Xin đừng phiền lòng nếu tôi thiếu sót, quên cảm ơn một anh chị nào đã cùng làm nên phần đời này...)
Vì quá hiểu nghề, anh chị em Bay Resort Hoi An đạt đến cảnh giới mới trong công việc, họ làm cùng nhau ăn ý như thể Scholes chuyền cho Ryan Giggs mà không cần nhìn. Họ làm ung dung (trông là vậy!) nhưng hiệu quả thì vượt trội.
Những buổi chiều tà và hoa trong vườn mãi "nhiệt tình" khoe sắc. Cầu Cẩm Nam. Cô bán nước. Nắng xuyên qua các ô họa tiết vẽ lên tường những hình thù Đông Dương. Con gà trống nhà hàng xóm. Ông khách Úc bị chó cắn. Sự cố nửa đêm trên Naver. Những bữa trưa trong chợ Hội An. Tiệc liên hoan cuối năm... Thật vui vì tất cả giờ này trở thành những kỷ niệm đẹp.
Tôi viết thế này khi giới thiệu về Bay Resort Hoi An: "Bay Resort Hoi An is like a train, carrying you back to the prime era of the historic port town of Hoi An, brimming with memories." (Bay Resort Hoi An là một chuyến tàu, chở chúng ta về thời hoàng kim của Phố Hội) Chuyến tàu ấy đã lăn bánh rồi, nó sẽ trôi về quá vãng để nhường chỗ cho những chuyến tàu tươi mới hơn, chở khách về phía trước. Sự thay đổi là tất yếu nhưng chúng, dĩ nhiên, cũng sẽ mang đến những nuối tiếc không tên.
Sau này, nếu có ngày trở lại, tôi hình dung mình sẽ tần ngần một hồi lâu bên cổng resort, hít một hơi thật sâu, trước khi bước vào để đón nhận những sự đổi mới ngay tại nơi mình từng gọi là nhà.
Đà Nẵng, 22.03.2024
5 notes · View notes
thptngothinham · 7 days
Text
[Văn mẫu 12] Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập, cùng THPT Ngô Thì Nhậm lí giải vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập tư khi ra đời cho đến nay là một áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc Đề bài: Lí giải vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập tư khi ra đời cho đến nay là một áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc hàng chục triệu trái tim con người Việt Nam. -/- Những điều em cần lưu ý trước khi làm đề bài này: - Sức thuyết phục trong nội dung + Lịch sử Việt Nam gắn liền với viêc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, trong ý thức (và có lẽ cả phần vô thức), ý thức dân tộc, ý thức về nền độc lập tự chủ của dân tộc luôn luôn có một vị trí vô cùng quan trọng, nếu không muốn nói, vị trí thiêng liêng nhất. Và những áng văn thơ đề cập đến vấn đề này luôn luôn nhận được sự cộng hưởng rất lớn từ đặc điểm tâm lí đó của người đọc. Chả thế mà không chỉ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, các áng văn, thơ như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo... đều có sức lay động người đọc, vượt qua khoảng cách thời gian hàng thiên niên kỉ. + Tuyên ngôn độc lập là một văn bản chính luận hiện đại: từ kết cấu, ngôn ngữ, lập luận...Dù không phải sống trong cảnh đất nước bị mất độc lập tự do, bị thực dân Pháp rồi phát xít Nhật áp bức, bóc lột nhưng người đọc hôm nay vẫn xúc động, đồng cảm với nỗi khổ và khát vọng của cha ông đồng thời bất bình với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra. Chúng ta cũng không khỏi tự hào, xúc động trước lời tuyên bố long trọng và thiêng liêng về quyền tự do và độc lập của dân tộc ta sau hơn 80 năm chịu thân phận nô lệ. - Sức thuyết phục trong nghệ thuật + Nghệ thuật là nguyên nhân quan trọng góp phần vào thành công và sức lay động mạnh mẽ đối với người đọc nhiều thế hệ. + Văn bản chính luận (vốn trọng lí lẽ, lí trí) nhưng Tuyên ngôn độc lập đã kết hợp nhuần nhuyễn chất chính luận với trữ tình, giữa tình cảm và lí trí, giữa tài năng nghệ thuật và tình cảm yêu nước, tự hào dân tộc của tác giả. Nó bao gồm những lập luận sắc bén, luận cứ thuyết phục, luận điểm sáng rõ, để thể hiện tình cảm thiết tha của tác giả (cũng như của toàn dân tộc) đối với nền độc lập, tự do của đất nước. (nên đi sâu phân tích những chi tiết thể hiện sự kết hợp này: luận điểm, luận cứ, phương pháp lập luận, giọng điệu, văn phong....). Xem thêm: Sơ đồ tư duy Tuyên ngôn độc lập Dàn ý nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập a. Mở bài - Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta thừa cơ vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. - Bản “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực; một áng văn tràn đầy tâm huyết, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của Người và của cả dân tộc. Nó có sức mạnh thuyết phục to lớn, làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam. (Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh) b. Thân bài * Tuyên ngôn Độc lập truớc hết là một văn kiện chính trị, lịch sử: - Là một văn kiện có ý nghĩa chính trị, lịch sử to lớn. Nó khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc, tư thế và chủ quyền của nhân dân đối với đất nước và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy. - Tuyên ngôn Độc lập được một người soạn thảo, một người đọc tác phẩm ấy, nhưng đó là tiếng nói của cả dân tộc, quốc gia, của một chính phủ:... chúng tôi, Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố...; Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng... Do đó, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện của cả quốc gia. * Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương mẫu mực của thời đại: - Là văn kiện chính trị, chứa đựng những nội dung chính trị, nhưng đây không phải là tác phẩm khô khan, trừu tượng. - Có hệ thống lập luận chặt chẽ, với những lý lẽ sắc bén, những bằng chứng thuyết phục: + Nêu ra cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn. + Tiếp đến, Hồ Chí Minh đưa ra cơ sở thực tế của chủ quyền dân tộc Việt Nam: tội ác của thực dân pháp về kinh tế, chính trị, quân sự,…, về công khai hóa, bảo hộ của Pháp
- Khẳng định dân tộc Việt Nam có quyền trên đất nước mình. - Từ những cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đi đến tuyên bố Độc lập: + Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước ta. + Các nước Đồng minh không thể không công nhận chủ quyền độc lập của dân Việt Nam. + Khẳng định quyền Dân tộc Việt Nam có quyền độc lập, tự do. * Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng tình cảm nồng nhiệt, tâm huyết của nguời viết. - Lời văn Tuyên ngôn Độc lập có lúc vang lên chắc chắn, vững chãi khi tác giả trích dẫn những bản tuyên ngôn của nước Mỹ, Pháp. - Đau đớn, căm giận khi kể tội giặc Pháp. - Sung sướng, tự hào với sức mạnh quật khởi nghĩa của nhân dân khi đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, giành lấy chính quyền. - Quyết tâm sắt đá khi nói về sự bảo vệ quyền tự do và độc lập của dân tộc. * Tuyên ngôn Độc lập được viết bởi bàn tay điêu luyện của một bậc thầy về ngôn ngữ. - Câu văn uyển chuyển, sinh động, theo nhịp của giọng điệu bản Tuyêng ngôn Độc lập; có những câu đơn, nhưng phần lớn là câu phức, nhiều mệnh đề. - Sử dụng hàng loạt cấu trúc trùng điệp. + Trùng điệp về từ, ngữ: Dân ta… Dân ta… Chúng tôi… Chúng tôi… Một dân tộc… Một dân tộc… + Trùng điệp về câu: Chúng thu hành… dã man; Chúng lập ba chế độ… đoàn kết; Chúng lập ra nhà tù…; Chúng ràng buộc… + Trùng điệp về nội dung theo chiều hướng tămg tiến ở nhiều cấp độ. - Câu văn giàu hình ảnh: thẳn tay chém giết; tắm các cuộc khởi nghĩa … bể máu; bóc lột đến xương tuỷ; nước ta xơ xác, tiêu điều; ngóc đầu lên; quỳ gối đầu hàng… Xem thêm: Cảm nhận về phong cách nghệ thuật văn chính luận của Hồ Chí Minh c. Kết bài: Nêu cảm nhận của em và khẳng định lại vấn đề trong đề tài - “Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí Minh, Người đã thể hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm được đánh giá là văn bản chính luận mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, thấu tình đạt lí. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kì lạ, có sức lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” rất xứng đáng là áng văn muôn đời. - “Tuyên ngôn độc lập” (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất. Văn mẫu tham khảo Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập Bài số 1 Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc ta ngàn đời tôn kính, biết ơn là một trong những nhà văn bậc thầy về thể chính luận. Trong những áng văn chương đồ sộ mà người để lại, “Tuyên ngôn độc lập” hiện lên như một áng văn chính luận mẫu mực nhất, là kết tinh của giá trị lịch sử, giá trị thời đại và nó trường tồn bất diệt. Toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý sâu sa. Bản tuyên ngôn độc lập được ra đời vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở Người. Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa cơ sở lí lẽ về nhân quyền và dân quyền. Trước hết Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây là quyền lợi đáng được hưởng từ khi mỗi người sinh là, là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn thuyết phục hai bản tuyên ngôn của thực dân Pháp và của đế quốc Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Tại sao Người lại chọn Pháp và Mỹ mà không phải các nước khác? Ta thấy được rằng, hai nước này mang tư tưởng tiến bộ bấy giờ. Nếu thế giới công nhận các quyền cơ bản của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ thì họ cũng sẽ công nhận các quyền ấy với đất nước Việt Nam. Một cú gậy ông đập lưng ông hoàn hảo. Bản tuyên ngôn của ta đặt ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai nước lớn càng tạo sự thuyết phục mạnh mẽ trong cộng đồng thế giới. Người đã chặn đứng âm mưu xâm lược của chúng bằng cách: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người khẳng định chắc nịch: “Đó là lí lẽ không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng, sâu sắc. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ không thể đi trái với tổ tiên của họ. Để làm nổi bật hơn cho lí lẽ thêm sắc bén và thuyết phục, Người đã vạch trần bộ mặt thối tha của thực dân Pháp với những tội ác khó có thể dung tha cả về 3 mặt: chính trị, kinh tế, xã hội. Đầu tiên, về mặt chính trị, “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Chúng thi hành pháp luật dã man, chúng lập ba chế độ khác nhau, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng chém giết người yêu nước, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân, chúng còn dùng thuốc phiện, rươu cồn làm cho giống nòi ta suy nhược. Một loạt tội ác của Pháp được liệt kê một cách chân thực dưới ngòi bút sắc bén của Hồ Chí Minh với những lập luận xác đáng, thuyết phục. Hành động của chúng vô cùng độc ác, vô nhân đạo, cay nghiệt đáng lên án. Tiếp đến, về mặt kinh tế, chúng bóc lột sức lao động của người dân, chúng cướp ruộng đất, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí nhằm bào mòn cả thể chất, sức cùng lực kiệt của dân Việt. Người đã phơi bày bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp ra ánh sáng, mang bộ mặt giả đội lốt người “khai hóa, bảo hộ” đến nhân dân thế giới, khơi dậy lòng căm thù giặc, tinh thần chiến đấu xả thân cứu nước của nhân dân ta. Giọng văn ở phần này thay đổi linh họạt được Người vận dụng một cách triệt để. Nếu như ở phần liệt kê tội ác, việc làm xấu xa của thực dân Pháp, Người dùng giọng đanh thép, mỉa mai, căm thù quân địch thì khi tới miêu tả hậu quả mà dân ta phải chịu, phải gồng mình lên gánh chống đỡ thì giọng văn lại chuyển sang nhẹ nhàng, đau xót, thương cảm. Đọc đọan kết tội ấy, ta lại nhớ tới Nguyễn Trãi, ông cũng từng viết: “Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi” Hồ Chí Minh không luận tội mà kết tội trực tiếp những việc làm kinh khủng mà thực dân Pháp đã tạo ra. Dường như, Người như một vị quan tòa anh minh đang lột tả tộc ác của kẻ cầm đầu phơi bày bộ mặt ra cho thế giới chiêm ngưỡng, ném gạch. Người đã lột lớp mặt nạ đểu cáng của thực dân Pháp xuống. Điệp từ “sự thật là..” lặp lại để thể hiện chiến thắng của quân ta. Ta giành lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Để rồi kết: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Tự do mà ta giành được thật đáng trân trọng. Bản tuyên ngôn gần như chỉ xóay sâu vào 2 trọng điểm lớn: một là, phủ nhận hòan tòan quyền liên quan đến thực dân pháp, hai là khẳng định quyền độc lập và ý thức bảo vệ mãnh liệt quyền độc lập đã giành được ấy: “ tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Từ những lí lẽ trên, Người như muốn tuyên bố cho cả thế giới biết rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
” Để đánh đổi được nền độc lập ấy, biết bao nhiêu con người đã phải hi sinh, họ nằm xuống nơi đất khách quê người, họ bỏ tuổi trẻ còn dở dang, họ bỏ cuộc sống êm đềm bên người thân, gia đình, bạn bè, theo tiếng gọi của tổ quốc để chiến đấu, bảo vệ, giữ gìn những cái àm chúng ta đã giành được. Người đã khẳng định: “Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập” thật tuyệt vời biết bao. Trong phần tuyên này, Hồ Chí Minh cũng hết sức thuyết phục khi lồng ghép lập luận, lí lẽ sắc bén, ngòi bút chính luận thâm thúy với những từ ngữ hào hùng, khí thế của thể văn chính luận. Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bằng lí lé, lập luận sắc bén, giọng văn thay đổi luân chuyển nhịp nhàng, Người vừa vạch ra hàng lọat tội ác tày đình của thực dân Pháp, vừa bày tỏ lòng biết ơn sự hi sinh, tình yêu quê hương sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã đúc kết thành một làn sóng mạnh mẽ. Tuyên ngôn độc lập như mở ra một trang sử mới cho lịch sử nước nhà, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập tự do, là bàn đạp cho Việt Nam hòa mình vào với thế giới. Tham khảo thêm: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập Bài số 2 Trong văn học Việt Nam, ít có tác phẩm nào hàm chứa nhiều giá trị như Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong rất nhiều giá trị đó, người ta nhắc nhiều đến giá trị sử học và văn học. Nhìn từ những góc độ khác nhau, hai giá trị này hoà quyện, xuyên thấm. Trên cơ sở thực tiễn và lập luận chặt chẽ đã tạo nên sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho văn bản. Khi HCM đọc bản tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh đang tiến quân vào Đông Dương; còn ở phía Bắc 20 vạn quân Tưởng tay sai của đế quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới. Vậy đối tượng của bản tuyên ngôn không chỉ là đồng bào cả nước, là nhân dân thế giới nói chung; mà trước hết là bọn thực dân, đế quốc đang âm mưu tái chiếm nước ta. Bản tuyên ngôn đã giải quyết vấn đề bức thiết ấy với những lập luận chặt chẽ và đanh thép ngay từ phần mở đầu. HCM mở đầu bản tuyên ngôn bằng cách trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn bất hủ của Mĩ và Pháp:  “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Bởi lẽ bấy giờ, tư tưởng tiến bộ của những nước lớn, nước tư bản đang có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới. Việc trích dẫn tuyên ngôn của hai nước lớn Pháp và Mĩ sẽ dễ tạo được thông suốt, sự công nhận tức thời, được nhiều nước thừa nhận. Nếu thế giới đã công nhận quyền độc lập, tự do, dân chủ , bình đẳng của Mĩ, của Pháp thì sẽ phải công nhận quyền độc lập tự do của Việt Nam. Bản tuyên ngôn của Việt Nam đã có một cơ sở pháp lí chính nghĩa rất vững vàng. Cách trích dẫn ấy còn là chiến thuật sắc bén của HCM_ khéo léo và kiên quyết. Khéo léo, vì  HCM tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp , người Mĩ. Kiên quyết vì HCM đã nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa của ngững cuộc cách mạng vĩ đại.  Ngoài ra mở đầu như thế còn có ý nghĩa gợi lên niềm tự hào dân tộc to lớn. Bản tuyên ngôn nước ta đặt ngang hàng với hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn: Pháp và Mĩ, tức là đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba quốc gia. Thật đáng tự hào , vì cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết nhiệm vụ của cả cách mạng Mĩ(1776) và cách mạng Pháp(1791). Bản tuyên ngôn đã nêu rõ : “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập “, đó là nhiệm vụ của cách mạng Mĩ: đấu tranh giải phóng dân tộc; và “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế đọ Dân chủ Cộng hòa”, đó là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp. Từ những lí lẽ trên, HCM trịnh
trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Quyền tự do, độc lập ấy phù hợp với “lẽ phải không ai chối cãi được”, là kết quả đấu tranh xương máu, bền bỉ của biết bao con người suốt gần 100 năm. HCM đã khẳng định: “sự thật đã thành nước tự do, độc lập”. Nghĩa là, nền độc lập không phải cái ta cần phải có, mà nó đã là sự thật, ta đã có, đã giành được. Từ nay nước Việt Nam độc lập tự do đã được cả thế giới công nhận. Song do chính quyền cách mạng còn rất non trẻ đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất, vì thế HCM không thể nói như Nguyễn trãi xưa:  “Xã tắc từ đây vững bền  Giang sơn từ đây đổi mới”. Bởi, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta khi ấy là bọn thực dân Pháp còn đang âm mưuntái chiếm nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Theo tư tưởng HCM cho rằng : “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng nhất, là tài sản quý giá nhất mà mỗi dân tộc cần giành và giữ lấy”. Trong phần tuyên ngôn chính thức này, một lần nữa HCM lại sử dụng cách lập luận hết sức chặt chẽ, sắc sảo của thể loại văn chính luận. Bản tuyên ngôn chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó nêu cao tinh thần, khát vọng tự do, hạnh phúc cảu dân tộc Việt Nam, đánh dấu trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam. Một đề tài liên quan: Phân tích nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn độc lập Bài số 3 Hồ Chí Minh là một vĩ lãnh tụ thiên tài của đất nước Việt Nam, những tác phẩm của ông đều mang giá trị sâu sắc của một bài văn chính luận mẫu mực, bởi bác là người viết ra với tư cách là một người luôn ý thức được những bài văn của mình, giá trị của những bài văn bác viết mang đậm giá trị to lớn của những lời tố cáo đanh thép đối với kẻ thù, và bài Tuyên Ngôn độc lập là một bài mang đậm chuẩn mực giá trị trong phong cách viết của bác. Tuyên Ngôn độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực khi bác luôn ý thức được trong bài là viết ra để cho dân tộc, đây là một bằng chứng thép để tố cáo tội ác của kẻ thù, những năm tháng kháng chiến gian khổ, giờ đây nhân dân Việt Nam đã được những giây phút tự do để có thể mang lại những khoảng không gian hòa bình cho dân tộc Việt Nam. Đây là một vũ khí sắc bén để chúng ta đối phó với kẻ thù. Trong bầu không khí trang trọng của tiết trời mùa thu ngày mùng 2 tháng 9 bác đã độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bài văn của Hồ Chí Minh mang đậm tính chất của một bài văn chính luận bởi vì những lý lẽ mà người viết ra rất xác thực, văn phong ngắn gọn và mang đậm giá trị về sự sống và các tính chất cho mỗi con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy điều đó qua cách dẫn dắt và nó ăn sâu vào trong tâm trí của mỗi người Việt Nam. Trong bài bác xác định rõ đối tượng viết của mình là đồng bào dân tộc, mở đầu bài văn này, bác đã dùng những từ mang đậm tính chất rằng đối tượng ở đây chắc chắn phải là nhân dân: Hỡi đồng bào cả nước, mục đích của bản tuyên ngôn này là tuyên bố lý do, nhưng khi nhìn sâu vào trong bài này chúng ta có thể thấy đối tượng ở đây không chỉ là nhân dân Việt Nam mà còn dành cho nhiều người trên khắp thế giới, khi trong bản tuyên ngôn của Việt Nam cũng chưa đựng những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp và Mĩ, khi đối với hai cường quốc đầu xỏ này thì việc trích dẫn vào nó mang một ý nghĩa to cáo mạnh mẽ. Tuyên ngôn dân quyền là nhắc đến việc bình đẳng, bác ái, mỗi người đều có thể thấy rằng việc trích dẫn này có ý nghĩa rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc có sự tự do cao và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Trong bản tuyên ngôn độc lập sự tự do và đề cao tư tưởng nhân dân luôn luôn được chú trọng, những điều đó mang đậm giá trị cốt lõi trong bản tuyên ngôn. Nhân dân Việt Nam đã
trải qua một thời kì gian nan khi phải đối đầu với những kẻ thù sừng xỏ, và cường quốc, nhưng điều đó không ảnh hưởng lớn đến mỗi người, khi bản tuyên ngôn đã thấm đẫm mà mang giá trị sống mạnh mẽ cho mỗi người. Bác đã dẫn chứng ra rất nhiều điều đáng quý và nó nhằm nêu lại những năm tháng đấu tranh gian nan để có thể dành được độc lập tự do cho dân tộc, mỗi chúng ta đều có quyền hành như nhau, và ai ai cũng đều có quyền bình đẳng đúng như trong tuyên ngôn đã khẳng định. Ngoài mang ý nghĩa khẳng định nền độc lập của dân tộc thì bản tuyên ngôn cũng mang đậm giá trị tố cáo tội ác của kẻ thù. Với những lý lẽ rất thuyết phục nó đã mang đậm giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam, những lời lẽ mang tính đanh thép đó đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi con người. Bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam đã mang đậm giá trị nhân văn và tố cáo tội ác của kẻ thù những điều đó để lại cho mỗi người những niềm tin vững chắc về một nền độc lập khi mỗi chúng ta đều có thể làm nên những điều có giá trị và ý nghĩa nhất. Bác Hồ đã khẳng định điều đó qua bản tuyên ngôn độc lập, những giá trị về niềm tin yêu thương và mang đậm giá trị khẳng định một nền độc lập cho dân tộc Việt Nam. Bản tuyên ngôn độc lập đã khẳng định được sự đanh thép trong mỗi người, những lời lẽ thuyết phục và mang giá trị đã khẳng định được sự sống còn và mang đậm niềm yêu thương cho mỗi người Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có thể được coi như một bài văn chính luận sâu sắc bởi lý lẽ và văn phong xuất hiện trong tác phẩm này, đậm giá trị và mang nhiều những am hưởng cao của cuộc sống con người. Tuyên ngôn độc lập là một bài văn mang đậm giá trị tố cáo và lý lẽ sâu sắc trong cuộc đời của mỗi người, giá trị của nó không chỉ để lại những nỗi nhớ mong và sự sâu sắc trong tâm hồn của mỗi con người, hạnh phúc nhân dân Việt Nam là có một bài học có giá trị và cốt lõi như của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập được coi như là một bài học có nhiều giá trị nhất cho mỗi con người, giá trị của nó để lại cho dân tộc mang sự tố cáo mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong mỗi con người. Mỗi chúng ta đều có thể thấy rằng giá trị của bản tuyên ngôn độc lập để lại cho dân tộc có ý nghĩa to lớn, bản tuyên ngôn độc lập mang đậm giá trị to lớn của dân tộc Việt Nam, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam đều có thể thấy đó là niềm yêu thương và sự tín nhiệm trong toàn thể dân tộc. Với những ngôn ngữ đậm chính luận, và sự kết hợp giữa chính trị và tư tưởng cốt lõi của dân tộc, nó đã phản ánh mạnh mẽ và sâu sắc nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bài văn này được viết lên không chỉ để cung cấp cho con người những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, mà nó còn mang đậm màu sắc về sự tố cáo, và sự cải tạo nhiều yếu tố mạnh mẽ của con người, biết bao nhiêu những hoàn cảnh bất hạnh và những giá trị đó đã cải tạo được sự sống và mang đậm chất nhân văn sâu sắc nhất cho mỗi người. Đối tượng của bài văn này được chủ tịch Hồ Chí Minh làm nên một cách rõ ràng và chi tiết nhất, những giá trị đó luôn luôn mang những nền tảng tinh thần, và sự sống còn của đất nước Việt Nam. Với việc luôn có trách nhiệm với tinh thần của người cầm bút bác đã khẳng định mạnh mẽ được giá trị về niềm tin, và sự uy nghiêm trong cuộc sống của mỗi con người. Và những điều mà bác Hồ khẳng định trong tác phẩm cũng luôn luôn khẳng định được một cách chi tiết và có ý nghĩa nhất: tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được… Những điều đó đã mang đậm tư tưởng cốt lõi trong tác phẩm của Hồ Chí Minh, người luôn luôn ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc và điều đó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống và tinh thần của mỗi con người, nên yêu thương và trân trọng những tư tưởng sống và tinh thần sống mạnh mẽ của dân tộc điều đó làm nên những trang sử sách vẻ vang, và mang đậm giá trị to lớn của cuộc sống này. Mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó qua cách viết khoa học và đậm giá trị của Người, biết yêu thương và luôn là người có trách nhiệm với cây bút của mình. Với lối
viết khoa học và đậm chất chính luận, bài tuyên Ngôn độc lập đã mang những tư tưởng to lớn cho dân tộc và để lại cho mỗi người những cảm xúc sâu sắc và đáng quý nhất. Văn mẫu tham khảo thêm: Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh -/- Trên đây là dàn ý và một số bài văn mẫu nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập lớp 12 mà em có thể tham khảo, đừng quên còn kho tài liệu văn mẫu 12 với chi tiết các bài học theo chương trình sách giáo khoa em nhé!
0 notes
junsau · 4 years
Photo
Tumblr media
5 bài học "vỡ lòng" để trở thành một freelancer thành công: Nghiêm khắc, kỷ luật và không được phá giá bản thân 
Mỗi freelancer đều giữ cho mình một “bí kíp” để thành công trong sự nghiệp của mình. Thị trường thuê ngoài luôn có vô vàn công việc cho bạn lựa chọn. Tuy nhiên, cuộc đua giữa một người vẽ được trả 500.000/1 bức hay 5.000.000/1 bức rất khắc nghiệt và phụ thuộc rất nhiều ở bản thân.
Tôi bắt đầu với sự nghiệp freelancer từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Freelancer - hiểu nôm na là những người làm ngoài, lao động tự do. Có những freelancer làm toàn thời gian, nghĩa là họ chỉ ở nhà và tìm kiếm công việc, làm bao nhiêu nhận tiền bấy nhiêu. Không ít người có một công việc vẫn ổn định nhưng vẫn tìm thêm việc freelance để làm, chủ yếu là buổi tối. Có vô vàn lý do cho con đường freelancer: Lương chính quá bèo, muốn đa dạng hóa sản phẩm, linh hoạt thời gian và không bị gò bó. Thị trường lao động tự do, đôi khi còn sôi động hơn mấy nhóm tìm việc toàn thời gian.
Tất nhiên, để thành công, bạn cần phải có những quy tắc riêng. Không phải mẫu freelancer thành công nhưng việc nghiêm khắc với bản thân trên con đường làm một freelancer khiến tôi đúc rút được vô số bài học.
Tumblr media
1. Không có mối quan hệ không có giá trị, chỉ là bạn chưa nhìn ra thôi. Hãy luôn duy trì tất cả mối quan hệ khi làm freelance.
Là một freelancer, bạn sẽ hiểu được hơn ai hết tầm quan trọng của việc “networking” - quan hệ, thiết lập các mạng lưới đồng sự, đối tác, kiểu như vậy. Khi làm việc fulltime, bạn có thể không thích làm với người này, chán khách kia thì cuối tháng vẫn “ting ting”. Dòng tiền đều đặn ấy cứ chảy về và bạn không phải lo tìm thêm đối tác này hay khách hàng mới kia.
Đời freelancer khác vậy, bạn nhận ra rằng những điều người ta cho rằng thảo mai chính là sự hoạt ngôn cần thiết để “kiếm miếng cơm”. Dù bất kể bạn đang nói chuyện với quản lý marketing của một công ty hay nhân viên account mới vào nghề của 1 agency, hãy nhớ rằng đó có thể là khách hàng tiềm năng của bạn trong tương lai. Chúng ta không có những con đường thăng tiến thẳng tắp như trong một công việc full-time; chính những va chạm, hợp tác với người này người kia trong thế giới freelancer sẽ giúp bạn ổn định về công việc. Có trời mới biết đứa bạn ghét năm nào giờ đã lên làm quản lý của một công ty quảng cáo còn cô nhân viên “quèn” ngày nào bạn chê bai giờ đã có trong tay mối sản xuất nội dung mà bao đám freelancer mơ trúng được.
Dân freelancer, đôi khi hơn nhau không ở kỹ năng công việc, cốt ở việc xây dựng mối quan hệ. Từ chối một cơ hội làm việc, bạn có thể mất đi rất nhiều những cơ hội khác. Thế giới truyền miệng của freelancer chắc chắn tinh vi hơn hẳn việc gọi điện thoại lại công ty cũ để kiểm tra sơ yếu lý lịch của một ứng viên.
Tumblr media
2. Nếu content là vua thì deadline là “thượng đế”
Đừng nói hay nói dở gì về bản thân, nếu một cái deadline không nộp đúng hạn, bạn đã mất điểm nghiêm trọng với người thuê ngoài rồi. Người ta không thuê một freelancer chỉ vì chất lượng công việc tốt mà điều mấu chốt là thời gian nhanh gọn, xử lý được khối lượng công việc lớn trong một thời gian chắc chắn là ngắn hơn các nhân viên fulltime. Chất lượng công việc rất quan trọng nhưng đảm bảo được đúng deadline là điều nhiều người cần nhất.
Với những freelancer mới bắt đầu vào nghề, cái khó là vừa đảm bảo được đúng chất lượng sản phẩm, vừa làm sao để trả được đúng deadline. Có những công việc như viết lách, thiết kế, đôi khi người ta có thể đổi chất lượng sản phẩm cho câu “tùy quan điểm mỗi người” nhưng deadline thì chẳng có quan điểm khác nhau gì hết, đúng giờ là phải trả. Bài học vỡ lòng về deadline, đơn giản vậy thôi mà nhiều người cũng không làm được.
Một chia sẻ nhỏ nữa là bạn có thể trả sản phẩm trước deadline để họ thấy rằng mình là người làm việc có trách nhiệm. Tuy nhiên cũng đừng gửi quá sớm, không nhiều người có thể nghĩ rằng bạn làm ẩu. Làm công việc tự do, bạn sẽ hiểu sự co kéo về thời gian, dù chỉ vài phút đến cả giờ, nó nhạy cảm và tinh tế thế nào.
Tumblr media
3. Đọc và không ngừng tìm hiểu kiến thức mới
Khi nhận sản phẩm đầu tiên cho việc viết bài quảng cáo về nhóm ngành hàng tiêu dùng, tôi đã nghĩ việc viết lách, xây dựng hình ảnh cho nó cũng khá đơn giản. Dần sau đó, có nhiều sản phẩm “khó nhằn” hơn như bất động sản, dược phẩm, thời trang. Thậm chí, tôi đã từng có nhận được đơn đặt hàng thiết kế cho băng vệ sinh hay dung dịch vệ sinh phụ nữ, còn tôi là nam giới. Vậy có nhận không? Có chứ, tất cả đều là tiền mà.
Bạn muốn công việc phát triển đa dạng thì càng phải đọc và tìm hiểu kiến thức mới, đặc biệt là những người làm trong mảng sáng tạo. Đừng nghĩ rằng có một giọng văn hay, cách hành văn hiện đại, tư duy thẩm mỹ tốt là có được sự hài lòng của khách hàng nếu kiến thức về sản phẩm của bạn rỗng tuếch. Làm freelancer giống như làm “dâu trăm họ” vậy, mà đã là dâu trăm họ thì mỗi họ một tính cách, một đặc điểm, nếp sống, văn hóa - việc của bạn là phải am hiểu những điều đó để làm một cô dâu tốt.
Nhiều bạn freelancer nghĩ rằng mình có kỹ năng và kinh nghiệm là giỏi rồi. Anh bạn tôi cũng copywriter đã từng “điếng người” khi nhận được phản hồi của khách hàng sau một bài viết về trí thông minh nhân tạo: “Người viết không có kiến thức gì về ngành IT cả”. Tất nhiên, anh ấy không biết gì thật và những con chữ hoa mỹ cũng không thể nào che được sự yếu kém trong kiến thức dù đã làm nghề cả chục năm.
Tumblr media
4. Không được bán phá giá bản thân
Hiểu được bản thân đã khó, hiểu được vị thế của mình trong một nghề nghiệp lại càng khó hơn. Thế giới freelance đôi khi như một cuộc đấu giá ngược, người nào ra được mức giá thấp nhất sẽ chiến thắng trong một phiên tìm freelancer. Nhiều người đứng giữa lằn ranh: Chọn hạ giá để lấy được “job” hay giữ nguyên giá của bản thân và chờ công việc phù hợp?
Những người đi thuê ngoài, họ hiểu hơn ai hết việc “tiền ít thì không thể có cái gì thơm cả” - chất lượng song hành cùng chi phí. Tuy nhiên, vì nhiều người sẵn sàng đẩy giá trị của sản phẩm do mình làm ra xuống nên mới có những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Đôi khi, sự cân nhắc giảm giá có thể đến từ yếu tố người quen (lần đầu), làm thử, một hợp đồng rất lớn… nhưng cũng phải cho người thuê biết, giá tôi không rẻ và đổi lại cho anh chị chất lượng sản phẩm tuyệt vời.
Đừng bán phá giá bản thân để rồi đến lúc, chúng ta sẽ phải hoài nghi về năng lực của chính mình. Là một freelancer giỏi, không nên lao vào cuộc đua giảm giá, hãy lao vào cuộc đua hoàn thiện bản thân và khẳng định chất lượng sản phẩm.
Tumblr media
5. Đừng đi quá giới hạn chịu đựng
Nhiều người làm freelancer một thời gian bắt đầu thấy uể oải khi cuộc sống bị thay đổi: Có người phải thức đêm hôm, cường độ làm việc dày, lịch sinh hoạt hoàn toàn bị xáo trộn. Freelancer, tích cực thì là linh hoạt và không gò bó, nhưng tiêu cực là bạn luôn phải sẵn sàng cho khách hàng bất cứ sáng trưa hay đêm khuya. Nhiều bạn trẻ đang vừa bán sức, bán kiến thức cho công việc freelancer mà còn đang bán rẻ tuổi trẻ của mình với thời gian làm việc freelance còn nhiều hơn thời gian nghỉ ngơi.
Không ít người chắc cũng từng như tôi, khách ốp một deadline vào sáng sớm nhưng tối hôm trước mới gửi kèm lời nhắn “em cố giúp chị nhé” hay “thiết kế cần duyệt gấp lên bài cho kịp” dù đã là 12 giờ đêm. Chúng ta cứ lao đi theo công việc, bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ “làm nhiều hưởng nhiều” nên cứ ôm thêm bao nhiêu nữa bất chấp sức khỏe.
Làm freelance cũng cần biết giới hạn của chính mình, sức khỏe, tinh thần và quan trọng là khả năng sáng tạo. Bạn không thể đốt hết ngần đó thứ để rồi ngã gục trong mệt mỏi và nhận ra rằng số tiền công việc freelance kiếm được không lại tiền thuốc thang hay đánh đổi niềm vui gia đình. Một freelancer giỏi sẽ biết làm sao để kiếm được số tiền nhiều nhất trong khoảng thời gian tối ưu nhất, vừa cân đối cuộc sống cá nhân, công việc freelance và cả công việc toàn thời gian.
Suy cho cùng, “làm freelance” cũng không phải làm một cái gì cụ thể. Thế giới công việc thuê ngoài đã phát triển đa dạng tới mức chính những freelancer cũng phải ngạc nhiên khi mọi thứ trở nên chuyên nghiệp, chuẩn chỉ, nghiêm túc và đôi khi khó khăn hơn cả công việc chính. Nếu không tự đặt cho bản thân những nguyên tắc để đi theo, chắc chắn sẽ rất khó cho bạn thành công với nghề, bất cứ nghề gì.
theo minh đức | junsau | kenh14
132 notes · View notes
ca--nho · 4 years
Text
Bình luận hay nhất bạn từng đọc?
1. Tại một buổi hôn lễ, bé gái hỏi mẹ:
"Tại sao cô dâu lại khóc vậy mẹ?"
Người mẹ nói: "Có thể là vì cô ấy cảm thấy hạnh phúc. Cũng có thể là vì cô ấy không thể gả cho người mà cô ấy muốn gả năm 17 tuổi."
Tâm sự dằng dặc mấy ai hiểu, quay đầu lại sợ chỉ làm chính mình cảm động.
2. Lúc nhỏ muốn làm anh hùng
Muốn thành siêu nhân
Muốn thành người rất lợi hại, được ánh sáng vây quanh.
Sau này sao
Sau này chỉ muốn làm một người bình thường
Nuôi một cô mèo, một chú cún
Có một căn nhà nhỏ, có một người yêu thương.
3. Một đứa trẻ hỏi mẹ tình yêu đồng giới là gì. Người mẹ giải thích: "Nam nữ giống như hai cực của nam châm. Hầu hết đều là trái dấu hút nhau. Nhưng cũng có cùng dấu tình yêu. Bọn họ cần khắc phục lực cản rất rất lớn, mới có thể ôm chặt một chỗ."
4. Tướng quân vẻ mặt mệt mỏi bước xuống ngựa, hỏi bên đường trà nương (người phụ nữ bán trà): "Đại thẩm, thẩm có biết gần đây có một cô nương bán trà giọng nói rất êm không?"
Trà nương cười: "Nàng ta sao? Gả cho một người rất tốt, không lo cơm Áo, nghe nói sống rất tốt."
Tướng quân nghe, thở dài, từ trong lòng lấy ra một chiếc khăn tay.
"Thẩm giúp ta đưa cho nàng chiếc khăn tay này, đa tạ trà và điểm tâm ngày trước."
Mặt trời lặn, bóng ngựa dần xa, trà nương mới cẩn thận đem khăn cột vào cổ tay, hướng thực khách hét to: "Lão nương hôm nay rất vui, giảm nửa giá tất cả trà bánh."
5. Ba tôi đi ra ngoài xã giao, mỗi lần uống say trở về nhà đều hỏi mẹ tôi có yêu ông không. Có lần mẹ giận ba về trễ, nói không yêu, lúc đó ba tôi bốn mấy tuổi ngồi trên đất khóc như đứa trẻ, mẹ đi qua vỗ lưng, ba lập tức bổ vào lòng mà làm nũng. Tôi vẫn luôn tin tưởng tình yêu, chỉ là tôi không tin tưởng bản thân có thể may mắn nhường ấy để có được chúng.
6. Một hôm, tôi hỏi một bé trai tình yêu là gì. Thằng bé nói yêu là cún con sẽ liếm tay chú. Tôi bật cười. Thằng bé nói tiếp: dù sao chú cũng không cần.
7. Giúp cậu đánh nhau bị phạt, giúp cậu theo đuổi hoa hậu trường, giúp cậu ăn gian trong kì thi cấp 4, giúp cậu xếp hàng cả đêm để mua vé xe về nhưng lại nói với cậu mua qua tay một người bạn đồng hương.
Cuối cùng cậu kết hôn. Tôi đưa cậu phong hồng bao dày nhất, cười nói với cậu: Em dâu thật xinh. Buổi tối cậu uống say, nghe thấy cậu ôm vợ nói rằng đó là tên biến thái, thích đàn ông, vẫn luôn tốt với anh. Rất muốn nói với cậu, tôi chỉ là thích cậu thôi, tôi không phải tên biến thái...
8. Còn nhớ có một quảng cáo, người đàn ông đưa cha bị alzheimer đi ăn bánh chẻo, người cha thò tay lấy bánh nhét vào trong túi áo. Người đàn ông giận nói: "Cha làm cái gì vậy?"
"Con trai tôi... thích ăn."
Cuối màn hình có một dòng chữ: Ông ấy quên hết mọi thứ trước kia, lại chưa từng quên việc yêu bạn.
9. "Em muốn nuôi một con cún, đặt tên anh cho nó. Mỗi ngày đá.nh nó một trận, coi như t.rả t.hù anh."
"Cún có làm sai gì đâu, sao em lại làm tổn thương nó?"
"Vậy em đã làm gì sai?"
10. Người khác vừa hơi quan tâm hỏi han bạn một chút, bạn đã dốc hết nỗi lòng. Bạn nghĩ đây là thẳng thắn, thật ra đây là cô độc.
11. Cậu ấy không thích tôi, lại sở hữu mọi dáng vẻ mà tôi thích, tức chết tôi mà.
12. Chia tay được một năm, tôi vẫn độc thân. Cô ấy gửi cho tôi một tin nhắn: "Từng centimet da thịt anh nhìn qua, vuốt ve qua, chỉ là anh lại không nhìn thấy em mặc váy cưới."
Tối hôm đó tôi ôm điện thoại cả đêm nhìn tin nhắn đó, hút hết một bao thuốc, cuối cùng trả lời: "Em nhất đinhh phải sống tốt hơn anh, chỉ là đừng cho anh biết nữa."
13. Thi 0 điểm không buồn bằng thi 4,9 điểm. Đau khổ nhất không phải là chưa từng có được, mà là chỉ kém một chút nữa.
14. Thật ra thích một người giống như thích núi Phú Sĩ vậy. Bạn có thể nhìn thấy nó, nhưng không thể di chuyển. Bạn có cách nào đả động một ngọn núi Phú Sĩ? Đáp án là bạn tự đi qua. Tình yêu cũng giống vậy, đi qua là thoả mãn rồi.
15. Hay là anh xoá bạn em đi, nếu không em cứ inbox nói chuyện với anh mãi.
16. Sự yếu mềm và kiên cường của con người luôn vượt qua tưởng tượng của bản thân. Có lúc, tôi có thể mềm yếu đến mức vì một câu nói mà rơi lệ, có lúc, lại phát hiện bản thân đã cắn răng vượt qua cả một chặng đường dài.
17. Hi vọng em có thể ngủ sớm. Ban ngày có công việc cần bận rộn, buổi tối có người cần nhớ mong.
18. Nếu anh chết, em nguyện thay anh đi chết, nhưng anh sống. Em không nguyện ý nhìn thấy anh, em sẽ tìm một người khác, một chút cũng không giống anh.
19. Nếu em xinh hơn một chút, mỗi lúc trộm ngắm anh, ánh mắt em sẽ không ảm đạm như vậy rồi.
20. Chẳng biết từ lúc nào em bắt đầu nói năng khép nép, cẩn thận với anh. Em nhớ lúc trước em rất hung hăng cơ mà.
21. Tớ hối hận ngày này tám năm trước bởi vì một xâu kẹo hồ lô mà cãi nhau với cậu. Nếu tớ biết đó là lần cuối cậu ăn hồ lô, tớ nhất định sẽ không nỡ mắng cậu.
22. Cậu bé ở trường mẫu giáo đem cây kẹo mút ăn dở đưa cho một cô bé. Cô bé cầm kẹo, hỏi: "Nếu tớ ăn xong lỡ có em bé thì sao?" Cậu bé hung hăng nói: "Sinh chứ sao, cả ba chúng ta cùng đi mẫu giáo."
Đây là câu nói trách nhiệm nhất tôi từng nghe.
23. Tôi tại năm tháng không có năng lực nhất, lại gặp được người muốn chăm sóc cả đời.
24. Cá tháng Tư gửi 200 tin nhắn: "Tôi yêu bạn" nhận được 199 câu ha ha cùng một câu: "Mẹ cũng yêu con."
25. Làm một người lạc quan trong mắt người khác có lẽ chính là, bạn treo cổ sắp chết đến nơi, người ta còn nghĩ rằng bạn đang chơi đánh đu.
26. Lúc tiễn con gái về nhà chồng, người cha nói: "Con gái, nhất định phải tôn trọng chồng con, thậm chí có thể sùng bái cậu ta. Nhưng con phải nhớ, những chuyện mâu thuẫn hay không vui giữa hai con đừng kể cho cha, bởi vì, cuối cùng con sẽ tha thứ cho cậu ta, còn cha thì không."
27. Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì trong nhà thúc giục.
Cô ấy nói cô ấy kết hôn rồi, bởi vì đối phương có nhà có xe.
Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì đến tuổi.
Cô ấy nói cô ấy kết hôn rồi, bởi vì trong nhà giới thiệu.
Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì có con.
...
Nếu có một ngày tôi kết hôn, tôi chỉ hi vọng đó là bởi vì yêu.
28. Lúc nhỏ xem Tây Du Ký, có một đoạn viết Tây Lương nữ vương lần đầu gặp Đường Tăng, nói sư đồ bọn họ bốn người đứng dưới điện, ba người kia mơ hồ, trong mắt nàng chỉ nhìn chàng ấy. Cà sa đỏ thắm lấp lánh toả sáng cũng không giấu được khuôn mặt chàng. Rất lâu sau này, đều không tìm được một "nhất kiến chung tình" nào đẹp hơn.
29. Em ăn hết hai quả dưa hấu cũng không đợi được tin nhắn trả lời của anh. Em không nghĩ rằng bởi anh không đủ yêu em, em chỉ nghĩ rằng tại quả dưa này không đủ lớn.
30. Nếu bạn làm mất một chiếc iphone 6, mẹ bạn biết lại mua cho bạn chiếc iphone 7, bạn vẫn rất vui. Nếu bạn vừa chia tay, nhưng người bạn ái mộ lâu nay đột nhiên tỏ tình, bạn vẫn không kìm nén được mừng trong lòng. Thật ra, mọi người đều không sợ hãi mất đi, mà họ sợ hãi mất đi rồi sẽ không tìm được một thứ tốt hơn có thể thay thế.
Ngôn Tình Thanh Xuân
22 notes · View notes
maygionganphuong · 4 years
Text
Bình luận hay nhất bạn từng đọc.
1. Tại một buổi hôn lễ, bé gái hỏi mẹ:
“Tại sao cô dâu lại khóc vậy mẹ?”
Người mẹ nói: “Có thể là vì cô ấy cảm thấy hạnh phúc. Cũng có thể là vì cô ấy không thể gả cho người mà cô ấy muốn gả năm 17 tuổi.”
Tâm sự dằng dặc mấy ai hiểu, quay đầu lại sợ chỉ làm chính mình cảm động.
2. Lúc nhỏ muốn làm anh hùng
Muốn thành siêu nhân
Muốn thành người rất lợi hại, được ánh sáng vây quanh.
Sau này sao
Sau này chỉ muốn làm một người bình thường
Nuôi một cô mèo, một chú cún
Có một căn nhà nhỏ, có một người yêu thương.
3. Một đứa trẻ hỏi mẹ tình yêu đồng giới là gì. Người mẹ giải thích: “Nam nữ giống như hai cực của nam châm. Hầu hết đều là trái dấu hút nhau. Nhưng cũng có cùng dấu tình yêu. Bọn họ cần khắc phục lực cản rất rất lớn, mới có thể ôm chặt một chỗ.”
4. Tướng quân vẻ mặt mệt mỏi bước xuống ngựa, hỏi bên đường trà nương (người phụ nữ bán trà): “Đại thẩm, thẩm có biết gần đây có một cô nương bán trà giọng nói rất êm không?”
Trà nương cười: “Nàng ta sao? Gả cho một người rất tốt, không lo cơm Áo, nghe nói sống rất tốt.”
Tướng quân nghe, thở dài, từ trong lòng lấy ra một chiếc khăn tay.
“Thẩm giúp ta đưa cho nàng chiếc khăn tay này, đa tạ trà và điểm tâm ngày trước.”
Mặt trời lặn, bóng ngựa dần xa, trà nương mới cẩn thận đem khăn cột vào cổ tay, hướng thực khách hét to: “Lão nương hôm nay rất vui, giảm nửa giá tất cả trà bánh.”
5. Ba tôi đi ra ngoài xã giao, mỗi lần uống say trở về nhà đều hỏi mẹ tôi có yêu ông không. Có lần mẹ giận ba về trễ, nói không yêu, lúc đó ba tôi bốn mấy tuổi ngồi trên đất khóc như đứa trẻ, mẹ đi qua vỗ lưng, ba lập tức bổ vào lòng mà làm nũng. Tôi vẫn luôn tin tưởng tình yêu, chỉ là tôi không tin tưởng bản thân có thể may mắn nhường ấy để có được chúng.
6. Một hôm, tôi hỏi một bé trai tình yêu là gì. Thằng bé nói yêu là cún con sẽ liếm tay chú. Tôi bật cười. Thằng bé nói tiếp: dù sao chú cũng không cần.
7. Giúp cậu đánh nhau bị phạt, giúp cậu theo đuổi hoa hậu trường, giúp cậu ăn gian trong kì thi cấp 4, giúp cậu xếp hàng cả đêm để mua vé xe về nhưng lại nói với cậu mua qua tay một người bạn đồng hương.
Cuối cùng cậu kết hôn. Tôi đưa cậu phong hồng bao dày nhất, cười nói với cậu: Em dâu thật xinh. Buổi tối cậu uống say, nghe thấy cậu ôm vợ nói rằng đó là tên biến thái, thích đàn ông, vẫn luôn tốt với anh. Rất muốn nói với cậu, tôi chỉ là thích cậu thôi, tôi không phải tên biến thái…
8. Còn nhớ có một quảng cáo, người đàn ông đưa cha bị alzheimer đi ăn bánh chẻo, người cha thò tay lấy bánh nhét vào trong túi áo. Người đàn ông giận nói: “Cha làm cái gì vậy?”
“Con trai tôi… thích ăn.”
Cuối màn hình có một dòng chữ: Ông ấy quên hết mọi thứ trước kia, lại chưa từng quên việc yêu bạn.
9. “Em muốn nuôi một con cún, đặt tên anh cho nó. Mỗi ngày đánh nó một trận, coi như trả thù anh.”
“Cún có làm sai gì đâu, sao em lại làm tổn thương nó?”
“Vậy em đã làm gì sai?”
10. Người khác vừa hơi quan tâm hỏi han bạn một chút, bạn đã dốc hết nỗi lòng. Bạn nghĩ đây là thẳng thắn, thật ra đây là cô độc.
11. Cậu ấy không thích tôi, lại sở hữu mọi dáng vẻ mà tôi thích, tức chết tôi mà.
12. Chia tay được một năm, tôi vẫn độc thân. Cô ấy gửi cho tôi một tin nhắn: “Từng centimet da thịt anh nhìn qua, vuốt ve qua, chỉ là anh lại không nhìn thấy em mặc váy cưới.”
Tối hôm đó tôi ôm điện thoại cả đêm nhìn tin nhắn đó, hút hết một bao thuốc, cuối cùng trả lời: “Em nhất định phải sống tốt hơn anh, chỉ là đừng cho anh biết nữa.”
13. Thi 0 điểm không buồn bằng thi 4,9 điểm. Đau khổ nhất không phải là chưa từng có được, mà là chỉ kém một chút nữa.
14. Thật ra thích một người giống như thích núi Phú Sĩ vậy. Bạn có thể nhìn thấy nó, nhưng không thể di chuyển. Bạn có cách nào đả động một ngọn núi Phú Sĩ? Đáp án là bạn tự đi qua. Tình yêu cũng giống vậy, đi là là thoả mãn rồi.
15. Hay là anh xoá bạn em đi, nếu không em cứ inbox nói chuyện với anh mãi.
16. Sự yếu mềm và kiên cường của con người luôn vượt qua tưởng tượng của bản thân. Có lúc, tôi có thể mềm yếu đến mức vì một câu nói mà rơi lệ, có lúc, lại phát hiện bản thân đã cắn răng vượt qua cả một chặng đường dài.
17. Hi vọng em có thể ngủ sớm. Ban ngày có công việc cần bận rộn, buổi tối có người cần nhớ mong.
18. Nếu anh chết, em nguyện thay anh đi chết, nhưng anh sống. Em không nguyện ý nhìn thấy anh, em sẽ tìm một người khác, một chút cũng không giống anh.
19. Nếu em xinh hơn một chút, mỗi lúc trộm ngắm anh, ánh mắt em sẽ không ảm đạm như vậy rồi.
20. Chẳng biết từ lúc nào em bắt đầu nói năng khép nép, cẩn thận với anh. Em nhớ lúc trước em rất hung hăng cơ mà.
21. Tớ hối hận ngày này tám năm trước bởi vì một xâu kẹo hồ lô mà cãi nhau với cậu. Nếu tớ biết đó là lần cuối cậu ăn hồ lô, tớ nhất định sẽ không nỡ mắng cậu.
22. Cậu bé ở trường mẫu giáo đem cây kẹo mút ăn dở đưa cho một cô bé. Cô bé cầm kẹo, hỏi: “Nếu tớ ăn xong lỡ có em bé thì sao?” Cậu bé hung hăng nói: “Sinh chứ sao, cả ba chúng ta cùng đi mẫu giáo.”
Đây là câu nói trách nhiệm nhất tôi từng nghe.
23. Tôi tại năm tháng không có năng lực nhất, lại gặp được người muốn chăm sóc cả đời.
24. Cá tháng Tư gửi 200 tin nhắn: “Tôi yêu bạn” nhận được 199 câu ha ha cùng một câu: “Mẹ cũng yêu con.”
25. Làm một người lạc quan trong mắt người khác có lẽ chính là, bạn treo cổ sắp chết đến nơi, người ta còn nghĩ rằng bạn đang chơi đánh đu.
26. Lúc tiễn con gái về nhà chồng, người cha nói: “Con gái, nhất định phải tôn trọng chồng con, thậm chí có thể sùng bái cậu ta. Nhưng con phải nhớ, những chuyện mâu thuẫn hay không vui giữa hai con đừng kể cho cha, bởi vì, cuối cùng con sẽ tha thứ cho cậu ta, còn cha thì không.”
27. Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì trong nhà thúc giục.
Cô ấy nói cô ấy kết hôn rồi, bởi vì đối phương có nhà có xe.
Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì đến tuổi.
Cô ấy nói cô ấy kết hôn rồi, bởi vì trong nhà giới thiệu.
Anh ấy nói anh ấy kết hôn rồi, bởi vì có con.
Nếu có một ngày tôi kết hôn, tôi chỉ hi vọng đó là bởi vì yêu.
28. Lúc nhỏ xem Tây Du Ký, có một đoạn viết Tây Lương nữ vương lần đầu gặp Đường Tăng, nói sư đồ bọn họ bốn người đứng dưới điện, ba người kia mơ hồ, trong mắt nàng chỉ nhìn chàng ấy. Cà sa đỏ thắm lấp lánh toả sáng cũng không giấu được khuôn mặt chàng. Rất lâu sau này, đều không tìm được một “nhất kiến chung tình” nào đẹp hơn.
29. Em ăn hết hai quả dưa hấu cũng không đợi được tin nhắn trả lời của anh. Em không nghĩ rằng bởi anh không đủ yêu em, em chỉ nghĩ rằng tại quả dưa này không đủ lớn.
30. Nếu bạn làm mất một chiếc iphone 6, mẹ bạn biết lại mua cho bạn chiếc iphone 7, bạn vẫn rất vui. Nếu bạn vừa chia tay, nhưng người bạn ái mộ lâu nay đột nhiên tỏ tình, bạn vẫn không kìm nén được mừng trong lòng. Thật ra, mọi người đều không sợ hãi mất đi, mà họ sợ hãi mất đi rồi sẽ không tìm được một thứ tốt hơn có thể thay thế.
• Cre: Weibo
• Dịch: Linh Lung Tháp
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
8 notes · View notes
gacxepnhasu · 5 years
Text
Tumblr media Tumblr media
Nếu bạn đã từng tiếp xúc với nhiều người đến từ các nền văn hóa hoặc quốc tịch khác nhau, bạn sẽ thấy được rằng đa phần người Việt Nam có lối tư duy khá hời hợt, thiếu chiều sâu. Không kể đến những người thuộc tầng lớp lao động bình dân ít học, những người được xem là trí thức có trình độ đại học trở lên cũng rất nông cạn hời hợt nếu xét với những người cùng tầng lớp ở những dân tộc khác. Đừng vội nổi nóng hay tự ái khi tôi nhận xét như vậy. Hãy đọc kỹ bài viết dưới đây để xem mình có những đặc điểm của một người hời hợt hay không nhé? Mười hai đặc điểm của một người hời hợt: 1. Có hiểu biết nông cạn và sơ sài về một vấn đề: Các bạn trẻ bây giờ hiếm có ai hiểu một cách thấu đáo về một vấn đề nào. Tôi nhiều lần cảm thấy rất bất ngờ vì có những kiến thức tưởng chừng rất phổ thông, rất cơ bản các bạn đều không biết hoặc hiểu biết rất sơ sài. Nếu bị bắt buộc phải tìm hiểu thì các bạn trẻ thường làm qua loa cho có, chứ không hề đào sâu vào. Họ thường có khuynh hướng chọn những gì ngắn gọn và sợ đọc dài. Chính vì tính hời hợt qua loa này mà rất nhiều người chỉ cần đọc tiêu đề của một bài báo thôi đã vào phán như mình hiểu hết mọi chuyện. 2. Không có hứng thú hoặc sự tò mò đối với kiến thức mới lạ: Kiến thức là vô hạn nên chúng ta chỉ có thể biết nhiều hoặc biết ít chứ không thể nào biết hết được mọi việc. Tuy nhiên con người chỉ học được và tiến bộ khi có sự tò mò và hứng thú với những điều chưa biết. Khi con người trở nên thờ ơ và không hề có đam mê với kiến thức thì việc học chỉ đơn thuần là nhai lại những gì mà người khác cho mình chứ không có sự tìm tòi học hỏi. Các bạn học sinh sinh viên ngày nay dường như thiếu hẳn niềm đam mê với kiến thức. Tôi thường chia sẻ cách học tiếng Anh của mình lúc trẻ là luôn tò mò với những gì có tiếng Anh mà tôi bắt gặp ở bất cứ nơi đâu: một câu slogan trên bảng quảng cáo, một bao bì sản phẩm, một hướng dẫn bằng tiếng Anh ở nơi công cộng… nhưng hầu như rất ít học viên của tôi chịu để ý đến những điều này. Mỗi ngày tôi đều đọc rất nhiều về nhiều đề tài để tự nâng cao kiến thức của mình mà vẫn thấy mình còn quá nhiều điều chưa biết và muốn tìm hiểu. 3 . Lười suy luận, không thích thử thách: Khi phải đối diện với những vấn đề hóc búa cần suy luận nghiêm túc, phần lớn các bạn học viên của tôi thường đưa ra một câu trả lời ngẫu nhiên theo kiểu ăn may rồi chờ câu trả lời của tôi để ghi chép lại. Nhiều bạn luôn chuẩn bị câu trả lời: “Em không biết!” mỗi lẫn được hỏi tới như một phản xạ vô điều kiện bất kể câu hỏi đó dễ hay khó. Nhiều lúc tôi phải nửa đùa nửa thật nói rằng bạn không sợ lương tâm mình cắn rứt khi trả lời tôi rằng “em không biết” một cách nhanh chóng và dứt khoát như thế. Lười suy nghĩ là một thói quen giết chết khả năng tư duy của con người và biến họ thành những kẻ chỉ biết nghe lời người khác bất kể đúng sai. 4. Không có khả năng kết nối và tổng hợp thông tin: Những người hời hợt thường chỉ nhìn thấy những thứ nổi trên bề mặt mà ít khi nào chịu khó đào sâu vào những tầng dưới của một vấn đề. Chính vì vậy họ thường không nhận thức được những ẩn ý bên trong, không thấy được mối liên hệ giữa những vấn đề có liên quan, không áp dụng được những kiến thức cũ đã học vào thực tế và cũng không có khả năng khái quát hóa những điều cụ thể để rút ra một khái niệm chung. Ngược lại, khi học một khái niệm mang tính chất trừu tượng, họ không có khả năng tự mình liên tưởng đến những ví dụ cụ thể liên quan đến khái niệm đó. Nói một cách khác, những người hời hợt học một biết một, học hai biết hai chứ hiếm khi tự mình liên kết hay tổng hợp những kiến thức rời rạc đã học được. 5. Tranh luận theo cảm tính, ít khi thấy được tính logic của vấn đề: Thật đáng buồn là hầu hết các bạn sinh viên, thậm chí thạc sĩ hoặc đã ra đi làm đều không có khả năng trình bày hoặc lý giải vấn đề một cách có logic. Chính vì lười suy nghĩ và lười tra cứu tìm tòi, những luận điểm các bạn đưa ra thường rất ngây ngô, thiếu thực tế và đầy cảm tính như kiểu tư duy của các em học sinh tiểu học. Những lý do đưa ra thường rời rạc chắp vá, kiểu bất chợt nghĩ tới cái gì thì nói cái đó chứ không hề có sự sắp xếp hoặc liên kết chúng với nhau theo một thứ tự hợp lý. Nhiều lúc tôi tự hỏi những năm tháng học đại học đã dạy được cho sinh viên Việt Nam những kỹ năng gì hay thực sự đã giết chết những kỹ năng quan trọng nhất của một sinh viên? 6. Sợ nói đến những chủ đề “nhạy cảm”: Có rất nhiều bạn “trí thức trẻ” (tạm gọi là thế nếu chỉ dựa vào trình độ học vấn) rất ngại đụng chạm đến những vấn đề nghiêm túc hoặc nhạy cảm như kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học… vì những đề tài này rất nhức đầu. Có người còn rất tự hào khi tuyên bố mình không thích nói về chính trị hoặc quan tâm đến những chuyện “không phải của mình” mà chỉ quan tâm tới những gì liên quan tới công việc hiện tại là đủ. Nếu bạn chú ý nghe những câu chuyện của các cô cậu sinh viên thì mới thấy thế giới quan của họ thực sự nhỏ hẹp một cách đáng lo ngại. Câu chuyện của họ xoay quanh những việc chơi game, cua gái, cua trai, ăn gì, chơi đâu...thì không có gì nghiêm túc cả. Gần đây có một bạn trình độ thạc sĩ hỏi tôi BOT là cái gì, em nghe người ta nói man mán nhưng không hiểu lắm. Tôi hỏi nếu vậy tại sao em không tự mình tìm hiểu. Bạn đó cười cười không nói gì và tôi cũng không chắc là bạn có về tìm hiểu không nữa? 7. Thích theo những trào lưu mới nổi nhưng không bền: Hễ có trào lưu nào mới, bất kể là có ý nghĩa hay không thì những bạn trẻ đều theo một cách hăng say nhưng chỉ cần vài tuần khi có trend mới hơn thì họ lại chạy theo trend mới. Đây không phải là sự tò mò cầu tiến mà chỉ đơn thuần là sự hời hợt ham vui bên ngoài, cái gì hot, cái gì dễ thì mình theo nhưng nhanh chóng vứt bỏ nó để đi tìm một món đồ chơi mới vui hơn, lạ hơn. Còn cái gì cần phải tốn nhiều thời gian để tìm hiểu thì chắc chắn sẽ không có phần của các bạn. Điều này sẽ giết chết sự kiên nhẫn và lòng đam mê đối với một điều gì đó nghiêm túc, những đức tính rất cần thiết cho sự thành công lâu bền. 8. Tin theo những gì hợp ý mình bất kể tính xác thực : Khái niệm tìm hiểu thông tin đa chiều để kiểm chứng tính xác thực của thông tin mình nhận được dường như không hề tồn tại đối với rất nhiều người Việt Nam. Điển hình là trên facebook, rất nhiều người share hoặc viết những status mà chỉ cần đọc sơ qua là biết là fake news nhưng họ share bởi vì họ thích nội dung đó. Khi được nhắc nhở, có nhiều người tìm mọi cách cãi chày cãi cối hoặc công kích cá nhân để bảo vệ sự thiếu hiểu biết của mình. Chia sẻ thông tin là một điều tốt, nhưng chỉ chia sẻ những gì hợp ý mình mà thiếu kiểm chứng tính xác thực hoặc không đọc kỹ để tìm ra những điểm ngụy biện hoặc vô lý chứng tỏ sự hời hợt và lười tư duy của người chia sẻ. 9. Khả năng sử dụng ngôn ngữ kém: Muốn đánh giá khả năng tư duy của một người, hãy quan sát cách họ sử dụng ngôn ngữ nói và viết vì ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu rõ nét nhất của tư duy. Những người sâu sắc là những người có khuynh hướng sử dụng từ ngữ chính xác, cấu trúc câu gãy gọn và các thức biểu đạt hợp lý. Vì họ chú trọng đến hiệu quả của việc truyền tải thông tin của mình đến người nghe nên khi nói hoặc viết họ sẽ tìm cách để đối phương hiểu được thông điệp một cách rõ ràng, cụ thể và đúng đắn nhất. Họ không nói thừa và cũng không nói thiếu, không dùng những từ ngữ dễ gây hiểu lầm hoặc khó hiểu và điều chỉnh giọng nói của mình về âm lượng cũng như biểu cảm hợp lý. Khi viết họ sẽ chú ý đến cấu trúc câu, lỗi chính tả, cách sử dụng dấu câu, cách viết hoa và hiếm khi viết tắt. Ngược lại những người hời hợt thường không chú ý đến hiệu quả của việc truyền tải thông tin qua kênh nói và viết. Họ thường có khuynh hướng nói tắt nói gọn và hy vọng người nghe phải hiểu những gì mình không nói hoặc nói dài dòng lê thê những điều không quan trọng. Khi buộc phải phát biểu ý kiến, họ thường nói một cách miễn cưỡng, không đầu không đuôi với âm lượng chỉ đủ cho bản thân họ nghe khiến cho người đối thoại phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần hoặc đặt ra nhiều câu hỏi gợi ý nếu muốn nghe được câu trả lời hoàn chính. Khi viết, những người hời hợt thường viết sai chính tả những từ đơn giản, chấm phẩy hoặc viết hoa tùy tiện và thường hay viết tắt theo thói quen của mình. 10. Kém ngoại ngữ: Để học tốt một ngoại ngữ, bạn không thể hời hợt qua loa vì mỗi ngôn ngữ đều chứa đựng một logic riêng của nó. Học ngôn ngữ không đơn thuần là học thuộc mẫu câu, từ vựng hoặc công thức rồi lặp lại như cái máy mà phải học cách tư duy của ngôn ngữ đó. Tôi dạy tiếng Anh nhiều năm nên hiểu rất rõ sự qua loa và hời hợt trong cách tư duy của người Việt Nam khi học tiếng Anh. Nếu đổ lỗi hết cho chất lượng đào tạo tiếng Anh ở bậc phổ thông và đại học ở Việt Nam quá kém thì cũng không hẳn vì khi có điều kiện học nghiêm túc và hướng dẫn tận tình, đa số người Việt vẫn rất ẩu tả trong các phát âm, dùng thì, sử dụng danh từ theo số ít số nhiều….nói chung là đều là những lỗi rất đơn giản và rất dễ khắc phục nếu chịu chú ý. Có những lỗi rất cơ bản được tôi phân tích kỹ, cho rất nhiều ví dụ cụ thể nhưng sau đó thì các bạn học viên của tôi vẫn sai đúng những lỗi đó hết lần này tới lần khác. Điều này chứng tỏ rằng các bạn vẫn học tiếng Anh bằng tư duy của người Việt nên không có sự tiến bộ cho dù học rất lâu. 11. Trình độ thẩm mỹ thấp: Để cảm nhận được những giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật như văn học, âm nhạc, hội họa, điện ảnh hoặc kịch nghệ, người thưởng thức phải có một trình độ văn hóa và một độ tinh tế nhất định. Những người hời hợt không có chiều sâu sẽ không thích những tác phẩm đòi hỏi kiến thức cũng như trình độ để có thể cảm thụ được và thường có khuynh hướng chọn những gì đơn giản dễ dãi chủ yếu là để giải trí là chính. Và chính sự dễ dãi thiếu chiều sâu của những sản phẩm giải trí đó tác động ngược lại khiến cho người xem hoặc người nghe trở nên hời hợt và cảm tính hơn. Nhạc não tình, truyện và phim ngôn tình, các gameshow truyền hình là những thứ giết chết tư duy logic của con người hiệu quả nhất vì nó chỉ đánh vào cảm xúc thuần cảm tính chứ không đòi hỏi suy luận hoặc cảm thụ sâu sắc. 12. Không có tính sáng tạo: Để sáng tạo, con người cần có một nền tảng kiến thức sâu rộng về một hoặc nhiều lĩnh vực cùng với một trí tưởng tượng phong phú. Đồng thời một người sáng tạo là một người có tinh thần cầu toàn và kiên nhẫn rất cao. Đây là những đức tính những người hời hợt thiếu chiều sâu không có vì cái gì phải mất công mất sức mà không mang lại kết quả nhanh chóng cho họ đều khiến họ nản lòng và bỏ cuộc. Sinh viên học sinh Việt Nam học giỏi chủ yếu là học vẹt và rập khuôn chứ sáng tạo thì không thể vì kiến thức các bạn học chỉ là bề nổi và sự sáng tạo thì bị bóp chết từ trong trứng nước.
Tumblr media
Nói về nguyên nhân gây ra sự hời hợt của người Việt hiện nay, rất nhiều người nghĩ ngay rằng đây là hậu quả của một nền giáo dục tệ hại. Tôi không phủ nhận điều này vì nó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề. Tuy nhiên sẽ rất cảm tính và thiếu khách quan nếu chúng ta không truy nguyên những khía cạnh khác ảnh hưởng đến tính cách của một cộng đồng hay một dân tộc như nền tảng tư tuỏng triết học, tôn giáo, tập quán sinh hoạt, nghệ thuật và ngôn ngữ. Và quả thật là sẽ rất “hời hợt” khi tôi nói về nguyên nhân mà không đề cập đến những điều nói trên. Hôm nay tôi sẽ phân tích khía cạnh ngôn ngữ tiếng Việt vì ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy và nó ảnh hưởng ngược lại tư duy của người sử dụng ngôn ngữ. Những vấn đề khác tôi sẽ đề cập trong những bài viết sau. II. Sự hời hợt về ngôn ngữ Chắc có nhiều người sẽ nổi giận thậm chí sẽ kết tội tôi là bôi nhọ tiếng Việt khi tôi nói rằng tiếng Việt của chúng ta là một ngôn ngữ khá hời hợt về mặt tư duy. Tôi là một người có thể sử dụng lưu loát tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Hoa nên tôi luôn có sự so sánh và đối chiếu về ngôn ngữ của ba thứ tiếng trên. Đó là lý do tại sao tôi nhận thấy tiếng Việt so với cả tiếng Hán lẫn tiếng Anh đều không sâu sắc bằng. Chúng ta sử dụng nhiều từ Hán Việt nhưng không biết mặt chữ tượng hình mà chỉ dựa vào âm đọc được phiên âm bằng bảng chữ cái Latin nên việc hiểu sai hiểu lầm về nghĩa từ Hán Việt là chuyện hết sức đương nhiên. Ngược lại mặc dù chữ viết của chúng ta dựa trên bảng chữ cái Latin nhưng cấu trúc văn phạm và từ vựng của chúng ta không hề thuộc về nhóm ngôn ngữ trong ngữ hệ Latin. Điều đó dẫn tới tư duy về ngôn ngữ của chúng ta sẽ không có được sự logic cao như những ngôn ngữ sử dụng ngữ hệ Latin của Châu Âu. Như các bạn đã biết, chữ viết Việt Nam mà chúng ta đang dùng hay còn gọi là chữ quốc ngữ là một hình thức mà các giáo sĩ Bồ Đào Nha thế kỷ thứ 17 dùng để ký âm lại tiếng nói của người Việt bằng những mẫu tự trong bảng chữ cái tiếng Latin vì chữ Hán và chữ Nôm là một trở ngại lớn trong việc ghi chép và giảng Kinh Thánh. Điểm thuận lợi của chữ viết Latin là người học có thể ráp vần và phát âm những kí tự được ghép với nhau (chữ tượng thanh). Tuy nhiên điều bất cập của bản chữ cái tiếng Việt là chỉ thể hiện cách phát âm của một từ chứ không thể diễn tả được nghĩa của từ đó. Chữ Hán và chữ Nôm trước đó vốn là chữ tượng hình, mỗi ký hiệu sẽ có một ý nghĩa riêng của nó và khi ghép lại với nhau sẽ bổ sung cho nhau về mặt ngữ nghĩa. Do đó, sẽ có rất nhiều chữ viết hoàn toàn khác nhau và mang ý nghĩa khác nhau nhưng lại được đọc giống nhau. Tôi lấy một ví dụ là khi nói chữ “phong”, phần lớn người Việt đều sẽ nghĩ tới “gió”. Nhưng trong tiếng Hán Việt, có rất nhiều từ đọc là “phong” nhưng nghĩa và cách viết bằng Hán tự hoàn toàn khác nhau ví dụ như “phong” là “dán lại” trong từ “phong tỏa” hoặc “niêm phong”,”phong “ có nghĩa là “đầy đặn” trong từ “phong phú”, “phong” là “ban thưởng” như trong từ “sắc phong” hoặc “phong tước”, “phong” cũng có thể là “mũi nhọn” như trong tên của thủ lĩnh phong trào Dù Vàng Hong Kong “Hoàng Chi Phong”, “phong” cũng có thể là “con ong” (hoàng phong), “phong” có thể là “bệnh hủi”, “phong” cũng có nghĩa là “bị điên”, hay chữ “phong” trong tên của con tôi có nghĩa là “đỉnh núi” hoặc “phong” cũng có thể là “cây phong”. Nếu chỉ dựa trên âm đọc của mà không hiểu được cách viết chúng ta sẽ rất dễ dàng hiểu nhầm nghĩa của một từ. Rất nhiều lần tôi đã giải nghĩa cho bạn bè hoặc người thân hiểu rằng tên của con tôi không phải là “gió” mà là “đỉnh núi”. Đặt tên con là “Chính Phong” tôi mong muốn con mình lớn lên chính trực và hiên ngang như một đỉnh núi, không liên quan gì tới gió mây ở đây cả. Cũng nhiều lần tôi đọc những bài viết ca ngợi Hoàng Chi Phong và người viết ví von rằng “cậu thanh niên này là một làn gió mới mang đến dân chủ cho Hong Kong” và sự ví von này hoàn toàn sai vì chữ “phong” trong tên của Joshua Wong trong tiếng Hán có nghĩa là “mũi nhọn”. Điều này tạo nên một sự hời hợt trong tư duy của người Việt, nhất là khi dùng từ Hán Việt vì chỉ biết âm đọc nhưng không biết cách viết nên rất dễ dàng mặc định âm đọc đó với một nghĩa mà mình biết bất chấp nghĩa đó đúng hay sai. Có một lần tôi đọc trên facebook của một người dịch câu thơ “hoàng phong luyến hoa tâm” là “gió vàng vương vấn nhụy hoa” và tôi góp ý trong comment rằng “hoàng phong” theo tôi nghĩ là “ong vàng” chứ không phải “gió vàng” vì hình ảnh con ong vàng bay quanh nhụy hoa hút mật hợp lý hơn là “gió vàng”. Vì không có bản gốc chữ Hán mà chỉ có bản phiên âm Hán Việt nên rất khó có thể nói là tôi đúng hay người bạn đó đúng. Bạn thử nghĩ nếu những người dịch hoặc giảng giải từ Hán Việt có trình độ kém và lười tra cứu thì sẽ có rất nhiều trường hợp bị hiểu sai, bóp méo nghĩa hoặc thậm chí là dịch vô nghĩa. Một vấn đề nữa là nếu chỉ dựa vào cách phát âm, nghĩa của từ Hán Việt và từ thuần Việt sẽ dễ bị nhầm lẫn. Ví dụ từ “xán lạn” một từ ghép tiếng Hán hay được viết nhầm thành “sáng lạn” . Trong tiếng Hán “xán” có nghĩa là “rực rỡ, chói lọi” kết hợp với chữ “lạn” cũng là từ tiếng Hán có nghĩa là “ánh sáng của kim loại”. Còn “sáng” trong tiếng Hán có nghĩa là “chế tạo ra” (ví dụ như “sáng tạo”, “sáng kiến”, “sáng thế”). Nếu ghép vào chữ “lạn” thành “sáng lạn” thì cụm từ này vô nghĩa. Còn nếu ghép nghĩa thuần việt của từ “sáng” vào trong từ này thì càng không hợp lý vì một từ thuần Việt không thể ghép vào một từ Hán Việt như thế được. Cũng như từ “yếu điểm” hay bị hiểu lầm là “điểm yếu” thay vì “điểm quan trọng” (chữ “yếu” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là quan trọng như “trọng yếu”, “thiết yếu”, “tất yếu”). Còn nếu muốn nói là “điểm yếu” theo trật tự Hán Việt thì phải nói là “nhược điểm”. Một số từ để cho đọc thuận miệng đã bị đảo thứ tự lại thành ra sai nghĩa như “thủy chung” thường bị nói thành “chung thủy”. Đây là một cách nói sai hoàn toàn vì “thủy” có nghĩa là “bắt đầu” (thủy tổ, nguyên thủy) còn “chung” là “kết thúc” (chung kết, chung thân). “Thủy chung” có nghĩa là từ đầu tới cuối, còn nếu nói “chung thủy” thì có nghĩa là “từ cuối lên đầu”. Thật lòng mà nói, bài viết này của tôi không có ý đổ tội cho việc Latin hóa chữ Việt nhưng chữ viết hiện đại của chúng ta chỉ phiên âm chứ không thể hiện được nghĩa từ và không phải ai cũng điều kiện để tìm hiểu hoặc truy nguyên gốc từ Hán Việt nên việc dùng nhầm, dùng sai, ngộ nhận đã góp phần không nhỏ ảnh hưởng đến cách tư duy của chúng ta trong ngôn ngữ. Đó là chưa kể sau này khi những kẻ dốt nát thất học lên “cải cách” ngôn ngữ và giáo dục, sự hời hợt và nông cạn thể hiện rất rõ trong việc sử dụng từ ngữ. Những danh từ như “chất lượng”, “cá tính”, “ngoại hình” đều bị dùng như một tính từ. “Cá tính” nếu hiểu đúng nghĩa là tính cách riêng của một người nên cho dù bạn là người mạnh mẽ hay yếu đuối, nhu nhược hay quyết đoán thì bạn đều là người có cá tính, chỉ có điều là cá tính của bạn như thế nào mà thôi. Tương tự, một vật dù tốt hay xấu đều có “chất lượng” chứ không thể nào không có chất lượng. Mỗi lần tôi đi ngang những nơi đăng bản tuyển nhân viên nữ “có ngoại hình” tôi lại vừa cảm thấy buồn cười vừa bực mình. Đã là vật hữu hình thì ai mà chả có ngoại hình chứ có phải là ma đâu mà không có ngoại hình. Cách nói tùy tiện theo quán tính này không chỉ thể hiện trong lời ăn tiếng nói hằng ngày mà còn xuất hiện trong rất nhiều văn bản viết vốn cần độ chuẩn xác cao của ngôn ngữ. Và việc sử dụng ngôn ngữ một cách tùy tiện và thiếu chuẩn xác hình thành nên một lối suy nghĩ cũng hời hợt và tùy tiện của người sử dụng nó. Có thể bạn sẽ nói với tôi rằng ngôn ngữ luôn luôn thay đổi và những từ mượn như từ Hán Việt chẳng hạn sẽ có khuynh hướng mang ý nghĩa khác với nghĩa gốc ban đầu nên chuyện tiếng Việt dùng sai hoặc khác nghĩa với tiếng Hán Việt thì có gì to tát đâu. Điều này đúng là không quan trọng lắm cho tới khi bạn áp dụng cách tư duy trong tiếng Việt vào trong việc học một ngôn ngữ khác có tính logic cao như tiếng Anh chẳng hạn, bạn sẽ gặp rất nhiều rắc rối phiền hà trong việc diễn đạt vì ngôn ngữ đó không chấp nhận cách tư duy phiến diện. Ví dụ nếu tôi dịch câu “dịch vụ ở đây chất lượng lắm” sang tiếng Anh theo kiểu “the service here is very quality” thì không ai hiểu tôi nói gì cả vì câu này sai cả về ngữ pháp (phó từ “very” không thể bổ nghĩa cho “quality” là danh từ, còn “quality” không thể đứng ở vị trí tính từ) và sai về cả ngữ nghĩa (“chất lượng” (danh từ) không đồng nghĩa với “tốt” (tính từ)). Bài viết tiếp theo tôi sẽ phân tích sự hời hợt và tùy tiện của tiếng Việt khi so sánh với tiếng Anh, một thứ ngôn ngữ được đánh giá rất cao về tính logic. Đó cũng là lý do tại sao người Việt gặp nhiều khó khăn khi học tiếng Anh vì phần lớn chúng ta không có sự logic trong tư duy ngôn ngữ.
Tumblr media
Trước khi bắt đầu bài viết mới này, tôi muốn gửi lời cám ơn đến những bạn trên facebook đã đọc, share và góp ý cho những bài viết lần trước của tôi. Tôi luôn tôn trọng những ý kiến đóng góp từ mọi người vì nó khiến tôi và những người theo dõi hiểu thêm nhiều khía cạnh của vấn đề. Đó là một điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên tôi cũng xin nhắc lại một số điều để các bạn có thể tranh luận đúng hướng để cho việc tranh luận có chất lượng thay vì sa đà vào tranh cãi vô ích khi “ông nói gà, bà nói vịt”: 1. Bạn nào chỉ đọc sơ vài dòng hoặc lướt qua một lần thì miễn tranh cãi theo ý kiến cảm tính của mình. Tôi viết một bài bỏ rất nhiều công sức và thời gian nên tôi không chấp nhận và hoan nghênh những người chưa đọc kỹ hiểu kỹ đã vào nói càn nói bừa. Cũng làm ơn đừng comment những câu vô duyên kiểu: “Bài dài quá, đọc mệt ghê” hay “có ai tóm tắt lại giùm tôi không?” Xin lỗi, người viết bỏ ra vài tiếng để viết còn bạn chỉ cần bỏ ra 15-20 phút để đọc mà còn lười biếng thì bạn làm ơn đi chỗ khác chơi. Chỗ này không dành cho bạn. 2. Đối với những người chưa từng quen biết tôi, chưa đọc những bài viết trước kia của tôi nếu bạn góp ý thì hãy nhớ rằng phép lịch sự tối thiểu khi vào nhà một người chưa quen biết hãy chào hỏi và nói năng cho đàng hoàng tử tế. Tôi luôn dùng kính ngữ “dạ” và thái độ khiêm cung để trả lời một người mình chưa quen biết hoặc lớn tuổi hơn mình khi họ gửi comment hoặc tin nhắn cho tôi. Có rất nhiều người tôi không cần biết trình độ hiểu biết được bao nhiêu nhưng lần đầu vào comment thái độ rất trịch thượng và láo xược, tự xem mình là bố đời. Những kẻ đó tôi sẽ block ngay chứ không giải thích hay trả lời comment. 3. Loạt bài này không có mục đích nói xấu hay chê bai tiếng Việt mà muốn chỉ ra một số điểm hạn chế về tư duy logic của tiếng Việt để chứng minh một luận điểm là “người Việt hời hợt”. Tôi tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng để đưa ra một cái nhìn tổng quát và đa chiều theo cách nhìn của khoa học, hoàn toàn không đặt tình cảm cá nhân vào đây. Những phản biệt “tiếng Việt giàu đẹp, phong phú” hay “là người Việt thì phải biết yêu tiếng Việt” … tôi xin phép không trả lời vì nó không liên quan đến những gì tôi bàn ở đây. 4. Những phản biện không bám vào những luận điểm mà tôi đưa ra và không đưa được dẫn chứng hoặc ví dụ cụ thể tôi cũng sẽ không quan tâm. Tôi bàn về vấn đề nào, bạn hãy đưa ra luận điểm phản bác đúng vấn đề mà tôi đang nói, đừng nói tới những gì mà tôi không bàn hoặc không liên quan tới điều đang được tranh luận. 5. Đừng chụp cho tôi cái mũ là “cuồng Tây, cuồng Tàu” hoặc cứ mở miệng là chê bai Việt Nam thế này, Việt Nam thế nọ. Nếu bạn yêu nước một cách tỉnh táo và có lòng tự hào dân tộc dựa trên sự hiểu biết, bạn sẽ thấy đất nước ta hiện nay thua sút và lạc hậu rất nhiều. Và chỉ có cách nhìn vào sự thật những sai lầm yếu kém của đất nước và con người Việt Nam mà quyết tâm sửa đổi thì mới có thể cải thiện được tình hình. Sự tự tôn quá đáng hoặc ảo tưởng sức mạnh dân tộc bất chấp sự thật chỉ có thể đẩy đất nước này tới bờ vực thẳm nhanh hơn một chút thôi. So sánh tư duy logic tiếng Việt và tiếng Anh: Tôi là người học tiếng Anh từ nhỏ (4 tuổi đã bắt đầu), đã có một thời gian 6 năm sống ở Mỹ trong một môi trường hầu như không có người Việt và đã dạy tiếng Anh được 12 năm. Sở dĩ tôi phải nói điều này để các bạn hiểu rằng tiếng Anh đối với tôi gần như là một ngôn ngữ phổ thông chứ không phải là một ngoại ngữ. Hơn nữa, tôi học cử nhân và thạc sĩ ngành giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài nên tôi rất chú trọng đến tư duy bên trong của các ngôn ngữ và sự tương quan của các ngôn ngữ với nhau. Điều này rất quan trọng đối với tôi vì nó giúp tôi hiểu được những vấn đề sau đây: 1. Tại sao người Việt bỏ rất nhiều thời gian để học tiếng Anh nhưng hiệu quả thực tế lại rất thấp? 2. Tại sao có những khái niệm rất đơn giản trong tiếng Anh nhưng rất khó giải thích trong tiếng Việt và ngược lại? 3. Tại sao nhiều người được xem là giỏi tiếng Anh ở Việt Nam vẫn mắc những lỗi rất cơ bản về dịch thuật? 4. Tại sao người Việt Nam ít khi chịu đọc thêm tài liệu hoặc thông tin bằng tiếng Anh để nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và đa chiều hơn? Những vấn đề nói trên có thể sẽ không quan trọng với bạn nếu bạn chỉ là người học tiếng Anh ở mức độ giao tiếp, nhưng đối với một người nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ đồng thời nghiên cứu về tâm lý học, chúng làm tôi mất ăn mất ngủ vì tôi muốn tìm cách để giúp các học viên của tôi tiếp cận tiếng Anh một cách logic và hiệu quả nhất. Để sử dụng tốt một ngôn ngữ, bạn phải hiểu rõ được tư duy logic của ngôn ngữ đó trong việc sử dụng văn phạm, cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và cả phát âm. Nếu không làm được điều đó thì việc giảng dạy hoặc học tập một ngôn ngữ chỉ có thể dừng ở mức độ học thuộc lòng để đối phó chứ không thể đạt được sự thông thạo. Khi tiếng Anh là một ngôn ngữ mang tính chất giao tiếp quốc tế và người Việt Nam trên lý thuyết bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để học tiếng Anh cả trong chương trình chính quy và ngoại khóa mà kết quả vẫn rất tệ, theo tôi đó là một sự lãng phí rất lớn. Không thông thạo được tiếng Anh, bạn chẳng những mất rất nhiều cơ hội trong công việc và học tập mà nó còn là một chướng ngại vật cực kỳ to lớn để tiếp nhận thông tin đa chiều cũng như kiến thức của nhân loại: cánh cửa dẫn tới tự do dân chủ. 1. Từ vựng tiếng Anh mô tả khái niệm chuẩn xác hơn tiếng Việt rất nhiều: Một trong những thử thách lớn nhất đối với những người sử dụng ngoại ngữ là sự hiểu biết về từ vựng vì có những từ có thể đồng nghĩa trong ngôn ngữ này lại hoàn toàn không đồng nghĩa trong ngôn ngữ kia. Đặc trưng của tiếng Anh là mỗi từ đều có một ý nghĩa rất chính xác và cụ thể, thể hiện đúng bản chất của về nghĩa mà tiếng Việt không có được. Tôi lấy ví dụ từ “gặp” trong tiếng Việt nếu được dịch sang tiếng Anh một cách hời hợt sẽ là “meet” nhưng trên thực tế có đến 4 từ khác nhau trong tiếng Anh để dịch một từ “gặp” trong tiếng Việt, và bốn từ này về ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Từ “meet” chỉ có thể dùng trong trường hợp hai người gặp nhau có một mục đích cụ thể nào đó vì thế nó không thể dùng trong trường hợp “hôm qua tôi tình cờ gặp anh ta ở ngoài đường” được. Đối với hành động “tình cờ gặp nhau ngoài đường”, người Anh-Mỹ dùng từ “see” đúng nghĩa là “chỉ nhìn thấy nhau”. Còn khi tôi nói “Tôi đang gặp rắc rối/khó khăn” thì cả hai từ “meet” và “see” đều sai mà phải dùng từ “encounter” với nghĩa “đối mặt với một điều/người mà mình không mong muốn”. Ví dụ thứ hai là từ “nhận ra” trong tiếng Việt khi dịch sang tiếng Anh sẽ có hai từ “realize” và “recognize” và hai từ này hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. “Realize” là “nhận ra một điều gì trước đây mình chưa từng có khái niệm về nó” ví dụ “I realized that my parents have sacrificed a lot for me” (Tôi chợt nhận ra/hiểu ra bố mẹ đã hi sinh rất nhiều cho tôi). Còn “recognize” nghĩa là “nhận ra một điều gì mình đã có khái niệm về nó từ trước” (tiền tố “re” có nghĩa là “again”, gốc từ Latin “cogn” có nghĩa là “nhận thức” và hậu tố “ize” để xác định đây là động từ). Vì vậy nếu bạn đưa một tấm ảnh cho ai đó xem và hỏi người ta có nhận ra người trong hình là ai không, bạn phải dùng từ “recognize” chứ không thể là “realize” được. Ví dụ thứ ba là cùng một từ “nuôi” trong tiếng Việt, tiếng Anh có sáu từ với khái niệm hoàn toàn khác nhau và không thể dùng thay thế cho nhau được và được chia thành hai cụm khái niệm lớn khác nhau: Cụm thứ nhất dành cho các loài vật bao gồm những từ: a) “raise”: nuôi một con vật để khai thác kiếm lợi từ nó như nuôi heo, nuôi bò, nuôi gà… b) “breed”: nuôi để làm giống, và c) “keep” : nuôi một con vật để làm cảnh. Cụm thứ hai dành cho con người bao gồm: a) “bring up” hoặc “rear” hoặc “raise”: dùng để chỉ việc nuôi dạy con cái, b) “support”: dùng để chỉ việc cung cấp tiền bạc cho một người không đủ khả năng tài chính (ví dụ: “He supported his younger brother through college” Anh ta nuôi em trai học đại học) và c) “take care of”: chăm sóc cha mẹ khi về già. Thử tưởng tượng nếu bạn không hiểu nghĩa những từ này mà cứ mặc định chúng là từ đồng nghĩa theo kiểu tiếng Việt rồi dịch cụm từ “nuôi cha mẹ” thành “keep my parents” hoặc “bring up my parents” thì kinh khủng tới mức nào. Những ví dụ mà tôi nêu ở trên là 3 trong hàng trăm nếu không muốn nói là hàng ngàn những ví dụ về sự chặt chẽ về ngữ nghĩa trong từ ngữ tiếng Anh và sự qua loa, hời hợt trong tiếng Việt về nghĩa từ. Nếu cần thiết tôi sẽ liệt kê cả một danh sách vài chục trang giấy. Và đó chỉ là ở mức độ từ ngữ thông dụng chứ chưa nói đến từ ngữ mang tính chất chuyên ngành hoặc hàn lâm. Sự chuẩn xác về ngữ nghĩa này khiến cho người sử dụng tiếng Anh ít khi nào hiểu sai bản chất của khái niệm được đề cập và rất khó chơi trò lập lờ đánh lận con đen đánh tráo khái niệm qua mặt người khác. 2. Từ ngữ trong tiếng Anh có những dạng thức khác nhau và từ loại khác nhau, không thể lẫn lộn: Từ ngữ trong tiếng Việt không có sự biến thể trong cùng một từ (số ít, số nhiều, dạng bị động, chủ động, tính từ, trạng từ, danh từ…) nhưng tiếng Anh thì một từ có nhiều biến thể dùng với những mục đích hoàn toàn khác nhau. Lấy ví dụ từ “hạnh phúc” trong tiếng Việt vừa có thể là tính từ, vừa có thể là danh từ và cũng có thể là trạng từ. Nhưng trong tiếng Anh thì không thể. Nếu bạn muốn dịch câu “Hạnh phúc không mua được bằng tiền” thì bạn phải hiểu rằng “hạnh phúc” ở đây là “happiness” (danh từ) chứ không phải là “happy” (tính từ). Còn muốn nói “một gia đình hạnh phúc” thì phải dùng từ “happy” (tính từ) để đặt trước “family”. Và nếu muốn dịch câu “họ sống với nhau rất hạnh phúc” thì phải dùng trạng từ “happily” chứ không phải là “happy” hoặc “happiness”. Thật là thảm họa cho ai học tiếng Anh mà không quan tâm tới loại từ mà chỉ hiểu sơ sài về nghĩa từ “hạnh phúc” là “happy”. Trong tiếng Việt chúng ta có thể nói “gà rán” hoặc “chảo rán” mà không hề cảm thấy có gì sai nhưng tiếng Anh thì không thể. Thứ nhất từ “rán” là “fry” vốn là động từ nên không có thể đặt trước danh từ “chicken” hay “pan” để làm một tổ hợp tính từ + danh từ. Để dùng từ “fry” làm tính từ, bạn phải chuyển nó thành dạng tính từ. Và việc chọn dạng tính từ thích hợp cũng không phải là dễ dãi sao cũng được vì dạng tính từ của từ “fry” có dạng V-ing (present participle) là “frying” để chỉ công dụng của một vật và dạng V3 (past participle) là “fried” để chỉ tính bị động của hành động. Nếu nói “chảo rán” thì bạn đang nói tới “công dụng của cái chảo” nên bắt buộc phải dùng là “frying pan”. Còn nếu bạn muốn nói về “gà rán” có nghĩa là “gà được/bị rán lên” thì bạn phải nói là “fried chicken” mới đúng. Khi sử dụng tiếng Việt, bạn chỉ đơn giản là ghép hai từ với nhau để tạo thành từ mới, nhưng khi bạn sử dụng tiếng Anh, bạn phải cân nhắc xem hai từ đó là loại từ gì, có đứng chung với nhau được hay không? Nếu từ loại đã phù hợp, bạn lại phải xét tiếp là từ đó được dùng ở dạng thức gì, có phù hợp với mục đích cần sử dụng hay không? Đó là cả một quá trình suy nghĩ logic, không thể hời hợt và tùy tiện. Có bạn sẽ nói rằng “từ đó giờ tiếng Việt dùng như vậy đấy rồi có chết ai đâu. Người Việt ai mà chả biết “gà rán” là “gà được rán lên”, còn “chảo rán” là “chảo dùng để rán.” Điều này đúng là không hại gì khi bạn chỉ sử dụng tiếng Việt mà không cần sử dụng tiếng Anh. Nhưng nếu bạn học tiếng Anh và sử dụng tiếng Anh thì bạn sẽ thấy ngay vấn đề của nó: a. Bạn không bao giờ sử dụng được tiếng Anh đúng cách để nói và viết vì bạn mặc kệ những nguyên tắc về từ vựng của tiếng Anh. Điều này cũng giống như bạn đến chơi nhà người khác nhưng bất chấp những nguyên tắc ứng xử của gia đình người ta mà bắt người ta phải hiểu mình. b. Bạn sẽ không bao giờ hiểu được tiếng Anh vì bạn không hiểu được mỗi dạng từ của cùng một từ đều có ý nghĩa khác nhau. Học những ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Latin như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, bạn không thể chỉ cầm cuốn từ điển ra để học từ vựng một cách máy móc vì sự thay đổi dạng thức của một từ trong những ngữ cảnh khác nhau.
Tumblr media
Một trong khái niệm đơn giản và logic nhất của tiếng Anh nhưng hầu hết người Việt sử dụng tiếng Anh thường khó có thể hiểu được thấu đáo và sử dụng chính xác đó là cách dùng những mạo từ “a, an, the” đứng trước danh từ. Luật sử dụng mạo từ trong tiếng Anh không khó, nó chủ yếu dựa trên hai yếu tố: a. Số của danh từ: số ít, số nhiều và không đếm được. b. Tính xác định của danh từ: xác định và không x��c định. Quy tắc sử dụng mạo từ sẽ dựa trên sự kết hợp giữa hai yếu tố trên. Ví dụ: danh từ số ít sẽ có hai dạng là xác định và không xác định, danh từ số nhiều cũng sẽ có hai dạng xác định và không xác định, và danh từ không đếm được cũng vậy. a. Danh từ số ít và không xác định (một vật được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, một cái bất kỳ trong nhiều cái cùng loại, một vật lần đầu tiên được người nói giới thiệu đến cho người nghe) thì bắt buộc phải sử dụng mạo từ “a” (nếu danh từ đó bắt đầu bằng một âm phụ âm) hoặc “an” (nếu danh từ đó bắt đầu bằng âm nguyên âm). b. Danh từ số ít và được xác định (vật mà cả người nói lẫn người nghe đều biết, cái duy nhất tại thời điểm nói, vật này đã được nhắc đến ít nhất một lần trước đó) thì bắt buộc phải dùng “the” trước danh từ đó. c. Danh từ số nhiều và danh từ không đếm được nếu không xác định (nói một cách tổng quát chung chung) thì không dùng mạo từ. d. Danh từ số nhiều và danh từ không đều được nếu xác định (những vật mà cả người nói lẫn người nghe đều biết, tất cả những cái tại thời điểm nói, những vật này đã được nhắc đến ít nhất một lần trước đó) thì bắt buộc phải dùng “the” trước nó. Khi người Việt dùng danh từ, người nói và người nghe sẽ tự hiểu rằng danh từ đó là số ít hay số nhiều hay không đếm được và có xác định hay không. Vì sự “tự hiểu” này sẽ có rất nhiều trường hợp ý của câu bị hiểu sai một cách vô tình hoặc cố ý. Trong tiếng Anh thì khi nói, người nói phải sử dụng đúng mạo từ để người nghe không thể hiểu lầm hoặc tự đoán rằng người nói muốn nói gì. Có nghĩa là danh từ trong câu tiếng Anh khi nói phải chính xác tuyệt đối về số và tính xác định của nó. Và chính điều này khiến cho việc sử dụng mạo từ trong tiếng Anh đối với người Việt là một điều hết sức khó khăn. Tôi sẽ giải thích đơn giản cho các bạn biết bằng những ví dụ cụ thể nhé: a. Trong tiếng Việt, câu “Đưa cho tôi cái ghế” sẽ được hiểu theo hai cách: người nghe sẽ đưa cho người nói một cái ghế bất kỳ nếu trong phòng có từ hai chiếc ghế trở lên hoặc người nghe sẽ hiểu được rằng người nói muốn cái ghế nào và đưa cho người nói cái ghế mà anh ta muốn. Trong tiếng Anh, hai ý này không thể viết bằng một câu mà phải viết bằng hai câu riêng biệt. Nếu anh muốn tôi đưa cho anh một cái ghế bất kì (không xác định) thì anh phải nói là “Give me A chair” còn nếu anh muốn tôi đưa cho anh cái ghế mà anh muốn (xác định) thì anh phải nói là “Give me THE chair”. Không có chuyện trong tiếng Anh, một người nói với người kia “Give me chair” (không có mạo từ) thì người kia tự động hiểu đúng là người kia muốn gì. b. Nếu bạn dịch câu “Anh ấy phải bán xe để trả nợ” sang tiếng Anh bạn sẽ dịch như thế nào? Tiếng Anh sẽ không có một cách dịch chung mà sẽ tùy theo trường hợp mà sẽ có những cách dịch khác nhau dựa vào tính xác định và số của hai danh từ “xe” và “nợ”: Nếu anh ta bán chiếc xe anh ta đang sử dụng và đó là chiếc xe duy nhất thì từ “xe” phải dịch là “THE car”. Nếu anh ta có nhiều chiếc xe và bán bớt đi một chiếc trong số đó thì “xe” sẽ dịch là “A car”. Nếu anh ta phải bán đi tất cả những chiếc xe mà anh ta có thì “xe” phải dịch là “THE cars”. Nếu anh ta chỉ có một món nợ thì chữ “nợ” sẽ được dịch là “the debt”. Nếu anh ta chỉ có trả được một trong những món nợ mà anh ta vay thì “nợ” trong câu này sẽ là “a debt”. Còn nếu anh ta bán xe để trả hết tất cả những món nợ của anh ta thì “nợ” sẽ được dịch là “the debts”. Bạn nào có một chút khái niệm về toán tổ hợp sẽ thấy rằng nếu kết hợp hai tổ hợp “xe” và “nợ” lại với nhau chúng ta sẽ viết được tới 9 câu khác nhau. 1. He must sell THE CAR to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả món nợ duy nhất) 2. He must sell THE CAR to pay A DEBT. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả một trong những món nợ của mình). 3. He must sell THE CAR to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả hết những khoản nợ của mình) 4. He must sell A CAR to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả món nợ duy nhất). 5. He must sell A CAR to pay A DEBT. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả một trong những món nợ của mình) 6. He must sell A CAR to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả những khoản nợ.) 7. He must sell THE CARS to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả món nợ duy nhất). 8. He must sell THE CARS to pay A DEBT. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả một trong những món nợ của mình). 9. He must sell THE CARS to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả hết những khoản nợ). Bây giờ hãy thử dịch câu “Tôi đi đến nhà sách để mua sách” sang tiếng Anh nhé. Sẽ có bao nhiêu khả năng? c. Khi bạn nói “Chúng ta không thể sống thiếu nước” thì từ “nước” ở đây được hiểu là danh từ không đếm được và là một khái niệm chung nên sẽ không dùng mạo từ. Do đó câu này sẽ dịch thành “we cannot live without WATER”. Còn khi bạn nói “Đừng uống nước trong cái ly đó” thì từ “nước” trong trường hợp này là danh từ không đếm được và xác định rõ ràng (nước trong cái ly đó chứ không phải là nước ở nơi khác). Do đó câu này sẽ được dịch thành “Don’t drink THE WATER in that cup”. Do logic trong tiếng Việt không có những khái niệm “xác định” và “không xác định” đối với danh từ nên việc sử dụng mạo từ đúng trong tiếng Anh là một thử thách lớn cho người học tiếng Anh kể cả những người học lâu năm nhưng không quan tâm đến nguyên tắc này. Người Việt sử dụng danh từ thường mắc những lỗi kinh điển về mạo từ sau: a. Không dùng mạo từ “a, an, the” trước danh từ số ít. b. Dùng “the’ tùy tiện theo kiểu thấy thích thì dùng, không thì thôi. c. Dùng danh từ số ít trong những trường hợp đáng lẽ phải dùng số nhiều. Việc sử dụng sai mạo từ trong tiếng Anh khiến cho nghĩa câu bị hiểu sai nghiêm trọng hoặc câu thậm chí không có nghĩa. Lúc còn ở Việt Nam, tôi cũng mắc những lỗi sai sử dụng mạo từ một cách tùy hứng vì không hiểu được tư duy logic của việc dùng mạo từ. Giáo viên tiếng Anh người Việt thường giảng rất sơ sài là “a, an” dành cho danh từ không xác định, còn “the” dành cho danh từ xác định nhưng chính họ cũng không hiểu thế nào là xác định và không xác định, còn tới danh từ không đếm được thì nhiều người bỏ qua không giảng vì không có khái niệm này. Khi dạy ngữ pháp, tôi dạy rất kỹ về mạo từ, cho rất nhiều ví dụ nhưng hầu hết học viên của tôi sau khi học xong đều không áp dụng được vì ít ai chịu tư duy về tính xác định của danh từ mà chọn mạo từ thích hợp. Phần lớn sẽ nghĩ theo kiểu tiếng Việt không cần tới mạo từ, mặc kệ người nghe hoặc người đọc hiểu sao thì hiểu. Và khi đọc hoặc nghe người bản xứ nói tiếng Anh, người Việt cũng thường không chú ý đến cách dùng mạo từ trước danh từ để hiểu đúng ý mà người kia muốn diễn đạt. Đây là một trở ngại lớn về mặt tư duy khiến cho việc học tiếng Anh của người Việt không hiệu quả nếu chỉ học thuộc lòng mà không suy luận.
Tumblr media
Khái niệm “thì” (tense) là một khái niệm gắn liền với cách sử dụng động từ trong tiếng Anh và cũng là một trong những khái niệm cơ bản trong tiếng Anh. Các thì trong tiếng Anh được công thức hóa nên việc nhớ công thức của thì không phải là quá khó. Tuy nhiên, đối với đại đa số người Việt học tiếng Anh thì cho dù nhớ công thức của thì, việc sử dụng đúng thì khi nói và viết lại là một chuyện khác. Với bài viết này, tôi hi vọng những bạn học tiếng Anh sẽ hiểu được nguyên tắc tư duy khi dùng thì trong tiếng Anh để có thể sử dụng thì một cách hiệu quả. Trước hết, một thì trong tiếng Anh luôn bao gồm có hai phần: thời gian (time) và bản chất (nature) của hành động. Thời gian (time) gồm có: past (quá khứ), present (hiện tại) và future (tương lai). Còn bản chất (nature) thì gồm có: simple (đơn), tiếp diễn (continuous), hoàn thành (perfect) và hoàn thành tiếp diễn (perfect continuous). Khi kết hợp time và nature thì sẽ được tense. Như vậy sẽ có 12 thì (3x4) trong tiếng Anh. Vấn đề là trong tiếng Việt, khi nói về một hành động chúng ta chỉ nghĩ đơn giản rằng hành động đó đã, đang hoặc sẽ xảy ra, tức là chú trọng yếu tố “time” của hành động nhưng lại không có khái niệm về bản chất của hành động trong thời gian đó xảy ra như thế nào. Trong khi đó, đối với thì của tiếng Anh, yếu tố ”time” chỉ là yếu tố mang tính chất tương đối còn yếu tố “nature” mới là yếu tố cốt lõi. Do đó, nếu học thì tiếng Anh mà chỉ chú trọng vào yếu tố “time” mà không hiểu hoặc không coi trọng yếu tố “nature” sẽ không bao giờ dùng thì đúng được. a. Nếu hiểu từ “Continuous” là “tiếp diễn” theo nghĩa là “đang diễn ra” thì sẽ không chính xác. Vì nếu bạn nói “present continuous” là hành động đang diễn ra ở hiện tại thì còn chấp nhận được chứ nếu nói “past continuous” là “đã đang diễn ra” và “future continuous” là “sẽ đang diễn ra” thì nghe mâu thuẫn quá. “Continuous” hiểu cho đúng là “hành động diễn ra theo khuynh hướng kéo dài trong một khoảng thời gian”. Nếu bạn suy nghĩ theo logic này thì khi muốn nói về một hành động đã diễn ra trong quá khứ và muốn nhấn mạnh sự kéo dài của nó, bạn sẽ dùng thì “past continuous”. Ví dụ khi tôi muốn dịch câu “tôi đã làm việc suốt ngày hôm qua” thay vì dùng thì simple past (I worked all day yesterday), tôi sẽ dùng past continuous để nhấn mạnh vào hành động kéo dài (I was working all day yesterday) sẽ hiệu quả hơn. Tương tự, để diễn tả một hành động sẽ diễn ra trong tương lai và kéo dài trong một khoảng thời gian, tôi sẽ dùng “future continuous.” (I will be sleeping this whole weekend). Tất nhiên thì “present continuous” dùng để diễn tả hành động đang diễn ra trong thời điểm nói. b. Khái niệm “perfect” được dịch sang tiếng Việt là “hoàn thành” cũng là một cách dịch khá hời hợt thiếu chính xác vì nếu bạn nói “past perfect” là “quá khứ hoàn thành” sẽ là dư thừa vì hành động nếu xảy ra trong quá khứ thì coi như đã hoàn thành, còn nếu nói “future perfect” là “tương lai hoàn thành” thì lại tối nghĩa vì “tương lai” chưa xảy ra, làm sao có thể “hoàn thành” được? “Perfect” nếu muốn hiểu đúng thì phải hiểu là “hoàn tất trước một thời điểm”. Một hành động nếu dùng “past perfect” để diễn đạt sẽ có ý nhấn mạnh rằng hành động này “diễn ra trước một hành động hoặc một mốc thời gian trong quá khứ”. Ví dụ như để nói rằng: “Anh ấy đã bỏ đi trước khi tôi đến”, người Anh/Mỹ sẽ dùng thì “past perfect” cho hành động “anh ấy đã bỏ đi” vì nó diễn ra trước hành động “tôi đến”. Sẽ không quá khó hiểu khi bạn áp dụng cách hiểu này vào “future perfect” vì thì này diễn tả một hành động hoàn thành trước một hành động khác hoặc một mốc thời gian trong tương lai. Ví dụ: “Em tôi sẽ tốt nghiệp trước năm 2021” hoặc “Tôi sẽ hoàn thành công việc này trước khi anh ta quay trở lại”. Riêng với thì “present perfect” thì hơi khác một tí vì nó được dùng khi người nói muốn ám chỉ hoặc nhấn mạnh hành động trong quá khứ đã xảy ra được bao lâu so với hiện tại. Ví dụ “Anh ta đã phải chịu đựng căn bệnh này hơn một năm rồi” (He has suffered from this disease for more than a year” hoặc “Tôi chưa từng gặp lại anh từ năm ngoái” (I haven’t seen him again since last year). c. Khái niệm “perfect continuous” dùng để diễn tả một việc đã xảy ra trước (perfect) nhưng vẫn kéo dài cho tới khi hành động thứ hai diễn ra (continuous). Ví dụ “anh ta đã làm việc ở đây cho tới khi tôi thay thế vị trí của anh ta vào năm ngoái” (He had been working here until I replaced him) (past perfect) hoặc “Tôi đã chờ ở đây hơn 2 tiếng nhưng vẫn chưa thấy ai tới” (I have been waiting here for two hours but no one showed up yet”. d. Riêng về khái niệm “simple” (đơn) là một từ không dùng để chỉ cách thức diễn ra của hành động mà dùng để ám chỉ công thức của những thì “simple” đơn giản hơn những thì khác (không cần mượn trợ động từ và dạng của động từ chính đơn giản hơn ở thể xác định). Rất hiếm giáo viên Việt Nam khi dạy thì hiểu được nghĩa của từ “simple” này. Chính vì vậy thì “present simple” thường bị hiểu sai là miêu tả một hành động “đơn giản” ở hiện tại (không có khái niệm “hành động đơn giản” trong tiếng Anh) trong khi đó, thì này dùng để diễn tả một thói quen hoặc sự thật hiển nhiên không bị ràng buộc về yếu tố thời gian. Dĩ nhiên vẫn còn nhiều cách dùng khác cho những thì nói trên nhưng nếu bạn hiểu được logic cơ bản đằng sau các thì thì việc chọn lựa thì đúng để diễn đạt trong tiếng Anh sẽ chính xác và hiệu quả hơn. Ngoài ra còn có những dạng thì sử dụng để chỉ sự giả định của hành động (hành động đó trên thực tế không xảy ra) dùng với các mẫu câu điều kiện “if”. Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố “time” thì bạn sẽ không hiểu được tại sao “present perfect” hoặc “present perfect continuous” lại sử dụng để diễn tả hành động trong quá khứ chứ không phải là hành động trong hiện tại và khi muốn diễn tả hành động diễn ra ở hiện tại thì bạn lại chọn “present simple” vốn không liên quan gì đến hiện tại cả. Một trở ngại nữa về tư duy logic của tiếng Việt khi áp dụng để hiểu thì trong tiếng Anh là cấu trúc thì của tiếng Anh đòi hỏi sử dụng đúng “dạng” của động từ. Một động từ trong tiếng Anh khi chia thì sẽ rơi vào những dạng như sau: a. Present form: là động từ dạng nguyên mẫu dùng với các chủ ngữ “I, you, we, they” và dạng thêm “s/es” khi dùng với các chủ ngữ “he, she, it” ở thì present simple. b. Present participle form: là động từ dạng hiện tại phân từ V-ing, được dùng cho các thì mang tính chất “continuous”. c. Past simple form: là dạng quá khứ đơn của động từ (V-ed đối với động từ có quy tắc hoặc cột thứ hai đối với động từ bất quy tắc) được dùng cho thì past simple. d. Past participle form: là dạng quá khứ phân từ (V-ed đối với động từ có quy tắc hoặc cột thứ 3 đối với động từ bất quy tắc) được dùng cho những thì mang tính chất “perfect”. Sự chặt chẽ này khiến cho người sử dụng tiếng Anh chỉ cần nhìn vào trợ động từ và dạng của động từ chính trong câu thì có thể hiểu chính xác hành động đó diễn ra như thế nào và khi nào (mục đích của thì). Sẽ rất khó hiểu lầm về ý của người nói hoặc người viết khi họ chọn cách dùng một thì để diễn đạt ý của mình. Trong khi đó động từ trong tiếng Việt không có những dạng khác nhau. Để diễn đạt ý nghĩa của thì, người sử dụng sẽ kết hợp một cách lỏng lẻo những trạng từ “sẽ”, “đã”, “đang” hoặc “rồi”vào trước động từ đó hoặc thậm chí là không có cả những từ này mà người nghe hoặc người đọc phải tự hiểu rằng hành động đó xảy ra hay chưa. Ví dụ: Khi tôi nói “Tôi gặp anh ta ngày hôm qua” thì người nghe sẽ hiểu là hành động diễn ra rồi căn cứ vào trạng từ chỉ thời gian “ngày hôm qua” chứ không phải căn cứ vào dạng của động từ “gặp”. Tương tự, người nghe sẽ căn cứ vào trạng từ “rồi” trong câu “tôi ăn sáng rồi” để hiểu rằng hành động “ăn sáng” đã diễn ra trong quá khứ. Nhưng vấn đề là những từ “đã, sẽ, rồi, đang” hoặc những trạng từ chỉ thời gian “hôm qua, tuần tới, ngày mai” không phải lúc nào cũng xuất hiện trong câu tiếng Việt nên việc đoán hành động xảy ra chưa hay rồi đối với người nghe sẽ rất khó khăn. Ví dụ khi tôi nói “tôi ăn sáng lúc 8 giờ”, người nghe sẽ dựa vào ngữ cảnh mà hiểu rằng hành động ăn sáng đã xảy ra (nếu thời điểm nói là sau 8 giờ) hoặc chưa xảy ra (nếu thời điểm nói là trước 8 giờ) hoặc cũng có thể hiểu đây là một thói quen lặp đi lặp lại lúc 8 giờ của người nói nếu không dựa vào yếu tố thời gian. Ngay cả một câu được hiểu trong tiếng Việt là đã xảy ra rồi trong quá khứ “Tôi đã làm việc ở đây hai năm” cũng có thể diễn giải thành ba câu với ý nghĩa hoàn toàn khác nhau trong tiếng Anh: a. “I worked here for two years” với ý nói “trước đây tôi đã làm việc ở đây hai năm, nhưng bây giờ thì không còn nữa.” b. “I have worked here for two years” với ý “tính tới thời điểm này, tôi đã làm việc ở đây được 2 năm”. c. “I have been working here for two years” với ý “tính tới thời điểm này tôi đã làm việc ở đây được 2 năm và hiện vẫn đang làm.” Việc không chia động từ trong tiếng Việt cũng khiến cho người Việt học tiếng Anh không chú tâm tới logic chia động từ của ngôn ngữ này mà theo quán tính sẽ dùng luôn động từ nguyên mẫu vào câu bất chấp thì đó là thì gì. Rất nhiều người Việt quên không thêm “s” vào sau động từ ngôi thứ ba số ít khi dùng nó với chủ ngữ “he, she, it” ở hiện tại đơn cũng như không chia động từ sang dạng quá khứ khi kể lại những chuyện mình đã trải qua. Có người sẽ cho rằng tiếng Việt như vậy đơn giản hơn nhiều, không cần nhớ nhiều dạng động từ làm gì cho mệt. Câu trả lời của tôi là thế này: “Nếu anh chấp nhận việc mặc cùng một bộ quần áo cho tất cả những dịp đi làm, đi chơi, đi dự tiệc, ở nhà và lên giường ngủ thì đúng là việc không chia động từ cho những trường hợp khác nhau thì đối với anh không có gì gọi là quan trọng cả.” Tôi vẫn còn một bài viết phân tích về ngôn ngữ nữa trước khi chuyển sang phân tích những khía cạnh khác như lịch sử, tín ngưỡng, tư tưởng, văn hóa và giáo dục. Hi vọng các bạn kiên nhẫn theo dõi và khoan kết luận gì trước khi đọc hết series dài tập này. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn với những bài viết của tôi về những chủ đề khá khó đọc như thế này.
Tumblr media
Khi chúng ta chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ ở mức độ giao tiếp thông thường mà không có cơ hội đối chiếu ngôn ngữ đó với những ngôn ngữ khác hoặc sử dụng nó cho những mục đích tra cứu hoặc học thuật, chúng ta sẽ hiếm khi phát hiện hoặc quan tâm đến những lỗ hổng về mặt ngữ nghĩa hoặc ngữ pháp của thứ tiếng mà chúng ta sử dụng hàng ngày. Nhưng nếu bạn phải làm việc với ngôn ngữ thường xuyên để dịch thuật, nghiên cứu hoặc giảng dạy, bạn sẽ phát hiện ra nhiều vấn đề về tính logic của tiếng Việt so với những ngôn ngữ khác. Sở dĩ tôi nói hơi nhiều về ngôn ngữ trong loạt bài viết này vì ngôn ngữ là cách con người thể hiện tư duy của mình. Nếu tư duy của bạn không sâu sắc và chặt chẽ, ngôn ngữ của bạn cũng thế. Ngôn ngữ cũng ảnh hưởng ngược lại đến tư duy của người sử dụng nó vì khi bạn đã quen với việc nói hoặc viết một ngôn ngữ nào đó, bạn sẽ quen luôn với cách tư duy của ngôn ngữ đó. Và khi bạn áp dụng tư duy này vào việc suy luận hoặc tiếp cận một ngôn ngữ khác, bạn sẽ bị một rào cản rất lớn. Bài viết này sẽ kết thúc mảng ngôn ngữ trong chủ đề “người Việt hời hợt” để có thể phân tích những vấn đề khác trong những bài viết sau. Thật ra, vẫn còn rất nhiều vấn đề về ngôn ngữ để nói nhưng tôi không muốn đi quá sâu vì cũng không cần thiết. Bài viết này tôi sẽ tập trung phân tích một số điểm thiếu logic trong bản thân ngôn ngữ tiếng Việt. Tôi lúc trước cũng không nhận ra những vấn đề này cho tới khi bản thân mình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Và quả thật, chúng khiến tôi có một cách nhìn hoàn toàn mới về tính logic của tiếng Việt. Bài viết này thay vì sử dụng một thái độ khẳng định, tôi sẽ viết theo hướng đặt ra những câu hỏi và rất mong muốn nhận được những câu trả lời thuyết phục. 1. Trật tự các từ trong tiếng Việt khá lỏng lẻo: Đối với những ngôn ngữ mang tính logic cao, mỗi một từ ở trong câu đều có một vị trí và chức năng nhất định, không thể tùy tiện thêm vào hoặc bỏ ra hoặc thay đổi vị trí. Tiếng Việt thì khác, có nhiều trường hợp những thành phần trong câu có thể thêm bớt hoặc thay đổi vị trí mà vẫn không ảnh hưởng đến ý nghĩa của câu. Ví dụ tôi nói: “Tôi bị nhức đầu” hay “đầu tôi bị nhức” hoặc “tôi nhức đầu” hoặc “đầu tôi nhức” thì nghĩa của câu này vẫn không có gì thay đổi. Khi viết câu này sang tiếng Anh, tôi chỉ có thể viết rằng: “I have a headache” (tôi bị nhức đầu) hoặc “My head aches/hurts” (đầu tôi bị đau). Nếu hiểu một cách sơ sài hoặc không nắm vững cách dùng trong tiếng Anh, người Việt thường sẽ sử dụng động từ “to be” để dịch từ “bị” hoặc “được” vì được dạy rằng “to be + past participle” có nghĩa là “bị” hoặc “được”. Vì thế nếu dịch thành “I am headache” thì câu này không có nghĩa vì “headache ở đây là danh từ chứ không phải động từ hoặc tính từ. Còn nếu dịch là “My head is hurt” thì nghĩa của nó lại là “Đầu tôi bị chấn thương” không hề cùng nghĩa với “My head hurts” (đầu tôi bị đau). Tương tự, tiếng Việt có thể đảo thứ tự danh từ và tính từ trong một số trường hợp nhưng không có logic cụ thể cho việc đảo ngữ này. Ví dụ, ta có thể nói “ngựa trắng” theo kiểu thuần Việt gồm hai từ thuần Việt ghép lại với nhau theo thứ tự danh từ đứng trước tính từ hoặc “bạch mã” theo kiểu Hán Việt với hai từ Hán Việt ghép với nhau theo thứ tự tính từ đứng trước danh từ. Nhưng ta vẫn có thể nói là “ngựa bạch” gồm một từ thuần Việt ghép với một từ Hán Việt theo nguyên tắc ghép từ thuần Việt (danh từ trước tính từ) mà không có lý do cụ thể để giải thích cho sự ghép từ này. Ngược lại, tổ hợp từ “trắng mã”, “bạch ngựa” hay “mã trắng” đều không được chấp nhận trong tiếng Việt. Phải chăng tổ hợp từ “ngựa bạch” được chấp nhận bởi vì đây là một cách nói thuận miệng và nghe thuận tai chứ không có một logic nào xác đáng? Vì nếu đã là logic thì nó phải được áp dụng cho tất cả các trường hợp chứ không phải ngoại lệ. 2. Tiếng Việt có nhiều từ đồng nghĩa nhưng không dùng được để thay thế nhau: Trong tiếng Anh, những từ được gọi là từ đồng nghĩa (synonym) phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện sau: a. Cùng từ loại b. Luôn luôn thay thế cho nhau được trong mọi ngữ cảnh. Còn đối với những trường hợp những từ ngữ có nghĩa gốc giống nhau nhưng chỉ được sử dụng ở những ngữ cảnh đặc trưng thì được gọi là từ gần nghĩa (connotation). Trong tiếng Việt thì khác, một từ có thể có nhiều từ cùng nghĩa nhưng vấn đề là những từ cùng nghĩa này chỉ được dùng cho một ngữ cảnh nhất định mà không thể thay thế cho nhau. Ví dụ cùng một từ “đen” nhưng khi dùng cho những loài vật khác nhau thì chúng ta lại dùng những từ khác nhau ví dụ mèo thì mèo mun, ngựa thì ngựa ô, chó thì chó mực. Bỏ qua những giải thích rằng đây là sự đa dạng và phong phú của ngôn ngữ vì đây không phải là logic mà tôi muốn tìm kiếm, câu hỏi của tôi đặt ra là liệu có logic nào cho việc tạo nên những tổ hợp từ như vậy hay chỉ là sự gán ghép tùy tiện để hình thành chúng. Và nếu “đen”, “ô”, “hắc”, “mực”, “mun” đều chỉ màu đen (không phải dùng để chỉ những sắc thái khác nhau của màu đen) thì tại sao chúng không thể dùng để thay thế nhau trong những tổ hợp từ nói trên? 3. Mạo từ và đại từ trong tiếng Việt mang tính định kiến sâu sắc: Trong bài viết lần trước tôi đã đề cập tới việc người Việt gặp khó khăn trong cách sử dụng mạo từ tiếng Anh (a, an, the, không có mạo từ) do không hiểu được quy tắc số ít, số nhiều, đếm được, không đếm được và xác định hoặc không xác định. Đây là một nguyên tắc nhất quán và không mang tính chất định kiến. Ngược lại khi tôi dạy tiếng Anh cho người nước ngoài, tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải thích cho họ hiểu tại sao tiếng Việt lại có những mạo từ và đại từ mang tính định kiến phong phú đến như thế. Cùng là một danh từ “vua” nhưng nếu bạn dùng mạo từ “vị” hoặc “đức” trước nói, người đọc hoặc nghe sẽ mặc định rằng đây là một ông vua tốt, nhân từ. Còn nếu bạn dùng “lão” hay “tên” trước nó thì mặc nhiên người đọc hoặc nghe sẽ nghĩ đây là một ông vua tồi tệ. Cũng là “lính” nhưng “tên lính” hay “thằng lính” thì xấu, ắt hẳn thuộc về phe địch còn “anh lính” hoặc “người lính” thì sẽ tốt, là người của phe ta. Trong tiếng Anh, đại từ “he” dùng để chỉ một người thuộc phái nam, “she” dùng để chỉ một người thuộc phái nữ, còn “they” chỉ một nhóm người. Những từ này không hề có thành kiến với người được nhắc đến. Nhưng “he” khi dịch sang tiếng Việt sẽ trở thành “ông ấy”, “anh ấy”, “ngài ấy”, “thằng ấy”, “lão ấy”, “tên ấy”, “hắn”…. “she” trở thành “cô ấy”, “nàng”, “chị ấy”, “bà ấy”, “mụ ấy”, con mẹ đó”… và “they” có thể là “họ”, “bọn họ”, “bọn chúng”, “lũ ấy”… tùy theo tình cảm mà người nói hoặc viết dành cho ngôi thứ ba được đề cập. Tôi không phủ nhận tính đa dạng và sắc thái biểu cảm của những từ trên nhưng nếu xét về góc độ logic, người viết hoặc người nói có thể vô tình hoặc cố ý ảnh hưởng đến khả năng tự tư duy và nhận định của người nghe và người đọc khi dùng những mạo từ hoặc đại từ mang nặng tính định hướng. Ví dụ khi nghe nói “tên nhà giàu” hoặc “mụ dì ghẻ” thì người nghe hoặc người đọc vô tình sẽ bị dẫn dắt theo hướng rằng đây là những kẻ xấu, kẻ ác mà bỏ qua những yếu tố khách quan khác về tính cách của những người được đề cập. Đây là một điều hết sức nguy hiểm khi dạy văn học và lịch sử bằng tiếng Việt. Làm sao ta có thể dạy cho trẻ em công tâm nhận xét về nhân vật “MỤ dì ghẻ” trong truyện Lọ Lem (trong tiếng Anh, bạn hoàn toàn có thể đọc và nhận xét về “the stepmother” mà không bị chi phối ngay từ đầu)? Làm sao chúng ta có thể công bằng với lịch sử khi nói về sự hi sinh của “NGƯỜI lính cụ Hồ” nhưng lại nói về cái chết “TÊN lính Ngụy”? Với tầng suất lặp đi lặp lại của những cách dùng mạo từ và đại từ nói trên, người Việt Nam thường có khuynh hướng có thành kiến với một số danh từ bản thân nó không hề có nghĩa tốt hay xấu như “dì ghẻ” hay “nhà giàu”, “địa chủ” mà thiếu sự đánh giá khách quan. 4. Nói tắt gây tai hại: Có lần một người Mỹ nhờ tôi giải thích câu thành ngữ “chó treo, mèo đậy” ra tiếng Anh và tôi giải thích rằng: “thức ăn nếu muốn chó không đụng tới thì phải treo lên, còn đối với mèo thì phải đậy lại”, người này ôm đầu thốt lên: “Nói tắt kiểu đó thì tao chịu, không thể nào hiểu được”. Thật sự, những người chưa từng nghe qua câu này hoặc được giải thích sẽ có thể không hiểu hoặc hoàn toàn hiểu sai khi cấu trúc của câu thành ngữ này được tối giảng và thay đổi thứ tự đến mức không thể hiểu nó nói gì. Không chỉ có những câu thành ngữ mà trong cách nói chuyện hàng ngày, chúng ta có khuynh hướng nói tắt bất chấp ngữ nghĩa và ngữ pháp miễn sao thuận miệng và người khác vẫn hiểu. Có một phần yếu tố vùng miền trong những cách nói tắt, nói rút gọn. Ví dụ người miền Bắc nói “áo (để giữ) ấm” thì miền Nam lại gọi đó là “áo (mặc cho khỏi) lạnh” và thế là “áo ấm” và “áo lạnh” trở thành hai từ đồng nghĩa mặc dù “lạnh” và “ấm” hoàn toàn trái nghĩa. Miền Bắc có từ “kẻo” mang nghĩa “để không” ví dụ “Đi cẩn thận kẻo ngã” (Đi cẩn thận để không ngã) thì miền Nam lại có khuynh hướng bỏ bớt từ “không” trong cụm “để không” khi nói “Đi cẩn thận để té” hoặc “mặc thêm cái áo vô để lạnh”. Cách nói này nếu người nghe đã quen vẫn hiểu đúng nghĩa nhưng đối với người nước ngoài, nó gây ra sự hoang mang vô cùng (tại sao lại phải đi cẩn thận ĐỂ té? Hoặc tại sao phải mặc thêm cái áo vào ĐỂ lạnh?). Miền Bắc rút gọn cụm từ “giấy dùng để chùi miệng sau khi ăn” thành “giấy ăn” (miền Nam gọi là “khăn giấy”) khiến cho nhiều người nếu không phải ở miền Bắc sẽ nghĩ rằng “giấy này dùng để ăn”. Một trong những nguyên nhân khiến người Việt Nam học tiếng Anh rất khổ sở khi học về giới từ (preposition) vì trong tiếng Việt, giới từ cũng có khuynh hướng bị lượt bỏ rất nhiều. Ví dụ “đi để làm việc” hoặc “đi để chơi” sẽ được nói gọn thành “đi làm” và “đi học”. “Đi đến Châu Âu” sẽ được nói gọn thành “đi Châu Âu” và “đi bằng xe máy” sẽ được nói gọn thành “đi xe máy”. Lưu ý rằng những trường hợp này giới từ “để” ,”tới” và “bằng” đều có ý nghĩa khác nhau nhưng đều được tùy tiện giản lược trong khi trong tiếng Anh, những giới từ này không thể lượt bỏ. 5. Sự thiếu nhất quán về phương hướng trong tiếng Việt: Trong tiếng Anh, hai chữ “here” (ở đây) và “there” (ở đó) được hiểu rất nhất quán: ngay trước mặt người nói hoặc ngay tại chỗ hai người đối thoại đang đứng thì dùng “here” còn ngoài phạm vi đó thì dùng “there”. Trong tiếng Việt, thay vì nói“bạn đặt nó ở đằng kia”, một người vẫn có thể chỉ tay đến một nơi khác và bảo người kia: “bạn đặt nó ở đây này!” (“Ở đây” được hiểu là nơi mà người nói chỉ tới). Nếu dịch câu này sang tiếng Anh thành “You can put it HERE”, người nghe sẽ đặt món đồ đó ngay trước mặt bạn. Hoặc khi bạn chỉ vào một tấm ảnh chụp một nơi nào đó và nói rằng: “Tôi đã từng tới đây” thì người nghe sẽ hiểu rằng bạn đã từng tới nơi trong ảnh. Còn trong tiếng Anh, bạn phải nói “tôi đã từng tới ĐÓ” vì khi bạn nói “Tôi đã từng tới ĐÂY”, người nghe sẽ hiểu rằng bạn đã từng tới nơi mà cả hai đang ngồi. Sự thiếu nhất quán giữa “đây” và “đó” trong tiếng Việt gây rất nhiều phiền phức khi diễn đạt sang tiếng Anh và gây ra sự bối rối của cả người nói lẫn người nghe và kéo theo nhiều khái niệm khác cũng bị hiểu sai. Ví dụ “this” (cái này) và “these” (những cái này) dùng để chỉ vật ngay trước mặt (tương ứng với “here”) và “that” (cái kia) và “those” (những cái kia) dùng để chỉ vật cách xa mình (tương ứng với “there”) cũng rất hay bị người Việt dùng nhầm lẫn khi nói tiếng Anh. Thử nghĩ bạn đi nước ngoài mua sắm, người bán hàng sẽ rất bối rối khi bạn không nhận cái áo mà người ấy đưa cho bạn và chỉ vào một chiếc áo khác rồi bảo: “I want THIS one please” thay vì nói rằng “I want THAT one”. Người miền Nam thường hay nói “ở dưới quê lên tỉnh” hoặc “dưới quê lên thành phố”. Nhưng cách nói này nếu dịch sang tiếng Anh sẽ gây khó hiểu vì “ở dưới đi lên” chỉ có nghĩa khi hai nơi này có vị trí địa lý chênh lệch về độ cao vật lý. Ví dụ, bạn có thể nói từ Sài Gòn lên Đà Lạt vì Sài Gòn rõ ràng thấp hơn Đà Lạt nhưng nếu bạn nói ở Bến Tre hoặc Cần Thơ lên Sài Gòn. Thật ra cách nói này ảnh hưởng cách nói ngày xưa “thượng kinh” có nghĩa là “lên kinh đô” với hàm ý từ nơi quê mùa lạc hậu đi tới nơi văn minh hơn, sang trọng hơn. Đây là cách nói mang tính kì thị nhưng do dùng quá lâu thành quen nên chúng ta vẫn sử dụng mà không nghĩ ngợi gì nhiều về nó. Sự thiếu nhất quán về mặt phương hướng trong tiếng Việt khiến cho những từ đáng lẽ khác nghĩa hoặc thậm chí là trái nghĩa nhưng dùng trong những ngữ cảnh nhất định lại trở thành đồng nghĩa. Ví dụ tôi nói rằng: “Cậu ấy chưa RA ĐỜI, chưa va chạm nhiều nên chưa có kinh nghiệm sống” và “Hành trang VÀO ĐỜI của anh ta chỉ có những kiến thức học được trong trường” thì “RA ĐỜI” và “VÀO ĐỜI” là hai tổ hợp từ cùng nghĩa trong khi “RA” và “VÀO” hoàn toàn trái nghĩa. “Đứng TRÊN mặt đất” và “đứng DƯỚI mặt đất” đồng nghĩa với nhau mặc dù “TRÊN” và “DƯỚI” là hai từ trái nghĩa. Tương tự “TRONG cuộc đời này” và “TRÊN đời này” là hai cụm từ đồng nghĩa nhưng “TRONG” và “TRÊN” chỉ hai vị trí khác nhau. Ngược lại, cùng một từ chỉ vị trí trong tiếng VIỆT lại có thể chỉ hai vị trí hoàn toàn khác nhau. Khi tôi nói “nón đội TRÊN đầu” chúng ta sẽ hiểu rằng chiếc nón TIẾP XÚC TRỰC TIẾP ở phần trên của đầu” nhưng “mây che TRÊN đầu” thì rõ ràng không ai hiểu rằng mây tiếp xúc trực tiếp trên đầu mà có một khoảng cách với đầu chúng ta. Trong hai ngữ cảnh này, từ “TRÊN” được thể hiện bằng hai giới từ khác nhau trong tiếng Anh với nghĩa hoàn toàn rõ ràng là “ON” dùng cho trường hợp nằm trên và tiếp xúc trực tiếp và “ABOVE” là ở trên nhưng có khoảng cách. Tôi xin tạm thời kết thúc việc phân tích ngôn ngữ ở đây để có thể chuyển sang những yếu tố khác để chứng minh sự hời hợt trong tư duy của người Việt. Tôi cũng xin nhắc lại là tôi không có ý bôi nhọ hay bêu xấu tiếng Việt mà chỉ muốn chỉ ra những điểm chưa nhất quán hoặc chưa logic trong tiếng Việt (Ngôn ngữ nào cũng có điều này, nhưng vấn đề là nhiều hay ít). Sự thiếu chuẩn xác và logic trong tiếng Việt phần nào thể hiện tư duy chưa được sâu sắc và dễ dãi đồng thời cũng khiến cho việc suy nghĩ bằng tiếng Việt không được logic và lý tính như khi bạn tư duy bằng tiếng Anh hoặc tiếng Đức (với điều kiện bạn phải thành thạo những ngôn ngữ trên). Điều tôi có thể khuyên các bạn là nếu muốn học tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Anh cho hiệu quả, chúng ta phải hết sức lưu ý đến cách tư duy của người bản ngữ chứ đừng áp dụng cách tư duy của người Việt vào. Nếu không làm được điều này, bạn sẽ không bao giờ trở nên thông thạo được ngôn ngữ cần học
Tumblr media
Chúng ta hay nhắc tới khái niệm “dân tộc tính”, một khái niệm nói về tập hợp những tính cách nổi bật và đặc trưng của một dân tộc. Những tính cách đặc trưng của một dân tộc phụ thuộc vào những điều kiện ngoại cảnh của môi trường sống ví dụ như địa lý, khí hậu, lịch sử, chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa…Rất khó có thể tách rời một yếu tố ra để xem xét đơn lẻ vì mỗi yếu tố đều có những ảnh hưởng nhất định tới tính cách của dân tộc đó. Chúng có thể bổ sung cho nhau để hình thành nên một số tính cách nhưng cũng có thể khắc chế lẫn nhau. Nếu những yếu tố như địa lý, khí hậu là những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của con người thì ngược lại những yếu tố như hệ tư tưởng, kinh tế và chính trị lại do con người tạo ra và có thể thay đổi được. Điều này giải thích tại sao có những quốc gia có vị trí địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu tương đối giống nhau nhưng có những tính cách khác nhau hoặc cùng một quốc gia nhưng khi có sự thay đổi về hệ tư tưởng, tôn giáo và chính trị thì tính cách của dân tộc đó cũng thay đổi. Hôm nay tôi muốn phân tích sơ lược những yếu tố này để xem chúng đã ảnh hưởng tới tính cách của người Việt Nam ta như thế nào trong suốt chiều dài lịch sử. Sự thiếu vắng của nền thương nghiệp và hàng hải là một thiếu sót quan trọng: Chúng ta chắc ai cũng biết những điều cơ bản về địa lý, địa hình và khí hậu Việt Nam nên tôi chỉ nhắc lại sơ lược mà đi quá chi tiết về chúng. Điều tôi muốn nói ở đây là Việt Nam mặc dù có một đường bờ biển dài 3260 km từ Bắc xuống Nam nhưng điều kì lạ là Việt Nam chưa hề phát triển ngành hàng hải và ngoại thương trong suốt lịch sử phát triển của đất nước. Ngay cả những cư dân sống dọc vùng duyên hải cũng chỉ chọn nghề chài lưới kiếm ăn chứ chưa bao giờ có khái niệm về hàng hải. Lịch sử Việt Nam không có những ghi chép về những hạm đội, những đội thương thuyền, hải tặc hay những nhà thám hiểm của người Việt. Ngay cả ngoại thương của người Việt trong lịch sử cũng chỉ hạn chế ở việc các thuyền buôn nước ngoài cập cảng ở Việt Nam để buôn bán và trao đổi chứ không có thuyền buôn của người Việt ra nước ngoài để lấy hàng hoặc buôn bán. Nếu xét trong lịch sử thế giới, những quốc gia ở Châu Âu có địa hình là đảo hoặc quần đảo hoặc có lợi thế đường bờ biển đều rất phát triển về hàng hải và ngoại thương. Người Hi Lạp từ thời cổ đại đã dong buồm đi khắp khu vực Địa Trung Hải để giao thương với Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), Ý, Ai Cập và Babylon. Hải tặc Viking ở Bắc Âu là những nhà hàng hải kiệt xuất thời Trung Cổ. Đến thời Cận Đại, những quốc gia như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã lợi dụng địa hình có nhiều bờ biển của mình để phát triển ngành hàng hải với khát vọng chinh phục thế giới để mở rộng lộ trình giao thương trên biển và tìm ra những lục địa mới để biến chúng thành thuộc địa của mình. Và nếu xét những sản phẩm trong nước để trao đổi với các thương nhân nước ngoài ở Hội An thế kỷ XVI- XVIII, ta thấy những mặt hàng chúng ta bán phần lớn đều là ở dạng nguyên liệu thô khai thác từ thiên nhiên như trầm hương, kỳ nam, gỗ quý, sừng tê, ngà voi, đồi mồi… hoặc những sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, hồ tiêu, tơ tằm… Chỉ có hai mặt hàng thủ công mang tính chất thành phẩm được thương nhân nước ngoài ưa chuộng ở Việt Nam là các loại vải vóc được dệt từ tơ tằm và đồ gốm sứ (nhưng hai sản phẩm này vẫn không được ưa chuộng bằng đồ Trung Quốc và Nhật Bản vì không tinh xảo bằng). Ngược lại, những tàu buôn nước ngoài mang vào bán ở Hội An những sản phẩm được chế tác hoàn hảo. Một giáo sĩ Bồ Đào Nha thuộc dòng Jésuite là Valentin Corvalho, ghi lại: “Còn thuyền buôn đến từ Trung Quốc mang các thứ hàng hóa là “ sa, đoạn, gấm, vóc, vải, các vị thuốc, giấy vàng bạc, hương vòng, các thứ đồ giấy, kim tuyến, ngân tuyến, các thứ phẩm, y phục, giầy tốt, nhung, đơ ra, kính, pha lê, quạt giấy, bút, mực, kim, cốc áo, các thứ bàn ghế, các thứ đèn lồng, các thứ đồ đồng, các thứ đồ sứ đồ sành; đồ ăn uống thì các loại như lá chè, cam, chanh, lê, táo, hồng, bánh, miến, bột mì, tram muối, đầu thái, trứng muối, tương gừng, tương ngọt, đậu phụ, rau kim châm, mộc nhĩ, nấm hương…” bán rất chạy, thu được nhiều lợi nhuận, không hề bị ế đọng.Ví như các tàu buôn của thương nhân Hà Lan đến từ Surate và Coromandel đã đem theo vải vóc, chì, hỏa tiêu, …[11] Thuyền buôn đến từ nước Pháp thì bán khí giới, sắt, đồng, vải vóc, và mua trở về đường, lụa thô[12]. Thuyền đến từ Bồ Đào Nha mang theo các mặt hàng như: bàn chải, kim khâu, vòng tay, hoa tai bằng thủy tinh, mũ nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi và tất cả các loại áo… Đọc những dòng ghi chép trên, không biết các bạn có suy nghĩ giống tôi rằng người Việt Nam hầu như rất kém trong việc chế tạo ra những sản phẩm. Không chỉ có những sản phẩm có trình độ khoa học kỹ thuật cao mới có thể sản xuất được như pha lê, khí giới, súng ống…, những thứ gần như rất thông dụng như bàn chải, kim khâu, trứng muối mà “cũng bán rất chạy thu được nhiều lợi nhuận, không bị ế đọng” thì lạ quá. Câu hỏi tôi muốn đặt ra là tại sao người Việt Nam lại phải nhập khẩu những thứ đó qua nhiều thế kỷ mà không tự bản thân mình học cách sản xuất ra chúng. Và tại sao những gì chúng ta bán đi cho nước ngoài là những nguyên liệu thô chứ không phải là những sản phẩm được chế tác tinh xảo từ những nguyên liệu thô đó với giá cao hơn? Kinh tế truyền thống của Việt Nam từ bao đời vẫn không hề thoát khỏi nền nông nghiệp lúa nước thô sơ lạc hậu. Với những lợi thế về địa hình như đồng bằng, sông ngòi và khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thích hợp cho việc trồng lúa nước, người Việt Nam dường như không nghĩ tới việc khai thác những lợi thế của đường bờ biển mà chỉ tập trung ở những vùng đồng bằng châu thổ để trồng lúa và xem đó như là nền kinh tế chủ đạo. Một đặc điểm nữa là người Việt Nam rất coi trọng văn hóa làng xã và gần như rất sợ phải đi xa khỏi quê nhà của mình. Một trong những nỗi sợ lớn nhất của người Việt là nỗi sợ phải đi “tha phương cầu thực” (đi kiếm ăn ở xứ khác), nhiều khi “xứ khác” này cũng chẳng phải xa xôi gì mà chỉ là làng kế bên hoặc tỉnh kế bên mà thôi. Trong tất cả các cuộc chiến ngoại xâm của Việt Nam cũng như những cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại triều đình phong kiến, điều khiến cho người dân nổi dậy chống giặc là khi làng mạc bị cướp bóc, đất đai bị chiếm, người dân không còn nhà để ở và không còn đất để cày. Tuyệt đối không có bóng dáng của một động cơ chính trị nào quan trọng hơn là mất đất mất làng, không có lý tưởng hay tư tưởng gì ở đây cả. Văn Minh Tân Học Sách năm 1908 có viết: “Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy. Nước ta có thế không? Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! Ở lữ thứ vài năm đã than thở quan hà đầu bạc! Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao Miên không ai chịu đặt chân tới; ngay đến Trung Hoa đối với ta cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đặt chân đến thành Ngũ Dương (tên gọi cũ của Quảng Châu) cả.” Quốc dân độc bản năm 1907 cũng nói: “(người Việt) không nghĩ gì ngoài bát gạo hạt muối, chân không hề bước đi đâu một bước. Xa gia đình làng xóm trăm dặm là nước mắt đã ướt áo, ra khỏi ngõ mười ngày đã sốt ruột muốn về.” Cái tư tưởng “xa quê hương, nhớ mẹ hiền” rất tiêu biểu trong đời sống văn hóa người Việt ngay trong cả đời sống ngày nay khi con người đã bay lên tới Mặt Trăng. Bạn nào tinh ý sẽ thấy những bài viết thương quê, nhớ mẹ, nhớ khói bếp nhớ lũy tre làng xuất hiện rất nhiều trong văn chương hiện đại Việt Nam, nhất là trong những tác phẩm thơ văn in trong báo Xuân hoặc trong âm nhạc và sân khấu. Dĩ nhiên cái gì cũng có hai mặt của nó. Gắn bó với quê cha đất tổ không có gì là xấu nếu như điều này không kìm hãm tư duy và chí tiến thủ của người Việt sau lũy tre làng và trói buộc nó xung quanh cây đa giếng nước. Với nền kinh tế tự cung tự cấp miễn sao là không phải sợ thiếu ngày hai bữa, những người dân sống ở nông thôn sẽ không phát triển được tư duy cầu tiến chịu học học một cách sâu sắc. Những sản phẩm thủ công được làm ra lúc nhàn rỗi cũng chỉ để bán hoặc trao đổi cho những người trong làng xóm hoặc cùng lắm là làng bên nên miễn sử dụng được là xong, không cần sự cầu kỳ tinh xảo. Do không có nhu cầu thương mại với bên ngoài, những nông cụ thô sơ cứ tồn tại như thế đời này qua đời khác mà không cần cải tiến vì có thừa nông sản cũng chẳng để làm gì. Và cứ mỗi xóm mỗi làng có được một ông thầy đồ hay một cậu tú tài biết được mấy chữ trong sách Thánh Hiền thì làng ấy đã có thể tự hào sung sướng rồi, cần gì phải tìm hiểu học hỏi thêm những thứ mà Khổng Mạnh không dạy. Cứ suy nghĩ một cách khách quan và nghiêm túc rằng giữa những dân tộc chịu đi đây đi đó, giao thương khắp nơi trên thế giới, chịu tiếp thu những luồng tư tưởng và văn hóa khác biệt, tận mắt thấy tai nghe những điều kỳ lạ và những dân tộc suốt đời chỉ quanh quẩn trong làng xóm của mình, ngoài quanh năm suốt tháng cày cấy ngoài đồng, đến khi rảnh rỗi thì lo ăn chơi cờ bạc rượu chè cùng với hội hè đình đám mà không bao giờ tiếp thu cái hay cái mới bên ngoài, dân tộc nào có tư duy phong phú và sâu sắc còn dân tộc nào có tư duy đơn giản hời hợt? Châu Âu có sự thay đổi lớn về mặt tư tưởng triết học qua các thời Phục Hưng, Khám Phá, Khai Sáng và các cuộc cách mạng công nghiệp phần lớn nhờ người Châu Âu không vừa lòng với việc ở yên một chỗ và chấp nhận những gì đang có. Từ thế kỷ XVI, Châu Âu đã có những trường đại học để dạy những môn khoa học và triết học thì các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ của đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam vẫn chen chúc nhau tham dự kì thi mà cơ bản là không có gì thay đổi từ khi nhà Lý mở khoa thi đầu tiên cách đây 1000 năm với những “Tứ Thư Ngũ Kinh” của Khổng Mạnh để cầu chút vinh hoa hão để về bái tổ vinh quy. Đối với họ việc “thượng kinh ứng thí” thì coi như là vĩ đại và ghê gớm lắm rồi. Và những vị khoa bảng này cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ của dân số Việt Nam, còn lại tuyệt đại đa số là mù chữ và chưa hề bước ra khỏi làng mình nửa bước.
Tumblr media
Rất nhiều người Việt Nam, nhất là những người ở tuổi cha mẹ tôi thường sẽ có những phản ứng khá mạnh mỗi khi giới trẻ có những phát biểu mang tính chỉ trích đối với những vấn đề được mặc định là “truyền thống dân tộc” đặc biệt là những chuyện liên quan đến tôn ti trật tự hoặc cúng quải giỗ chạp. Trong tâm thức của họ, những gì của ‘ông bà ta để lại” thì mặc nhiên là đúng và không được quyền lên án hoặc xem xét lại. Cũng như có rất nhiều người ngày rằm mồng một đều rất siêng ăn chay và đi chùa, những nghi thức cúng bái cầu siêu cầu an hóa vàng phóng sinh… không có gì là không rành nhưng khi chỉ lên những tượng Phật trong chùa hỏi đây là ai thì ngoài Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm ra, những vị phật khác đều mù tịt. Có những người đến các ngày vía ông vía bà đều đi hành hương đền nọ miếu kia nhưng ngoài việc cầu lợi lộc cho bản thân như tình duyên gia đạo, mua may bán đắt, họ đều không quan tâm đến chuyện nơi mình mang lễ đến khấn vái thờ thần hay thờ quỷ, miễn sao là nghe người khác đồn là nơi đó linh thiêng lắm là cứ thế mà đến lễ bái nhang đèn. Nhìn chung, đời sống tinh thần và tâm linh của người Việt Nam chúng ta khá hời hợt và chứa đầy những mâu thuẫn nội tại trải qua suốt bao nhiêu năm tháng nhưng lại có rất ít những thay đổi mang tính chất bước ngoặc. Bài viết này sẽ phân tích khía cạnh tôn giáo và đời sống tinh thần của người Việt Nam. Nếu đi ngược về lịch sử của Việt Nam từ thời sơ khai thì người Việt cổ không có tôn giáo và hệ tư tưởng triết học mà chỉ có những tín ngưỡng dân gian bái vật và phồn thực. Đến thời kỳ Bắc thuộc trên 1000 năm, tam giáo Lão, Nho, Phật được du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam và trở thành hệ tư tưởng chính thống của người Việt và ngay cả khi giành được độc lập thì các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn xây dựng đời sống tinh thần và chính trị xã hội Việt Nam dựa trên cái nền tảng tam giáo này từ đời nhà Đinh (thế kỷ thứ 10) đến đời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ thứ 20). Như vậy nếu tính sơ sơ thì nền tảng tư tưởng do tam giáo tạo ra đã tồn tại và bám rễ ở Việt Nam trong suốt ít nhất là 2000 năm, một khoảng thời gian cực kỳ dài. Và vì thế dù muốn dù không, chúng ta phải xét đến sự ảnh hướng của tam giáo đối với đời sống tinh thần cũng như tính cách của người Việt Nam. Khi tôi viết những bài lên án Nho Khổng và những hậu quả nặng nề của nó để lại đối với tư duy của người Việt Nam, có rất nhiều người gửi cho tôi những tin nhắn rất dài nhằm giải thích với tôi rằng Nho giáo không xấu và Khổng Tử không có lỗi. Điều này cũng tương tự như cố gắng giải thích cho tôi nghe rằng học thuyết xã hội chủ nghĩa của Karl Marx không sai lầm và Marx không có lỗi khi chủ nghĩa xã hội của ông trở thành một con quái vật trên toàn cầu. Khách quan mà nói, bất cứ một học thuyết hay một hệ tư tưởng triết học nào trên thế giới cũng đều chứa đựng cả hai mặt tốt và xấu, tiến bộ và hạn chế. Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo hay triết học cổ đại phương Tây của Socrates, Plato và Aristotle cũng thế. Vấn đề ở chỗ là khi một hệ tư tưởng chiếm vai trò độc tôn và bảo thủ không thay đổi thì nó chắc chắn sẽ trở nên lạc hậu không hợp thời và bị lợi dụng để phục vụ cho quyền lợi của một nhóm người nào đó. Tam giáo ở Trung Quốc và ở Việt Nam trong suốt lịch sử phong kiến không có những thay đổi cốt lõi mang tính chất cách mạng mà trái lại ngày càng biến tướng tinh vi hơn để làm công cụ khóa chặt tư tưởng của con người. Đầu tiên xin được nói về Nho giáo. Khổng Tử và Mạnh Tử là những người đặt ra nền móng của hệ tư tưởng Nho giáo có công trong việc đưa ra những quy chuẩn trong việc ứng xử xã hội cũng như nghĩa vụ của những tầng lớp khác nhau nhằm tạo ra một xã hội có trật tự thống nhất và dễ điều hành hơn khiến cho nhà nước phong kiến tập quyền có thể củng cố quyền lực tối đa. Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử từ chế độ phong kiến sơ khai thời Ân-Chu để trở thành chế độ phong kiến chuyên chế thời Tần-Hán và các triều đại Trung Quốc sau này. Nhưng khi phong thánh Khổng Mạnh và thần thánh hóa những gì thuộc về Nho giáo (chữ Thánh Hiền, sách Thánh Hiền) thì chế độ phong kiến đã rất thành công trong việc dùng hệ tư tưởng Nho giáo này để làm người dân ngu muội và tuân phục vì những lý do sau đây: 1. Đã là Thánh nhân thì cái gì liên quan tới họ đều đúng, cấm cãi, chỉ được ca ngợi và học theo chứ không được phê phán hoặc phản biện. Điều này khiến Tứ Thư Ngũ Kinh được tôn sùng suốt hai ngàn năm mà không hề có một lời chỉ trích hoặc phê bình từ những người gọi là có học. 2. Nho giáo đề cao tính tôn ti trật tự theo kiểu dưới phải phục tùng trên mà không được quyền chống đối hoặc phản kháng cho dù trên có như thế nào đi nữa (thần tử phục tùng vua, con cái phục tùng cha mẹ, học trò phục tùng thầy, vợ phục tùng chồng). Mặc dù đạo quân thần, sư đồ, phu phụ và phụ tử trên lý thuyết đều mang tính hai chiều nhưng trên thực tế những kẻ ngồi chiếu trên nếu có cư xử không phải đạo hoặc thậm chí là bá đạo cũng đều được giơ cao đánh khẽ chứ không bị trừng trị thẳng tay như trong trường hợp những kẻ chiếu dưới lỗi đạo. 3. Nho giáo đề cao đạo học của Khổng Mạnh nhưng coi thường thậm chí bài xích và triệt tiêu những hệ tư tưởng triết học khác để chiếm vị trí độc tôn về mặt tư tưởng. Điều này khiến cho người theo Nho giáo trở nên kiêu căng và ngu dốt vì tưởng rằng những gì mình biết là chân lý và có thái độ khinh rẻ những tư tưởng tiến bộ. Chính vì thái độ ếch ngồi đáy giếng đó mà nhà Thanh của Trung Quốc và nhà Nguyễn của Việt Nam đã nếm mùi thất bại cay đắng trước kỹ thuật quân sự hiện đại của phương Tây dẫn đến việc mất nước. 4. Nho giáo coi rẻ khoa học và thương nghiệp vốn là những yếu tố nền tảng để phát triển đất nước. Điều này khiến cho toàn bộ nền kinh tế của những nước Nho giáo đều trông cậy vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lỗi thời lạc hậu. Trong khi đó tầng lớp Nho sĩ với vốn kiến thức vô dụng của mình lại được xã hội coi trọng trong khi họ chính là thành phần ăn bám. 5. Nền giáo dục khoa cử Nho giáo không coi trọng việc tìm ra cái mới mà coi trọng việc lục tìm trích dẫn điển xưa tích cũ (cổ nhân có câu…), không coi trọng tính ứng dụng mà thích những thứ sáo rỗng phù phiếm (ngâm vịnh ca ngợi phong hoa tuyết nguyệt nhưng lại rất kém về những thường thức đời sống…), không thích việc tìm ra chân lý mà thích việc lấy lòng bề trên bằng việc ca ngợi công đức của vua, của cha mẹ của thầy…Đó là những bức tường về mặt tư tưởng giam cầm những người theo Nho học khiến cho họ tưởng rằng mình là người hiểu biết nhưng thật ra rất ngu dốt và thủ cựu. 6. Nho giáo đề cao thuyết “thiên mệnh” cho rằng chỉ có một dòng họ có quyền làm chủ đất nước và cai trị muôn dân. Thuyết thiên mệnh đánh tráo khái niệm “quốc gia” với khái niệm “triều đình”, “dân tộc” với “hoàng tộc”. Người dân trung thành với quốc gia và dân tộc đồng nghĩa phải trung thành với triều đình và hoàng tộc. 7. Nho giáo trọng nam khinh nữ khiến cho nguồn lực về con người bị lãng phí vô cùng nghiêm trọng vì phụ nữ không được học hành, không được làm việc mà chỉ nghĩ tới chuyện tam tòng tứ đức, biến bản thân mình thành máy đẻ và nô lệ phục dịch cho gia đình nhà chồng mà còn coi đó là những điều đáng tự hào. 8. Nho giáo phức tạp hóa những phép cư xử giữa người với người vốn cần sự chân thành và thân mật trở và biến nó thành những lễ nghi cầu kỳ phiền phức khiến con người rất dễ vướng vào những cái bẫy mang tên “lễ nghĩa” hoặc dùng lễ nghĩa để che giấu cảm xúc thật bên trong. Về lâu về dài, việc tuân thủ theo lễ nghĩa mang tính chất thủ tục nhưng không phải xuất phát từ tình cảm thật khiến con người trở nên khách sáo và đạo đức giả. 9. Nho giáo dùng danh lợi và bổn phận trói buộc con người khiến con người xem việc dùng chữ nghĩa kiếm chút công danh và bổng lộc về vun đắp cho gia tộc là lẽ sống của cuộc đời. Khái niệm “chí làm trai” của Nho giáo chỉ để cập tới việc học hành đỗ đạt làm quan vinh quy bái tổ phụng sự triều đình tuyệt đối không nhắc đến việc tìm hiểu, khám phá, sáng tạo và tìm kiếm chân lý. Trong xã hội phong kiến ngày xưa, việc “học chữ Thánh hiền” được xem là đặc quyền đặc lợi chứ không phải là quyền bình đẳng của con người. Điều này dẫn đến việc đại đa số dân chúng đều mù chữ, còn một số rất ít những kẻ có tí chữ nghĩa thì hợm hĩnh kiêu căng, cậy mình đọc được Tứ Thư Ngũ Kinh thì coi như đã ôm hết trí tuệ thiên hạ vào lòng, xem việc bán mạng trung thành với triều đình là hoài bão ý chí lớn lao của nam nhi, xem việc có một chức quan trong triều, xây được cái nhà từ đường cho to và cưới năm thê bảy thiếp về đẻ con đàn cháu đống là sở nguyện của một đời người. Có thể nói, Nho học gần như là một thứ đặc quyền đặc lợi dành cho những kẻ cai trị. Còn đối với dân đen chiếm số đông trong xã hội, những người một chữ bẻ đôi cũng không biết thì chuyện hiểu sâu xa lời giảng của Khổng Mạnh là không tưởng. Nho giáo được phổ biến trong dân gian bằng ca dao tục ngữ, truyện Nôm và những tuồng hát hầu hết lấy từ những điển tích cổ của Trung Quốc ca ngợi tam tòng tứ đức và tam cương ngũ thường hoặc qua những ông thầy đồ biết được dăm ba chữ lẻ về gõ đầu trẻ trong làng mà dân làng hết sức nể sợ. Đối với đại đa số dân đen, Nho giáo được hiểu đơn giản qua một số khái niệm mặc định sau: 1. Chuyện quốc gia đại sự là của triều đình chứ thứ dân không có quyền lên tiếng mà phải cam phận con sâu cái kiến. Vua tốt thì dân nhờ, vua ngu thì dân chịu. Phản lại vua và phản lại triều đình là phản lại quốc gia và dân tộc. 2. Đã là dân thì phải phục tùng vua quan, đã là con thì phải phục tùng cha mẹ, đã là học trò thì phải phục tùng thầy, và đã là vợ thì phải phục tùng chồng. Bất cứ hành động hoặc suy nghĩ nào trái lại với tư tưởng nói trên đều là đại nghịch bất đạo. 3. Con người sống trên đời phải biết lo an cư lạc nghiệp và an phận thủ thường, miễn sao ngày có hai bữa cơm, tối về có chỗ chui ra chui vào là đủ. 4. Mục đích sống lớn nhất của người đàn ông là thăng quan tiến chức, trung thành với triều đình, lo tròn chữ hiếu với cha mẹ và sinh con trai nối dõi. 5. Mục đích sống lớn nhất của người đàn bà là lấy chồng, sinh con trai nối dõi cho chồng và quán xuyến gia đình nhà chồng. 6. Mục đích lớn nhất của việc học hành là biết tuân phục và để lập công danh chứ không phải để nâng cao hiểu biết và giải phóng về mặt tư tưởng. Với hơn 2000 năm chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, những khái niệm về nhân quyền, dân chủ, quyền bình đẳng, tự do hay phản biện dường như vẫn còn rất xa lạ đối với đại đa số người Việt đặc biệt là những người dân sống ở nông thôn. Một trăm năm ảnh hưởng của văn hóa phương Tây vẫn là quá ít so với 2000 năm Nho Khổng. Hãy nhìn lại xã hội Việt Nam ngày nay để so sánh xem những tư tưởng này vẫn còn đó hay đã mất?
Tumblr media
Ảnh hưởng của Đạo giáo (Lão giáo) đối với tư duy và đức tin của người Việt Nam Bài viết lần này tôi muốn đề cập tới những hạn chế của Lão giáo hay còn gọi là Đạo giáo đối với khả năng nhận th���c của đại đa số người Việt. Tôi biết đụng chạm đến những vấn đề như ngôn ngữ, tôn giáo hoặc truyền thống là một điều không hề dễ dàng vì đó là niềm tin của nhiều người. Tuy nhiên, sẽ không khách quan và đầy đủ khi chúng ta không xét tất cả những khía cạnh này trong việc hình thành tập quán tư duy cũng như tính cách của một cộng đồng. Một lập luận phổ biến của nhiều người không đọc kỹ những bài viết của tôi là: “Tôn giáo nào cũng dạy người ta hướng thiện, làm người tốt”. Tôi không phủ nhận điều này nhưng xét về góc độ khoa học, tôi muốn mọi người trước khi nhận xét đánh giá hai điều quan trọng: 1. Những triết lý và tư tưởng của tôn giáo đó được áp dụng vào xã hội như thế nào? Sâu sắc và đúng đắn hay hời hợt và sai lầm? Có tốt đẹp và tích cực như trên lý thuyết hay không và có thúc đẩy xã hội phát triển hay bị lợi dụng theo hướng ngu dân hóa? 2. Triết lý hoặc tư tưởng đó có chịu dung nạp và cạnh tranh công bằng với những tư tưởng mới tiến bộ hơn hay tìm mọi cách chèn ép cấm đoán những tư tưởng khác để giữ vị trí độc tôn trong xã hội? Hi vọng mọi người phản biện theo lý tính, đừng theo cảm tính. Một tôn giáo luôn luôn có hai phần: giáo lý và tín ngưỡng. Nếu ví tôn giáo như một tảng băng thì giáo lý, hay còn gọi là phần triết lý của tôn giáo đó, là cốt lõi của một tôn giáo và là phần chìm sâu dưới đáy. Để hiểu được trọn vẹn phần giáo lý của một tôn giáo không phải là một điều đơn giản. Thứ nhất giáo lý của các tôn giáo đều được viết bằng những ngôn ngữ cổ và việc phiên dịch dù muốn dù không cũng không thể truyền tải hết ý nghĩa của giáo lý đó. Thứ hai, để nghiên cứu giáo lý của một tôn giáo, người nghiên cứu cần có một trình độ hiểu biết nhất định và rất nhiều thời gian để dành cho việc nghiên cứu. Người dịch kinh sách có thể cố tình diễn giải theo ý mình vì trình độ không đủ hoặc theo mục đích riêng của mình để thao túng các tín đồ. Phần lớn những người theo tôn giáo chỉ tiếp xúc với phần giáo lý qua những lời giảng của người đại diện cho tôn giáo (linh mục, mục sư, hòa thượng…) với hình thức rút gọn gọi là giáo điều chứ ít khi có người có đủ trình độ, điều kiện và thời gian để nghiên cứu giáo lý một cách bài bản. Một lần nữa, giáo điều này được giảng giải chính xác hay mơ hồ, theo hướng tích cực hay tiêu cực , có dụng ý chính trị hay không đều phụ thuộc vào trình độ và ý đồ của người giảng giải. Và tùy theo trình độ nhận thức cũng như mức độ sùng tín của tín đồ mà những giáo điều này có được suy luận theo hướng phản biện hay là mù quáng tuân theo. Lão giáo (hay Đạo giáo) là tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc ra đời rất lâu trước Khổng giáo và là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Bắt nguồn từ những tín ngưỡng dân gian và những triết lý giải thích sự hình thành thế giới của người Trung Quốc cổ đại, Lão giáo từng bước được hình thành và hoàn thiện thành một tôn giáo có giáo lý và nghi thức hoàn chỉnh. Giáo lý của Lão giáo tập trung trong ba tác phẩm Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh. Nền tảng lý luận của Đạo giáo được trình bày qua tác phẩm Kinh Dịch, tương truyền là thư tịch cổ nhất của Trung Quốc được truyền từ thời Phục Hy, một vị vua trong thần thoại. “Dịch” có nghĩa là thay đổi và dịch chuyển chỉ sự vận động không ngừng của vũ trụ. Kinh Dịch đưa ra những khái niệm giải thích sự hình thành vạn vật vẫn còn phổ biến đến ngày nay như Thái Cực (hợp nhất, hỗn mang) sinh Lưỡng Nghi (âm và dương) sinh Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm) sinh Bát Quái (tám quẻ đơn gồm Càn (trời), Khôn (đất), Cấn (núi), Tốn (gió), Chấn (sấm sét), Khảm (nước), Ly (lửa) và Đoài (ao hồ)) và sáu mươi tư quẻ kép (do bát quái chồng lên nhau). Cùng với Ngũ Hành (Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ), Lưỡng Nghi chi phối mọi sự sinh diệt của những vật chất hữu hình trong vũ trụ. Tất cả được gọi chung là Đạo (con đường). Tư tưởng chủ yếu của Đạo giáo lúc bấy giờ là con người sống chan hòa với thiên nhiên vì con người vốn là một phần của thiên nhiên. Muốn vất bỏ ưu phiền trong cuộc sống con người phải rũ bỏ được những ham muốn về danh lợi tiền tài. Trong Đạo giáo, những người có thể hiểu được lẽ âm dương tuần hoàn của đất trời thiên nhiên mới là cái đạo đúng sống cho phù hợp được gọi là “chân nhân” (con người thật sự). Những vị chân nhân này thường từ bỏ cuộc sống thế tục để lên núi tu luyện bằng cách luyện khí công, ngồi thiền, hấp thụ tinh khí của trời đất, luyện đơn dược. Nếu thành công họ có thể trẻ mãi không già, vượt qua vòng sinh lão bệnh tử và trở thành tiên. Ngoài việc luyện đơn và tu hành, các vị chân nhân hay đạo sĩ còn biết đoán vận mệnh con người hoặc một triều đại qua bốc phệ (bói mu rùa, bói cỏ thi), chiêm tinh (xem tinh tượng trên trời để đoán vận mệnh của con người hoặc của quốc gia) và chữa bệnh bằng cách trừ tà hoặc bằng thảo dược và khí công. Các loài cầm thú cây cỏ cũng có thể tu hành tuy nhiên thú tính chưa dứt được nên khó có thể thành chánh quả trở thành tiên mà tu theo còn đường tà đạo để thành yêu quái. Các yêu quái này nếu có thiện căn sẽ tiếp tục tìm các vị chân nhân đắc đạo để theo hầu hạ và tu hành, còn không chúng sẽ kết bè kết phái quấy nhiễu con người như các loài yêu quái trong Tây Du Ký. Tác phẩm tư tưởng triết học quan trọng thứ hai của Lão giáo là Đạo Đức Kinh của Lão Tử tổng hợp tất cả những nguyên lý của Lão giáo. Đạo Đức Kinh gồm 81 chương, 5000 chữ và hai phần Thượng Hạ. Ngoài việc diễn giải thêm về những khái niệm căn bản của Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh còn có hai triết lý quan trọng đó là Vô Vi (Vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp) và Nhân Ái (sống chan hòa, thương yêu, cứu giúp người khác). Theo Lão Tử, con người sinh ra vốn là một thực thể của vũ trụ và vạn vật cũng như muôn loài khác. Cuộc sống không có gì là vui cũng chẳng có gì là buồn, chẳng có gì để sở hữu hay tranh chấp. Danh lợi đều là phù du. Lão Tử không đề cập đến thiên đường hay địa ngục hay luân hồi chuyển kiếp. Con người chỉ đơn giản sống trọn kiếp người rồi trở về với hư không. Người hiểu được đạo này có thể thoát được cái chết bằng cách tu tiên, thọ ngang trời đất với điều kiện phải dứt bỏ hết những thứ trần tục. Sau Lão Tử, Trang Tử, một triết gia khác sinh vào thế kỉ thứ 4 trước Công Nguyên đã soạn thảo Nam Hoa Chân Kinh giải thích đạo vô vi qua những câu chuyện ngụ ngôn hoặc những lời đối đáp. Trang Tử bày tỏ sự chán ghét của mình với chế độ thống trị phong kiến và những gì thuộc về đạo đức phong kiến (Nho giáo). Tương truyền, Trang Tử thử vợ bằng cách hỏi vợ khi mình chết vợ sẽ thế nào. Vợ ông bảo sẽ thủ tiết thờ chồng. Một thời gian ngắn sau, Trang Tử giả chết và ngầm sai một người học trò đẹp trai của mình quyến rũ vợ mình. Quả nhiên vợ Trang Tử xiêu lòng và khi người học trò đó giả vờ bị bệnh nặng cần thuốc trị là quả tim của người mới chết, vợ Trang Tử không ngần ngại đề nghị mổ xác chồng lấy tim chữa bệnh cho tình nhân. Trang Tử sống dậy vạch mặt vợ rồi chán nản bỏ vào thâm sơn cùng cốc sau hóa bướm bay đi mất. Phần nổi của tảng băng chính là phần tín ngưỡng bao gồm các nghi thức tôn giáo và các hình tượng tôn giáo. Đây là phần được đa số giáo dân tiếp cận vì nó dễ tiếp cận và có tác dụng rất lớn về mặt tâm lý đối với đa số giáo dân. Nhưng nếu lạm dụng vào phần tín ngưỡng nhưng không hiểu sâu hiểu đúng về giáo lý, con người rất dễ bị lệ thuộc vào tôn giáo và bị lợi dụng. Từ cuối thời Đông Hán, Đạo giáo đứng sau các cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm lật đổ triều đình trong đó nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của ba anh em họ Trương chống lại chính quyền trung ương nhà Hán. Lợi dụng sự mê tín và đói khổ của người dân, các đạo sĩ đạo giáo thường tổ chức phát chẩn lương thực cứu đói, chữa bệnh miễn phí, làm bùa phép (thực ra là giở những trò tiểu xảo dựa trên sự thiếu hiểu biết của dân nghèo)… rồi dựa vào thiên cơ để xúi giục người dân nổi dậy. Chính vì vậy mà trong thời Đông Hán và Tam Quốc, Đạo giáo bị giai cấp thống trị coi như kẻ thù. Nếu như Nho giáo là cái ách của giai cấp thống trị thì Đạo giáo là sự cứu rỗi và giải thoát. Qua nhiều biến thiên của lịch sử, Đạo giáo phân hóa thành hai nhánh: đạo giáo phù thủy và đạo giáo tiên học. Người theo đạo giáo phù thủy được gọi là đạo sĩ, đạo nhân học cách sử dụng bùa phép, trừ tà bắt ma, luyện đơn dược, luyện công. Những đạo sĩ cao tay còn được xem là trên thông thiên văn, dưới thạo địa lý, biết điều khiển cả âm binh. Đạo sĩ có kẻ tốt người xấu. Các đạo sĩ xấu thường lợi dụng đạo pháp để làm chuyện đồi bại như luyện bùa ngải thuốc độc hại người, luyện phòng trung thuật (thuật phòng the) để làm khuynh đảo các vị vua háo sắc muốn trường sinh bất tử, thậm chí có những đạo sĩ còn bắt cóc trẻ con đồng nam đồng nữ nấu thuốc luyện đơn hoặc mang người tế sống để giữ của. Thay vì tìm cách chống lại triều đình, các đạo sĩ xấu xa (tà đạo) tìm cách tiến cử mình với các vị vua bằng cách khoe khoang việc biết luyện thuốc trường sinh, xuân dược (thuốc kích dục) và biến đá thành vàng (giả kim) để mưu cầu danh lợi. Nhiều tay yêu đạo còn được tín nhiệm tới mức được phong làm quốc sư do biết cách chiều theo những trò bệnh hoạn của các hoàng đế. Không thiếu các triều đại của Trung Quốc bị diệt vong cũng do tin vào các đạo sĩ kiểu này. Phái tu tiên không màng đến chuyện đời, sống trên các ngọn núi cao hiểm trở để lánh đời, nhất quyết không tham gia chính sự. Những vị chân nhân này thường tham thiền, luyện công và làm thuốc trong các đạo quán của mình. Họ không thu nhận đệ tử bừa bãi mà chỉ truyền đạo cho những người có duyên. Trong các truyện kiếm hiệp Kim Dung thường nhắc đến Ngũ Nhạc, năm ngọn núi thiêng (Hằng, Hành, Thái, Hoa, Tung sơn) vốn là nơi các đạo sĩ ưa chuộng để lập đạo quán và dạy võ thuật. Nhiều môn phái võ công Trung Quốc bắt nguồn từ phái tu tiên trong đó nổi tiếng nhất và vẫn còn phổ biến đến nay là Thái Cực Quyền của Trương Tam Phong. Là một tôn giáo lâu đời và tồn tại đến ngày nay, Đạo giáo tất nhiên có nhiều mặt tích cực. Trước nhất, Đạo giáo khuyên con người sống thuận theo tự nhiên, không nên quá coi trọng tiền bạc và danh vọng, phải có lòng từ bi và giúp đỡ những người yếu thế. Đây cũng là tôn chỉ chung của hầu hết tất cả các tôn giáo chính thống trên thế giới. Thuyết sáng thế của tôn giáo dựa trên Thái Cực (hỗn mang) sinh ra Lưỡng Nghi (âm dương) và từ đó sinh ra vạn vật ở một khía cạnh nào đó khá giống với thuyết Big Bang của phương Tây sau này. Đạo giáo còn giúp phát triển các thuật của Đông Y như chữa bệnh bằng thảo dược, châm cứu các huyệt đạo, luyện khí công và thuật dưỡng sinh còn phổ biến đến tận bây giờ. Dựa vào âm dương ngũ hành, Đạo giáo phân biệt các loại thực phẩm và thảo dược theo vị (ngọt, cay, chua, mặn, đắng) và tính (hàn, bình, nhiệt) để theo đó mà khắc chế các bệnh tật. Đạo giáo còn đề xuất cách phân loại các loại động vật (gọi chung là “trùng”) theo hình dạng bên ngoài thành các loài: mao (có lông mao, chỉ các loài thú), vũ (có lông vũ, các loài chim), lân (có vảy, gồm cá và bò sát) và khỏa (trần trụi, các loài không có gì che phủ bên ngoài, trong đó có loài người). Tuy cách phân loại này không chính xác lắm về mặt khoa học ngày nay, nhưng đối với thời cổ đại, đây là một cách phân loại khá bài bản và có căn cứ. Ngoài ra, Đạo giáo còn có một đóng góp quan trọng về mỹ thuật đó là nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc (sơn thủy). Về mặt tiêu cực, trước hết, Đạo giáo đề cao thuyết chán đời, lánh đời thay vì cống hiến cho xã hội. Những người theo Đạo giáo khi bất mãn chính quyền hoặc giai cấp thống trị sẽ tìm cách trốn lánh bằng cách không ra làm quan mà tập trung vào ngâm thơ, uống rượu, du sơn ngoạn thủy, tham thiền nhập định…để tỏ ra thanh cao chứ không tìm cách thay đổi xã hội theo một hướng tích cực. Lưu Linh, người được mệnh danh là tửu cuồng thời Đông Tấn, là một ví dụ cụ thể, suốt ngày say khướt say mèm. Các nho sĩ Việt Nam cũng như nho sĩ Trung Quốc xưa khi trẻ sẽ chọn con đường Nho học, học hành đỗ đạt thành tài rồi làm quan giúp dân giúp nước. Đến khi về già hoặc chán cảnh quan trường hiểm ác hoặc do thời cuộc đảo điên, các vị lại bỏ Nho giáo theo Đạo giáo bằng cách cáo lão từ quan về vui thú điền viên, trồng hoa thưởng trà, lên non hái thuốc, làm bạn với cỏ cây hoa lá. Những nhân vật điển hình có thể kể đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu… Thứ hai, Đạo giáo cổ súy những trò mê tính dị đoan như lập đàn cầu mưa, đốt bùa làm phép, bói toán, luyện đan, lên đồng, xin xăm xin quẻ, đốt vàng mã. Người bình dân t��t nhiên sẽ không đủ trình độ để tìm hiểu triết lý Đạo giáo qua những tác phẩm Đạo Đức Kinh hay Nam Hoa Kinh mà chỉ biết tin vào những trò mê tín để cầu mong được ơn trên che chở, phù hộ thay đổi số phận mà không tin vào làm gì để thay đổi vận mệnh của chính bản thân. Đạo giáo được đưa vào Việt Nam gần như cùng thời với Nho thời Đông Hán theo chân các đạo sĩ, thầy phù thủy Trung Quốc. Phục Ba tướng quân Mã Viện thời Đông Hán sau khi đánh thắng cuộc khời nghĩa hai bà Trưng đã chôn một cột đồng trên đất Giao Chỉ, trên cột đồng có khắc dòng chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng ngã thì xứ Giao Chỉ cũng diệt vong). Cao Biền, tiết độ sứ Giao Châu đời Đường tìm mọi cách để triệt long mạch của nước ta bằng cách đóng cọc dưới lòng sông Tô Lịch, thậm chí mang hài cốt của tổ tiên họ Cao sang chôn ở long mạch nước nam đều theo phép phong thủy của Đạo giáo. Các truyền thuyết về việc người Trung Quốc sang đô hộ ở xứ ta vơ vét rất nhiều của cải nhưng không mang hết về nước được nên mang chôn trong một hang động nào đấy, sau đó bắt cóc gái đồng trinh cho ngậm sâm rồi chôn sống theo để làm thần giữ của, cũng là phép phù thủy của Đạo giáo. Ở một phương diện khác,do Đạo giáo là đạo đa thần, rất phù hợp với truyền thống thờ cúng vật tổ (totem) của người Việt cổ nên việc Đạo giáo dần dần cắm rễ vào và đồng hóa với tín ngưỡng dân gian Việt Nam là điều rất tự nhiên. Các tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ Thánh Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, bà chúa Liễu Hạnh, thành hoàng, thổ địa đều mang ảnh hưởng của Đạo giáo. Cũng như Đạo giáo Trung Quốc, Đạo giáo ở Việt Nam tin mọi thứ thuộc về tự nhiên như rừng cây, sông núi, đất đai đều có tính linh và đều được các thần cai quản. Những người lập công lớn cho dân tộc hay đất nước khi chết đều được phong thần và lập đền thờ theo truyền thống “sinh vi tướng, tử vi thần” (khi sống làm tướng, khi chết làm thần). Người có công với làng hay người đầu tiên lập nên một làng mới đến khi chết sẽ được phong thành hoàng và được dân làng đời đời thờ cúng. Người ta tin rằng chính vì khi sống, những vị này giúp ích cho đời, khi họ chết đi họ sẽ tiếp tục trừ gian diệt bạo, phù hộ cho người lương thiện (sống khôn thác thiêng) nên có việc gì người dân sẽ đều cúng bái và cầu nguyện được phù hộ. Ông tổ của Đạo giáo Việt Nam là Chử Đồng Tử (ông này sau cùng vợ lên núi tu đắc đạo thành tiên) gọi là Chử Đạo Tổ. Các truyền thuyết dân gian Việt Nam như Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc đến Thiên Thai động Đào Nguyên kết duyên cùng tiên nữ, Từ Thức lấy vợ tiên…đều mang màu sắc Đạo giáo. Ông tổ thứ hai của Đạo giáo của Việt Nam chính là Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo hay còn được phong là Đức Thánh Trần. Đạo giáo Việt Nam từng rất thịnh hành trong các triều đại phong kiến. Thời kỳ cực thịnh của Lão giáo là thời Hậu Lê với nhiều vua Lê sùng đạo nhưng tới thời Nguyễn thì Nho giáo được coi trọng và Đạo giáo không còn đủ sức gây ảnh hưởng sâu rộng nữa. Thời Pháp thuộc, nhiều thủ lĩnh khởi nghĩa chống Pháp đã lập những giáo phái dựa trên nguyên tắc của Đạo giáo để kêu gọi dân nghèo đấu tranh điển hình là cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long. Phan Xích Long tự xưng là giáo chủ là người trời nên đạn Pháp bắn không chết, ông còn vẽ bùa đốt cho nghĩa quân uống để chống lại súng đạn của Pháp. Dĩ nhiên điều này cực kì hoang đường và khởi nghĩa bị dập tắt từ ngay cuộc nổi dậy đầu tiên. Sau năm 1945, Nho giáo và Đạo giáo được xem là tàn dư của chế độ phong kiến và mê tín dị đoan nên bị chính quyền cách mạng thẳng tay loại bỏ qua các hình thức đập phá các miếu thờ, cấm bói toán, cấm lên đồng hay cúng tế. Đó là lý do tại sao chúng ta không thấy những đạo quán hoặc đạo sĩ Việt Nam trong thời đại ngày nay. Vì không được công nhận là một trong những tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam (Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong và Singapore đều công nhận Đạo giáo là một tôn giáo hợp pháp) nên chúng ta không thấy người Việt Nam nào tu theo Đạo giáo hoặc làm đạo sĩ. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Đạo giáo trong Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam quá rõ nét và sâu sắc khiến cho nhiều người lầm tưởng đó là những nghi thức của Phật giáo hoặc tín ngưỡng truyền thống. Đó là những nghi thức bày mâm lễ vật, ăn chay ngày rằm và mùng một, xem bói, xin xăm, xin quẻ, xin lộc đầu năm, đốt vàng mã, cúng giỗ, cúng tổ nghiệp, xem phong thủy, coi ngày cưởi hỏi tang ma xây dựng, cúng sao giải hạn…Ở miền Bắc, Đạo giáo kết hợp với tính ngưỡng dân gian trong việc thờ thần: Ngọc Hoàng, Quan Thánh, Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần…qua các phủ thờ và việc hầu đồng. Ở miền Nam, Đạo giáo được xem như một nhánh của đạo Cao Đài (áo xanh) thờ biểu tượng bát quái, Khương Tử Nha và Thái Thượng lão quân. Ngoài ra các đạo quán của người Hoa tồn tại rất nhiều năm ở Sài Gòn và nhiều tỉnh miền Tây Nam bộ dưới dạng miếu hoặc hội quán ví dụ miếu Quan Đế, miếu Vương Mẫu Nương Nương, Nam Hải Nương Nương, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Bổn Công (của người Triều Châu). Nhà người Việt gốc Hoa thường treo kính bát quái, dán hình môn thần trước cửa để trừ tà, thờ Quan Công, Thổ Địa, Thần Tài và Táo Quân trong nhà. Nhà người Việt có thể không treo kính bát quái hay thờ Quan Công nhưng nhất định phải có bàn thờ thổ địa, thần tài vào ông táo. Cưới hỏi, ma chay, động thổ, dọn nhà nhất định phải coi ngày. Vào nhà mới phải cúng đất đai gia trạch để cầu bình an, hăm ba tháng chạp nhất định phải đưa ông Táo về trời. Đầu năm đi chùa thế nào cũng phải hái lộc đầu năm, xin quẻ, mua lá số tử vi để xem tình duyên tài vận trong năm tới. Nếu gặp sao xấu chiếu mạng (La Hầu, Kế Đô) thì chắc chắn canh cánh lo lắng cả năm, thế nào cũng tìm cách cúng sao giải hạn. Tất cả những điều nói trên đều là những ảnh hưởng của Đạo giáo trong văn hóa Việt Nam hằng ngày. Như đã nói ở trên, ở Việt Nam không có người theo Đạo giáo như một đức tin mà chỉ bắt chước những nghi lễ mang tính hình thức nên những triết lý sâu xa của Kinh Dịch hay Đạo Đức Kinh hầu như không phổ biến mà ảnh hưởng rõ ràng nhất là khuynh hướng mê tín dị đoan đặc biệt là đối với những ngưởi có nhận thức thấp. Những tệ nạn có liên quan tới tín ngưỡng Đạo giáo kết hợp với tín ngưỡng địa phương có thể kể tới những điều sau: 1. Thờ cúng vô tội vạ: Việc lập đền miếu thờ tự không chỉ dành cho những người có công với đất nước mà còn dành cho những người chết trẻ, chết oan do tai nạn hoặc thậm chí đối với loài vật hoặc cái cây, tảng đá nếu người ta cảm thấy những vật này linh thiêng và có thể phù hộ cho họ được tài lộc dồi dào. Ở đâu có người chết do tai nạn giao thông thì lại có nhiều người tới cúng bái, xin ngày giờ mất và bảng số xe để đi đánh đề. Một con rắn hay một con cá hơn khác thường một tí cũng được đồn thổi là thần thánh và được già trẻ bé lớn xì xụp khấn lạy. 2. Nhiều người Việt Nam quá tin vào bói toán, xem tử vi, cúng sao, giải hạn và phong thủy để thay đổi vận mệnh đến mức bị lệ thuộc vào nó mà không tin vào bản thân mình. Số này cúng không ít tiền cho các thể loại thầy cúng, thầy bói, đồng cốt… Tuy nhiên họ lại coi nhẹ việc tu dưỡng tâm đức và làm việc thiện. 3. Đa số người dân quê ít học không tin khoa học và y học mà tin vào cúng bái bùa chú hoặc những bài thuốc vô căn cứ để chữa bệnh khiến cho tiền mất tật mang. Có rất nhiều trường hợp thay vì đưa đến bệnh viện để chữa thì họ lại đi tìm thầy bùa thầy phép trục vong, trừ tà. Đến khi đưa vào bệnh viện thì không còn thuốc chữa. 4. Nhiều người để cầu tài lộc mua may bán đắt hoặc để hãm hại người khác đã không ngần ngại đi thỉnh bùa chú nhằm đạt được mục đích của mình. Cho dù bạn có tin rằng bùa chú có tác dụng hay không cũng được, việc thỉnh bùa chú để làm giàu và hại người đều là những việc làm thất đức và trái đạo. Nếu hiểu theo luật nhân quả có vay có trả thì những người tìm mọi cách giành giật những thứ không thuộc về mình trước sau cũng sẽ phải trả lại một cái gì đó, đôi khi còn gấp nhiều lần những thứ mình tìm mọi cách để cưỡng đoạt. Và việc dùng bùa chú kiểu này hoàn toàn trái với triết lý vô vi của Đạo giáo. 5. Một số người (tự cho là) có học và dĩ nhiên là có điều kiện tốt về kinh tế tìm cách chối bỏ trách nhiệm xã hội bằng cách lánh đời, không bàn thế sự để tỏ ra thanh cao. Họ ngoảnh mặt quay lưng với những bất công xã hội để hưởng thụ cho riêng mình và tỏ vẻ coi thường những người đấu tranh giành lại công bằng cho rằng những người này ngu dại, còn khoanh tay bàng quan như họ mới là hiểu đạo vô vi. Nếu tỉnh táo, chúng ta sẽ thấy rằng những chính quyền độc tài ngoài mặt thì hô hào bài trừ mê tín dị đoan nhưng trên thực tế vẫn duy trì những điều này như một biện pháp ngu dân để trị. Người dân càng tin vào những chuyện cúng bái lễ lạc thì càng ít tin vào khoa học, và vì thế càng u mê. Người có khả năng và tri thức nếu bất mãn với chuyện công danh hoặc thời thế mà tìm cách xa lánh thế sự để tự tỏ ra mình thanh bạch chẳng qua là kẻ ích kỷ và tự khiến cho mình vô dụng sớm mà thôi. (còn tiếp)
Tumblr media
Đạo Phật đã bị tha hóa và biến tướng ở Việt Nam như thế nào? Trước khi vào nội dung của bạn, tôi muốn khẳng định với bạn đọc tôi là một Phật tử chứ không phải là người đạo Công giáo hoặc là một kẻ vô thần. Năm 3 tuổi tôi đã được gia đình đưa vào chùa quy y với pháp danh Lệ Nghiêm và thường xuyên bà ngoại đi chùa từ bé. Nhưng khoảng hơn mười năm nay, tôi không bước vào bất cứ cái chùa nào nữa ngoại trừ đó là những ngôi chùa cổ có giá trị lịch sử. Còn những hành động cúng bái nhất là những dịp rằm lớn hay mùng một là nhất định không có tôi bởi vì tôi hiểu một điểu rằng trong chùa không có Phật. Đối với tôi, Phật giáo là một tư tưởng triết học hơn là một tín ngưỡng. Bài viết này không tranh luận về Phật giáo tốt hay xấu mà tập trung nói về sự biến tướng của Phật giáo ở Việt Nam và điều đó góp phần ảnh hưởng đến tư duy hời hợt của người Việt như thế nào. Hi vọng các bạn đọc và nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn với mục đích viết của tôi. Những comment kiểu: “anh biết gì về Phật giáo mà nói!” hay “đạo Phật là thế này thế nọ” nhưng không liên quan tới nội dung bài viết sẽ bị xóa mà không phản hồi. Tuy hiện nay Phật giáo không được công nhận là quốc giáo ở Việt Nam như các nước như Thái Lan, Lào, Campuchia, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam ngày nay rõ ràng hơn Lão và Nho rất nhiều. Chúng ta không thấy đạo quán và đạo sĩ ở Việt Nam nhưng sư sãi và chùa chiền thì đâu cũng có. Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt không có câu nào “cầu Khổng Tử” hay “tạ ơn Lão Tử” mà luôn là “cầu trời khẩn Phật” hoặc “tạ ơn trời Phật”. Ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam sâu sắc tới mức nhiều người cứ khăng khăng bảo đạo Công giáo là đạo ngoại lai còn Phật giáo mới là đạo của dân tộc mà quên rằng đạo Phật cũng là một đạo ngoại lai xuất phát tứ Ấn Độ. Và chính vì điều này mà rất nhiều người Việt Nam mặc định trong tư tưởng rằng những gì liên quan tới đạo Phật đều là tốt và người đạo Phật đều là người tử tế. Điều này gây ra một hệ lụy không nhỏ đối với tư duy của người Việt chúng ta. Nếu xét trong tam giáo Phật-Lão-Nho thì Phật giáo có mặt ở Việt Nam trước cả Lão và Nho. Theo truyền thuyết về Chử Đồng Tử thì đạo Phật đã có mặt ở nước ta từ thời Hùng Vương. Nhưng vì đây là truyền thuyết có tính tam sao thất bản nên việc xác thực là đạo Phật có mặt ở Việt Nam từ thời vua Hùng hay không còn là một nghi vấn. Nhưng từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3 trước Công Nguyên, các nhà buôn và tăng lữ Ấn Độ đã du nhập Phật giáo Nam tông vào quận Giao Chỉ và thành Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay) đã từng là trung tâm Phật giáo quan trọng vùng Đông Nam Á. Trong giai đoạn Bắc thuộc nhất là đời nhà Đường, Phật giáo Bắc tông theo chân các nhà sư Trung Quốc phái Thiền tông vào Việt Nam nhưng không phát triển mạnh. Từ thời nhà Đinh tới thời nhà Trần, các vua chúa Việt Nam bắt đầu xem trọng Phật giáo ngang với Nho và Lão. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân và đóng đô ở Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng đã phong cho đại sư Khuông Việt chức tăng thống, đứng đầu Phật giáo ở Việt Nam thời đó. Chức tăng thống này đến thời Lê Sơ vẫn còn giữ. Một trong những giai thoại về sự tàn bạo và biến thái của vua Lê Long Đĩnh tức Lê Ngọa Triều là chuyện vị vua này róc mía trên đầu tăng thống Quách Ngang (có tài liệu ghi là Quách Mão) rồi giả vờ lỡ tay để dao chém xuống đầu trọc của sư chảy máu đầm đìa. Giai thoại này đối với tôi mà nói mang tính bôi nhọ nhiều hơn là thực tế vì theo sách sử thời đó: “Mùa xuân năm Đinh Mùi (1007), Lê Long Đĩnh sai em là Minh Xưởng và Chưởng Thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê ngưu trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu kinh và kinh sách Đại Tạng". Kinh Đại Tạng là một bộ kinh sách vĩ đại được các cao tăng Trung Quốc nhiều thế hệ nghiên cứu và biên dịch qua nhiều thế hệ gồm hơn 5000 quyển. Một ông vua tìm cách xin được bộ kinh ấy về Việt Nam để phát triển Phật giáo thì việc róc mía trên đầu vị cao tăng đứng đầu Phật giáo trong nước có đáng tin hay không? Tôi không trả lời mà để cho các bạn tự suy nghĩ. Đến thời nhà Lý, vì Lý Thái Tổ thuở nhỏ được nuôi trong chùa nên ông xem đạo Phật là quốc giáo. Triều đình nhà Lý bên cạnh hai ban văn võ còn có cả ban “tăng”. Nhà Trần cướp ngôi nhà Lý nhưng vẫn rất coi trọng Phật giáo. Thượng hoàng Trần Nhân Tông, người có công lớn trong cuộc chiến chống Nguyên Mông khi đất nước thái bình đã giao quyền trị nước cho con và lập nên thiền phái Trúc Lâm và lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Đến cuối thời Trần, đạo Phật ở Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ. Các tăng sĩ do được sự ưu ái quá mức của triều đình trở nên lộng quyền và đạo Phật phát triển một cách vô tội vạ. “Truyền Kỳ Mạn Lục” của Nguyễn Dữ có ghi: “Các chùa như Hoàng Giang, Ðồng Cổ, An Sinh, Yên Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh... dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng ni nhiều bằng nửa dân số thường. Nhất là huyện Ðông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm: chùa chiền dựng lên, làng lớn có hơn mười chùa, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu: ngoài bao bằng lũy, trong tô vàng son..." Chính sự phát triển quá đà này của Phật giáo ở Việt Nam đã khiến cho Phật giáo bị biến chất và lợi dụng về sau rất nhiều. Từ thời hậu Lê trở đi, đạo Phật ở Việt Nam mất đi chỗ đứng trước đây vì sự phát triển của Nho giáo và Lão giáo nhất là ở Đàng Ngoài. Phật giáo từ chỗ một tôn giáo được chính quyền phong kiến trọng dụng bị thu hẹp phạm vi ảnh hưởng trở thành một tín ngưỡng dân gian nhiều hơn ở Đàng Ngoài. Trong khi đó ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn vẫn rất sùng đạo Phật và kinh đô Huế có thể được xem là cái nôi thứ hai của Phật giáo Việt Nam. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, để trả đũa việc các vua nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa, thực dân Pháp đã ra tay phá hủy rất nhiều chùa chiền Phật giáo để xây nhà thờ. Điều này đã gây ra mâu thuẫn đối với những người theo Phật giáo và Thiên Chúa giáo ở Việt Nam và cũng khiến cho Phật giáo bị các đảng phái mang danh nghĩa “chống ngoại xâm” lợi dụng triệt để. Sau năm 1945, ở miền Bắc, cùng với Lão giáo, Phật giáo được liệt vào một trong những tàn dư của mê tín dị đoan và phong kiến nên bị giới lãnh đạo Cộng Sản cấm đoán và kiểm soát rất gắt gao. Dưới sự lãnh đạo của những người “vô thần” rất nhiều đền chùa bị đập phá để biến thành hợp tác xã hoặc sân phơi thóc lúa và nhiều kinh sách bị tiêu hủy. Ngoài những ngôi chùa mang tính biểu tượng nổi tiếng của văn hóa Việt Nam như chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Hương hay chùa Tây Phương thì hầu hết các chùa chiền ở miền Bắc đều bị phá hủy. Từ năm 1945 trở đi, rất ít người Bắc tự nhận là người đạo Phật và hầu như không có chùa chiền nào được xây dựng ở miền Bắc. Ngược lại ở miền Nam, Phật giáo lại bị lợi dụng để chống lại chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm của chính thể Việt Nam Cộng Hòa vì gia đình của tổng thống Ngô Đình Diệm là người Công giáo. Sự kiện tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức ở Sài Gòn năm 1963 đã góp phần làm cáo chung chế độ cộng hòa còn rất non trẻ ở miền nam với cuộc đảo chính giết chết hai anh em cố tổng thống họ Ngô trong cùng năm. Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập ở miền Nam Việt Nam. Cho tới năm 1975, lợi dụng tinh thần bài ngoại của người dân miền Nam, nhiều chùa chiền bị lợi dụng biến thành cơ sở hoạt động cách mạng của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam nuôi giấu cán bộ. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập và trở thành tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam sau năm 1975. Điều này có nghĩa là Phật giáo Việt Nam được đặt dưới sự quản lý sát sao của nhà nước CNXHCN Việt Nam và bắt đầu mang màu sắc chính trị rõ ràng. Như vậy hiện tại ở Việt Nam có hai giáo hội Phật giáo khác nhau: một thành lập từ năm 1964 ở miền Nam mang tên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vốn không chịu chi phối về mặt chính trị của chính quyền và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1981 với bản chất là cơ quan chính trị hóa tôn giáo của nhà nước. Đối với đại đa số người Việt Nam (trừ những người theo Công giáo và Tin Lành) thì đạo Phật đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tâm linh, ngay cả đối với những người cho rằng mình theo đạo thờ ông bà. Hiếm có tác phẩm văn chương nghệ thuật nào của Việt Nam mà không thấp thoáng ảnh bóng dáng của mái chùa hay tượng Phật. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của đạo Phật ở Việt Nam chỉ ở mức độ tín ngưỡng chứ không phải là ở mức độ triết lý. Rất hiếm Phật tử Việt Nam tìm hiểu đạo Phật ở góc độ triết học mà chỉ tin theo những nghi thức cúng bái của Phật giáo. Và tín ngưỡng và nghi thức Phật giáo của Việt Nam thì lại bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo nhiều hơn là Phật giáo nguyên thủy. Có ba nguyên nhân cho việc tại sao phần lớn Phật tử Việt Nam thiên về phần ngọn (tín ngưỡng) hơn là phần gốc (triết lý) của đạo Phật. Thứ nhất kinh sách của đạo Phật quá nhiều, ngay cả những người đi tu cũng chưa có điều kiện tiếp xúc hết với kinh sách của Phật. Đây là một rào cản rất lớn của những ai muốn thực sự nghiên cứu về đạo Phật một cách nghiêm túc. Thứ hai, những triết lý của đạo Phật như buông bỏ chấp niệm, hành thiện tích đức, không tham sân si hận… thường không đáp ứng được nhu cầu thực tế của người bình dân nên tuy tưởng là đơn giản nhưng trên thực tế lại rất khó làm theo và nếu có làm theo thì chưa chắc đã làm đúng. Thứ ba, đạo Phật chấp nhận sự kết hợp với các tín ngưỡng dân gian chứ không phân rõ ranh giới nên dần dần Phật trở thành một vị thần cũng như những vị thần khác trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam. Sự cầu kỳ về hình thức nghi lễ bên ngoài chẳng qua là để che giấu sự hời hợt trong việc hiểu biết về Phật pháp bên trong. Chính sự hiểu biết sơ sài về triết lý đạo Phật cũng như sự dễ dãi về mặt tín ngưỡng mà đa số những người theo đạo Phật ở Việt Nam đều mắc phải những sai lầm sau: 1. Người Việt Nam đánh đồng hai khái niệm không liên quan là “trời” và “Phật”. Chỉ có ở Việt Nam mới có khái niệm “trời Phật” đi với nhau thành một cặp như một thế lực siêu nhiên có khả năng ban phước lành cho con người. Chính vì hiểu rằng Phật cũng là một vị thần như các vị thần trong dân gian nên nhiều người đi chùa để cầu tài cầu lộc, cầu thăng quan tiến chức, cầu tình duyên hay cầu con cái mà quên rằng đức Phật vốn là một vị hoàng tử đã từ bỏ tất cả những xa hoa phú quý để đi tìm sự giác ngộ về tư tưởng. Ở các chùa miền Bắc, người ta còn mang cả heo quay, gà luộc vào chùa cúng trả lễ, thậm chí còn nhét cả những đồng tiền lẻ vào tay tượng Phật trông rất phản cảm. 2. Vì Đạo Phật Bắc tông bị biến thành một đạo đa thần và thờ thần tượng vì thế người theo đạo Phật cứ gặp Phật là thắp nhang quỳ lạy với quan niệm “có thở có thiêng, có kiêng có lành” nhưng không biết Phật đó tên gì, xuất thân từ đâu, có quyền năng gì. Ngay cả đối với cái tên của vị bồ tát được người Việt Nam tôn sùng nhất là Quán Thế Âm Bồ Tát cũng bị gọi sai thành Quan (Thế) Âm Bồ Tát vì không hiểu ý nghĩa của cái tên này. Trong chùa Phật thậm chí còn thờ cúng lung tung các thần khác như Quan Công, thần tài, thổ địa. 3. Dưới sự ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian và Lão giáo, đạo Phật ở Việt Nam thiên về sự cầu kỳ trong các hình thức cúng bái gây ra sự phô trương và lãng phí trái với giáo lý nguyên thủy của đạo Phật. Nếu các bạn quan sát những chùa lớn vào những ngày lễ lớn của Phật giáo ở Việt Nam, các bạn sẽ không thấy sự thanh tịnh và trang nghiêm và chỉ thấy sự xô bồ bát nháo của những người đi chùa. Tôi hơn mười năm nay không đi chùa cũng vì không chịu được sự bát nháo ồn ào đó. 4. Không biết ở các nước Phật giáo khác thì sao chứ ở Việt Nam, tôi thấy chùa chiền được xây cất vô tội vạ nhất là ở miền Nam. Nhiều chùa ở Sài Gòn được sơn phết rất lòe loẹt và mất thẩm mỹ, trong chính điện tượng Phật bày trí lung tung như gánh hát bội chứ không hề trang nghiêm nhưng phật tử vẫn đến cúng bái nườm nượp. Ở miền bắc thì bắt đầu vào những năm 2000, với cái cớ phục vụ nhu cầu du lịch, người ta bắt đầu xây dựng rất nhiều chùa có quy mô cực lớn ở miền Bắc như chùa Bái Đính ở Ninh Bình, chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh… Nhiều Phật tử tỏ ra hoan hỉ xem đó là phúc đức mà không hề suy nghĩ rằng tiền và đất đâu để xây chùa to thế. 5. Sự mê muội của những người theo đạo Phật ở Việt Nam còn nằm ở chỗ sùng bái những người đi tu một cách mù quáng đến mức hễ thấy người cạo đầu mặc áo cà sa thì khúm núm kính sợ mà không cần biết đó là cao tăng hay là ma tăng, ác tăng. Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh nhiều bà cụ già chắp tay xá miệng thì luôn “dạ, thưa, bạch thầy” với những thằng nhãi nhép đầu trọc mặt mày câng câng xấc láo. Nhiều người dâng vật phẩm cúng dường hoặc bỏ tiền vào thùng công đức trên chánh điện mà không hề mảy may suy nghĩ rằng mình đang góp phần nuôi dưỡng những kẻ lười biếng lao động và lừa đảo sống phè phỡn bằng chính đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình. Vì điều này mà càng ngày các bậc chân tu ở Việt Nam càng ít mà toàn là những thứ sư đảng, sư hổ mang như Thích Thanh Cường, Thích Thanh Toàn …làm trụ trì. 6. Rất hiếm những Phật tử ở Việt Nam hiểu được những triết lý của đạo Phật. Tôi hỏi nhiều người lớn tuổi có thâm niên chùa chiền công quả thế nào là Tứ Diệu Đế, thế nào là Bát Chánh Đạo…họ đều trả lời rất qua loa hoặc có người còn không biết. Cái mà họ nói đến nhiều nhất là “nghiệp” và “quả báo” nhưng cách hiểu của họ về hai khái niệm này cũng hoàn toàn sơ sài và sai trái. Chính vì thế mà thay vì thay đổi cách sống cách suy nghĩ hoặc đấu tranh cho quyền lợi chính đáng thì họ cam chịu nhẫn nhục những điều sai trái bất công trong xã hội vì cho rằng những gì mình chịu kiếp này chính là nghiệp báo của kiếp trước. Để bớt khổ, họ đến chùa để cầu xin hoặc cúng sao, giải hạn.Nhiều người trong cuộc sống làm những chuyện ác nhân thất đức lừa lọc mánh khóe nhưng lại sợ quả báo. Và thay vì hành thiện tích đức họ lại mang thứ tiền dơ bẩn kiếm được đi cúng chùa như một cách giải nghiệp dễ dàng nhất để cảm thấy lương tâm được thanh thản và tiếp tục làm chuyện ác. 7. Đạo Phật nguyên thủy không bắt buộc phải ăn chay, nhưng nếu tu theo thiền tông và tịnh độ tông thì phải tuân theo giới luật ăn chay. Nếu người theo Phật giáo nguyên thủy ăn mặn do họ không cho mình quyền từ chối những thức ăn được Phật tử cúng dường khi đi khất thực và khi ăn họ trộn chung tất cả những thức ăn lại với nhau, không phân biệt đâu là thịt hay cá thì điều buồn cười của những người ăn chay là họ lại chế ra những món chay bắt chước kiểu nấu nướng các món mặn như cá chiên, sườn nướng, đùi gà, bún bò… thay vì đơn giản rau dưa cà muối. Đó chẳng phải là miệng ăn chay nhưng tâm vọng tưởng món mặn sao? Tại sao phải dối lòng như thế? Theo tôi, đó là đạo đức giả. 8. Đạo Phật cấm sát sinh nhưng trớ trêu thay những ngày rằm mồng một hoặc những ngày lễ lớn các Phật tử mê muội lại là người gián tiếp sát sinh nhiều nhất. Có bao giờ bạn đứng trước những cổng chùa để đếm xem có bao nhiêu chú chim sẻ, chim én vô tội rơi lộp độp xuống đường để rồi bị mèo vồ, xe cán hoặc bị người đi chùa giẫm đạp đến chết vì nhu cầu phóng sinh rất vớ vẩn? Có bao nhiêu người hiểu rằng những con cá chép, cá vàng mua trước cổng chùa hoặc ở tiệm cá cảnh vốn dĩ là loài cá được nuôi làm cảnh sẽ không sống được nếu đem thả xuống sông? Bạn có bao giờ đếm thử bao nhiêu cây hoa trong chùa bị vặt trơ trọi đêm giao thừa và ngày mồng một tết bởi vì tục “hái lộc”, một tục lệ không hề có của Phật giáo? Bạn có bao giờ đếm xem có bao nhiêu quán nhậu thịt thú rừng dọc đường lên chùa Hương để phục vụ cho những người đi dâng hương cúng Phật? 9. Sự phóng sinh vô tội vạ nhưng thiếu sự hiểu biết tối thiểu về thường thức khoa học còn gây ra thảm họa cho hệ sinh thái. Rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh tượng đau lòng là những chú rùa núi vàng, vốn là loài rùa cạn có tên trong danh sách động vật cần được bảo vệ của Việt Nam ngắc ngoải tuyệt vọng dưới hồ nước chờ chết vì sự phóng sinh ngu dốt của những người gọi là Phật tử. Trái lại những loài động vật ngoại lai gây hại như cá chim trắng, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ …nếu được thả tràn lan ra môi trường tự nhiên sẽ tiêu diệt các loại sinh vật bản địa bằng cách giành địa bàn và nguồn thức ăn thậm chí ăn cả trứng và con non của các sinh vật bản địa. 10. Phần lớn phật tử Việt Nam, đặc biệt là những người làm ăn buôn bán, không chỉ thờ Phật mà còn thờ cúng tất cả những thần linh nào mà họ nghĩ rằng có thể mang lại lợi lộc cho mình từ mẫu ở ngoài Bắc tới bà chúa Xứ trong Nam. Thậm chí đền thờ Hindu giáo và cả nhà thờ cha Diệp ở Cà Mau cũng không thiếu Phật tử đặt chân đến cúng bái. Nếu thánh đường Hồi giáo mà mở cửa cho người ngoại đạo vào cúng, tôi nghĩ chắc người đạo Phật ở Việt Nam vào đó còn đông hơn tín đồ Hồi giáo nếu họ nghĩ rằng Allah có thể ban cho họ tài lộc và may mắn. Có thể nói, cùng với Nho giáo và Khổng giáo, đạo Phật ở Việt Nam đã góp phần hình thành nên trong tiềm thức của đại đa số một ý thức hệ rất phù hợp với việc bị lệ thuộc và cai trị. Nó dạy con người phục tùng cho địa vị và danh lợi, lấy việc mưu cầu danh lợi cho cá nhân và dòng họ làm lẽ sống. Để đạt được nhiều tiền tài danh vọng, họ đi chùa để cầu cúng. Đối với bất công áp bức, họ chọn cách nhẫn nhịn cho qua chuyện và đổ thừa cho nghiệp báo kiếp trước. Để trốn tránh trách nhiệm với đời, họ tỏ ra mình thanh cao không nghe không thấy, không màng chính sự. Và họ gọi đó là là cách sống khôn ngoan. (còn tiếp)
Tumblr media
“Người Việt Nam có thông minh hay không?” Đây là một câu hỏi rất khó trả lời vì nếu xét về mặt khoa học, chúng ta chưa từng có một nghiên cứu khoa học nào hoặc một số liệu thống kê nào cho biết chính xác là có bao nhiêu phần trăm người Việt có chỉ số IQ trên 120 điểm. Nếu dựa vào những gì được dạy ở trường hồi nhỏ thì chắc chắn là chúng ta là một dân tộc thông minh. Tôi nhớ lúc nhỏ còn đi học, những bài học trong sách giáo khoa đã dạy rằng “người Việt Nam ta vừa cần cù, siêng năng lại thông minh”. Cùng với những bài báo về các gương học sinh Việt Nam đạt đủ loại huy chương trong các kỳ Olympic quốc tế, tôi đã lớn lên với niềm tin rằng dân tộc ta là một dân tộc hiếu học và thông minh. Lớn lên một tí khi bắt đầu đã đi ra ngoài tiếp xúc học hỏi nhiều, niềm tự hào dân tộc của tôi bị thử thách nghiêm trọng bằng rất nhiều câu hỏi “tại sao?” Tại sao phần lớn danh nhân của nước ta phần lớn đều là những tài năng quân sự nhưng lại không có những nhà triết học, nhà cải cách hay nhà khoa học, nhà thám hiểm và cũng rất hiếm những nghệ sĩ có tầm vóc vĩ đại? Tại sao Việt Nam hầu như không có những trường phái nghệ thuật (hội họa, âm nhạc, kiến trúc…) hoặc những kiệt tác được thế giới ngưỡng mộ? Tại sao Việt Nam không có những phát minh khoa học mang tính đột phá trong khi người Việt Nam thông minh như thế? Và dĩ nhiên câu hỏi “tại sao” lớn nhất là tại sao người Việt Nam thông minh, cần cù, siêng năng đạt nhiều giải thưởng quốc tế như thế mà nước Việt Nam vẫn lạc hậu và nghèo đòi? Có người sẽ nói rằng Việt Nam ta nếu không thông minh tài giỏi thì sao có thể chống lại ngoại xâm phương Bắc hùng mạnh trong suốt hơn hai ngàn năm lịch sử? Điều này không sai. Nếu xét về góc độ quân sự thì tôi khẳng định rằng Việt Nam ta có rất nhiều thiên tài như Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ và cả hoàng đế Gia Long Nguyễn Ánh. Là một dân tộc có lịch sử gắn liền với các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm từ một kẻ thù phương Bắc mạnh hơn mình rất nhiều và những cuộc nội chiến liên miên tranh giành quyền lực thì để tồn tại đến ngày nay, người Việt Nam chắc chắn phải có nhiều danh tướng và những nhà quân sự tài năng. Tuy nhiên, nếu chỉ có dựa vào những tài năng quân sự chống ngoại xâm để có thể kết luận rằng người Việt Nam thông minh và tài giỏi thì tôi e rằng quá phiến diện và chủ quan. Chống lại giặc ngoại xâm đã khó, nhưng sau khi đất nước đã được độc lập thì việc xây dựng và phát triển đất nước được tiến hành như thế nào? Phải nhìn nhận một cách nghiêm túc về lịch sử rằng không phải lúc nào Việt Nam cũng đối mặt với họa xâm lược phương Bắc. Lịch sử Việt Nam có những giai đoạn dài mấy trăm năm không có bóng ngoại xâm phương Bắc nhưng vẫn không thoát khỏi những cảnh khói lửa binh đao do những cuộc nội chiến của các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực với nhau. Có thể đơn cử tới một giai đoạn huynh đệ tương tàn kéo dài 275 năm từ khi Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê (1527) dẫn đến cuộc chiến phân tranh Đàng Ngoài và Đàng Trong của hai tập đoàn Trịnh và Nguyễn cho tới thời Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn để thống nhất đất nước (1802). Đan xen giữa những trận chiến tranh giành quyền lực của các thế lực Mạc-Lê, Trịnh-Nguyễn, Tây Sơn-Gia Long… là vô số các cuộc khởi nghĩa nổi dậy tự phát của nông dân khiến chính trị và kinh tế của Việt Nam chưa bao giờ ổn định nói chi đến phát triển. Chiến tranh liên miên mà đất nước ta không có đủ thời gian để xây dựng một nền tảng tư tưởng vững chắc cho riêng mình. Trong khoảng thời gian gần 3 thế kỷ đó, Châu Âu chứng kiến nhiều cuộc cách mạng về tư tưởng triết học và khoa học làm nền tảng cho sự phát triển vượt bậc của phương Tây sau này. Tôi luôn đặt ra một giả thuyết rằng nếu trong suốt 275 năm đó, Việt Nam không có nội chiến, không có tranh giành xâu xé thì đất nước ta sẽ phát triển như thế nào? Rõ ràng, dân tộc ta đã lãng phí quá nhiều thời gian cho chiến tranh mà đánh mất rất nhiều cơ hội để phát triển toàn diện. Xét về mặt chính trị, tính tới hết thời nhà Nguyễn lịch sử chúng ta thiếu vắng bóng dáng của những triết gia, những nhà tư tưởng, những nhà cải cách chính trị.... Các triều đại trong lịch sử Việt Nam, cho dù là giành lại độc lập dân tộc từ Trung Quốc hay cướp ngôi của nhau thì vẫn áp dụng gần như toàn bộ bộ máy cai trị của chế độ quân chủ chuyên chế phương Bắc mà không có sự chỉnh sửa hay cải tiến nào. Chưa có một triều đại nào trong lịch sử Việt Nam dám bứt phá khỏi ảnh hưởng của Nho giáo trong việc trị quốc. Về mặt văn hóa, lịch sử của chúng ta cũng thiếu hẳn bóng dáng của những nhà khoa học, những nhà phát minh, những nhà thám hiểm cũng như những nghệ thuật gia nổi tiếng mà lại có rất nhiều những văn sĩ thi sĩ Nho giáo tôn sùng các thể loại cổ văn Trung Quốc như từ, phú, Đường thi, câu đối… Về kinh tế, nền kinh tế của Việt Nam qua các thời đại vẫn chưa bao giờ thoát khỏi được ngành nông nghiệp lạc hậu và tiểu thủ công mang tính chất tự cung tự cấp. Ở bài viết trước, tôi đã chỉ ra rằng chúng ta không hề phát triển được ngành thương nghiệp nhất là ngoại thương mặc dù có ưu thế đường bờ biển rất dài. Nếu xét những khía cạnh tư tưởng, chính trị, văn hóa và kinh tế, dân tộc ta chưa bao giờ được xem là một dân tộc mạnh, nếu không muốn nói là rất yếu. Đây là những lỗ hổng rất lớn trong lịch sử mà chúng ta phải nghiêm túc và khách quan nhìn nhận vì chúng không phần không nhỏ trong việc định hình nước Việt Nam ở thời hiện đại. Quay trở lại vấn đề về trí thông minh và tài năng của người Việt Nam, trí thông minh của người Việt Nam trong lịch sử mang mang tính chất thời vụ và đối phó với những nguy cơ cấp bách của một dân tộc luôn đứng trước hiểm họa chiến tranh phải tìm cách bảo vệ mình hơn là một sự thông minh có bài bản và hệ thống mang tính chất khám phá và sáng tạo của những dân tộc phát triển. Trí thông minh của người Việt Nam trong lịch sử đủ để đảm bảo việc sinh tồn trước những thế lực mạnh không bị diệt vong chứ chưa đạt đến mức phát triển và xây dựng đất nước. Trong chiến tranh, trí thông minh và sức mạnh tiềm ẩn của người Việt có đất để phát huy tối đa nhưng khi ở thời bình, người Việt lại trở về an phận thủ thường với con trâu cái cày hoặc cảm thấy tự mãn với quan chức bổng lộc. Người Việt chúng ta thiếu hoàn toàn tinh thần cầu tiến học hỏi để vươn lên mà chỉ hài lòng với những gì đang có ở hiện tại. Chỉ cần có mái nhà để che mưa che nắng và hai bữa ăn mỗi ngày, đại đa số người Việt đều có thể cảm thấy như thế là đầy đủ và chấp nhận cuộc sống như thế đến cuối đời. Để sinh tồn và chống lại kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần, con người cần những mưu trí hoặc thậm chí là những mẹo đánh nhanh, thắng nhanh và ít tổn thất nhất có thể. Một câu nói tiêu biểu trong Tôn Tử Binh Pháp thường được dùng để minh họa cho kiểu thông minh này là “binh bất yếm trá” (dùng binh thì không câu nệ gian dối và thủ đoạn). Nói một cách khác, đây là loại trí thông minh dành cho kẻ yếu chống lại kẻ mạnh. Loại trí thông minh này được áp dụng triệt để trong lịch sử Việt Nam để chống lại những cuộc xâm lược phương Bắc khi chúng ta không thể đối đầu trực diện với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần. Những mưu kế kiểu này cũng không thể thiếu trong những thủ đoạn tiêu diệt những đối thủ chính trị của mình trong trò chơi tranh giành quyền lực. Và ở một mức độ thấp hơn, chúng còn được những người dân bị áp bức dùng để chống lại vua quan cai trị dưới hình thức gọi là “mẹo chơi khăm” rất thường thấy trong các câu chuyện dân gian Việt Nam. Loại trí thông minh này phát huy tác dụng rất tốt trong việc đối kháng và sinh tồn trước kẻ địch, nhưng nhược điểm của nó là nó nặng tính sát phạt thắng thua chứ không dẫn đến sự hợp tác bền vững lâu dài hoặc để xây dựng một nền tảng xã hội vốn cần sự dung hòa và học hỏi lẫn nhau. Vấn đề của người Việt chúng ta là loại trí thông minh này vẫn được áp dụng vào cuộc sống ở thời bình vốn cần sức mạnh của trí thông minh sáng tạo và xây dựng. Thậm chí loại trí thông minh mang đậm tính thắng thua sát phạt ở nước ta còn được tôn sùng và được xem là chuẩn mực của trí thông minh. Các Nho sĩ Việt Nam ngày xưa ngoài việc làm thơ ngâm vịnh còn rất thích sát phạt mỉa mai nhau bằng những câu đối như một hình thức thể hiện trí thông minh của mình. Nếu hỏi tôi các ông đồ ấy có thông minh không thì tôi sẽ bảo rằng có vì nếu không thông minh thì làm sao các ông có thể biết chọn từ nào, điển tích nào để đối lại cho thật chuẩn hoặc thậm chí là còn rất “thâm”, chửi mà như không chửi khiến cho người nghe rất đau nhưng không làm gì được. Nhưng nếu hỏi tôi có coi trọng loại trí thông minh đó hay không thì tôi sẽ nói rõ ràng rằng đó là loại trí thông minh vô dụng vì nó không giúp ích được gì cho cộng đồng hay xã hội mà chỉ để thỏa mãn cái tôi ích kỷ của người sở hữu đó hoặc đạt được những lợi ích hết sức tầm thường. Và tôi không gọi đó là trí thông minh mà gọi đúng tên nó là “khôn lỏi”. Có quá nhiều hình tượng “thông minh” nhưng thực chất là khôn lỏi được phổ biến trong văn hóa Việt Nam khiến cho nhiều người bị lầm lẫn hai khái niệm này với nhau. Trạng Quỳnh là một nhân vật tiêu biểu cho trí thông minh “khôn lỏi” mặc dù những giai thoại về Trạng Quỳnh được gắn thêm cái mác lòng tự hào dân tộc hoặc chống lại cường quyền áp bức. Những giai thoại của Trạng Quỳnh có thể chia thành bốn nhóm chính: 1. Chơi khăm sứ Tàu, 2. Chơi khăm chúa Trịnh, 3. Chơi khăm thần thánh, 4. Chơi khăm các quan lại trong triều đặc biệt là các hoạn quan. Nhưng cho dù giai thoại đó thuộc nhóm nào đi nữa thì trạng Quỳnh đều dùng những mánh khóe rất hạ lưu để giành phần thắng. Và đôi khi chính vì chúng được khoác cho cái áo mỹ từ “tự hào dân tộc” hay “chống áp bức bất công” mà người nghe, người đọc vô tình quên mất hoặc cố tình ủng hộ những trò bẩn của Trạng Quỳnh. Đó là lối ngụy biện “binh bất yếm trá”, đối với kẻ ác kẻ mạnh thì chúng ta có quyền chơi xấu, rất phổ biến trong xã hội Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Đó là chưa kể chúng ta thường vì những ngụy biện được mặc định ở loại truyện này mà bất chấp những vấn đề mang tính phi logic. Chúng ta có thể cảm thấy hả hê trước cảnh anh lái đò Trạng Quỳnh vạch chim đái rồi đối rằng “Vũ qua Bắc hải” để làm bẽ mặt câu “Sấm động Nam bang” của sứ Tàu hay cảnh Quỳnh dùng quạt gõ đầu sứ Tàu để sứ Tàu tức giận rượt Quỳnh chạy qua cửa quan mà mặc kệ luôn sự thật rằng những điều đó khó có thể xảy ra trong nghi thức ngoại giao trên thực tế. Một đằng là sứ thần của nước lớn mang trọng trách ngoại giao tất nhiên không thể cư xử thất thố làm mất thể diện của thiên triều. Một đằng là trọng trách đón sứ, mỗi nguyên tắc lễ nghi đều phải tuân thủ nghiêm ngặt thì làm gì có chuyện có những hành động lỗ mãng thô bỉ với nhau như những đứa trẻ chăn trâu trong làng được. Những truyện thi thố kiểu cho nghé con đánh bại trâu chọi của Tàu hoặc dùng mười ngón tay nhúng mực vẽ mười con giun rồi bảo là rồng chẳng những dạy người khác gian lận lười đảo mà còn rất phi lý vì chẳng lẽ những cuộc thi như thế không có quy định rõ ràng. Người đọc nếu dùng lý trí để suy xét cũng sẽ khó chấp nhận một chúa Trịnh quyền lấn át cả vua Lê mà lại không dám trị tội Quỳnh nên phải giở trò hạ lưu sai lính đến đại tiện ở nhà Quỳnh để rửa hận và Quỳnh cho dù to gan cách mấy cũng không dám mang cây cải dâng chúa bảo rằng đây là sản phẩm nhờ ơn chúa Trịnh cho lính đến phóng uế mà có được. Không chỉ có Trạng Quỳnh mà Xiển Bột, người được xem là hậu duệ của Trạng Quỳnh, và Ba Giai Tú Xuất sau này cũng được xem là biểu tượng của trí thông minh dân gian Việt Nam. Nếu Trạng Quỳnh còn có thể xem là có gan thách thức sứ Tàu để bảo vệ tự tôn dân tộc hoặc đương đầu với chúa Trịnh thì Xiển Bột chỉ có thể quanh quẩn giở những trò hạ lưu để ăn thua đủ với bọn hào lý trong làng và quan địa phương. Ba Giai và Tú Xuất là hai kẻ ăn không ngồi rồi dùng những mánh khóe đê tiện và ba tấc lưỡi lươn lẹo để đi ăn quỵt, ăn cắp, lừa đảo và thậm chí là sàm sỡ quấy rối tình dục phụ nữ giữa thanh thiên bạch nhật. Nhưng khi giới thiệu về Ba Giai Tú Xuất, người ta đã dùng những lời khá hoa mỹ để đánh tráo khái niệm như sau: “Ba Giai và Tú Xuất là cặp bài trùng trong lịch sử Việt Nam. Hai nhà nho bất đắc chí suốt năm đi khuấy động dân làng cho hả nỗi bất bình, trước những thói xấu của xã hội đương thời. Ba Giai tên thật là Nguyễn Văn Giai, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên có tên gọi là Ba Giai. Học giỏi nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc nên ông không đi thi. Tú Xuất tên thật là Nguyễn Đình Xuất, sống vào thế kỷ XIX, là người gốc làng Chuông, huyện Thanh Oai, Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Xuất là người thông minh, tri thức hơn người nhưng hay gặp thất bại trong khoa cử. Từ đó, ông sinh ra tính hay bông đùa, trêu cợt, đặc biệt là thích đả kích vào các thói hư, tật xấu và những tiêu cực của người đương thời. (…) Những giai thoại về Ba Giai và Tú Xuất được lưu truyền, phổ biến rộng rãi trong thời bấy giờ. Hai nhân vật này thường đi đôi với nhau, bày mưu tính kế để xoay tiền, hoặc lừa bịp, hoặc "chơi” cho ai một vố "thất điên bát đảo", đến mức làm cho những người "có máu mặt" đương thời phải kiêng sợ, tránh né.” Liệu chúng ta có thể chấp nhận những người được miêu tả là “thông minh, tri thức hơn người” lại cùng nhau “bày mưu tính kế để xoay tiền, hoặc lừa bịp” hoặc chơi người khác một vố “thất điên bát đảo” bằng những trò hạ lưu đê tiện như thế? Chính vì khái niệm “thông minh” và khái niệm “khôn lỏi” kiểu Trạng Quỳnh, Xiển Bột hay Ba Giai Tú Xuất bị đánh đồng mà một bộ phận không nhỏ người Việt tự hào về những trò mánh mung lừa lọc của mình và xem đó là biểu hiện của trí thông minh. Thật tai hại nếu các thế hệ trẻ của Việt Nam được dạy thông minh theo truyền thống của Trạng Quỳnh hoặc Ba Giai Tú Xuất. (còn tiếp) Ghi chú: Về phần khôn lỏi, tôi vẫn còn chưa viết xong nhưng vì bài viết khá dài nên tôi tạm ngưng ở đây và chia làm hai phần. Nếu các bạn thấy những gì chưa nói ở đây, có thể nó sẽ được nói đến ở phần tiếp theo. Vì thế cứ hãy bình tĩnh theo dõi, đừng đưa ra những nhận xét vội vã. Xin cảm ơn.
------
Cre : bài luận “Người Việt hời hợt” của chú Barry Huỳnh Chí Viễn
2 notes · View notes
dichtiengtrung-blog · 4 years
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
doanhnghiepnho-blog · 4 years
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
dichtiengthonhiky · 4 years
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
dichhoso · 4 years
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
dichthuatsms · 4 years
Text
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Các giọng đọc voice quảng cáo, thu âm lời thoại, lời bình hay nhất
Chúng tôi cung cấp dịch vụ thu âm giọng đọc voice cho video clip quảng cáo, đọc lời thoại cho phim giới thiệu doanh nghiệp với giọng đọc miền nam và miền bắc phát âm chuẩn, truyền cảm, chuyên nghiệp.
Các voice talent lồng tiếng quảng cáo của chúng tôi đều là các MC, show host và phát thanh viên chuyên nghiệp, phát âm theo chuẩn giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nội. Xin giới thiệu các mẫu giọng đọc…
View On WordPress
0 notes
Text
Diệp Đàn hồi phục tinh thần, ban đầu cô tính nói cảm thấy bọn họ rất giống cặp chồng già vợ trẻ, nhưng lúc này không thể nói nên lời, vì vậy đành chuyển sang chủ đề khác, “À, tôi cảm thấy, à, tôi cảm thấy chúng ta có thể dẫn đàn diệp và phạm huy nhỏ xuống dưới dạo chơi, à ồ, nhắc tới mới nhớ, phạm huy nhỏ và đàn diệp đâu rồi?”
Phạm huy nhỏ đang ở trên sân thượng, nó vất vả cào túi thức ăn cho mèo, dùng móng cực khổ móc ra mấy hạt thức ăn đặt trong đĩa, kiêu ngạo dâng hiến cho đàn diệp, kết quả là trơ mắt nhìn thức ăn trong đĩa không cánh mà bay.
Sau đó nó nghe nam chủ nhân nói: “Nó bận rộn nhiều việc.”
Nữ chủ nhân lập tức hỏi: “Hả? Bận rộn gì cơ?”
“Nuôi mèo.”
Bảo mẫu phạm huy nhỏ: … Ta đang nổ lực chăm sóc mèo a! Nhưng mà nam chủ nhân à ngài không nên cản đường như vậy!
Trong phòng khách, Ngọc Bạch Y lấy một quyển sách trong phòng ra, ngồi bên cạnh Diệp Đàn, nhỏ giọng hỏi, “Đọc sách không?”
“Không!” Diệp Đàn không nhịn được nhìn chằm chằm quyển sách dày như cục gạch trên tay Ngọc Bạch Y, sau đó lấy điều khiển từ xa, “Tôi xem tivi.”
Vừa mở tivi lên, trùng hợp thấy quảng cáo <<Nhà có thú cưng>>,  sau đó Diệp Đàn vừa coi vừa lẩm bẩm: “Tại sao chó nhà người ta gặp chủ nhân lập tức nhào tới ôm làm nũng, còn chó nhà mình gặp chủ liền né, nó chỉ biết nuôi mèo.” Sắc mặt Diệp Đàn không đổi tiếp tục nói, “Rồi còn ngủ chung một chỗ với chủ nhân, vậy mà chó nhà mình không có thời gian để ngủ chung với tôi, cứ lo đi chăm mèo.”
Diệp Đàn nhìn Ngọc Bạch Y: “Nó chỉ biết nuôi mèo, vậy mua nó làm gì.”
Lỗ tai phạm huy nhỏ quá mức tốt, lúc này đang yên tĩnh nhìn đàn diệp ăn, sau đó nghe thấy nữ chủ nhân đánh giá mình…
Con chó cảm thấy rất oan ức!!
Tuy nhiên nó không thể nói a!
Bên trong có kẻ rất đáng sợ.
Ngọc Bạch Y: …..
“Tôi có thể ngủ cùng em.”
“Không nên.” Diệp Đàn lập tức từ chối, “Lạnh giống như băng vậy đó, ai muốn ngủ cùng anh chứ.”
Ngọc Bạch Y im lặng một lúc, sau đó giơ tay nắm bàn tay Diệp Đàn, “Ấm rồi.” Giọng nói hắn hơi lành lạnh, nhưng bàn tay nắm tay Diệp Đàn rất ấm áp, “Tôi có thể ấm.”
…. Mị tự đào hố chôn mình rồi phải không.
Căn bản là cô chưa từng nghĩ tới sẽ ngủ chung với Ngọc Bạch Y, đùa chắc, sao có thể so sánh chó với người?
Đại khái là cô muốn nói quanh co để lên án hành động của Ngọc Bạch Y hắn không cho chó con chơi đùa với cô.
- Trong Nhà Có Một Nam Phụ
2 notes · View notes
Text
Chatbot Messenger Marketing: 4 Bước Đơn Giản Tạo Doanh Thu 250.000 USD
Chatbot Messenger marketing là chăm sóc khách hàng tự động và giúp chúng ta tạo dựng niềm tin cho khách hàng. Hãy đọc ví dụ dưới đây để hiểu hơn về nó!
Bạn đang ở trong siêu thị Big C và muốn mua 1 chiếc TV. Trong 2 kịch bản sau, cái nào có nhiều khả năng khiến bạn mua hàng hơn?
Kịch bản A
Nhân viên: Tôi có thể giúp gì cho bạn?
Bạn: Vâng, tôi muốn mua một chiếc TV.
Nhân viên: Bạn đi lối số 6 nó ở phía bên phải
Kịch bản B
Nhân viên: Tôi có thể giúp gì cho bạn?
Bạn: Vâng, tôi muốn mua một chiếc TV.
Nhân viên: Hãy đi với tôi, chúng tôi có rất nhiều sự lựa chọn. Bạn đang tìm size nào? bạn có muốn tính năng cụ thể nào không? Bạn muốn mua TV khoảng bao nhiêu tiền?
Có lẽ bạn đã rõ câu trả lời. Dịch vụ chăm sóc khách hàng và khả năng bán hàng cao hơn nhiều trong Kịch bản B.
Trong Kịch bản A, nhân viên chỉ cho bạn nơi cần đi và bỏ mặc bạn tự tìm đường, sau đó bạn phải duyệt qua tất cả các loại khác nhau và tự mình đưa ra quyết định mua hàng.
Nhưng trong Kịch bản B, nhân viên dẫn bạn đến chính xác nơi bạn cần. Họ nói chuyện để biết bạn đang muốn gì và đưa ra các lựa chọn tốt nhất cho bạn.
Vậy tại sao tôi lại đưa ra ví dụ này và nó liên quan với bài viết này như thế nào?
Bởi vì hầu hết các trang web hiện tại hoạt động giống như nhân viên trong Kịch bản A.
Chắc chắn, trang web của bạn cũng có thể cung cấp cho mọi người các biển chỉ dẫn để giúp họ tìm thấy những gì họ muốn - chẳng hạn như hệ thống Menu của bạn. Tuy nhiên, cuối cùng khách truy cập của bạn vẫn phải tự tìm đường.
Nhưng nhờ có Chatbot Facebook Messenger Marketing, các doanh nghiệp có thể dễ dàng mang đến cho mọi người "Trải nghiệm B", ngay cả khi họ chỉ truy cập trang web của bạn.
Tôi sẽ chỉ cho bạn cách tôi đã làm và tạo ra 250.000 USD với một kênh Chatbot Messenger đơn giản.
Dưới đây là cách thức hoạt động của nó:
XEM THÊM: Cách Chatbot Messenger Tạo Ra 1,2 triệu USD
Bước 1: Đưa Mọi Người Đến Chatbot
Bước đầu tiên trong bất kỳ chiến dịch Messenger Marketing nào cũng giống nhau: Bạn phải thực sự đưa mọi người vào cuộc trò chuyện với chatbot của mình.
Có rất nhiều cách để làm điều này như quảng cáo Facebook Messenger, các bài đăng nhận xét trên Facebook, v.v.
Nhưng tôi đã là một điều đơn giản hơn nhiều trong trường hợp của tôi.
Tôi đã sử dụng chatbot của mình để thay thế trang "Liên Hệ" trên trang web của tôi.
Tôi nghĩ rằng điều này thực sự rất có ý nghĩa. Sử dụng chatbot tạo ra trải nghiệm người dùng hài lòng hơn vì họ sẽ nhận được sự tương tác ngay lập tức thay vì chờ đợi phản hồi sau khi điền vào mẫu gửi tới liên hệ. Đó là sự hài lòng mà mọi người đang mong đợi.
Vì vậy, nếu bạn truy cập trang web của tôi và nhấp vào "Liên Hệ"
Bạn sẽ KHÔNG THẤY một trang "Liên Hệ" nào cả.
Thay vào đó liên kết sẽ mở Messenger trong một tab mới nơi sẽ tự động bắt đầu cuộc trò chuyện với chatbot của tôi.
Thật tuyệt phải không?
Nó vẫn đáp ứng mọi chức năng của trang liên hệ trực tuyến, mọi người có thể liên hệ với tôi. Nhưng thay vì một mô hình trang web chung, bạn có một cách giao tiếp cá nhân hơn, mới hơn và thú vị hơn.
Bây giờ chiến lược Chatbot Messenger Marketing này đã hoạt động rất tốt, chúng tôi cũng đã thêm 2 Growth Tools (Công cụ phát triển) khác nhau vào trang web của mình để có thể bắt đầu nhiều cuộc hội thoại trên Messenger hơn nữa.
Đầu tiên là Slider Growth Tool ở bên cạnh trang:
Bạn có thể thấy, tôi đã thiết lập Growth Tool trên các trang bán hàng cho một số sản phẩm của mình.
Growth Tool khác cũng là Slider. Nhưng nó chỉ xuất hiện nếu bạn có ý định rời khỏi trang:
Đó là bước 1, chỉ cần mở cuộc trò chuyện. Bây giờ, ngay khi bạn nhấp vào một trong hai Growth Tool này, hoặc điều hướng đến trang "Liên Hệ" của tôi, bạn sẽ chuyển sang bước 2:
Mở cuộc trò chuyện với chatbot của tôi.
Bước 2: Đủ Tiêu Chuẩn Và Hướng Dẫn Trực Tiếp
Khi bạn bắt đầu trò chuyện với chatbot của tôi, điều đầu tiên bạn nhìn thấy là một GIF của Don Draper trông thật ngầu và phong cách như chỉ Don mới có thể.
Thưa quý vị, đây là một Don chatbot.
Ngay khi bạn bắt đầu cuộc trò chuyện, Chatbot tiến hành hỏi bạn (theo cách khéo léo) tất cả các câu hỏi tương tự mà tôi sẽ hỏi mọi người hay cá nhân nếu tôi có mặt ở đó.
Về cơ bản, tôi đang lọc để thích ứng với một trong những khách hàng chính mà tôi phục vụ. Hãy nhớ rằng việc giới hạn theo dõi của bạn là tới 2 hoặc 3 câu hỏi. Nếu nhiều hơn thế, mọi người sẽ bắt đầu bị tắt bởi tự động hóa.
Sau đó, dựa vào phản hồi của bạn, tôi đề xuất sản phẩm hoặc dịch vụ của tôi phù hợp nhất với bạn và luôn dõi theo trực tiếp. Mục đích của chatbot không phải là để bán hàng, nó ở đó để giữ cho khách hàng tham gia lâu hơn.
Các cuộc hội thoại trên Facebook Messenger do chatbot dẫn đầu này có nhiều dạng và hình thức khác nhau tùy thuộc vào cách bạn thiết lập trình tự. Tuy nhiên, tôi khuyên bạn không tự động hóa mọi thứ. Điều quan trọng là phải có người trực tiếp theo dõi và tham gia sau chuỗi tin nhắn sơ bộ.
Vì vậy, nếu bạn sở hữu một đại lý có doanh thu 1 triệu USD, tôi khuyên bạn nên tư vấn cá nhân với tôi để tôi có thể thực sự tìm hiểu và giúp tìm ra điểm nhấn trong sự phát triển cho đại lý của bạn.
Nếu bạn chỉ mới bắt đầu một đại lý, tôi sẽ giới thiệu Đại lý Playbook của tôi thay vào đó như một cách hiệu quả hơn v��� chi phí để giúp đại lý mới của bạn khởi đầu.
Ý tưởng khá đơn giản: hãy hỏi khách hàng của bạn một vài câu hỏi để biết họ đang muốn gì
Sau đó, giới thiệu sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp nhất với họ. Chỉ cần giúp mọi người tìm thấy những gì họ đang tìm kiếm.
Bước 3: Automated Follow-Up
Tại sao bạn không tận dụng ManyChat để giúp bạn dễ dàng theo dõi khách hàng tiềm năng?
Đây là cách tôi làm điều đó.
Đầu tiên, tôi gắn thẻ tất cả mọi người trong Messenger, những người nhấp vào một trong các liên kết sản phẩm của tôi (like "Đại lý Playbook"). Bằng cách này, tôi có thể gửi tin nhắn theo dõi một vài ngày sau đó.
Tôi cũng đang tận dụng một tính năng mới trong Facebook cho phép mọi người nhập email của họ chỉ bằng một cú nhấp chuột. Hãy xem hình ảnh này bởi vì tin nhắn của tôi nói rằng "Hãy cho tôi biết email của bạn", Facebook tự động điền địa chỉ email của họ và giúp họ dễ dàng cung cấp nó:
Sau đó, khi bạn nhấn nút, bạn sẽ tự động được thêm vào danh sách email của tôi. Và chỉ trong vài phút, bạn sẽ nhận được email từ tôi:
Từ giờ tôi có thể liên lạc với bạn qua cả email và Messenger.
Tự động điền email là một tính năng thực sự thú vị trong Facebook vì 2 lý do:
Giúp cho mọi người dễ dàng chia sẻ địa chỉ email của họ.
Đây có thể là một địa chỉ email TỐT.
Bước 4: Tiếp Cận Khách Hàng Tiềm Năng Có Giá Trị Cao
Tôi có thể dừng lại và chatbot vẫn sẽ thành công.
Nhưng tôi không làm vậy. Tôi muốn tiến thêm một bước nữa.
Bởi vì trong trường hợp của tôi, tôi đang bán một số mặt hàng có giá trị cao để cá nhân tiếp cận và trả lời các câu hỏi từ các khách hàng tiềm năng đủ điều kiện.
Và cách tôi làm điều này có chút khác biệt so với hầu hết mọi người.
Thay vì viết phản hồi trong Messenger, tôi sử dụng điện thoại của mình để ghi lại một tin nhắn âm thanh ngắn và tôi sẽ gửi nó thay vào đó. Vì vậy, thay vì thấy phản hồi của tôi gõ trên màn hình, họ sẽ nghe thấy một đoạn ghi âm giọng nói của tôi.
Mọi người không thường xuyên nhận được loại tin nhắn này, vì vậy nó nổi bật với họ. Tôi cũng dễ nói chuyện hơn là sử dụng bàn phím nhỏ chật chội trên điện thoại.
Và điều tuyệt vời khi trò chuyện với khách hàng tiềm năng trên Messenger đó là nếu tôi trả lời sau 30 phút, sau 3 giờ, sau 3 ngày hay bất cứ khi nào - họ sẽ thấy phản hồi đó ngay lập tức.
Điện thoại trong túi của họ sẽ rung và có thể, ít nhất họ sẽ mở và đọc tin nhắn đó.
Kết Quả Sau Khi Áp Dụng?
Khi tôi bắt đầu thử nghiệm này, tôi có hai mục tiêu chính:
Tăng doanh số
Tăng dịch vụ cao cấp
Sau khoảng hai tháng, doanh số đã tăng gấp đôi và dịch vụ cao cấp tăng 74%.
Tổng doanh thu tăng: khoảng 250.000 USD .
Vì vậy, Tôi có thể chắc chắn đây là một thành công lớn.
Tại sao chiến lược này hiệu quả
Bạn thấy đấy, tôi chưa làm bất cứ điều gì to lớn hay vĩ đại. Tôi chỉ tạo một chatbot đơn giản mà bạn truy cập từ trang web của tôi.
Nhưng nó hoạt động rất Tốt.
Vậy tại sao nó lại hiệu quả đến vậy?
Tôi có một vài điều muốn chia sẻ:
Sự minh bạch
Tôi không lừa mọi người nghĩ rằng chatbot là người. Tôi đến và nói với họ đó là robot. Tôi nghĩ sự thật là điều rất quan trọng.
Sự thân thiện
Nó không chỉ là một số robot không tên. Nó có cá tính, vừa vui vẻ, vừa độc đáo vừa giúp thu hút mọi người
Thực sự hữu ích.
Tôi không cố ép buộc mọi người. Vấn đề không phải là thuyết phục mọi người đăng ký một cái gì đó họ không muốn hoặc không cần. Thay vào đó, tôi chỉ trả lời các câu hỏi và cố gắng giúp mọi người có được những gì họ muốn.
Điều kiện đầu tiên
Điều đầu tiên chatbot của tôi làm trong mọi cuộc trò chuyện là hỏi một vài câu hỏi nhanh, giúp tôi biết chính xác tôi đang nói chuyện với ai. Điều này khiến bất cứ khi nào tôi trả lời câu hỏi cho ai đó trong Messenger, tôi đều biết chính xác mình đang nói chuyện với ai, tránh lãng phí thời gian hoặc tài nguyên cho ai đó không phù hợp với doanh nghiệp của tôi.
Gắn thẻ người dùng để theo dõi dễ dàng
Khi người dùng trả lời các câu hỏi tự động của tôi, đó không chỉ là đáp ứng điều kiện đầu tiên. Nó cũng cung cấp cho người dùng thông tin liên quan cho phép tôi dễ dàng theo dõi các khách hàng tiềm năng đủ điều kiện trong tương lai
Khả năng tương tác cao
Nhiều người nói về khả năng chuyển đổi tuyệt vời của Messenger Marketing, vì vậy tôi sẽ không nhắc lại ở đây. Chỉ cần biết rằng nhiều người mở trò chuyện trên Messenger thay vì mở email là đủ. Và bởi hầu hết mọi người cài Facebook 24/7 trên máy tính để bàn hoặc điện thoại di động của họ, hầu hết người dùng phản hồi ngay lập tức.
Cung cấp sự hài lòng ngay lập tức
Không giống như các cuộc trò chuyện email, có thể kéo dài trong nhiều ngày hoặc thậm chí vài tuần, Chatbot Facebook Messenger cho phép phản hồi người dùng ngay lập tức, mang lại trải nghiệm tích cực ngay lập tức và cho phép tôi tận dụng lợi ích đó trước khi khách hàng tiềm năng có thời gian rời đi hoặc quên tôi. Điều đó giúp doanh nghiệp của tôi không bị giảm cơ hội kinh doanh.
Làm Nó Đơn Giản Và Cá Nhân
Có hai điều tôi hy vọng bạn nhận được ở đây.
Đầu tiên: Tôi biết rằng thật dễ dàng để thiết lập các công cụ tự động hóa và nó có sẵn với hầu hết các nền tảng quảng cáo hiện nay.
Nhưng đừng đánh giá thấp sức mạnh của sự tương tác của con người!
Việc tôi trả lời các câu hỏi cá nhân và sử dụng tin nhắn thoại, khiến chúng trông cá nhân hơn - một chặng đường dài để tạo niềm tin và sự tín nhiệm với khách truy cập. Nó giúp tăng sự chân thành và niềm tin của tôi. Đó là một trong những lý do tại sao Chatbot trò chuyện này đã tăng doanh số dịch vụ giá trị cao lên 74%.
Thứ hai: Nên biết rằng Chatbot này đơn giản như thế nào. Không có quy trình phức tạp hay các chiến dịch quảng cáo Facebook phức tạp. Chỉ cần một liên kết đến trang "Liên Hệ" của Chatbot trò chuyện đơn giản.
Bạn có thể làm một số điều tuyệt vời với ManyChat và Chatbot. Sử dụng logic phân nhánh, các tuyên bố có điều kiện và tất cả những thứ đó để xây dựng các hành trình trải nghiệm khách hàng.
Tuy nhiên, trường hợp này cho thấy chatbot của bạn không cần phải phức tạp để có hiệu quả. Miễn là bạn tạo ra thứ gì đó thực sự giúp ích cho mọi người, bạn sẽ hài lòng với kết quả.
ĐỌC TIẾP: Cách Chatbot Facebook Messenger Tạo Ra 23.987USD Trong Một Ngày
Bạn muốn có thêm nhiều chiến lược như thế này để tạo khách hàng tiềm năng, người đăng ký và bán hàng từ Messenger Marketing? Hãy xem khóa học Chatbot Master mới của chúng tôi tại đây.
1 note · View note
Link
VNVO là hệ thống studio chuyên về thu âm quảng cáo, thu âm lời chào tổng đài, thu âm nhạc chờ doanh nghiệp chuyên nghiệp giá rẻ. Chúng tôi có nhiều diễn viên lồng tiếng có kinh nghiệm và được đào tạo bài bản với hai phòng thu âm tphcm và phòng thu âm tại Hà Nội. Nếu bạn đang muốn tìm giọng lồng tiếng quảng cáo, giọng thuyết minh chuyên nghiệp để thu âm video quảng cáo,  thu âm  lời chào tổng đài, thu âm nhạc chờ doanh nghiệp, thu âm video giới thiệu sản phẩm, thu âm video giới thiệu công ty, video giải trí, lồng tiếng phim, thu âm tổng đài điện thoại, thu âm ebook, thu âm  bài giảng, thu âm giọng đọc khách sạn,  thu âm giọng đọc siêu thị, thu âm cửa hàng…chúng tôi là địa chỉ tin cậy hàng đầu!
Tại sao lại chọn VNVO?
Diễn viên lồng tiếng chuyên nghiệp
VNVO có hơn 10 giọng lồng tiếng chuyên nghiệp và đa dạng: giọng lồng tiếng Nam TP HCM, giọng lồng tiếng Nữ TP HCM, giọng lồng tiếng Nam Hà Nội, giọng lồng tiếng Nữ Hà Nội và giọng thu âm Tiếng Anh bản địa. Các diễn viên của VNVO được đào tạo lồng tiếng quảng cáo và thuyết minh bài bản, có thể thể hiện nhiều phong cách lồng tiếng và biểu cảm khác nhau, phù hợp với từng yêu cầu cụ thể của khách hàng. VNVO có nhiều mức giá khác nhau đối với từng diễn viên lồng tiếng cụ thể, khách hàng có thể nghe demo giọng và chọn diễn viên phù hợp với phong cách và ngân sách của mình. Vui lòng nghe giọng mẫu hoặc sản phẩm mẫu của VNVO.
Phòng thu âm hiện đại, đầy đủ thiết bị
Âm thanh được thu bằng các thiết bị cá nhân tại nhà hoặc các phòng thu giá rẻ thường không đảm bảo chất lượng, do bị ồn, nhiễm tạp âm, vọng, và âm thanh không được trong và nét. Điều này gây cảm giác rất khó chịu cho người nghe và làm giảm tính chuyên nghiệp cũng như chất lượng của video, đặc biệt các đoạn video hoặc audio dùng trong thu âm quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hoặc công ty. Các phòng thu âm chuyên nghiệp của VNVO đảm bảo chất lượng âm thanh tốt nhất do được đầu tư mới với các thiết bị hiện đại dưới sự giám sát của các kĩ sư âm thanh. Sản phẩm thu âm quảng cáo bàn giao luôn hài lòng tất cả khách hàng, kể cả những người khó tính nhất.
Thu âm quảng cáo giá rẻ nhất thị trường
VNVO tự hào khẳng định là dịch vụ thu âm quảng cáo, thu âm tổng đài, thu âm nhạc chờ doanh nghiệp chất lượng cao có giá hợp lý nhất trên thị trường. Chi phí thu âm chuyên nghiệp ở các phòng thu âm thông thường tương đối cao do yêu cầu chuẩn bị phòng thu và thuê diễn viên. VNVO hiểu điều này và tìm cách tối ưu hóa chi phí thông của mình thông qua số lượng khách hàng, bố trí lịch làm việc khoa học, tuyển chọn diễn viên trẻ tài năng và luôn đặt lợi ích khách hàng lên hàng đầu. Điều này giúp VNVO có được lợi thế về mặt chi phí và cung cấp cho khách hàng dịch vụ thu âm quảng cáo giá rẻ. Chỉ từ 500k, bạn đã có thể sở hữu file thu âm tới 200 chữ với các diễn viên tự chọn. Với các khách hàng thu số lượng lớn, khách hàng quen chúng tôi có chương trình chiết khấu cao, mang lại giá trị tối đa cho khách hàng.
Dịch vụ thu âm quảng cáo trọn gói, hỗ trợ sau thu
VNVO hỗ trợ miễn phí chỉnh sửa file âm thanh sau khi thu. Ngoài ra còn cung cấp dịch vụ dịch thuật Anh – Việt chất lượng cao, khớp audio với video, làm phụ đề, ghép nhạc và dựng video theo yêu cầu của khách. Sản phẩm cuối giao tới tay khách hàng là sản phẩm hoàn thiện có thể sử dụng được ngay.
Dịch vụ thu âm lồng tiếng quảng cáo, lời chào tổng đài, nhạc chờ doanh nghiệp thu âm giá rẻ nhất Việt Nam. Hơn 10 diễn viên lồng tiếng chuyên nghiệp Nam, Nữ, Bắc, Nam, Tiếng Anh cho bạn lựa chọn. Hỗ trợ khớp video, tạo phụ đề theo yêu cầu của khách hàng.
1 note · View note
blogtintonghop24h · 3 years
Text
Cái chết bí ẩn của hoa hậu nhí Mỹ nghi bị anh trai giết, liệu tội ác được bố mẹ che đậy hoàn hảo 20 năm gây ra chỉ bởi lòng đố kị?
Xinh xắn, đáng yêu, tài năng, ngoan ngoãn... đó là những từ người ta có thể dùng để miêu tả về bé gái được mệnh danh là "hoa hậu nhí" của nước Mỹ hồi thập niên 90 - JonBenét Patricia Ramsey (sinh ngày 6 tháng 8 năm 1990). Thế nhưng người ta thường nói "hồng nhan bạc mệnh", câu nói ấy lại linh nghiệm với JonBenét khi mà chỉ mới 6 tuổi, cô bé đã bị giết hại một cách bí ẩn. Vụ án xoay quanh cái chết của JonBenét cho đến nay vẫn tồn tại như một trong những bí ẩn lớn nhất, hóc búa nhất không chỉ của nước Mỹ mà của cả thế giới, thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia, nhà điều tra.
Tumblr media
Số phận hẩm hiu
JonBenét sinh ra đã được "trời phú" cho nhan sắc hơn người cùng vẻ thông minh, lanh lợi vượt xa các bạn đồng trang lứa. Cô bé sở hữu làn da trắng, mái tóc vàng óng, đôi mắt xanh to tròn xinh đẹp và nụ cười vô cùng rạng rỡ ngọt ngào, xinh xắn như thiên thần.
Tumblr media
Chỉ mới vài tuổi nhưng cô bé đã trở thành nhân vật nổi tiếng khi tham gia một loạt cuộc thi sắc đẹp cho thiếu nhi, giành được danh hiệu hoa hậu nhí Colorado, hoa hậu nhí Charlevoix và hoa hậu siêu nhí toàn quốc. Mẹ của cô bé, bà Patsy Ramsay, cũng từng là hoa hậu West Virginia. JonBenét liên tục xuất hiện trên các trang bìa tạp chí thời trang, các tờ báo lớn làm mẫu quảng cáo...
Ngỡ rằng tương lai xán lạn đang chờ đón cô bé ở phía trước nhưng một bi kịch ập đến vào đúng ngay sau đêm Giáng sinh năm 1996.
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
JonBenét được nhìn thấy lần cuối cùng vào 22h ngày 25/12/1996 trên chiếc giường ngủ 2 tầng trong ngôi nhà 4 tầng rộng rãi mà gia đình em đang ở. Đến 5h50 sáng 26/12, cha mẹ của JonBenét là ông bà John và Patsy Ramsey đã gọi báo cảnh sát rằng con gái mình đã mất tích. Trên kệ bếp có bức thư tống tiền đòi gia đình 118.000 USD (2,7 tỷ đồng) để đổi lại sự an toàn của con gái. Điều kỳ lạ là số tiền mà bọn bắt cóc đòi hỏi bằng đúng số tiền thưởng mà John Ramsey nhận được vào đầu năm đó.
Thực tế, gia đình Ramsey có thừa khả năng để trả 1 triệu đô nhưng có thể đây chỉ là một chi tiết để đánh lạc hướng của cảnh sát nhằm cho thấy có sự điều tra kỹ lưỡng về gia đình này của kẻ xấu.
Gia đình Ramsey và cảnh sát đã phối hợp để thực hiện việc đưa tiền chuộc và tóm gọn bọn bắt cóc nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa. Đến buổi chiều hôm đó, ông John bất ngờ phát hiện thi thể con gái ở dưới tầng hầm căn nhà của gia đình trong một tấm chăn mỏng, dây thừng quấn quanh cổ, tay bị trói ngược trên đầu và miệng bị bịt kín.
Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy JonBenét tử vong do bị bóp cổ và chấn thương hộp sọ.
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
Những hình ảnh tại hiện trường vụ án.
Thủ phạm là ai?
Cô bé xinh xắn JonBenét bất ngờ bị giết hại, đây thực sự là một tin sốc đối với người dân và giới truyền thông Mỹ. Tin tức về vụ án mạng nhanh chóng tràn ngập trên khắp các mặt báo. Người ta không thể tin được rằng cô bé đáng yêu như vậy lại ra đi trong tức tưởi như thế. Thủ phạm hẳn là một kẻ máu lạnh đáng sợ.
Cảnh sát đã tìm thấy mẫu ADN dưới móng tay và trong quần lót của cô bé nhưng lại không tìm được bất cứ nhân vật bị tình nghi nào có trong dữ liệu của FBI.
Chỉ 2 ngày sau, ngày 28/12, báo chí địa phương đưa tin ông bà Ramseys trở thành nghi phạm chính của vụ án. Lập luận mà cảnh sát đưa ra là không hề có dấu chân trên nền tuyết quanh nhà cũng như vết tuyết trước các ô cửa, kể cả cửa sổ. Điều này cho thấy chính người trong nhà đã ra tay giết hại cô bé.
Tumblr media Tumblr media
Bên cạnh đó, có một chi tiết xảy ra ở tầng hầm tối thui. Trong khi những người cùng đi chưa thấy gì thì ông John đã hét toáng lên phát hiện thi thể con gái. Hơn nữa, một loạt vật dụng từ phòng của JonBenét bị di chuyển một cách kỳ lạ. Tuy nhiên, các bằng chứng không đủ để kết tội ông bà Ramseys. Năm 2003, công tố viên kết luận rằng ADN tìm thấy trong quần lót của JonBenét không trùng với bất cứ thành viên nào trong gia đình, từ đó loại trừ khả năng nhà Ramseys có dính líu đến vụ việc.
Những ngày tháng sau đó, vì nóng lòng muốn tìm ra hung thủ giết con, bà Patsy Ramsey còn tuyên bố họ sẵn sàng chi 100.000 USD (hơn 2 tỷ đồng) cho ai cung cấp bất kỳ thông tin gì giúp bắt được thủ phạm giết chết con gái họ.
Rồi 10 năm trôi qua, cha mẹ của hoa hậu nhí vẫn tuyệt vọng chờ đợi kết quả điều tra của vụ án. Tháng ngày 24 tháng 6 năm 2006, bà Pasty đã trút hơi thở cuối cùng vì căn bệnh ung thư vú ở tuổi 49.
Tumblr media
Vào tháng 8/2006, John Mark Karr, 41 tuổi, công dân Mỹ và là một cựu giáo viên đã thừa nhận mình là hung thủ giết hoa hậu nhí JonBenét, sau khi bị bắt ở Thái Lan. Hắn khai với cảnh sát Thái Lan rằng hắn yêu cô bé. Vào ngày xảy ra vụ việc, hắn đã đến thăm JonBenét. Cả hai vào căn hầm, và tại đó do vô ý, hắn đã giết chết JonBenét. Tuy nhiên, sau đó cảnh sát nhận thấy ADN của tên này không trùng khớp với dấu vết hung thủ để lại tại hiện trường. Thực tế, hắn nhận tội chỉ để gây được sự chú ý của mọi người và để được nổi tiếng.
Một thời gian sau, thám tử Ollie Gray, một điều tra viên được gia đình Ramsey thuê riêng để tìm hiểu về cái chết của con gái họ, khẳng định tên giết người chính là Michael Helgoth - một kẻ sống trong khu vực lân cận. Điều đáng nói là Michael Helgoth đã chết chỉ 2 ngày sau khi án mạng xảy ra. Cơ quan điều tra cho rằng, ông ta bị thủ tiêu bởi chính đồng bọn tham gia vụ giết hại bé JonBenét. Vì không thể thẩm vấn hung thủ và những kẻ liên quan nên nghi vấn này cũng đi vào ngõ cụt.
Tumblr media
Mũi tên chĩa vào người anh trai hơn 3 tuổi
Mãi cho đến tháng 9 năm 2016, 2 thập kỷ sau vụ án, trong bộ phim tài liệu của kênh CBS mang tên “The Case Of: JonBenét Ramsey”, các nhà điều tra lại đưa ra những bằng chứng và lập luận khẳng định cô bé xấu số này bị sát hại bởi anh trai mình, Burke Ramsey (khi đó 9 tuổi), và sự việc sau đó bị che giấu bởi chính hai bậc phụ huynh!
Các nhà điều tra tiết lộ rằng Burke đã từng mất bình tĩnh và đánh em gái mình bằng gậy chơi gôn, khiến cô bé bị một vết sẹo trên mặt, một năm trước khi sự kiện kinh hoàng xảy ra. Họ cũng cho rằng đây không phải là một vụ giết người mà thiên về giả thiết ngộ sát.
Ông James Kolar, nguyên trưởng ban điều tra tại Boulder, trình bày giả thiết được tất cả các chuyên gia khác đồng tình: “Giả thiết của tôi là gia đình Ramsey về nhà vào khoảng 9 rưỡi hoặc 10 giờ tối", Kolar nói. “JonBenét đã ngủ và được John bế lên phòng. Bà Patsy vẫn ở dưới nhà cùng Burke, bà cho con trai uống trà và ăn dứa. Sau đó, bà Patsy lên đánh thức JonBenét dậy để cô bé đi vệ sinh. JonBenét thức dậy, có thể đã đánh răng hoặc chưa, tôi nghĩ cô bé đã tỉnh và cảm thấy đói nên đi xuống nhà. Cùng lúc đó, Patsy tiếp tục việc xếp đồ cho chuyến đi Michigan. Tôi nghĩ Burke có thể tức giận về việc em gái lấy vài miếng dứa của mình, và trong cơn thịnh nộ, cậu bé có thể đã dùng đèn pin để đánh em, vô tình khiến đứa trẻ tử vong vì chấn thương nặng". Diễn biến này phù hợp với các bằng chứng tại hiện trường cũng như điều tra sau đó.
Tumblr media
Các nhà điều tra không khẳng định Burke cố �� giết người hoặc tham gia che đậy vụ án nhưng họ tin chắc ông bà Ramsey có chủ đích đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát.
“Gia đình Ramsey không muốn vụ án này được giải quyết, đó là lý do vì sao nó tồn tại như một bí ẩn mãi cho đến bây giờ", cựu chuyên viên phân tích hành vi tội phạm của FBI, Jim Clemente nói.
Một bằng chứng mấu chốt góp phần khẳng định lập luận này chính là đoạn ghi âm cuộc gọi kéo dài 6 giây từ cuộc gọi 911 báo án. Bằng công nghệ hiện đại, các nhà điều tra chỉ ra giọng nói của 3 người đang trao đổi với nhau. Bà Ramsey nghĩ rằng mình đã cúp máy sau khi gọi cho cảnh sát, nên đã vô tư bàn bạc với 2 người khác được cho là chồng và con trai bà.
Tumblr media Tumblr media
Theo đó, giọng người bố đã nói: “Bố mẹ không nói chuyện với con", trước khi người mẹ hỏi, “Con đã làm gì? Chúa ơi, cứu con”. Giọng của người anh Burke được nghe thấy hỏi: “Bố mẹ tìm thấy gì?” dù trước đó cả hai vợ chồng Ramsey luôn khẳng định vào lúc đó, con trai vẫn đang ngủ.
Người nhận cuộc điện thoại này, bà Kim Archuletta, cho hay bà cảm giác cuộc gọi đến đã được dàn dựng trước. “Bà ấy nói như thể, ‘xong rồi, chúng ta đã gọi cảnh sát, bây giờ thì sao nữa?', và điều đó khiến tôi chú ý. Vậy nên tôi vẫn giữ điện thoại, cố gắng lắng nghe những âm thanh tiếp theo, nghe như thể có hai giọng nói trong phòng, có thể là ba. Ba giọng nói khác nhau.". Bà Archuletta khẳng định: “Một trong những lý do vì sao tôi vẫn giữ máy cho đến khi mất kết nối là bởi sẽ có điều được nói ra, và mọi người cần được biết".
Một điểm quan trọng rất đáng chú ý khác là lá thư đòi tiền chuộc dài 3 trang cũng được phân tích lại bởi chuyên gia ngôn ngữ pháp lý James Fitzgeralld, người khẳng định trong đó rõ ràng có sự dàn xếp, với những lỗi sai có chủ ý.
Chuyên gia Fitzgerald phân tích về cách dùng câu chữ không phù hợp với hoàn cảnh, về những lỗi sai cố ý. Ông khẳng định rằng ngay vào thời điểm đó, ông đã biết có sự giả mạo vì chỉ cần 3 câu đầu đã đủ thuyết phục ông rằng đây thật sự không phải từ một kẻ bắt cóc.
Tumblr media
Vào khoảng thời gian đó, những lá thư đòi tiền chuộc khác dài khoảng 50-60 từ, hoặc ngắn hơn, trong khi thư nhà Ramsey nhận được là 385 từ, trong khi nội dung có thể được viết ngắn gọn trong vòng 3 câu. Còn lá thư này, ông Fitzgerald cho biết “như thể đọc tiểu thuyết của Stephen King”. Sau đó, người ta cũng xác định được rằng lá thư được viết trên giấy xé từ sổ ghi chép mà Patsy Ramsey giữ trong nhà bếp, với nét chữ được cho giống của bà dù không (hoặc chưa) thể khẳng định chính bà là người đã viết thư.
Ngày 12/9/2019, Burke, khi ấy 29 tuổi, đã lần đầu lên tiếng sau 20 năm im lặng trong cuộc phỏng vấn độc quyền "Trò chuyện với Tiến sĩ Phil".
"Suốt một thời gian dài, truyền thông làm cuộc sống của chúng tôi phát điên. Họ bám theo chúng tôi khắp nơi. Đối với một đứa trẻ, đó thực sự là cơn ác mộng. Vì thế, tôi có ác cảm với bất kỳ loại truyền thông xã hội nào và trở thành người kín tiếng. Còn tại sao bây giờ tôi lại nói ra, vì sự việc đã qua 20 năm rồi, và vẫn còn rất nhiều người chú ý tới nó", Burke cười nói.
Ngày 19/9/2016, trong cuộc phỏng vấn lần tiếp theo trên chương trình "Trò chuyện với bác sĩ Phil", Burke khẳng định anh không có liên quan đến cái chết của em gái.
Tumblr media Tumblr media
JonBenet Ramsey và anh trai, Burke.
Bác sĩ Phil sau đó nhắc đến giả thiết rằng cha mẹ của Burke đã dàn dựng để bảo vệ đứa con còn lại của họ.
"Tôi không biết phải nói gì, bởi vì tôi biết đó không phải là điều đã xảy ra. Nhiều người cũng nói rằng một đứa trẻ 9 tuổi không thể làm việc đó", Burke trả lời. "Tôi luôn nghĩ rằng thủ phạm là kẻ ấu dâm đã nhìn thấy em tôi trong một cuộc thi sắc đẹp và lẻn vào nhà chúng tôi".
Nhưng Werner Spitz, giáo sư Đại học bang Wayne chuyên nghiên cứu nguyên nhân các vụ án mạng, bình luận rằng mọi mũi tên đều nhắm vào Burke: "Chính cậu bé đã gây ra vụ việc, có thể là do ghen tị, vấn đề tâm thần hoặc một điều gì đó. Tôi không biết vì sao, tôi không phải là bác sĩ tâm thần, nhưng tôi chắc chắn rằng cha mẹ cậu bé đã thay đổi hiện trường để che giấu sự thật".
Tumblr media
Sau 20 năm, anh trai của hoa hậu nhí lần đầu lên tiếng.
Trong khi đó, Burke nói rằng tuy 20 năm đã trôi qua từ sau cái chết của em gái, anh vẫn hy vọng kẻ giết JonBenet sẽ được đem ra trước công lý.
Sau cuộc phỏng vấn này, Burke bị cộng đồng mạng chỉ trích gay gắt vì "ngôn ngữ cơ thể đáng ngờ" của anh ta. Cụ thể, Burke liên tục cười khi trò chuyện về cái chết của em gái. Điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với một người khi nói về nỗi đau mất người thân yêu.
Tumblr media
Chuyện Burke có phải là hung thủ thực sự trong vụ án này không, điều này chưa ai dám chắc nhưng các giả thiết cùng lập luận cảnh sát đưa ra là hoàn toàn dễ hiểu. Burke có thể rơi vào trạng thái tức giận khi có người em gái tài năng, xinh đẹp và được yêu thương, ngưỡng mộ. Với bất kỳ đứa trẻ nào cũng vậy, khi tình yêu của bố mẹ không đồng đều sẽ rất dễ dẫn đến đố kỵ, ganh ghét và thậm chí là căm thù. Và chuyện gì sẽ xảy ra thì thật khó có thể tưởng tượng được bởi bọn trẻ đâu ý thức được hết hành vi của bản thân...
Câu chuyện của gia đình Ramsey cũng nên được xem là bài học cho các bậc phụ huynh trong việc dạy dỗ và giáo dục con cái. Hãy cho bọn trẻ thấy rằng chúng được yêu thương, nâng niu chẳng kém gì anh chị em của chúng, hãy để các con thấy tình yêu thương của bố mẹ với các con là vô bờ bến...
Đầu năm 2019, báo giới phương Tây tiết lộ thông tin gây sốc về danh tính của người đàn ông được cho là hung thủ sát hại cô bé JonBenet Ramsey. Theo đó, Gary Oliva, 54 tuổi, khi ấy đang thụ án 10 năm về việc sở hữu các hình ảnh lạm dụng trẻ em đã viết một lá thư trong nhà tù ở Colorado, thừa nhận tội lỗi cách đây hơn 20 năm của mình.
"Tôi chưa bao giờ yêu ai như JonBenet Ramsey và tôi đã để cô bé trượt ngã, bị vỡ hộp sọ. Tôi đã nhìn thấy cô bé chết. Đó là một tai nạn", lời thừa nhận của Gary Oliva trong một lá thư của hắn. Trong một bức thư khác, Gary Oliva miêu tả vẻ đẹp rạng rỡ của hoa hậu nhí và thừa nhận đã gây ra những vụ tấn công, lạm dụng tình dục nhiều trẻ em khác.
Những bức thư này đã được gửi đến nhà xuất bản âm nhạc Michael Vail, người từng là bạn học cấp ba của Oliva. Theo Vail, những lá thư của Oliva chính là bằng chứng đắt giá đủ để kết luận Oliva chính là kẻ gây ra cái chết cho hoa hậu nhí cách đây hơn 22 năm.
Đến nay, hung thủ thực sự vẫn chưa lộ diện và chân tướng vụ án bí ẩn này vẫn chưa được làm sáng tỏ.
L.T
Adblock test (Why?)
Nguồn https://ift.tt/3h1uoJg
0 notes